Tải bản đầy đủ (.pdf) (213 trang)

Vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 213 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
********************



NGÔ THỊ PHƯỢNG


VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRI THỨC KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VIỆT NAM
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI






LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC





HÀ NỘI - 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
********************




NGÔ THỊ PHƯỢNG


VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI

Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 5.01.02


LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Phan Thanh Khôi
2.TS. Trịnh Trí Thức



HÀ NỘI-2005




LỜI CAM ĐOAN

Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Những kết quả và nội dung trong luận án là trung
thực, chưa được công bố ở những công trình nghiên
cứu khác.

Tac giả


Ngô Thị Phượng

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH,HĐH
2. Chủ nghĩa xã hội CNXH
3. Chủ nghĩa tư bản CNTB
4. Giáo sư GS
5. Khoa học xã hội và nhân văn KHXH&NV
6. Nhà xuất bản Nxb
7. Phó giáo sư PGS
8. Phó tiến sĩ PTS
9. Tiến sĩ TS
10. Tiến sĩ khoa học TSKH
11. Thạc sĩ Th.s
MỤC LỤC

Trang
Mở đầu
1
Nội dung
11

Chương 1. Trí thức khoa học xã hội và nhân văn. Đội ngũ trí
thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam

11
1.1 Trí thức khoa học xã hội và nhân văn
11
1.2 Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam
30
1.3 Sự nghiệp đổi mới và vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức khoa
học xã hội và nhân văn Việt Nam

56
Chương 2. Thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội
và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới vừa qua .

67
2.1 Thành tựu và hạn chế trong thực hiện vai trò của đội ngũ trí thức
khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam

67
2.2 Nguyên nhân thành tựu và hạn chế trong thực hiện vai trò của
đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam

105
Chương 3. Quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay


129

3.1 Quan điểm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội
và nhân văn Việt Nam

129
3.2 Giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội
và nhân văn Việt Nam

144
Kết luận
179
Những công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan
đến luận án

182
Danh mục tài liệu tham khảo
183
DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 1.1. Cơ cấu đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam theo lĩnh
vực lao động

46
Bảng 1.2. Cơ cấu trình độ của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam
trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học

50
Bảng 1.3. Cơ cấu trình độ của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam
trong lĩnh vực giáo dục


50
Bảng 1.4. Cơ cấu trình độ của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam
trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý, hoạt động kinh tế - xã hội.

51
Bảng 1.5. Trình độ ngoại ngữ của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt
Nam

52
Bảng 1.6. Số lượng đề tài khoa học trường Đại học KHXH&NV Hà Nội
55
Bảng 1.7. Tình hình nghiên cứu của đội ngũ trí thức KHXH&NV
55
Bảng 2.1. Số sinh viên/học viên tuyển hàng năm của trường Đại học
KHXH&NV Hà Nội

90
Bảng 2.2. Số lượng cán bộ đã qua đào tạo đại học chính trị và cao cấp
lý luận chính trị ở hệ thống Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh và các phân viện


92
Bảng 2.3. Số trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học ở
nước ta

93
Bảng 2.4. Số học sinh, sinh viên trong các trường trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học ở nước ta


93
Bảng 2.5. Cơ cấu trình độ của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam
so với các ngành khác

117
Bảng 2.6. Nguồn tài chính của các viện nghiên cứu được điều tra
126


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam đang đứng trước yêu cầu mới của
sự nghiệp cách mạng hiện nay. Đảng ta đã xác định: "Khoa học xã hội và nhân
văn tập trung nghiên cứu những luận cứ cho việc tạo động lực phát huy sức
mạnh của toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới sâu rộng, đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, đi lên chủ nghĩa xã hội" [44, tr294]. Để
hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang đó, đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt
Nam sẽ có vai trò ngày càng tăng trong việc cung cấp luận cứ khoa học nhằm
xây dựng và phát triển lý luận, tiếp tục đổi mới sâu rộng đất nước; truyền bá
tri thức KHXH&NV, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chính sách của Đảng góp phần xây dựng nền văn hoá mới, con người mới;
thực hiện vai trò thẩm định, phản biện, phê bình, dự báo sự phát triển của xã
hội. Đặc biệt, đội ngũ này còn có vai trò là lực lượng nòng cốt trên mặt trận
chính trị, tư tưởng, góp phần chống nguy cơ chệch hướng XHCN ở nước ta.
Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức
KHXH&NV là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới.
Trong sự nghiệp đổi mới vừa qua, đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt

Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng khẳng định vai trò to lớn của mình vào
thắng lợi sự nghiệp cách mạng của đất nước. Tuy nhiên, trong thực hiện vai
trò, đội ngũ trí thức KHXH&NV cũng còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, trước yêu
cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới, đang xuất hiện những mâu thuẫn, bất
cập đòi hỏi phải giải quyết. Cho nên, việc quan tâm nghiên cứu một cách
khoa học để đánh giá thực trạng, phát hiện mâu thuẫn, tìm ra nguyên nhân,
trên cơ sở đó, xác định quan điểm chỉ đạo, đề xuất giải pháp cơ bản góp phần

