Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Dư luận xã hội về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông (nghiên cứu tại huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 148 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







PHAN ĐỨC NAM






DƯ LUẬN XÃ HỘI
VỀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC Ở BẬC HỌC PHỔ
THÔNG

(NGHIÊN CỨU TẠI HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH)








LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Xã hội học










Hà Nội - 2013

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHAN ĐỨC NAM






DƯ LUẬN XÃ HỘI
VỀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC Ở BẬC HỌC PHỔ
THÔNG

(NGHIÊN CỨU TẠI HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH)





LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30





Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Mai Quỳnh Nam







Hà Nội - 2013

4


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 8
1. Lý do chọn đề tài 8
2. Vài nét về tình hình nghiên cứu 10
3. Mục đích, nhiệm vụ 19
3.1. Mục đích nghiên cứu 19
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 19
4. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi 20
4.1. Đối tượng nghiên cứu 20
4.2. Khách thể nghiên cứu 20
4.3. Phạm vi nghiên cứu 20
5. Câu hỏi nghiên cứu 20
6. Giả thuyết nghiên cứu 20
7. Khung lý thuyết 21
8. Phƣơng pháp nghiên cứu 22
8.1. Phương pháp nghiên cứu định lượng 22
8.2. Phương pháp nghiên cứu định tính 24
8.3. Phương pháp phân tích tài liệu 25
9. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn 25
9.1. Ý nghĩa lý luận 25
9.2. Ý nghĩa thực tiễn 25
10. Hạn chế của luận văn 26
10.1. Hạn chế về mẫu và phương pháp nghiên cứu 26
10.2. Hạn chế về phạm vi nội dung nghiên cứu 27
11. Kết cấu của luận văn 27
PHẦN NỘI DUNG 28

5

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU DƢ LUẬN XÃ HỘI VỀ

DỊCH VỤ GIÁO DỤC Ở BẬC HỌC PHỔ THÔNG 28
1.1. Cơ sở lý luận 28
1.2. Các khái niệm 30
1.2.1. Dư luận xã hội 30
1.2.2. Các kênh truyền thông 31
1.2.3. Dịch vụ giáo dục 32
1.2.4. Tiếp cận dịch vụ giáo dục 33
1.2.5. Chi phí dịch vụ giáo dục 34
1.2.6. Cơ sở vật chất dịch vụ giáo dục 34
1.2.7. Chất lượng giáo dục 34
1.3. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 35
1.3.1. Đặc điểm kinh tế-xã hội 35
1.3.2. Tình hình giáo dục phổ thông 37
Chƣơng 2: DƢ LUẬN XÃ HỘI VỀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC Ở BẬC HỌC PHỔ
THÔNG TẠI HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH 42
2.1. Dƣ luận xã hội nói chung về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông 42
2.1.1. Tại sao giáo dục được các bậc cha mẹ quan tâm? 42
2.1.2. Các kênh thông tin về dịch vụ giáo dục 46
2.1.3. Những vấn đề của dịch vụ giáo dục được quan tâm 46
2.1.4. Những vấn đề cấp bách của dịch vụ giáo dục 49
2.1.5. Nội dung và hình thức trao đổi, bàn luận về dịch vụ giáo dục 53
2.1.6. Tiểu kết 59
2.2. Dƣ luận xã hội về cơ sở vật chất dịch vụ giáo dục 60

6

2.2.1. Điều kiện cơ sở vật chất 60
2.2.2. Đánh giá về cơ sở vật chất dịch vụ giáo dục 62
2.2.3. Tiểu kết 66
2.3. Dƣ luận xã hội về tiếp cận dịch vụ giáo dục 67

2.3.1. Đi học đúng độ tuổi 67
2.3.2. Lý do chọn trường 70
2.3.3. Tiếp cận và đánh giá về chính sách miễn, giảm học phí 74
2.3.4. Hứng thú học tập 76
2.3.5. Tiểu kết 77
2.4. Dƣ luận xã hội về chất lƣợng dịch vụ giáo dục 78
2.4.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục 79
2.4.2. Đánh giá về chất lượng giáo dục 83
2.4.3. Tiểu kết 87
2.5. Dƣ luận xã hội về chi phí dịch vụ giáo dục 89
2.5.1. Các khoản chi phí giáo dục 89
2.5.2. Đánh giá về chi phí so với chất lượng giáo dục 91
2.5.3. Tiểu kết 93
PHẦN KẾT LUẬN 94
PHỤ LỤC 105
Phụ lục 1. Phiếu hỏi 105
Phụ lục 2A. Hướng dẫn phỏng vấn sâu học sinh 119
Phụ lục 2B. Hướng dẫn phỏng vấn sâu cán bộ quản lý giáo dục 123

7

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNTT:
Công nghệ thông tin
GD-ĐT:
Giáo dục-Đào tạo
GDPT:
Giáo dục phổ thông
GDTX:
Giáo dục thường xuyên

HĐND:
Hội đồng Nhân dân
HGĐ:
Hộ gia đình
THCS:
Trung học cơ sở
THPT:
Trung học phổ thông
UBND:
Ủy ban Nhân dân


DANH CÁC MỤC BẢNG
Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu-xã hội của ngƣời đƣợc hỏi trong mẫu nghiên cứu
định lƣợng…………………………………………………………………………

20
Bảng 2.1. Mức độ quan tâm đến các vấn đề trong đời sống gia đình hiện nay của
các bậc cha mẹ (đơn vị: %)…………………………………………………………

41
Bảng 2.2. Những vấn đề của nhà trƣờng thƣờng đƣợc các HGĐ trao đổi…………
50
Bảng 2.3. Hình thức trao đổi thông tin của HGĐ về những vấn đề của giáo dục….
51
Bảng 2.4: Đánh giá của HGĐ về chi phí học tập so với chất lƣợng giáo dục nhận
đƣợc ở 3 bậc học (%)……………………………………………………………….

89


8

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là nền tảng phát triển bền vững, vận mệnh và
tương lai của đất nước. Dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông có vai trò quan trọng
trong chính sách phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta. Mục tiêu của giáo dục
phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc (Nguyễn Hữu Châu, 2009).
Giáo dục nước ta là một quyền cơ bản của người dân - quyền được học hành.
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc cung ứng và quản lý giáo dục. Đặc biệt đối
với giáo dục phổ thông là cấp học cơ sở, cấp hình thành nhân cách công dân, Nhà
nước phải đảm bảo thực hiện công bằng xã hội, tạo cơ hội học tập cho mọi người.
Thời kỳ Đổi mới đã tạo ra những chuyển biến lớn về kinh tế-xã hội đất nước,
trong đó lĩnh vực giáo dục cũng đã có những thay đổi quan trọng. Với các chỉ số về
giáo dục, Việt Nam được biết đến là một quốc gia có nhiều đầu tư cho giáo dục ngay
cả trong điều kiện kinh tế (mức thu nhập) còn thấp hơn so với nhiều nước có cùng
điều kiện. Tuy nhiên, giáo dục nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém, còn
nhiều điều “đáng bàn”. Giáo dục hiện nay đang nổi lên là vấn đề “nóng” trong các
vấn đề phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam và được dư luận xã hội đặc biệt quan
tâm, không chỉ từ khía cạnh các nhà quản lý, hoạch định chính sách mà còn ở góc độ
người dân - những người trực tiếp sử dụng loại hình dịch vụ xã hội này. Các ý kiến
bàn luận, trao đổi về giáo dục-đào tạo thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Bên cạnh đó, trên các diễn đàn khoa học xuất hiện nhiều ý kiến
trao đổi, tranh luận của các nhà khoa học, nhà giáo dục, về "các vấn đề" của hệ
thống giáo dục, trong đó nổi bật lên là các vấn về bất bình đẳng giáo dục, chất lượng
giáo dục, Sự lạc hậu, yếu kém của giáo dục-đào tạo Việt Nam hiện nay chưa đáp

