Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong cuộc đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 131 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ THANH HƢƠNG




VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƢỚC





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC












HÀ NỘI- 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ THANH HƢƠNG




VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƢỚC


Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60 22 85


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS PHAN THANH KHÔI








HÀ NỘI- 2009

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TÌNH HÌNH CHUNG VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
VÀ QUAN NIỆM VỀ VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP NÀY TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC 10
1.1. Tình hình chung về giai cấp công nhân Việt Nam 10
1.2. Quan niệm về vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong công
cuộc đổi mới 21
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC 31
2.1. Thành tựu và hạn chế về vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam
trong công cuộc đổi mới đất nước 31
2.2. Nguyên nhân của thực trạng vai trò của giai cấp công nhân Việt
Nam và những vấn đề đặt ra 66
Chương 3: GIẢI PHÁP TIẾP TỤC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
ĐẤT NƯỚC 83
3.1. Nhóm giải pháp về nhận thức đối với giai cấp công nhân và vai
trò của nó trong công cuộc đổi mới đất nước 83
3.2. Nhóm giải pháp về đào tạo nghề và giáo dục ý thức chính trị cho giai
cấp công nhân trong công cuộc đổi mới đất nước 86

3.3. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
giai cấp công nhân trong công cuộc đổi mới đất nước 96
3.4. Nhóm giải pháp về tổ chức của giai cấp công nhân trong công
cuộc đổi mới 102
KẾT LUẬN 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đã
lãnh đạo cuộc cách mạng ở nước ta đi qua những chặng đường vẻ vang của
lịch sử dân tộc. Suốt chặng đường lịch sử ấy, không thắng lợi nào dân tộc ta
đạt được lại không gắn liền với vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam. Tuy
nhiên mỗi thời kỳ lịch sử, vai trò của giai cấp công nhân lại được biểu hiện
khác nhau. Làm rõ vai trò của giai cấp công nhân trong từng thời kỳ cách
mạng, đặc biệt từ khi đất nước đổi mới cho đến nay, là yêu cầu thường xuyên
và cần thiết đối với việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ Đại hội lần thứ VI (1986), Đảng ta đưa ra và thực hiện đường lối
đổi mới toàn diện đất nước. Qua hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn kiện
Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng ghi rõ: “Đất nước ta đã bước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế- xã hội có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng
trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và an

ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được
nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và
lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”. Đạt được những
thành tựu rực rỡ ấy có sự đóng góp quan trọng và lớn lao của giai cấp công
nhân Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
ấy, sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế - xã hội của nước ta còn tồn tại những

2
mặt hạn chế, phức tạp chưa được khắc phục. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế
ngày càng xa. Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng lớn. Tình
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên. Dưới tác động mặt trái của kinh tế thị trường
làm cho tệ quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí diễn ra ngày càng phức
tạp, nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã
hội… Tất cả những hiện tượng đó đang tác động không nhỏ đến giai cấp
công nhân Việt Nam, làm suy giảm và hạn chế vai trò của giai cấp công
nhân trong công cuộc đổi mới.
Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tạo nền tảng để phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban
đầu cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với tư cách là giai cấp lãnh
đạo và là lực lượng sản xuất cơ bản của nền công nghiệp hiện đại, giai cấp
công nhân đóng vai trò là lực lượng đi đầu của quá trình ấy. Việc không
ngừng nghiên cứu, làm rõ vai trò của giai cấp công nhân, nhất là trong điều
kiện hiện nay có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết.
Từ khi ra đời cho đến nay, trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng có
những chủ trương, chính sách cụ thể về xây dựng, phát triển và phát huy vai
trò giai cấp công nhân. Điều này được thể hiện rõ nhất từ khi đất nước thực
hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Trong “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (1991), Đảng ta chỉ rõ: “Phát

triển giai cấp công nhân về số lượng và chất lượng để xứng đáng là giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đến Đại hội lần thứ
IX, Đảng khẳng định: “Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số
lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn
và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng
dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu
quả ngày càng cao, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công