2
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV đáp ứng đòi hỏi của sự
nghiệp đổi mới cũng là một vấn đề cấp thiết từ thực tiễn đang đặt ra.
Việc khẳng định và phát huy vai trò ngày càng tăng của đội ngũ trí thức
KHXH&NV Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới không phải là việc làm của
riêng bản thân đội ngũ. Điều đó cần có sự quan tâm và trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và toàn xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế,
mặc dù Đảng, Nhà nước đã có những quan điểm chỉ đạo, quan tâm đến đội
ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam, nhưng vẫn còn không ít những đơn vị, tổ
chức, các cấp uỷ đảng và một bộ phận trong xã hội chưa nhận thức hết vai trò
to lớn của đội ngũ này, để có chính sách, cơ chế, sự đãi ngộ, tôn vinh v.v
nhằm phát huy vai trò to lớn của họ đóng góp vào sự nghiệp đổi mới. Do đó,
việc nghiên cứu cơ sở khoa học để góp phần nâng cao nhận thức và trách
nhiệm của toàn xã hội quan tâm, tạo mọi điều kiện cho đội ngũ trí thức
KHXH&NV ngày càng đóng góp vai trò to lớn của mình vào sự nghiệp đổi
mới cũng là một vấn đề có tính cấp thiết đang đặt ra.
Với lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Vai trò của đội ngũ trí thức khoa
họcxã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới ” làm đề tài luận án
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, nhất là từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi
mới, việc nghiên cứu về trí thức nói chung và đội ngũ trí thức KHXH&NV

nói riêng đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Hiện có nhiều công
trình, bài viết tiêu biểu, liên quan đến đề tài đã được công bố. Có thể xem xét
các công trình đó qua ba nhóm vấn đề sau:
Nhóm công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam, chủ yếu là các luận án
TS, PTS và kết quả của các chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước, nghiên

3
cứu trí thức Việt Nam như là một nguồn nhân lực quan trọng của sự nghiệp xây
dựng CNXH ở nước ta.
Công trình đầu tiên mà chúng tôi kể đến, thuộc nhóm vấn đề này là luận
án PTS Triết học của Phan Viết Dũng với đề tài: "Vị trí, vai trò của tầng lớp
trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", bảo vệ năm
1988, tại Học viện Nguyễn Ái Quốc Trung ương (nay là Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh). Công trình này đã phân tích một cách tương đối rõ
về đặc điểm, vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích sự
hình thành của tầng lớp trí thức Việt Nam, đặc biệt là xác định vai trò của họ
trong lĩnh vực công tác lý luận, trong ba cuộc cách mạng (cách mạng quan hệ
sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng - văn hoá) của
thời kỳ quá độ ở nước ta. Từ kết quả nghiên cứu trên, tác giả đã đề xuất
những vấn đề cần thực hiện để phát huy vai trò của tầng lớp trí thức Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn đất nước ta bắt đầu thực hiện đổi
mới.
Tiếp sau là luận án PTS Triết học của tác giả Trần Thước với đề tài: "Sự
hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức Việt Nam", bảo
vệ năm 1992 tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Ở đây, tác giả đã
đi sâu nghiên cứu một phương diện của tầng lớp trí thức Việt Nam là "thế giới
quan", nhưng lại là phương diện quan trọng nhất, tạo nên bản chất của người
trí thức Việt Nam. Qua công trình này, người đọc không chỉ nhận thấy sự
chuyển biến về thế giới quan của tầng lớp trí thức mà còn biết được cả diện

mạo của lịch sử cách mạng Việt Nam - yếu tố quyết định đến sự hình thành
thế giới quan XHCN của trí thức mới Việt Nam. Kết quả của công trình này
cho người đọc thấy rõ tại sao tầng lớp này luôn gắn bó và có những góp quan
trọng đến sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam.

4
Cũng trong năm 1992, tác giả Phan Thanh Khôi đã bảo vệ luận án PTS
Triết học về “Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện
nay”, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là công trình nghiên
cứu khá công phu với những kiến giải sâu sắc về đặc thù lao động sáng tạo
của người trí thức và hệ thống động lực thúc đẩy lao động sáng tạo của họ:
động lực lý tưởng - tình cảm, trí tuệ - tinh thần, kinh tế - vật chất. Trên cơ sở
đó, tác giả đã nêu những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lao động sáng tạo
của trí thức nước ta.
Tiếp theo những luận án trên là cuốn sách “Trí thức Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới đất nước”, của nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995. Cuốn sách bao gồm các bài phát biểu của Ông về vị
trí, vai trò và nhiệm vụ của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới. Ở đó
đã khẳng định trí thức Việt Nam là đại biểu cho đỉnh cao trí tuệ của dân tộc
Việt Nam. Trong giai đoạn đổi mới, vai trò của họ ngày càng cần thiết hơn.
Đồng thời, cuốn sách cũng cung cấp cho người đọc những quan điểm, chủ
trương, chính sách của của Đảng và Nhà nước đối với việc đào tạo, bồi
dưỡng, phát huy vai trò sáng tạo của trí thức Việt Nam.
Cũng trong năm 1995, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản cuốn “Trí thức
Việt Nam - Thực tiễn và triển vọng”, do GS.TS Phạm Tất Dong chủ biên.
Đây là kết quả của một đề tài trong chương trình khoa học cấp nhà nước giai
đoạn 1991-1995. Ở công trình này, người đọc thấy được những nghiên cứu
sâu, rộng về đội ngũ trí thức Việt Nam từ lịch sử đến hiện đại; từ thực trạng
(số lượng, cơ cấu, chất lượng) đến tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu và xu hướng
phát triển của trí thức Việt Nam. Đặc biệt, công trình đã đề xuất định hướng

và chính sách để xây dựng, phát triển trí thức Việt Nam trong giai đoạn
CNH,HĐH đất nước.