ứng được đòi hỏi mới của phát triển kinh tế-xã hội, trong đó chủ yếu là giáo dục đại
học và giáo dục phổ thông đang làm dấy lên yêu cầu về việc đổi mới giáo dục. Kết
luận số 242-TB/TƯ ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị về “Phương hướng phát triển

9

GD&ĐT đến năm 2020” cũng nhấn mạnh, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự nghiệp giáo
dục và đào tạo nước ta phải đổi mới căn bản, toàn diện, mạnh mẽ.
Các vấn đề của dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông như chất lượng giáo dục,
cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy và học tập, sách giáo khoa, học thêm dạy
thêm, thi cử, các khoản đóng góp cho giáo dục của các hộ gia đình, là những sự
kiện xã hội, chúng phản ánh các quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, việc dư luận xã hội ở
Việt Nam hết sức quan tâm theo dõi từng bước đi của hệ thống giáo dục, trong đó
dịch vụ giáo dục (công lập) ở bậc học phổ thông thu hút nhiều sự quan tâm của mọi
người chứng tỏ rằng có nhiều vấn đề, khía cạnh của dịch vụ này cần được nghiên
cứu, giải quyết nhằm làm cho giáo dục phát triển phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của
quá trình xây dựng, phát triển xã hội công bằng, dân chủ và văn minh nói chung và sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói riêng trong bối cảnh toàn cầu hoá
và hội nhập quốc tế.
Giáo dục là chủ đề đã lôi cuốn sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, song,
các nghiên cứu này chủ yếu được khai thác dưới góc độ giáo dục học. Việc áp dụng
xã hội học trong nghiên cứu về các vấn đề mà xã hội đang đặt ra đối với giáo dục là
hoàn toàn có thể và cần thiết (Lê Ngọc Hùng, 2009). Tuy nhiên, các nghiên cứu về
giáo dục dưới góc độ xã hội học mới chỉ được quan tâm trong vài thập kỷ trở lại đây,
trong đó nghiên cứu dư luận xã hội về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông đến nay
vẫn còn là điều khá mới. Vậy dư luận xã hội quan tâm đến dịch vụ giáo dục ở bậc học
phổ thông như thế nào? Dư luận xã hội của các nhóm xã hội ra sao? Người ta thể hiện
dư luận xã hội bằng cách nào? Các đặc điểm và chức năng của dư luận xã hội về dịch
vụ giáo dục ở bậc học phổ thông được thể hiện rao sao? Sự hình thành dư luận xã hội

về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông diễn ra như thế nào?
Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên dưới góc độ xã hội học về dư luận xã
hội phân tích dư luận xã hội về loại hình dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông tại
một địa bàn ở khu vực nông thôn hiện nay. Việc tìm hiểu sự đánh giá xã hội về dịch
vụ giáo dục ở bậc học phổ thông là cơ sở khoa học trong việc đóng góp vào hoạch
định chính sách giáo dục phổ thông của Đảng và Nhà nước ta, nhằm thúc đẩy phát
triển loại hình dịch vụ này, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người sử dụng dịch vụ và
những đòi hỏi mới của sự phát triển kinh tế-xã hội đất nước.

10

2. Vài nét về tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về giáo dục dưới góc độ xã hội học trong những năm gần đây đã
bắt đầu trở nên phổ biến hơn, nhưng chưa có nghiên cứu xã hội học chuyên biệt dư
luận xã hội về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông.
Trong nội dung phần này, luận văn tạm chia nghiên cứu về giáo dục thành 4
hướng chính: hướng thứ nhất là nghiên cứu về giá trị học vấn và vai trò của cha mẹ
đối với việc học tập của con cái, hướng thứ hai là nghiên cứu về biến đổi giáo dục,
hướng thứ ba là nghiên cứu bất bình đẳng giáo dục và hướng thứ tư là nghiên cứu
chất lượng giáo dục.
2.1. Giá trị học vấn và vai trò của cha mẹ đối với việc học tập của con cái
Nghiên cứu về vai trò của gia đình và công bằng xã hội trong giáo dục, James
Coleman (1996) cho rằng, trên thực tế các yếu tố như mức chi ngân sách, chất lượng
giáo viên, chương trình, sách giáo khoa, giáo trình, bài giảng, thực hành, thực tập
không phải là các yếu tố tác động mạnh nhất đối với kết quả học tập trong nhà
trường. Theo ông, hoàn cảnh kinh tế-xã hội và quan điểm giáo dục của bố mẹ mới là
những yếu tố tác động trực tiếp mạnh mẽ nhất tới động cơ học tập, chất lượng học tập
và khả năng thành đạt của học sinh (dẫn lại Lê Ngọc Hùng, 2009, tr. 283).
Nghiên cứu về giá trị học vấn và vai trò của cha mẹ đối với việc học tập của
con cái là hướng nghiên cứu được thực hiện khá sớm trong các nghiên cứu xã hội học

về giáo dục ở Việt Nam. Nhìn chung, hướng nghiên cứu này đều khẳng định giá trị
học vấn và chỉ rõ vai trò của cha mẹ đối với việc học tập của con cái.
Các nghiên cứu xã hội học chỉ ra rằng, học vấn là một giá trị của người nông
dân, vì thế họ rất quan tâm đến việc học tập của con (ví dụ: Bùi Quang Dũng, 1984;
Nguyễn Thị Văn, 1996, 1998; Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý, 2007; Đặng Bích
Thủy, 2008; v.v…). Nhận thức về giá trị của việc học tập là một trong những yếu tố
quan trọng tác động đến mức độ quan tâm và đầu tư cho việc học tập của con cái [56,
tr. 151]. Người nông dân Việt Nam, nhất là dân cư ở lưu vực sông Hồng có truyền
thống tôn sư trọng đạo, coi trọng người có chữ [56, tr. 91]. Học vấn không chỉ được
xem xét dưới góc độ kinh tế (chẳng hạn, phân tích của Nguyễn Thị Văn (1996) về
định hướng nghề nghiệp cho con khi trưởng thành, cho thấy, những chỉ số được ưu
tiên nhất trong bảng giá trị thuộc về những ngành nghề đòi hỏi có học vấn cao), mà