3
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ
mới". Đại hội lần thứ X Đảng tiếp tục khẳng định: “Đối với giai cấp công
nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức. Nâng cao giác ngộ và bản
lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đặc biệt, trong Hội
nghị trung ương lần thứ sáu (2008), Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã
ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, nêu rõ:
“Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là vấn đề sống còn đối với Đảng và
chế độ; là mối quan tâm, mong đợi của giai cấp công nhân và toàn xã hội” và
“là yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế văn hóa, xã hội của nước ta trong
giai đoạn hiện nay”. Như vậy, trước những yêu cầu của thực tiễn, Đảng ta đã
có quan điểm toàn diện trong chỉ đạo chiến lược về xây dựng, phát triển và
phát huy vai trò của giai cấp công nhân. Đây chính là cơ sở để giai cấp công
nhân Việt Nam phát huy mạnh mẽ vai trò của mình đối với sự phát triển của
đất nước trong giai đoạn mới.
Bước sang thế kỷ XXI, khi mà xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa
diễn ra sâu rộng, khoa học kỹ thuật và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức, đã tạo ra nhiều cơ hội
nhưng cũng đầy thách thức đối với việc phát triển nền kinh tế- xã hội và công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều kiện khách quan này tác động

sâu sắc đến sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam. Do vậy, nhận thức
và làm rõ vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện hiện nay,
một mặt góp phần vào việc đánh giá đúng đắn thực trạng vai trò của giai cấp
công nhân, để có những chiến lược phù hợp phát huy vai trò của trò của giai
cấp công nhân, mặt khác lý giải những vấn đề mới nảy sinh về vai trò của giai
cấp công nhân trong điều kiện mới.

4
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhất là sau khi
các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực phản
động tăng cường tấn công vào học thuyết Mác- Lênin, phủ nhận vai trò sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chúng cho rằng, trong thời đại ngày
nay, khi mà nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ thì vai trò lịch sử của giai
cấp công nhân không còn nữa, thay vào đó là tầng lớp trí thức. Vì vậy, làm
sáng tỏ vai trò của giai cấp công nhân không chỉ là đòi hỏi trước mắt mà còn
là yêu cầu mang tính chiến lược trong thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là nội dung cơ bản của
chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng và của chủ nghĩa Mác nói chung, được
nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Trong những năm gần đây có nhiều công
trình nghiên cứu về giai cấp công nhân ở các góc độ khác nhau.
Để góp phần làm rõ hơn nữa vai trò của giai cấp công nhân trong công
cuộc đổi mới đất nước, tác giả chọn vấn đề “Vai trò của giai cấp công nhân
Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước”, làm đề tài luận văn tốt nghiệp
cao học của mình.
2. Tình hình nghiên liên quan đến đề tài
Trong nhiều công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân, đáng lưu ý là
những đề tài và tác phẩm được in ấn sau:
“Một số vấn đề về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”- PTS. Bùi
Đình Bôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; và “Giai cấp công nhân Việt

Nam mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”- PTS. Bùi Đình Bôn, Nxb Lao Động, Hà
Nội, 1997: Trên cơ cở làm rõ khái niệm, thực trạng, sự biến đổi cơ cấu giai cấp
công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tác giả khẳng định vai trò trung
tâm của giai cấp công nhân và đặt vấn đề xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam ngang tầm với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

5
“Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”- Hoàng Minh Chúc (Chủ biên), Nxb Lao Động, Hà
Nội, 1999: Tác phẩm tập hợp những bài viết của những nhà nghiên cứu về các
vấn đề xây dựng và phát triển giai cấp công nhân, về các chính sách xã hội
đối với giai cấp công nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng
cường bản chất và phát huy vai trò của giai cấp công nhân, thực trạng và một
số vấn đề đặt ra.
“Về thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”- Phạm Quang
Trung- Cao Văn Biền- Trần Đức Cường, Nxb Khoa học xã hội, 2001: Qua
thực tiễn khảo sát giai cấp công nhân các tác giả đã khái quát những nét cơ
bản, toàn diện về điều kiện sống, điều kiện làm việc, tâm tư tình cảm, nguyện
vọng của giai cấp công nhân, từ đó đánh giá những nét cơ bản nhất về giai cấp
công nhân Việt Nam hiện nay.
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển giai cấp công nhân”-
PGS. Cao Văn Lượng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001: Tác
phẩm khái quát một số vấn đề lý luận về giai cấp công nhân, sự phát triển và
biến đổi sâu sắc về mọi mặt của giai cấp công nhân dưới tác động của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực trạng của công nhân lao động ở nước ta hiện
nay cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu, những dự báo phát triển giai cấp công
nhân nước ta vào thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra
những chính sách và giải pháp xây dựng, củng cố và tăng cường vị trí của giai
cấp công nhân trong xã hội.
“Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm

đầu thế kỷ XXI”- Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2001:
Tác phẩm tập hợp những bài viết của các nhà nghiên cứu về giai cấp công
nhân: Đặc điểm, sự biến đổi cơ cấu giai cấp công nhân trong giai đoạn đầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các nhân tố khách quan và chủ quan tác động
đến xu hướng biến đổi giai cấp công nhân.

6
“Ý thức chính trị của công nhân trong một số doanh nghiệp ở Hà Nội
hiện nay”- PGS.TS Phan Thanh Khôi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003:
Tác giả phân tích ý thức chính trị của giai cấp công nhân và thực trạng ý thức
chính trị của công nhân. Từ đó tác giả đưa ra dự báo về xu hướng biến động ý
thức của công nhân cũng như các giải pháp nhằm nâng cao ý thức chính trị
của công nhân doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài ở Hà Nội hiện nay.
Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Giai cấp công nhân Việt Nam- khái niệm
và những đặc điểm cơ bản”- Hội đồng Lý luận Trung ương, Hà Nội, tháng
8/2007: Tác phẩm tổng hợp những bài viết của các nhà nghiên cứu xung
quanh vấn đề làm rõ khái niệm và những đặc điểm cơ bản của giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay, chỉ ra một số vấn đề về xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước.
“Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân- kinh tế tri thức và công nhân
tri thức”- GS. Văn Tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008: Tác giả đã
khái về nền kinh tế tri thức và giai cấp công nhân. Trên cơ sở đó đưa ra quan
điểm đổi mới tư duy về giai cấp công nhân Việt Nam. Tác giả khẳng định
công nhân tri thức là nhân tố mới trong giai cấp công nhân và đưa ra những
nhận thức mới về về giai cấp công nhân Việt Nam với kinh tế tri thức đầu
thế kỷ XXI.
“Về xu hướng công nhân hóa ở nước ta hiện nay”- TS. Nguyễn An
Ninh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008: Tác giả phân tích về hiện trạng
của giai cấp công nhân hiện nay: Sự phân tầng trong giai cấp công nhân, vấn

đề đình công trong công nhân, về một số nghịch lý xuất hiện trong quá trình
phát triển của giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa… từ đó tác giả đi sâu phân tích xu hướng công nhân hóa trong
thời kỳ đổi mới đất nước, coi đó như một quy luật và nêu ra các giải pháp

7
nhằm chủ động tích cực thúc đẩy xu hướng này cho phù hợp với mục tiêu
phát triển đất nước.
Đã có khá nhiều bài viết về giai cấp công nhân trên các tạp chí, trong
đó đáng lưu ý là các bài rất gần đây là: “Quan điểm mới về giai cấp công
nhân Việt Nam qua văn kiện Đại hội X của Đảng” của GS. Văn Tạo. Tạp chí
Cộng sản, Số 10, tháng 5/2006. tr.43; “Tư duy mới về giai cấp công nhân và
Đảng cộng sản” của Quang Cận, Tạp chí Cộng sản, Số 778, tháng 8/2007,
tr.40; “Xây dựng và phát triển toàn diện giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ
đổi mới” của Nguyễn Hòa Bình, Tạp chí Cộng sản, Số 778, tháng 8/2006,
tr.46; “Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất” Của GS.TS Trần Văn Chử, Tạp chí Lý luận chính trị,
tháng 9/2007, tr.53; “Quan niệm chung về vai trò của giai cấp công nhân Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” của PGS.TS Phan Thanh
Khôi, Tạp chí Lao động và Công đoàn, Số 390, tháng 10/2007 (kỳ 2), tr.6;
“Học thuyết Mác- Lênin về sản xuất công nghiệp hiện đại và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân” của PGS.TS Nguyễn Đức Bách, Tạp chí Lý luận
chính trị, tháng 11/2007, tr.3; “Suy nghĩ về giai cấp công nhân Việt Nam và
xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam” của GS.TS Nguyễn Văn Huyên, Tạp
chí Lý luận chính trị, tháng 11/2007, tr.72; “Giai cấp công nhân Việt Nam,
thực trạng và suy ngẫm” của Trương Giang Long, Tạp chí Cộng sản, số 782,
tháng 12/2007, tr.34…
Các tác giả của các bài tạp chí nêu trên, ở những khía cạnh khác nhau,
đã góp phần cho người đọc hiểu thêm một cách cụ thể về những đặc điểm,
thực trạng và vai trò của giai cấp công nhân trong công cuộc đổi mới đất nước