5
Tiếp theo hướng nghiên cứu trên là cuốn “Định hướng phát triển đội ngũ trí
thức Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, cũng do GS.TS Phạm Tất
Dong chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình này là kết quả của
một chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước (KHXH.03.09), giai đoạn 1996-
2000, là sự tiếp nối của công trình "Trí thức Việt Nam- thực tiễn và triển vọng".
Cuốn sách đã trình bày tổng quát những yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước đối với trí thức Việt Nam; làm rõ vai trò quan trọng của họ ở các lĩnh vực:
kinh tế - xã hội, sáng tạo văn hoá, giữ vững nền tảng tinh thần của xã hội, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc; phân tích tương đối toàn diện về lịch sử phát triển
và thực trạng của trí thức Việt Nam và đề xuất những định hướng chính sách để
xây dựng đội ngũ này giai đoạn 2000-2010.
Nhìn chung, những công trình trên nghiên cứu các mảng vấn đề khác
nhau nhưng đã có sự thống nhất trong nhiều nội dung cơ bản về trí thức và trí
thức Việt Nam. Đây là điều thuận lợi và là nguồn tư liệu phong phú, rất bổ ích
cho những người quan tâm và nghiên cứu về trí thức sau này.
Nhóm công trình về KHXH&NV, chủ yếu là các công trình nghiên cứu
của tập thể các nhà khoa học, quản lý trong lĩnh vực KHXH&NV và các
bài viết đăng trên các tạp chí: Khoa học xã hội, Triết học, Nghiên cứu lý
luận
Trước hết là bài viết "Khắc phục sự chậm chễ của khoa học xã hội ở
nước ta" của GS.TS Nguyễn Duy Quý tham gia Hội thảo khoa học về "Đổi
mới tư duy lý luận dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội VI của Đảng", được tổ
chức vào năm 1988, tại Học viện Nguyễn Ái Quốc Trung ương. Bài viết đã
khái quát sự phát triển của khoa học xã hội nước ta, nêu thành tựu, đặc biệt là
những hạn chế, nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến hạn chế của
khoa học xã hội trong những năm trước đổi mới. Từ đó, tác giả khẳng định

cần thiết và cấp bách phải đổi mới tư duy, tổ chức, đội ngũ cán bộ, phong

6
cách lãnh đạo và công tác khoa học xã hội. Có như vậy, khoa học xã hội mới
đáp ứng được yêu cầu của cách mạng nước ta và tiến kịp đà phát triển của thế
giới.
Thứ hai là cuốn sách “Khoa học xã hội và nhân văn, mười năm đổi mới
và phát triển” do GS.TS Phạm Tất Dong chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1997. Cuốn sách gồm 2 tập đã cho người đọc những nhận thức phong
phú về các lĩnh vực khoa học xã hội, những đóng góp của các lĩnh vực khoa
học đó biểu hiện ở việc cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng ta hoạch định
đường lối, chủ trương phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong 10 năm đầu
thực hiện đổi mới đất nước. Đặc biệt, công tác quản lý và dịch vụ cho hoạt
động khoa học của khoa học xã hội nước ta trong giai đoạn này cũng được đề
cập đến khá rõ trong 2 tập sách này.
Thứ ba là cuốn “ Khoa học xã hội và nhân văn với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” do PGS.TS Phạm Xuân Hằng chủ biên,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. Đây là kết quả nghiên cứu của tập
thể các nhà khoa học đã tổng kết những thành tựu nghiên cứu và đóng góp
của KHXH&NV đối với sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, thể hiện trên các
lĩnh vực như: nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, nông nghiệp, nông thôn… Đồng thời, cuốn
sách cũng xác định những vấn đề đặt ra đối với KHXH&NV trong sự
nghiệp CNH,HĐH như: đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, vấn đề nguồn
lực con người, vấn đề văn hoá, gia đình, hội nhập quốc tế…
Thứ tư là cuốn "Những thành tựu khoa học xã hội và nhân văn ở các
tỉnh phía Nam trong thời kỳ đổi mới" và "Tuyển tập Tạp chí Khoa học xã
hội" là hai công trình tương đối lớn do TS. Nguyễn Thế Nghĩa chủ biên,
Nxb Khoa học xã hội, đã xuất bản trong hai năm liên tiếp 2003, 2004. Với
khối lượng trên 1000 trang mỗi cuốn, các bài viết của các nhà khoa học, lãnh