11

còn được xem xét dưới góc độ văn hóa. Với Bùi Quang Dũng (1984), việc “con cái
học cao” đều được coi là một trong những chuẩn mực để xem xét những triển vọng
của gia đình. Sự học không cho chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho đứa trẻ “thành
người” mà nó còn bao hàm chính ngay ước muốn “thăng tiến” của bố mẹ “con hơn
cha là nhà có phúc” [12, tr. 45]. Tương đồng với quan điểm này, Nguyễn Thị Văn
(1998) cho rằng, đối với một cá nhân, học vấn được coi là phẩm chất quan trọng nhất
mà qua đó người đó được đánh giá là có triển vọng hay không [80, tr. 5].
Một số kết quả nghiên cứu đã khẳng định vai trò của yếu tố trình độ học vấn
của cha mẹ đối với việc học tập của con cái (ví dụ: Đặng Thanh Trúc, 1994; Lê Mạnh
Năm, 1999; Khuất Thu Hồng, 1996; Đặng Bích Thuỷ, 2008; Nguyễn Đức Vinh,
2011). Một luận điểm rất phổ biến trong nghiên cứu về giáo dục là địa vị cũng như
học vấn của cha mẹ là yếu tố quyết định nhất đến kết quả học tập của trẻ em [86, tr.
163]. Bố mẹ có trình độ học vấn càng cao thì kết quả học tập của con cái cũng cao
[54, tr. 94; 33, tr. 19]. Trình độ học vấn của bố mẹ là yếu tố tác động mạnh nhất đến
tình trạng giáo dục của con cái trong các gia đình nông thôn [86, tr. 186]. Bố mẹ có

trình độ học vấn càng cao thì con cái càng ít bỏ học, đạt trình độ giáo dục đúng tuổi
hơn và có kết quả học tập tốt hơn. Học vấn của cha mẹ tác động đến tình trạng giáo
dục của con cái thông qua các yếu tố trung gian như sự quan tâm đến việc học của
con, cho con học thêm, thái độ và hành vi hướng nghiệp cho con, mức chi tiêu cho
giáo dục. Mức sống của hộ gia đình là yếu tố rất quan trọng, có lẽ chỉ sau trình độ học
vấn bố mẹ, quyết định tình trạng giáo dục của trẻ em và thanh niên nông thôn. Hộ có
mức sống càng thấp thì con cái càng hay bỏ họ và đi học muộn so với tuổi.
Trong một vài năm gần đây với những thay đổi trong đời sống kinh tế, các bậc
cha mẹ cũng đã thay đổi trong cách nhìn của mình trong chuyện học hành của con
cái. Họ đã có những quan tâm thực tế hơn đến hiệu quả học tập của con, không chỉ là
đầu tư thời gian, vật chất mà còn chủ động xem xét điều kiện, hoàn cảnh cho con có
cơ hội tốt nhất để tiến bộ trong học tập. Từ ngày ngành giáo dục sửa đổi và bổ sung
những qui chế mới, bên cạnh việc duy trì nhận học sinh đúng tuyến, các trường phổ
thông còn được phép tuyển học sinh trái tuyến. Điều này tạo điều kiện cho những bậc
phụ huynh quan tâm đến con cái có thể chọn trường có truyền thống dậy và học tốt
cho con mình. Ngay ở việc lựa chọn này thì "trình độ học vấn" của bố mẹ cùng đã ít
nhiều tác động (Đặng Bích Thuỷ, 2008).

12

Người mẹ có vai trò quan trọng trong việc giáo dục tri thức, định hướng nghề
nghiệp cho con (Nguyễn Thị Kim Thoa, 2002; Nguyễn Đức Vinh, 2011). Trong
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa, trình độ học vấn, tôn giáo và điều kiện
kinh tế của người mẹ là những yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến việc giáo dục và định
hướng nghề nghiệp cho con cái. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Đức Vinh khẳng
định trình độ học vấn của mẹ có vai trò quan trọng hơn trình độ học vấn của bố trong
việc đi học của trẻ em và thanh niên nông thôn.
Trong nghiên cứu của tác giả Đặng Thị Hoa (2008) về ý nghĩa của giáo dục ở
Yên Bái, Thừa Thiên Huế và Tiền Giang, sự quan tâm của cha mẹ trong giáo dục con
cái đóng vai trò quan trọng. Vai trò của cha mẹ trong giáo dục con cái được biểu hiện

qua quyền quyết định của cha mẹ đối với việc học tập của con cái, việc kiểm soát con
trong giờ học và chơi, họp phụ huynh, giúp con học ở nhà.
Tìm hiểu về vai trò của cha mẹ trong việc học hành của con cái, Đặng Bích
Thủy (2008) khẳng định các gia đình có nhận thức khá tích cực về giá trị của việc học
đối với con cái. Vì lẽ đó, họ rất quan tâm đến những hoạt động liên quan đến đời
sống học tập của con như: họp phụ huynh cho con, giúp con học thêm ở nhà, dạy bảo,
đưa con vào nề nếp kỷ luật học tập, định hướng nghề nghiệp cho con. Trong những
hoạt động này, người mẹ có xu hướng thực hiện nhiều hơn người cha, tuy nhiên, chưa
có cơ sở để khẳng định người cha quan tâm đến các hoạt động này ít hơn người mẹ.
Mặc dù còn nhiều khó khăn về kinh tế nhưng các gia đình đã cố gắng ưu tiên đầu tư
cho việc học hành của con, như cho con học thêm, khuyến khích con cái chăm chỉ
học hành và tạo điều kiện về thời gian cho con học tập.
Tuy nhiên, tìm hiểu về những đặc điểm chính của tình hình giáo dục ở nông
thôn đồng bằng Sông Hồng trong khoảng 1 thập niên từ Đổi mới, nghiên cứu của
Nguyễn Thị Văn (1996, 1998) lại cho thấy, giá trị học vấn, dù được người nông dân
đồng bằng sông Hồng rất coi trọng, chưa phát huy được vai trò của nó trong hoạt
động kinh tế ở thời kỳ quá độ ở nông thôn. Theo tác giả, đây là một trong những
nguyên nhân làm giảm niềm tin của các bậc cha mẹ và trẻ em vào việc học tập.
2.2. Biến đổi giáo dục
Một trong những vấn đề trung tâm của xã hội học là nghiên cứu về biến đổi xã
hội. Các nghiên cứu về biến đổi giáo dục xem xét giáo dục với tư cách là một thiết
chế xã hội. Cũng như các thiết chế xã hội khác, từ khi Đổi mới, thiết chế giáo dục
cũng đã trải qua những biến đổi đáng kể.

13

Ở góc độ vĩ mô, trong chủ đề nghiên cứu xã hội học về biến đổi giáo dục, đáng
chú ý nhất là nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Văn về "Những biến đổi của giáo
dục phổ thông trong thời kỳ Đổi mới và sự thích ứng của các gia đình nông thôn
đồng bằng sông Hồng" năm 1998, được trình bày dưới hình thức luận văn cao học.