từ 1986 đến nay.
Ở các học viện, trường đại học, ngày càng có nhiều luận văn thạc sĩ và
luận án tiến sĩ nghiên cứu vấn đề giai cấp công nhân Việt Nam trong đó, có
những luận văn, luận án điển hình sau: “Xây dựng đội ngũ công nhân Thái

8
Bình đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh” của Lê Lan Anh,
Luận văn Thạc sĩ khoa học Triết học, Hà Nội, 2006; “Vấn đề đình công của
công nhân ở nước ta hiện nay” của Phạm Thị Xuân Hương, Luận án tiến sĩ
triết học, Hà Nội 2001; “Xây dựng kỷ luật lao động của công nhân- một
nhiệm vụ quan trọng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của Ngô
Minh Khang, Luận án PTS Triết học, Hà Nội, 1989; “Giai cấp công nhân Việt
Nam- vai trò và xu hướng biến động về cơ cấu trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” của Bùi Đình Bôn, Luận án PTS Triết học, Hà Nội 1991; “Sự
phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam- vai trò của nó trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Trần Ngọc Sơn, Luận án tiến sĩ Triết học,
Hà Nội, 2001; “Tích cực hóa nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân Việt
Nam thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình” của Trần Thị Bích
Liên, Luận án tiến sĩ Triết học, 2001…
Các luận văn, luận án trên đều có phần lý luận chung về giai cấp công
nhân và liên hệ với thực tiễn công nhân nước ta ở những phạm vi tương ứng
mà đề tài quan tâm. Qua đó người đọc hiểu sâu sắc hơn về giai cấp công nhân
thế giới và nhất là công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Những công trình nghiên cứu và những bài viết trên được tác giả kế
thừa và vận dụng trong quá trình thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích: Luận văn làm rõ vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước, từ đó
đề xuất những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của giai cấp này trong

giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ: Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau:

9
+ Tình hình chung về giai cấp công nhân Việt Nam và nhận thức chung
về vai trò của giai cấp này trong công cuộc đổi mới.
+ Đánh giá thực trạng vai trò giai cấp công nhân Việt Nam trong công
cuộc đổi mới đất nước.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn chủ yếu nghiên cứu vai trò của
giai cấp công nhân nói chung trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa-
xã hội, bảo vệ Tổ quốc và an ninh quốc phòng.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu vai trò của giai cấp công nhân công
nghiệp trong công cuộc đổi mới (từ 1986 đến nay).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chính sách của Đảng và
Nhà nước về giai cấp công nhân và những vấn đề liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được tiến hành trên cơ sở
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp lôgíc và lịch
sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, các phương pháp cụ thể khác.
6. Đóng góp mới của đề tài
- Luận văn làm rõ vai trò của giai cấp công nhân nước ta trên các lĩnh
vực: chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh, quốc phòng trong công cuộc đổi mới
đất nước.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của giai cấp
công nhân Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài


10
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm luận cứ khoa học cho việc
xây dựng chính sách đối với giai cấp công nhân Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc giảng dạy và nghiên cứu các chuyên đề liên quan ở các trường đại học và
cao đẳng.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài gồm 3 chương, 8 tiết.