7
đạo, quản lý ở các viện nghiên cứu, trường đại học trên cả nước (đã đăng lần
đầu trên các tạp chí chuyên ngành) được hệ thống lại trên sáu nhóm vấn đề:
chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng, vấn đề phát triển
kinh tế - xã hội, vấn đề văn hoá, văn học, ngôn ngữ, vấn đề lịch sử và khảo
cổ, vấn đề dân tộc tôn giáo, vấn đề quốc tế và khu vực. Hai cuốn sách này đã
cung cấp cho người đọc nhiều tư liệu quý về thành tựu của KHXH&NV
trong 15 năm đầu đổi mới đất nước.
Ngoài các công trình lớn trên, còn có nhiều bài viết về nhiệm vụ và
thành tựu của các lĩnh vực thuộc KHXH&NV ở nước ta, được đăng trên các
tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Triết học, Tạp chí Khoa học xã hội, Tạp
chí Nghiên cứu lý luận, Tạp chí Khoa giáo, Tạp chí Hoạt động khoa học…
Những công trình và bài viết trên là nguồn tư liệu phong phú cho thấy sự
phát triển mạnh mẽ của KHXH&NV những năm qua.
Nhóm công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam
có các công trình tiêu biểu sau:
Thứ nhất, luận án tiến sĩ Triết học: “Phát huy tiềm năng của trí thức
Khoa học xã hội trong công cuộc đổi mới ở nước ta.” của Nguyễn An Ninh,
bảo vệ năm 1999, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Ở đây, tác
giả quan niệm: "Tiềm năng của con người là những năng lực, phẩm chất còn
tiềm tàng, hoặc chưa bộc lộ ra đầy đủ…" để phân tích, kiến giải sâu sắc về
tiềm năng của trí thức khoa học xã hội, những nội dung thể hiện tiềm năng
của trí thức khoa học xã hội nước ta: năng lực lao động khoa học, tính tích
cực chính trị - xã hội, khả năng tiếp nhận và truyền bá giá trị khoa học. Thực
trạng tiềm năng và việc khai thác tiềm năng của trí thức khoa học xã hội
nước ta cũng được đề cập đến khá rõ trong công trình này, từ đó, tác giả kiến
nghị những giải pháp cơ bản nhằm phát huy tiềm năng của họ. Như vậy,

8

công trình này chủ yếu đề cập đến mặt chất lượng của trí thức khoa học xã
hội Việt Nam.
Cùng hướng nghiên cứu này, tác giả Nguyễn Đình Minh đã giới hạn
phạm vi nghiên cứu của mình ở trí thức KHXH&NV trong Quân đội nhân
dân Việt Nam, nhưng không chỉ nghiên cứu những yếu tố chất lượng mà còn
đề cập đến số lượng, cơ cấu của trí thức KHXH&NV, tổng hoà các yếu tố đó
được thể hiện bằng khái niệm: "Nguồn lực trí thức KHXH&NV". Kết quả
nghiên cứu này được thể hiện trong luận án tiến sĩ Triết học với tiêu đề :
"Phát huy nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhăn văn trong Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay", đã bảo vệ năm 2002, tại Học viện Chính trị
Quân sự.
Một công trình khác cũng đề cập đến một bộ phận của trí thức
KHXH&NV Việt Nam là: "Xây dựng đội ngũ trí thức Khoa học Mác - Lênin
trong các trường đại học ở nước ta hiện nay", luận án tiến sĩ triết học của
Phạm Văn Thanh, bảo vệ năm 2001, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh. Luận án có phạm vi nghiên cứu hẹp, song cũng chính vì vậy, những
nội dung bên trong được đề cập khá sâu sắc, tỉ mỉ về số lượng, cơ cấu, chất
lượng và xu hướng biến đổi của đội ngũ trí thức Khoa học Mác - Lênin hiện
nay, với rất nhiều số liệu được chọn lọc tỉ mỉ, có tính thuyết phục cao. Luận
án cũng đã đề xuất những giải pháp quan trọng để xây dựng đội ngũ này đủ
mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nghiên cứu và giảng dạy chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các công trình trên, ở các góc độ khác nhau và với những
mức độ nhất định, đều có đề cập đến đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam,
nhiệm vụ và vai trò của họ trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, cho
tới nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách độc
lập, có hệ thống vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam, những

9
đóng góp và hạn chế của đội ngũ này trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì

vậy, đề tài của luận án không trùng với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
* Mục đích:
Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực trạng việc thực hiện
vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam những năm đổi mới vừa
qua, đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của
đội ngũ này trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm “trí thức KHXH&NV” và vai trò của họ đối với sự
phát triển của xã hội.
- Phân tích những đặc điểm và xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức
KHXH&NV Việt Nam .
- Xác định những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt
Nam dưới tác động của sự nghiệp đổi mới đất nước.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân cũng như xác
định mâu thuẫn nảy sinh trong việc thực hiện vai trò của đội ngũ trí thức
KHXH&NV Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới vừa qua.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận án
* Luận án triển khai trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị của Đảng ta về trí thức, về khoa học -
công nghệ, về giáo dục - đào tạo Luận án cũng kế thừa kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học có liên quan.