Đây là nghiên cứu xã hội học đầu tiên về sự biến đổi của giáo dục phổ thông ở khu
vực đồng bằng sông Hồng. Tác giả cho rằng, những thay đổi kinh tế-xã hội cấp vĩ mô
đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình giáo dục ở Việt Nam nói chung và ở đồng
bằng Sông Hồng nói riêng và gia đình trở thành người gánh chịu những hậu quả
không mong đợi của các biến đổi này. Nghiên cứu này cũng chỉ ra những đặc điểm
chính về tình hình giáo dục ở nông thôn đồng bằng Sông Hồng như chi phí giáo dục
có mối quan hệ với tỷ lệ bỏ học của học sinh; những gia đình nghèo gặp khó khăn
nhiều nhất trong việc thích ứng với những biến đổi kinh tế-xã hội vĩ mô và biến đổi
trong hệ thống giáo dục; trong bối cảnh đó, các em học sinh gái chịu thiệt thòi hơn cả;
sự xuống cấp của chất lượng giáo dục làm giảm sút lòng tin của các bậc cha mẹ và
học sinh; giá trị học vấn chưa phát huy được vai trò của nó trong hoạt động kinh tế
vào những năm đầu của thời kỳ Đổi mới ở nông thôn là một trong những nguyên
nhân làm giảm niềm tin của các bậc cha mẹ và trẻ em vào việc học tập; những khó
khăn về thi cử và tình trạng thiếu việc làm sau khi tốt nghiệp đại học khiến cha mẹ và
con cái họ có thái độ nghi ngờ về giá trị học vấn.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Văn được tiếp cận từ nhiều góc độ. Từ góc
độ chức năng luận, do chỗ giáo dục có những chức năng nhất định đối với xã hội, khi
xã hội biến đổi từ trạng thái này này sang trạng thái khác, chức năng của hệ thống
giáo dục phổ thông cũng thay đổi, từ đó nghiên cứu phân tích những yêu cầu của xã
hội đối với sự đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông. Từ góc độ thiết chế luận, nghiên
cứu phân tích mối quan hệ giữa thiết chế giáo dục với các thiết chế xã hội khác như
kinh tế, gia đình,… trong bối cảnh Đổi mới.
Như vậy, xét ở góc độ vĩ mô, các nghiên cứu đã đặt biến đổi giáo dục trong
bối cảnh cụ thể là từ khi đất nước tiến hành công cuộc Đổi mới và phân tích sự biến
đổi này trong quan hệ với biến đổi xã hội nói chung qua việc chỉ ra các đặc điểm
chính của hệ thống giáo dục phổ thông. Dựa trên hướng tiếp cận này, những phát hiện

14

nghiên cứu về sự biến đổi giáo dục phổ thông ở nông thôn cho thấy những “vấn đề”

của hệ thống này như sự bất bình đẳng về giới và kinh tế trong tiếp cận giáo dục
(những khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục của các gia đình nghèo và trẻ em gái),
sự xuống cấp của chất lượng giáo dục, sự giảm sút của giá trị học vấn trong hoạt
động kinh tế,…
Ngoài ra, ở góc độ vi mô, mảng giáo dục cũng được đề cập đến trong một số
nghiên cứu xã hội học, trong đó có thể kể đến những biến đổi về chi phí đầu tư cho
giáo dục hay những biến đổi trong quan niệm về giá trị của học vấn,…
Nhìn chung, các nghiên cứu về biến đổi giáo dục cho đến nay còn khá mỏng.
Trong quá trình tổng quan tài liệu, tác giả luận văn không tìm thấy nghiên cứu nào về
biến đổi xã hội có đề cập trực tiếp đến sự biến đổi trong lĩnh vực giáo dục.
Biến đổi giáo dục còn bao hàm các biến đổi của các thành phần trong cấu trúc
của nó. Do đó, một mặt, các nghiên cứu xem xét sự biến đổi của hệ thống giáo dục
trên bình diện chung nhất, đồng thời cần phải chỉ ra cụ thể các biến đổi trong cấu trúc
của hệ thống giáo dục, chẳng hạn sự biến đổi về quan hệ, tương tác xã hội giữa thày
và trò, sự biến đổi về các giá trị, chuẩn mực với tư cách như là một thành tố “phần
cứng” của thiết chế này,…
2.3. Bất bình đẳng giáo dục
Bằng cách tiếp cận cấu trúc, các nhà xã hội học phân tích và giải thích hiện
tượng bất bình đẳng xã hội trong giáo dục. Các nghiên cứu đã mô tả, phân tích mối
quan hệ giữa các nhóm xã hội và hệ thống giáo dục ở khía cạnh đạt được các cơ hội
giáo dục.
Bất bình đẳng giới trong giáo dục biểu hiện rõ ở tỷ lệ nam nữ không ngang
bằng nhau trong số học sinh, sinh viên, giáo viên và cán bộ lãnh đạo quản lý giáo dục
[23, tr. 3-11]. Tình trạng bất bình đẳng giáo dục theo giới tính lại thường đem lại
những thiệt thòi cho học sinh nữ nhiều hơn. So với học sinh nam, tỉ lệ học sinh nữ ở
cấp học cao thường ít hơn và các em cũng có ít cơ hội hơn trong việc đạt được bằng
cấp. Khoản chi tiêu cho giáo dục bình quân 1 người đi học trong 1 năm đối với nam
là cao hơn so với nữ (Đỗ Thiên Kính, 2008).

15


Nguyên nhân của bất bình đẳng giới trong giáo dục không nằm ở vấn đề khác
biệt về khả năng học tập giữa nam và nữ mà nằm ở lý do xã hội của nó. Tư tưởng
trọng nam vẫn còn khá phổ biến ở nông thôn (Nguyễn Thị Văn, 1998; Đỗ Thiên
Kính, 2008). Điều đó thường đem lại những thiệt thòi cho học sinh nữ nhiều hơn.
Con gái thường phải nghỉ học trước con trai và ít có điều kiện học lên cấp cao hơn.
Nghiên cứu của tác giả Lê Thuý Hằng (2006) về khác biệt giới trong dự định đầu tư
của bố mẹ cho việc học của con cái cũng cho thấy điều này. Một trong những nguyên
nhân của bất bình đẳng giới trong giáo dục là định kiến của cha mẹ biểu hiện ở quan
niệm cho rằng các em gái không cần phải học nhiều mà cần phải làm việc nội trợ
giúp đỡ gia đình. Theo kết quả nghiên cứu về sự biến đổi của giáo dục phổ thông
trong thời kỳ Đổi mới của Nguyễn Thị Văn (1998), thời kỳ quá độ và sự xuống cấp
trong giáo dục ảnh hưởng đến các em gái nhiều hơn là các em trai. Những thiệt thòi
của trẻ em gái so với trẻ em trai là trẻ em gái phải tham gia nhiều hơn vào công việc
gia đình. Các em gái có thể phải bỏ học sớm hơn các em trai để giúp đỡ gia đình.
Trong khi đó, nghiên cứu của Nguyễn Đức Vinh (2011) về vấn đề bất bình
đẳng theo giới trong giáo dục lại đưa ra kết quả khác. Bằng số liệu thu thập tại 4 tỉnh
Yên Bái, Hà Nam, Thừa Thiên Huế và Tiền Giang từ năm 2004 đến 2008, Nguyễn
Đức Vinh cho rằng, tỷ lệ đang đi học của nữ nhỉnh hơn của nam ở độ tuổi học tiểu
học, nhưng lại hơi thấp hơn ở độ tuổi sau phổ thông trung học. Tuy nhiên nói chung,
sự khác biệt giữa hai giới là khá nhỏ. Ngay cả khi ở điều kiện nhân khẩu và gia đình
tương đương thì nam cũng hầu như không có ưu thế hơn nữ về tình trạng giáo dục,
ngoại trừ trường hợp “giáo dục đúng tuổi” ở nhóm học phổ thông trung học và cao
đẳng/đại học (15-24) tuổi, nhất là ở nhóm hộ nghèo. Không có bằng chứng cho thấy
các bậc cha mẹ ở nông thôn có hành vi hay thái độ phân biệt giới tính trong việc học
hành của con cái [86, tr. 186].
Sự bất bình đẳng về giáo dục giữa đô thị, nông thôn và vùng sâu, vùng xa
được thể hiện thông qua chỉ số học sinh ở vùng sâu, vùng xa có khả năng tiếp tục lên
lớp là thấp hơn học sinh ở nông thôn và đô thị. Sự bất bình đẳng về giáo dục giữa đô
thị, nông thôn và vùng sâu, vùng xa còn được thể hiện thông qua sự chênh lệch về cơ