11
Chƣơng 1
TÌNH HÌNH CHUNG VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
VÀ QUAN NIỆM VỀ VAI TRÕ CỦA GIAI CẤP NÀY TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƢỚC

1.1. TÌNH HÌNH CHUNG VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
Từ nửa đầu thế kỷ XIX, với hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, một lực lượng xã hội mới được hình thành trong lòng xã hội Việt Nam,
đó là giai cấp công nhân. Với tư cách là một giai cấp trong xã hội, giai cấp
công nhân Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt mới trong tiến trình phát
triển của lịch sử dân tộc. Đặc biệt, từ khi có Đảng ra đời, giai cấp công nhân
Việt Nam thông qua Đảng Cộng sản đã lãnh đạo cách mạng giành được
những thắng lợi vẻ vang, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên
của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế, giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh và ngày càng phát huy
vai trò to lớn của mình. Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam, như Văn kiện

Hội nghị Trung ương sáu khóa X, xác định là "một lực lượng xã hội to lớn,
đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công
hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp,
hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [20, tr.43].
Tình hình chung của lực lượng xã hội này được nhận diện từ các mặt cơ bản
sau đây:
Về số lượng, từ Đại hội VIII (1996) Đảng và Nhà nước khẳng định,
nước ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn
đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, tạo
điều kiện cho các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ công nghiệp phát
triển mạnh mẽ, là cơ sở để giai cấp công nhân tăng lên không ngừng. Nếu như

12
năm 1986 số lượng công nhân là 4.288.000 người, sau mười năm đổi mới
tăng lên 4.516.900 người, đến năm 2000 đã tăng lên 6.104.000 người, đến
năm 2005 là 8.889.000 người, năm 2007 là 9,5 triệu người [31, tr.40].
Điều đó cho thấy, từ khi thực hiện đường lối đổi mới cho đến nay, số
lượng công nhân tăng lên không ngừng, chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong lực
lượng lao động xã hội (21% năm 2007). Số lượng công nhân tăng lên vượt
bậc, tạo điều kiện để giai cấp công nhân nâng cao vị trí, vai trò của mình
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Tuy vậy, số lượng công nhân nước ta còn rất ít, còn xa mới đạt đến tiêu
chí của một nước công nghiệp. Do vậy từ nay đến năm 2020, chúng ta phấn
đấu hoàn thành sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để nước ta
cơ bản trở thành một quốc gia công nghiệp, trong đó cơ cấu lao động công
nhân chiếm khoảng 70%.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, cùng với sự tăng lên về số lượng,
chất lượng của giai cấp công nhân cũng không ngừng phát triển, từng bước
đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Chất lượng của giai cấp công nhân được thể

hiện trên những điểm chủ yếu sau:
Đảng và Nhà nước coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, không ngừng
quan tâm và tăng cường đầu tư cho giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhờ đó trình độ học vấn của công nhân được nâng lên một
bước. Theo số liệu, tỷ lệ công nhân có học vấn phổ thông trung học năm 1985
là 42,5%, đến năm 2000, tỷ lệ này là 62,2% và hiện nay là 69,3% [2, tr.11].
Cùng với những chuyển biến tích cực đó, tỷ lệ công nhân không biết chữ và
chưa tốt nghiệp cấp I giảm đi. Nếu như năm 1996 tỷ lệ này là 5,1%, thì năm
2005 giảm còn 3,5%. Tỷ lệ công nhân lao động tốt nghiệp cấp III tăng lên,
năm 1996 là 56%, đến năm 2005 tăng lên 82,4%. Số công nhân tốt nghiệp cao