10
* Cơ sở thực tiễn của luận án là những tài liệu, số liệu nghiên cứu thực
trạng số lượng, cơ cấu, chất lượng của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam
và tình hình thực hiện vai trò của họ trong sự nghiệp đổi mới đất nước.

5. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án này là phương
pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Trong đó, chú trọng nguyên tắc kết hợp lịch sử và logíc, phân tích và tổng
hợp, khái quát hóa, trừu tượng hoá Ngoài ra luận án còn sử dụng một số
phương pháp khác: đối chiếu, so sánh, điều tra xã hội học, thống kê để luận
giải những vấn đề đặt ra.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án.
* Đối tượng nghiên cứu là vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt
Nam.
* Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian là sự nghiệp đổi mới đất nước từ
năm 1986 đến nay, về mặt không gian là đội ngũ trí thức KHXH&NV trên
phạm vi cả nước.
7. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Làm rõ đặc điểm và xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức
KHXH&NV Việt Nam.
- Chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến thành tựu và hạn chế, nêu lên
những mâu thuẫn nảy sinh trong thực hiện vai trò của đội ngũ trí thức
KHXH&NV Việt Nam những năm đổi mới vừa qua.
- Luận giải tính khoa học của những quan điểm chỉ đạo và đề xuất một
số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
KHXH&NV Việt Nam hiện nay.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận:

11
Góp phần luận giải cơ sở khoa học nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ trí
thức KHXH&NV Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những

vấn đề liên quan đến trí thức KHXH&NV; góp thêm cơ sở cho việc hoạch định
chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm xây dựng và phát huy hơn nữa vai trò
của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
9. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung
được kết cấu thành 3 chương 7 tiết.


12
NỘI DUNG
Chương 1
TRÍ THỨC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN.
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VIỆT NAM

1.1 Trí thức khoa học xã hội và nhân văn
Trí thức KHXH&NV bao gồm những trí thức hoạt động trong lĩnh vực
KHXH&NV. Do vậy, để hiểu về lực lượng trí thức này, cần có quan niệm
đúng về trí thức nói chung.
1.1.1 Quan niệm về trí thức
Thuật ngữ “trí thức” có nguồn gốc từ tiếng Latinh “Intelligentia”, nghĩa
là sự hiểu biết, sự thông thái, sự thông minh, trí tuệ… Đến nay, thuật ngữ đó
được đề cập đến với những nội dung không hoàn toàn giống nhau, nên đã có
rất nhiều định nghĩa khác nhau về “trí thức”. Song, những định nghĩa này đều
dựa vào một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, trí thức là người lao động trí óc phức tạp, sáng tạo
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động của mình tác
động vào tự nhiên, nhằm khai thác và cải tạo tự nhiên theo những phương thức
nhất định, phục vụ cho nhu cầu của mình. Phương thức mà con người sử dụng
để tác động vào tự nhiên trong các thời đại và ngay cả trong một thời đại cũng
khác nhau. Họ có thể tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới tự nhiên

thông qua lao động chân tay hoặc lao động trí óc.
Nói tới trí thức là nói tới hoạt động lao động sáng tạo bằng trí óc. Lao
động trí óc là một trong những cách thức mà một bộ phận trong xã hội sử
dụng để tác động đến tự nhiên một cách gián tiếp. Lao động trí óc xuất hiện là
kết quả của sự phân công lao động trong xã hội và phát triển lực lượng sản
xuất. Sự xuất hiện lao động trí óc dẫn đến sự ra đời một tầng lớp lao động đặc
biệt trong xã hội - tầng lớp trí thức. Tuy nhiên, lao động trí óc là lĩnh vực

13
tương đối rộng, bao gồm lao động trí óc giản đơn và lao động trí óc phức tạp.
Lao động trí óc giản đơn và phức tạp phân biệt với nhau ở mức độ hao phí
năng lượng thần kinh trung ương trong quá trình làm việc. Lao động trí óc
phức tạp cần sự hao phí năng lượng thần kinh trung ương cao hơn để thực
hiện những hoạt động phức tạp của tư duy như phân tích, tổng hợp, quy nạp,
diễn dịch, khái quát hoá, trừu tượng hoá về những sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội thành lý luận, tri thức khoa học mới. Còn lao động trí óc giản
đơn chỉ là những hoạt động lặp đi lặp lại nhiều lần và dần dần thành thói
quen, phản xạ. Lao động trí óc giản đơn gắn với lao động chân tay, là dạng
cao hơn của lao động chân tay. Lao động trí óc giản đơn thường không tạo ra
tri thức khoa học mới mà chỉ tạo ra những tri thức kinh nghiệm thông thường.
Vì vậy, không phải tất cả những người lao động trí óc đều là trí thức, mà chỉ
những người lao động trí óc phức tạp mới có khả năng trở thành người trí
thức.
Lao động trí óc phức tạp là yếu tố để phân biệt trí thức với những giai
cấp và tầng lớp lao động khác trong xã hội. Giữa lao động trí óc và lao động
chân tay tuy có sự phân biệt với nhau nhưng không tách rời hoặc đối lập nhau
mà có sự thống nhất. Bởi vì, bất cứ hoạt động lao động nào cũng có sự tham
gia của đầu và tay con người. Như C.Mác đã nói:
Từng người riêng lẻ không thể tác động tới tự nhiên nếu không vận
động các bắp thịt của mình dưới sự kiểm soát của bộ não của mình.