sở vật chất. Các học sinh ở thành thị được hưởng nhiều cơ sở vật chất hơn học sinh ở
vùng nông thôn và học sinh vùng sâu, vùng xa [33, tr. 14-15].

16

Dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2006, 2007, Đỗ Thiên Kính
(2008) cho rằng, sự bất bình đẳng về cơ hội giáo dục giữa nhóm giàu và nhóm nghèo
có xu hướng tăng dần khi càng học lên bậc cao hơn. Những học sinh xuất thân từ
những gia đình khá giả sẽ có được thành tích học tập cao hơn so với những học sinh
con nhà nghèo. Điều này có ý nghĩa rằng, những người xuất thân từ những gia đình
khá giả sẽ có nhiều cơ hội đạt được bằng cấp cao hơn so với những người có hoàn
cảnh gia đình nghèo khó. Kết quả của nghiên cứu của Trịnh Duy Luân (2004) cho
thấy yếu tố kinh tế là nguyên nhân chính của sự khác biệt trong tiếp cận dịch vụ giáo
dục ở bậc học phổ thông, cụ thể nghiên cứu chỉ ra trẻ em nghèo tiếp tục chịu nhiều
thua thiệt trong tiếp cận giáo dục phổ thông, đặc biệt ở những bậc học cao. Nghiên
cứu của Nguyễn Đức Vinh (2011) cũng chỉ ra, điều kiện kinh tế hộ gia đình cũng
thường là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp cũng như gián tiếp đến việc đi học của
giới trẻ, nhất là ở những nơi chính sách miễn giảm học phí còn hạn chế và chi phí cho
giáo dục là đáng kể so với mức thu nhập của các hộ gia đình. Kết luận này cho thấy
sự thay đổi tích cực trong thái độ của các bậc cha mẹ trong những năm gần đây đối
với chuyện học hành của con cái xét ở khía cạnh bình đẳng giới trong giáo dục.
Bất bình đẳng giáo dục giữa các dân tộc, trong đó chủ yếu là nhóm dân tộc
Kinh và Hoa so với các dân tộc khác. Sự bất bình đẳng này được thể hiện qua nhiều
chỉ báo như tỷ lệ đi học,… Tỷ lệ đi học của người Kinh và người Hoa luôn cao hơn
rất nhiều so với tỷ lệ đi học của đồng bào dân tộc thiểu số (Đỗ Thiên Kính, 2008).
Nghiên cứu của Đỗ Thiên Kính (2008) cho thấy, dù phân tích ở góc độ và
phép đo lường nào, tình trạng bất bình đẳng cơ hội về giáo dục ở Việt Nam đang
giảm dần theo thời gian (1993-2006) và xu hướng là càng học lên cao (theo cấp học),
sự bất bình đẳng có xu hướng tăng dần.
2.4. Chất lượng giáo dục

Vấn đề chất lượng giáo dục đã được một số nhà nghiên cứu đề cập đến
(Nguyễn Thị Văn, 1998; Trịnh Duy Luân, 2004;…), đặc biệt là trong những năm gần
đây. Hầu hết các nghiên cứu này chỉ ra những yếu kém về chất lượng của hệ thống
giáo dục trong thời kỳ Đổi mới, nguyên nhân ảnh hưởng và những giải pháp khắc phục.

17

Trong số những nghiên cứu về chất lượng giáo dục, đáng chú ý là nghiên cứu
về giáo dục phổ thông có nhiều điểm liên quan mà luận văn có thể tham khảo là
"Nghiên cứu chất lƣợng giáo dục tỉnh Khánh Hòa" của Nolwen Henaff, Trần Thị
Kim Thuận (chủ biên), tác giả: Marie-France Lange, Jean-Yves Martin, Đinh Thị
Bích Loan, Nguyễn Thị Văn, 2008. Nghiên cứu này đã phân tích những yếu tố ảnh
hưởng đối với chất lượng giáo dục và quan niệm của các đối tượng khác nhau về chất
lượng giáo dục tại tỉnh Khánh Hòa. Kết quả cũng cho thấy thực trạng về cầu (nhu cầu
đi học của người dân) và cung giáo dục (cơ sở vật chất, các nội dung dạy học, giáo
viên, quan hệ giữa gia đình với nhà trường và cộng đồng, phân cấp quản lý giáo dục,
chi phí cho giáo dục và chính sách hỗ trợ). Về cầu giáo dục, kết quả nghiên cứu chỉ ra
nhu cầu của người dân tăng lên rõ rệt nhưng giáo dục Khánh Hòa vẫn chưa chuẩn bị
để đáp ứng những nhu cầu rất đa dạng này. Trong khi đó, về cung giáo dục, nghiên
cứu cũng chỉ ra những tiến bộ và bất cập trong việc cung ứng giáo dục.
Nghiên cứu của tác giả Trịnh Duy Luân cho một góc nhìn khác về dịch vụ
giáo dục ở bậc học phổ thông ở khu vực đô thị. Kết quả khảo sát ở các thành phố
Nam Định, Hải Phòng, Đà Nẵng cho thấy nhiều vấn đề đang được đặt ra trong lĩnh
vực giáo dục phổ thông và cần có những giải pháp kịp thời. Bài viết "Giáo dục phổ
thông ở đô thị" nằm trong Báo cáo Xã hội 2004 của Viện Xã hội học, Viện Khoa học
xã hội Việt Nam của tác giả chủ yếu đề cập đến những khó khăn, trở ngại, những vấn
đề và thách thức có liên quan đến chất lượng và hiệu quả của việc cung cấp các dịch
vụ trong lĩnh vực giáo dục phổ thông thông qua ý kiến phản hồi của người dân. Kết
quả của nghiên cứu cho thấy yếu tố kinh tế là nguyên nhân chính của sự khác biệt
trong tiếp cận dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông, và điều này ảnh hưởng tới chất

lượng của hệ thống giáo dục. Đánh giá về mức độ hài lòng của người dân đối với hệ
thống giáo dục ở thành phố của họ cho thấy, luôn có khoảng gần một nửa các HGĐ
cho rằng chi phí hiện nay cao hơn so với chất lượng giáo dục mà con em họ nhận
được. Về vấn đề học thêm, nghiên cứu khẳng định tỷ lệ rất cao các gia đình đã trả
tiền cho việc học thêm của con cái họ với lý do phổ biến là "thấy cần thiết", đồng thời
đa số các HGĐ đều cho rằng mức chi phí hiện nay là hợp lý. Nhìn chung, các HGĐ
thể hiện những đánh giá khá tích cực về hệ thống giáo dục phổ thông. Tuy nhiên, kết
quả điều tra cũng cho thấy những đề xuất cải thiện chất lượng dịch vụ của người dân,

18

phản ánh những kỳ vọng mà hiện nay hệ thống này chưa đáp ứng. Mặc dù nghiên cứu
chỉ tập trung ở khu vực đô thị, song những kết quả đạt được về một số nội dung và
giả thuyết về mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả của
việc cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục phổ thông tại 3 thành phố từ ý kiến
của người dân, cũng như kết quả đánh giá về mức độ hài lòng của người dân về chất
lượng của dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông khi họ phải trả một khoản phí cho
dịch vụ này là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho luận văn.
Về các yếu tố tác động đến chất lượng giáo dục tại địa bàn nông thôn đồng
bằng sông Hồng, nghiên cứu của Nguyễn Thị Văn (1998) cho thấy, chất lượng của
giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng giảng dạy, trong đó yếu tố giáo viên giữ
vai trò quan trọng hàng đầu. Những vấn đề liên quan đến giáo viên là trình độ đào tạo
và số lượng học sinh mà một giáo viên phụ trách (tỷ lệ giữa học sinh và giáo viên).
Một vấn đề khác cũng khá nghiêm trọng là nguồn đầu tư vào giáo dục phổ thông cơ
sở còn quá ít ỏi so với đầu tư cho phổ thông trung học và đại học. Tác giả cũng chỉ ra,
giáo viên không đạt trình độ đào tạo đòi hỏi ở tất cả các cấp. Lương giáo viên quá
thấp được xem là yếu tố ảnh hưởng tới động cơ và hành vi của hoạt động dạy thêm
của giáo viên.
Như vậy, thực tế cho đến nay, có bốn chủ đề nghiên cứu chính về giáo dục: giá
trị học vấn và vai trò của cha mẹ đối với việc học tập của con cái, biến đổi giáo dục,

bất bình đẳng giáo dục và chất lượng giáo dục. Hệ vấn đề nghiên cứu trên đề cập đến
những khía cạnh khác nhau của hệ thống giáo dục Việt Nam, nhưng mặt khác, chúng
đều ít nhiều nói đến “các vấn đề” của hệ thống này. Trong khi, tìm hiểu về giá trị học
vấn và vai trò của cha mẹ đối với việc học tập của con cái đã được các nghiên cứu xã
hội học đề cập đến khá sớm trong các nghiên cứu về giáo dục, thì những năm gần đây
các nghiên cứu đã bắt đầu quan tâm đến các khía cạnh bất bình đẳng trong giáo dục,
chất lượng giáo dục,…
Nhìn chung, những thành quả nghiên cứu xã hội học về giáo dục chưa đi được
bao xa xét cả trên phương diện lý thuyết và thực nghiệm của một ngành xã hội học
chuyên biệt. Các nghiên cứu về những vấn đề của giáo dục dưới góc độ xã hội học
còn khá mỏng và dàn trải theo các khía cạnh khác nhau. Cho đến nay vẫn còn rất ít
nghiên cứu xã hội học tham gia vào việc phân tích, tìm hiểu các "vấn đề xã hội" của
giáo dục nhằm tìm ra những giải pháp khắc phục Đặc biệt, những nghiên cứu giáo

19

dục dưới góc độ của chuyên ngành xã hội học về dư luận xã hội còn bị bỏ ngỏ và
được xem là "khoảng trống" trong lĩnh vực nghiên cứu xã hội học hiện nay. Để có cơ
sở khoa học cho việc hoạch định, quản lý nhằm giải quyết những "vấn đề" của dịch
vụ giáo dục ở bậc học phổ thông hiện nay, cần thu nhận thông tin từ nhiều phía, bao
gồm cả phía cung và phía cầu dịch vụ giáo dục, nhất là từ phía các HGĐ bởi họ là
những người trực tiếp sử dụng loại hình dịch vụ xã hội này, cách nhìn nhận, đánh giá,
quan niệm, thái độ của cha mẹ học sinh về các điều kiện cung ứng của dịch vụ giáo
dục là những nhân tố chính trong việc quyết định sự lựa chọn của họ về việc có hay
không sử dụng loại hình dịch vụ này. Điều này cũng cho thấy, sự mong đợi của bậc
cha mẹ đối với từng yếu tố này như thế nào và nguồn cung ứng của dịch vụ giáo dục
có đáp ứng được kỳ vọng của các bậc cha mẹ hay không, những yếu tố nào đã đáp
ứng được và những yếu tố chưa đáp ứng được.
Nội dung phần này của luận văn chỉ ra rằng hiện nay còn rất thiếu các nghiên
cứu giáo dục dưới góc độ xã hội học về dư luận xã hội và luận văn này sẽ góp phần

cung cấp thêm nhận thức, đánh giá của dư luận xã hội về vấn đề dịch vụ giáo dục
(công lập) ở bậc học phổ thông hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu tình trạng của dư luận xã hội về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ
thông.
- Thông qua việc tìm hiểu dư luận xã hội về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ
thông, đề tài phân tích nhu cầu, sự kỳ vọng về hệ thống dịch vụ giáo dục của cha mẹ
học sinh và học sinh ở bậc học phổ thông; khả năng đáp ứng của hệ thống dịch vụ
giáo dục ở bậc học phổ thông đối với những nhu cầu, kỳ vọng này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ các khái niệm, cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu dư luận xã hội
về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông.
- Phân tích tình trạng của dư luận xã hội về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông,
xem xét cách đánh giá của các nhóm xã hội về dịch vụ giáo dục phổ thông ở các nội
dung sau: tiếp cận dịch vụ của người sử dụng; cơ sở vật chất của dịch vụ; chi phí dịch
vụ; và chất lượng dịch vụ.

20

4. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dư luận xã hội về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài bao gồm các nhóm xã hội đang sử dụng hoặc
liên quan đến loại hình dịch vụ này, bao gồm:
- Đối tượng người học: học sinh và cha mẹ học sinh các cấp học thuộc bậc học
phổ thông.
- Đối tượng nhà trường: giáo viên và các cán bộ quản lý giáo dục các cấp học
thuộc bậc học phổ thông.

4.3. Phạm vi nghiên cứu
4.3.1. Không gian và thời gian
- Không gian: Địa bàn nghiên cứu là huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
- Thời gian: Tháng 6 năm 2011.
4.3.2. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Đề tài được đặt ra khá rộng lớn về phạm vi nội dung, do một số giới hạn về
điều kiện nghiên cứu, luận văn không có dịp phân tích dư luận xã hội về tất cả những
vấn đề của dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông. Những nội dung phân tích của luận
văn tập trung vào một số vấn đề chính sau đây:
- Dư luận xã hội nói chung về dịch vụ giáo dục;
- Dư luận xã hội về tiếp cận dịch vụ giáo dục;
- Dư luận xã hội về cơ sở vật chất dịch vụ giáo dục;
- Dư luận xã hội về chất lượng dịch vụ giáo dục;
- Dư luận xã hội về chi phí dịch vụ giáo dục.
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Đánh giá của dư luận xã hội về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông như
thế nào?
- Vấn đề nào của dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông được nhiều người quan
tâm nhất hiện nay?
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Dư luận xã hội quan tâm rộng rãi đến các khía cạnh của dịch vụ giáo dục ở
bậc học phổ thông.
- Chất lượng của dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông là vấn đề được nhiều
người quan tâm nhất hiện nay.