Cũng như trong hệ thống tự nhiên, đầu và tay gắn với nhau, thì trong
quá trình lao động, lao động trí óc và lao động chân tay cũng kết hợp
lại với nhau [87, tr.718].
Thứ hai, sản phẩm lao động của trí thức là tri thức khoa học mới
Tri thức khoa học liên quan chặt chẽ với tri thức kinh nghiệm, xuất phát
từ tri thức kinh nghiệm, nhưng khác về chất so với với tri thức kinh nghiệm.

14
Tri thức kinh nghiệm chỉ phản ánh bề ngoài hoặc từng mặt rời rạc của sự vật,
hiện tượng, hình thành từ những hoạt động hàng ngày, lặp đi lặp lại, từ nhận
thức cảm tính. Còn tri thức khoa học phản ánh bản chất, quy luật của sự vật,
hiện tượng, phản ánh những mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan. Tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức lý tính,
bắt nguồn từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm thông qua hoạt động
lao động của tầng lớp trí thức - lao động trí óc phức tạp. Sản phẩm lao động
của tầng lớp trí thức chính là tri thức khoa học. Sản phẩm này có đặc điểm:
tồn tại ở dạng tinh thần, mới, có tính kế thừa nhưng không lặp lại, có giá trị xã
hội cao. Vì vậy, lao động của trí thức là lao động mang tính sáng tạo rõ nét.
Tri thức khoa học rất đa dạng, phong phú, có thể xem xét ở các lĩnh vực
khác nhau: khoa học tự nhiên, KHXH&NV, khoa học công nghệ, khoa học liên
ngành. Mỗi lĩnh vực đó lại có nhiều chuyên ngành khác nhau: Toán học, Văn
học, Vật lý, Sinh - Hoá, Địa - Vật lý, Địa chính trị, Xã hội học lịch sử, Tâm lý xã
hội học, v.v Chúng ta cũng có thể xem xét tri thức khoa học thông qua các loại
hình: nghiên cứu cơ bản, ứng dụng hay triển khai. Tri thức khoa học được kết
tinh ở nhiều dạng sản phẩm khác nhau: các học thuyết, lý thuyết khoa học, các
đề án thiết kế, kế hoạch, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, giáo trình, bài giảng,
bài báo, v.v Các dạng sản phẩm, chuyên ngành khoa học trên đều phản ánh sâu
một vấn đề của tự nhiên hoặc đời sống xã hội, nên nhiều khi, không thể nhận
biết ngay một cách dễ dàng giá trị của các công trình khoa học. Có những công
trình hàng nhiều năm sau mới được thừa nhận và ứng dụng vào sản xuất và đời

sống…
Thứ ba, trí thức là người có trình độ học vấn, chuyên môn cao
Để thực hiện được hoạt động lao động trí óc phức tạp nhằm tạo ra những
tri thức khoa học mới, trí thức phải là những người có trình độ học vấn và
chuyên môn cao. Tuy nhiên, tiêu chí trình độ học vấn để xác định trí thức

15
mang tính lịch sử, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh cụ thể,
mặt bằng dân trí, nội dung giáo dục của từng quốc gia, dân tộc.
Hiện nay, ở nhiều nước nói chung và nước ta nói riêng, trong điều kiện của
nền giáo dục hiện đại, tiêu chí để xác định trí thức là từ trình độ cao đẳng trở lên.
Với trình độ kiến thức ban đầu như vậy, người trí thức mới có khả năng để thực
hiện lao động sáng tạo thực sự. Song, tiêu chí về trình độ, văn bằng mới chỉ là
một dấu hiệu để xác định trí thức, chứ chưa đủ để trở thành trí thức. Có những
người có trình độ đại học, thậm chí trên đại học, nhưng lao động của họ
không đảm nhiệm chức năng của người trí thức - sáng tạo tri thức khoa học,
thì cũng chưa phải là trí thức. Ngược lại, có những người không có bằng cấp,
chủ yếu là tự học hỏi và từ thực tiễn lại có được lượng tri thức phong phú, có
nhiều sáng tạo tri thức mới vẫn có thể coi là trí thức, thậm chí còn là nhà khoa
học vĩ đại, như Robert Owen, Phriđrich.Ăngghen, Alfred Nobel, Albert
Einstein Ở xã hội Việt Nam, thời phong kiến, phụ nữ không được đến
trường, nhưng lại có những nữ trí thức điển hình như: Hồ Xuân Hương, Đoàn
Thị Điểm…
Thứ tư, trí thức tham gia (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào trong tất cả các
lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội
Trí thức có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
Trí thức góp phần phát kiến những học thuyết, đường hướng chính trị cho sự
vận động của một giai cấp, một chính đảng, một quốc gia. Họ là lực lượng
chủ chốt trong nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và đưa tiến bộ của
khoa học vào sản xuất. Đồng thời, họ còn thực hiện tư vấn, phản biện, giám