21

7. Khung lý thuyết



























Khung lý thuyết nghiên cứu dư luận xã hội về dịch vụ giáo dục

Hệ thống các biến số:
Các biến số độc lập:
- Trình độ học vấn, mức sống, nghề nghiệp
- Nhu cầu, sự kỳ vọng về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông.

- Chi phí dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông.
BỐI CẢNH KINH TẾ-XÃ HỘI

Các sự kiện giáo dục ở bậc học phổ thông
Đặc điểm nhân
khẩu – xã hội:
+ Học vấn
+ Mức sống
+ Nghề nghiệp

Các kênh truyền thông
về dịch vụ giáo dục ở
bậc học phổ thông
Nhu cầu, sự kỳ
vọng về dịch vụ
giáo dục ở bậc
học phổ thông
Chi phí dịch vụ
giáo dục ở bậc
học phổ thông

Các vấn đề giáo dục ở
bậc học phổ thông
Dư luận xã hội về dịch vụ giáo dục ở bậc
học phổ thông


22

Các biến số phụ thuộc:

- Dư luận xã hội về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông.
Các biến số can thiệp:
- Bối cảnh kinh tế - xã hội huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, các sự kiện giáo
dục ở bậc học phổ thông.
- Các kênh thông tin về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu định lượng
- Phát vấn bảng hỏi:
Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng trong đề tài là phát vấn
bảng hỏi (anket). Một bảng hỏi cấu trúc soạn sẵn được sử dụng để thu thập thông tin
ở cấp độ HGĐ. Đối tượng phát vấn bảng hỏi là cha/mẹ học sinh ở bậc học phổ thông.
Đây là nghiên cứu trường hợp tại một huyện của một tỉnh Đồng bằng Sông Hồng
(Thái Bình), trong đó, chúng tôi chọn 1 trường Tiểu học, 1 trường THCS của 1 xã (xã
Văn Lang) và 1 trường THPT trên địa bàn huyện, cụ thể là các trường học sau:
Trường Tiểu học xã Văn Lang, Trường THCS xã Văn Lang và Trường THPT Bắc
Duyên Hà.
- Chọn mẫu:
Việc chọn mẫu được thực hiện theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Các
mẫu được lựa chọn đại diện cho các cấp học ở bậc học phổ thông bao gồm: lớp 5
(Tiểu học); lớp 9 (THCS) và lớp 12 (THPT). Đề tài lựa chọn ngẫu nhiên 2 lớp 5, 2
lớp 9 và 2 lớp 12. Sỡ dĩ mẫu nghiên cứu được luận văn lựa chọn như trên bởi đây là
những khối lớp cuối cùng của các cấp học giáo dục phổ thông. Những thông tin về
các khối lớp học này có ý nghĩa quan trọng cho việc xem xét đánh giá của dư luận xã
hội về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ thông. Dựa trên danh sách học sinh ở các cấp
học thuộc bậc học phổ thông do các trường cung cấp ở 6 lớp học trên, đề tài lập danh
sách hộ gia đình những học sinh này, đối tượng phát vấn là đại diện hộ gia đình
(cha/mẹ học sinh). Tổng dung lượng mẫu là 277. Cụ thể như sau:
+ Tiểu học: 60 HGĐ
+ THCS: 100 HGĐ
+ THPT: 117 HGĐ


23

- Đặc điểm mẫu nghiên cứu:
Đặc điểm mẫu theo giới tính, tuổi, học vấn, nghề nghiệp, mức sống của những
người được hỏi được cho ở bảng 1 dưới đây:
Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu-xã hội của người được hỏi trong mẫu nghiên
cứu định lượng
Chỉ báo
Bậc học
Tiểu học
THCS
THPT
Chung
Tần
số
Tỷ lệ %
Tần số
Tỷ lệ
%
Tần số
Tỷ lệ
%
Tần số
Tỷ lệ %
a. Giới tính:
Nam
20
33.3
48

48.0
73
62.4
141
50.9
Nữ
40
66.7
52
52.0
44
37.6
136
49.1
b. Tuổi:
30-40 tuổi
30
50.0
37
37.0
22
18.8
89
32.1
>40 tuổi
30
50.0
63
63.0
95

81.2
188
67.9
c. Trình độ học vấn:
Tiểu học
9
15.0
10
10.0
3
2.6
22
8.0
THCS
28
46.7
62
62.0
54
46.2
144
52.0
THPT
14
23.3
18
18.0
47
40.2
79

28.5
CĐ, ĐH
9
15.0
10
10.0
13
11.1
32
11.5
d. Nghề nghiệp:
Nông nghiệp
44
73.3
74
74.0
69
59.0
187
67.5
Công nhân
viên chức
5
8.3
8
8.0
18
15.4
31
11.2

Làm thuê
9
15.0
12
12.0
17
14.6
38
13.7
Khác
2
3.4
6
6.0
13
11.1
21
7.7
e. Mức sống HGĐ:
Khá giàu
12
20.0
23
23.0
35
29.9
70
25.3
Trung bình
40

66.7
66
66.0
78
66.7
184
66.4
Nghèo
8
13.3
11
11.0
4
3.4
23
8.3

Nhận xét chung về đặc điểm mẫu nghiên cứu:
- Nhóm tuổi chủ yếu > 40 tuổi (67.9%).
- Giới tính tương đối cân bằng (nam: 50.9%, nữ: 49.1%).
- Trình độc học vấn chủ yếu là THCS và THPT (52% và 28.5%).
- Nông nghiệp là nghề chính (67.5%).
- Mức sống các HGĐ chủ yếu là trung bình (66.4%).

24

8.2. Phương pháp nghiên cứu định tính
21 cuộc phỏng vấn sâu cá nhân đại diện cho 3 bậc học (Tiểu học, THCS và
THPT) đã được thực hiện. Đối tượng phỏng vấn sâu được lựa chọn có chủ định trên
cơ sở xác định phù hợp với mục đích nghiên cứu, cụ thể đối với từng đối tượng như