định xã hội các đề án phát triển kinh tế - xã hội, tham gia hỗ trợ chuyển giao
công nghệ, đưa tiến bộ khoa học vào đời sống, trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Mặt khác, họ là lực lượng chủ yếu duy trì, phát triển nền văn hoá
dân tộc, xây dựng, phát triển con người. Trí thức còn có trách nhiệm lớn

16
trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu của thời đại, qua đó góp phần
làm cho xã hội phát triển bền vững Ngày nay, trí thức là một chủ thể của
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đang dần trở thành một bộ phận
quan trọng trong nền kinh tế tri thức.
Từ những đặc trưng trên có thể quan niệm: Trí thức là một tầng lớp xã hội
bao gồm những người lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn và chuyên
môn cao, có khả năng sáng tạo tri thức khoa học mới, đồng thời truyền bá, nhất
là ứng dụng tri thức này vào thực tiễn, góp phần to lớn đến sự phát triển và trình
độ văn minh của nhân loại.
1.1.2 Đặc điểm của trí thức khoa học xã hội và nhân văn
Trí thức KHXH&NV là một bộ phận của tầng lớp trí thức, bao gồm những
người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo trong lĩnh vực KHXH&NV. Từ đối
tượng nghiên cứu, đặc điểm của lĩnh vực khoa học này, nên trí thức KHXH&NV
có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, trí thức KHXH&NV, ngoài trình độ học vấn cao, chuyên môn
sâu còn cần sự hiểu biết về các lĩnh vực khoa học gần kề, đồng thời phải có vốn
sống và sự trải nghiệm thực tiễn nhất định
Trí thức KHXH&NV cũng như trí thức nói chung, để thực hiện lao động
sáng tạo, cần phải có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu trong lĩnh vực mà
mình nghiên cứu. Mặt khác, do đặc điểm của những hiện tượng xã hội - tính
hay thay đổi và bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các nhân tố tạo nên các hiện
tượng xã hội rất đa dạng và có sự đan xen, thâm nhập vào nhau giữa các lĩnh
vực KHXH&NV, nên trí thức KHXH&NV không chỉ cần sự hiểu biết sâu sắc
ở lĩnh vực của mình mà còn cần sự hiểu biết rộng rãi ở các lĩnh vực khoa học

gần kề. Là nhà Chính trị học không thể không có sự hiểu biết nhất định về Sử
học, hay nhà Luật học sẽ không thể làm tốt công việc của mình nếu không có
kiến thức về Tâm lý học, Xã hội học, Triết học… Thiếu kiến thức của những

17
khoa học gần gũi, trí thức KHXH&NV không thể lao động ngang tầm để có
những phát kiến mới và những công trình có giá trị khoa học cao. Ở nước ta,
trong lịch sử, các đại trí thức KHXH&NV của dân tộc như Lê Quý Đôn, Phan
Huy Chú…. còn thời đại hiện nay, những chuyên gia đầu ngành trong lĩnh
vực này như GS. Đào Duy Anh, GS. Trần Văn Giàu, GS. Nguyễn Khánh
Toàn, GS. Đặng Thai Mai… đều là những người am hiểu rộng rãi và sâu sắc
ở nhiều lĩnh vực khác nhau của KHXH&NV.
Hội tụ những kiến thức đó không thể một sớm một chiều mà là quá trình
tích luỹ kiến thức lâu dài, sự kết hợp giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực
tiễn, cộng với vốn sống và sự trải nghiệm thực tiễn - một yếu tố rất quan trọng
đối với trí thức KHXH&NV. Vì vậy, so với trí thức ở các ngành khác, đa số trí
thức KHXH&NV đạt đến đỉnh cao trong sự sáng tạo khoa học, trở thành những
chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành thường ở lứa tuổi đã cao. Bởi khi đó, người
nghiên cứu mới có thể có đầy đủ các yếu tố: trình độ học vấn cao, hiểu biết
chuyên sâu những lĩnh vực khoa học gần kề, có sự trải nghiệm thực tiễn…
làm cơ sở cho sự sáng tạo khoa học. Đối với các khoa học tự nhiên, khoa học
công nghệ thì khác. Một người có trình độ chuyên môn sâu, rộng ở lĩnh vực
khoa học của mình và lĩnh vực khoa học gần gũi mà ít có sự trải nghiệm thực
tiễn, vốn sống vẫn có thể có những phát kiến, những thành công về mặt khoa
học. Vì vậy, lúc chín muồi về khoa học của trí thức ở các lĩnh vực đó thường
có độ tuổi trẻ hơn trí thức KHXH&NV.
Thứ hai, trí thức KHXH&NV có tính chính trị - xã hội cao hơn và năng động
Do sự nổi trội tính chính trị, tính giai cấp của KHXH&NV nên trí thức ở
lĩnh vực này là những người có tính năng động chính trị - xã hội cao hơn. Lao
động sáng tạo của họ thường liên quan mật thiết đến đời sống chính trị và tư

tưởng, phục vụ trước hết cho yêu cầu chính trị và tư tưởng của một giai cấp,
một chế độ xã hội nhất định. Không thể có một công trình KHXH&NV chung

18
chung, siêu giai cấp, tồn tại ngoài mà luôn hướng tới giải đáp những vấn đề
của đời sống chính trị và tư tưởng. Chính đời sống chính trị và tư tưởng đã đặt
ra những vấn đề, yêu cầu trí thức KHXH&NV phải lý giải để tìm ra hướng
giải quyết sao cho có lợi cho công tác đó. Nếu không gắn với đời sống chính
trị, tư tưởng thì lao động của trí thức KHXH&NV dễ mất phương hướng. Tuy
nhiên, không thể đồng nhất hoạt động nghiên cứu của trí thức KHXH&NV
với công tác chính trị, tư tưởng. Có những vấn đề đặt ra cho nghiên cứu khoa
học nhưng chưa chắc đã áp dụng ngay vào thực tiễn cuộc sống. Có những vấn
đề được nghiên cứu với nhiều cách tư duy khác nhau nhằm đem lại sự hiểu
biết một cách toàn diện, nhưng khi vận dụng vào thực tiễn lại chỉ có thể chọn
một cách phù hợp với mục đích chính trị.
Tính năng động chính trị - xã hội của trí thức KHXH&NV thể hiện ở
các yếu tố: trình độ nhận thức về chính trị, sự nhạy bén trước những vấn đề
chính trị - xã hội, tính tích cực tham gia các hoạt động chính trị - xã hội
Do có được vốn kiến thức sâu rộng về xã hội, con người, về những quy
luật vận động và phát triển của xã hội, nên trí thức KHXH&NV thường là
những người nhạy bén trước những vấn đề chính trị - xã hội. Họ có điều kiện
hơn cả trong việc nhận thức và giải quyết các vấn đề đó bằng chính vũ khí lý
luận của mình. Nếu trí thức phục vụ cho giai cấp, đảng phái, nhà nước tiến bộ,
thì tính năng động chính trị của họ sẽ góp phần tích cực vào sự phát triển của
xã hội. Kết quả sẽ ngược lại nếu họ phục vụ cho giai cấp thống trị, bóc lột, vì
mục đích phản nhân văn. Họ không chỉ nghiên cứu những vấn đề chính trị - xã
hội để cung cấp cơ sở lý luận cho mỗi cuộc cách mạng xã hội, mà còn là những
người trực tiếp tham gia giải quyết những vấn đề chính trị - xã hội, hơn nữa,
trong đó, có những người đi tiên phong, trở thành lãnh tụ của các phong trào
cách mạng. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, và rất nhiều

trí thức KHXH&NV khác là những minh chứng cho phẩm chất đó.

19
Tính năng động chính trị - xã hội là đặc trưng nổi trội của trí thức
KHXH&NV so với trí thức ở các ngành khoa học và những người lao động
khác. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu hiểu một cách thuần tuý trí thức KHXH&NV
là những người chỉ làm chính trị, KHXH&NV là khoa học chính trị. Đồng thời,
cũng sẽ không đúng khi cho rằng trí thức KHXH&NV là những nhà khoa học,
mà khoa học thì không liên quan gì đến chính trị. Cả hai xu hướng nhận thức này
đều dẫn tới thu hẹp vị trí, vai trò của trí thức KHXH&NV.
Trí thức KHXH&NV vừa là nhà khoa học, vừa là nhà chính trị (ở đây,
nói trí thức là nhà chính trị, không có nghĩa họ đều tham gia lãnh đạo hoặc
quản lý xã hội, mà là ở chỗ, từ lao động của mình, họ tham gia trực tiếp vào
cuộc đấu tranh trên lĩnh vực hệ tư tưởng chính trị). Là nhà khoa học, đòi hỏi
họ phải có trình độ tư duy khoa học cao, để tìm ra bản chất, quy luật của
những hiện tượng xã hội. Là nhà chính trị, đòi hỏi họ phải có ý thức chính trị,
có bản lĩnh chính trị, để bảo vệ cho lợi ích, hệ tư tưởng chính trị của một giai
cấp nhất định. Khi trình độ tư duy khoa học cao kết hợp với mục đích bảo vệ lợi
ích của nhân dân lao động, thì trí thức KHXH&NV nhất định sẽ có những cống
hiến to lớn cho sự tiến bộ của xã hội. Đó mới thực sự là người trí thức chân
chính.
Thứ ba, sản phẩm lao động của trí thức KHXH&NV phản ánh thế giới
quan, nhân sinh quan, hệ tư tưởng của tác giả
Sản phẩm lao động của trí thức KHXH&NV là tri thức khoa học về xã
hội và mối quan hệ giữa người và người trong xã hội. Hiệu qủa xã hội của sản
phẩm này, ở nhiều vấn đề, không thể hiện ra trực tiếp, cụ thể như trong khoa
học tự nhiên, khoa học công nghệ Việc áp dụng và chuyển sang quá trình
công nghệ của các kết quả nghiên cứu trong KHXH&NV là rất khó, thậm chí
không thể đặt ra yêu cầu đưa vào công nghệ. Hầu hết sản phẩm lao động của
trí thức KHXH&NV (trừ một số sản phẩm văn học, nghệ thuật…) đều có đối

×