sau:
- Học sinh bậc học phổ thông: 3 trường hợp/3 bậc học.
Học sinh ở bậc học phổ thông là đối tượng trực tiếp sử dụng dịch vụ giáo dục.
Dịch vụ giáo dục bậc học phổ thông thực hiện vai trò cung cấp các điều kiện cơ bản,
thiết yếu cho việc học tập của các em học sinh ở bậc học này. Bởi vậy, các thông tin
cần thu thập được từ đối tượng này là cách nhìn nhận, đánh giá của các em về cơ sở
vật chất của nhà trường; tiếp cận giáo dục; chi phí giáo dục; và chất lượng giáo dục.
- Cha/mẹ học sinh bậc học phổ thông: 6 trường hợp/3 bậc học
Tầm quan trọng của giáo dục và cách nhìn nhận, đánh giá của cha mẹ học sinh
về các điều kiện cung ứng của dịch vụ giáo dục là những nhân tố chính trong việc
quyết định sự lựa chọn của họ về việc có hay không sử dụng loại hình dịch vụ này.
Điều này cũng cho thấy sự mong đợi của bậc cha mẹ đối với từng yếu tố này là gì,
nguồn cung ứng của dịch vụ giáo dục có đáp ứng được kỳ vọng của các bậc cha mẹ
hay không, yếu tố nào đã đáp ứng được và những yếu tố nào chưa đáp ứng được.
- Giáo viên các cấp thuộc bậc học phổ thông: 6 giáo viên/3 bậc học
Các giáo viên là một thành tố cơ bản của hệ thống giáo dục. Nguồn giáo viên
có chất lượng của dịch vụ giáo dục là một nhân tố quan trọng nhằm đảm bảo chất
lượng giáo dục. Những thông tin phỏng vấn có được từ nhóm giáo viên ở các cấp
thuộc bậc học phổ thông cho thấy các khía cạnh khác nhau trong quan niệm, đánh giá
của nhóm xã hội này đối với các nội dung của dịch vụ giáo dục.
- Cán bộ quản lý giáo dục các cấp thuộc bậc học phổ thông: 3 hiệu trưởng/phó
hiệu trưởng của 3 bậc học
Với chức năng quản lý nhà trường, các hiệu trưởng/phó hiệu trưởng có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp những thông tin về các nội của dịch vụ giáo
dục. Qua phỏng vấn sâu đối tượng này, nhóm nghiên cứu sẽ thu thập được thông tin
về cách thức và nội dung vận hành, điều chỉnh và quản lý của nhà trường đối với các
yếu tố của nguồn cung dịch vụ giáo dục.

25


- Đại diện của Hội phụ huynh: 3 phụ huynh/3 bậc học
Hội phụ huynh học sinh giữ vai trò cầu nối liên kết giữa nhà trường và gia
đình trong các vấn đề liên quan đến việc học tập của các em học sinh. Ban đại diện
cha mẹ học sinh thực hiện việc tham gia giám sát một số hoạt động của nhà trường và
huy động sự tham gia của các cha mẹ khác.
8.3. Phương pháp phân tích tài liệu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích tài liệu. Các tài liệu thu thập được sử
dụng cho phân tích là:
- Các số liệu thống kê về tình hình giáo dục của tỉnh, huyện và xã.
- Báo cáo kinh tế-xã hội năm 2010 của UBND xã, huyện.
- Các tài liệu, sách báo đã được công khai, kết quả nghiên cứu của một số đề
tài cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp Viện, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ thuộc
lĩnh vực xã hội học và các lĩnh vực có liên quan (giáo dục học, ). Ngoài ra
là một số tài liệu báo cáo nghiên cứu của các tổ chức phi chính phủ liên
quan đến nội dung đề tài.
9. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
9.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đóng góp vào các nghiên cứu dư luận xã hội về giáo dục. Ở khía
cạnh của mối quan hệ giữa các lĩnh vực khoa học xã hội học, luận văn đóng góp ở
mức độ nhất định vào các nghiên cứu của chuyên ngành xã hội học giáo dục.
Thông qua việc vận dụng lý thuyết dư luận xã hội, đề tài đưa những cách giải
thích quá trình phát triển của dư luận xã hội và cho thấy nguyện vọng, các nhu cầu để
cải thiện dịch vụ giáo dục.
9.2. Ý nghĩa thực tiễn
Việc tiến hành tìm hiểu dư luận xã hội về dịch vụ giáo dục ở bậc học phổ
thông cung cấp những bằng chứng và là cơ sở quan trọng cho các nhà quản lý và
những người liên quan đến công tác phát triển giáo dục tham khảo và hoạch định
chính sách phù hợp với nhu cầu của người sử dụng dịch vụ và thực tế của phát triển
kinh tế-xã hội.


26

10. Hạn chế của luận văn
10.1. Hạn chế về mẫu và phương pháp nghiên cứu
- Về mẫu và phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng:
Việc lựa chọn khối học cuối cùng của mỗi cấp học mang ý nghĩa quan trọng
cho việc xem xét, đánh giá các thông tin về dịch vụ giáo dục ở các cấp học tương
ứng, tuy nhiên tính đại diện của mẫu cho cả cấp học còn hạn chế do những đặc điểm
khác nhau của từng khối học. Do hạn chế về nguồn lực nghiên cứu (kinh phí và thời
gian), luận văn sử dụng phương pháp phát vấn bảng hỏi (điều tra bằng bảng hỏi tự
ghi) để thu thập thông tin. Kỹ thuật này có thể làm cho thông tin được thu thập không
đầy đủ, giảm chất lượng thông tin. Việc không tiếp xúc trực tiếp của người phỏng vấn
với người trả lời câu hỏi làm một số nội dung thiếu thông tin do người trả lời bỏ qua.
Bên cạnh đó, người trả lời bảng hỏi có thể không đúng là người được lựa chọn trong
mẫu (người khác trong HGĐ trả lời hoặc nhiều người trong HGĐ cùng trả lời). Để
hạn chế những nhược điểm của kỹ thuật nghiên cứu này, khâu thiết kế kỹ thuật bảng
hỏi ngay từ ban đầu đã được tác giả luận văn chú trọng. Nội dung các câu hỏi và hình
thức trình bày được thiết kế sao cho dễ hiểu đối với người trả lời. Do phát vấn bảng
hỏi được thông qua đối tượng học sinh của các hộ gia đình được lựa chọn, nên người
thu thập thông tin (đồng thời là tác giả luận văn) đã hướng dẫn các em học sinh này
cách hiểu nội dung và điền bảng hỏi, sau đó các em về hướng dẫn lại cha mẹ.
Bên cạnh đó, một trong những hạn chế về bảng hỏi định lượng của luận văn là
chưa có câu hỏi đo quy mô và cường độ dư luận xã hội.
- Về mẫu nghiên cứu định tính:
Chính quyền địa phương là nhóm quản lý hành chính với vai trò quan trọng
trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách kinh tế-xã hội nói chung của Nhà
nước. Cách nhìn nhận, đánh giá của cấp chính quyền địa phương sẽ cho thấy các
điểm phù hợp và chưa phù hợp của nhà trường trong việc cung ứng các điều kiện của
nó tới người đối tượng sử dụng (đối tượng đi học bao gồm học sinh và cha mẹ học
sinh). Thông tin thu thập từ cán bộ quản lý Phòng Giáo dục huyện Hưng Hà bao gồm

về cách thức triển khai các chương trình, chủ trương của ngành giáo dục của huyện.
Mặc dù thiết kế ban đầu của luận văn bao gồm việc thu thập thông tin đại diện chính
quyền địa phương và cán bộ quản lý Phòng giáo dục, tuy nhiên, do hạn chế về thời
gian của cả người phỏng vấn và người được phỏng vấn, hoạt động này đã không được
thực hiện. Ngoài ra, luận văn cũng thiếu các thông tin thu nhận được từ phương pháp
thảo luận nhóm.

×