13
đẳng, đại học cũng không ngừng tăng lên và ra nhập ngày càng đông đảo vào
giai cấp công nhân.
Trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật của giai cấp công nhân cũng
không ngừng được nâng cao. Số công nhân chưa qua đào tạo giảm từ 46,7%
năm 1996, xuống còn 25,1% năm 2005. Trong khi công nhân kỹ thuật được
đào tạo có bằng cấp tăng từ 8,41% năm 1996, lên 11,83% năm 2005. Chỉ tính
riêng công tác dạy nghề giai đoạn 2001-2006 đã đào tạo cho khoảng 6,6 triệu
người, tăng bình quân hàng năm là 6,5%. Trong đó dạy nghề dài hạn đạt 1,14
triệu người, tăng bình quân 15%/năm; riêng năm 2006 là 260 ngàn người,
tăng 2 lần so với năm 2001. Quy mô dạy nghề trong những năm qua tăng
nhanh, do vậy, tỷ lệ công nhân lao động qua đào tạo nghề từ 13,4% năm
2001, tăng lên khoảng 20% năm 2006 [31, tr.146].
Hiện nay, trình độ chuyên môn nghề nghiệp của công nhân trong các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, có trình độ cao đẳng, đại học trở
lên khoảng 19,1%, công nhân chưa qua đào tạo khoảng 17%. Công ty cổ phần
có tỷ lệ công nhân có trình độ chuyên môn, nghề nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất,
khoảng 27,9%, doanh nghiệp nhà nước là 24,3%, hợp tác xã là 20%, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 14,3%. Công nhân trong các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa qua đào tạo nghề chiếm tỷ lệ cao nhất
(30,6%), sau đó là hợp tác xã (18,2%). Công nhân ngành thương mại, dịch vụ
có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất (31,5%), sau đó là
ngành xây dựng, giao thông - vận tải (28,2%) thấp nhất là ngành dệt may,
giầy da (9,4%). Xét theo giới tính, nam giới có trình độ cao đẳng, đại học cao
hơn nữ giới (nam: 22,2%, nữ: 17%). Xét theo độ tuổi, công nhân ở độ tuổi 30-
40 có trình độ đào tạo chiếm tỷ lệ cao hơn các độ tuổi khác. Số chưa qua đào
tạo nghề hoặc có trình độ đào tạo thấp tập trung độ tuổi dưới 30 [3, tr.7].

14
Ngoài ra, cùng với sự phát triển của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, đã phát triển nhiều ngành công nghiệp mũi
nhọn và các ngành công nghiệp hiện đại, đưa đến sự ra đời của bộ phận công
nhân tri thức. Bộ phận này đang ngày càng lớn mạnh, trở thành hạt nhân của
giai cấp công nhân Việt Nam, giữ vai trò quan trọng đối với sự nghiệp đổi
mới và phát triển kinh tế- xã hội đất nước.
Như vậy, trình độ học vấn, trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật của
giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đang được nâng lên, là nhân tố quan
trọng để giai cấp công nhân nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của mình
đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thời dần đáp
ứng yêu cầu cấp thiết của công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề của công nhân còn
nhiều bất cập, mất cân đối. Bộ phận công nhân có trình độ tay nghề cao tập
trung chủ yếu ở các trung tâm công nghiệp lớn, ở các ngành công nghiệp mũi
nhọn. Trong khi ở các tỉnh thành xa trung tâm, các ngành công nghiệp như dệt
may, giầy da, lâm nghiệp, chế biến nông, lâm, thủy sản lại thiếu nghiêm
trọng bộ phân công nhân này. Và ngay cả ở những trung tâm công nghiệp lớn,
những nghành công nghiệp mũi nhọn cũng đang thiếu trầm trọng bộ phận
công nhân lành nghề, có trình độ. Số công nhân làm không đúng với ngành

nghề tương đối cao (khoảng 75.8%) là sự lãng phí về nguồn nhân lực và hạn
chế phát huy khả năng cũng như lòng say mê nghề nghiệp của công nhân.
Cùng với sự phát triển của đất nước, tính giác ngộ giai cấp và ý thức
chính trị của giai cấp công nhân từng bước được nâng lên. Công nhân ngày
càng nhận thức sâu sắc hơn về vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình đối với
công cuộc đổi mới đất nước, đối với sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Công nhân nhận thức ngày

15
càng sâu sắc hơn về các vấn đề chính trị- xã hội. Họ không chỉ quan tâm đến
việc làm, thu nhập mà đã quan tâm cả đến những định hướng, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước. Một bộ phận công nhân có trình độ hiểu
biết sâu rộng, đã tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức chính trị- xã
hội, tham gia vào phản biện các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Theo số liệu, có tới 91,4% công nhân khẳng định quan tâm tới các vấn đề
chính trị- xã hội ở địa phương; 87,4% công nhân cho rằng “vị trí của giai cấp
công nhân là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”; 89% công nhân cho rằng Công đoàn là tổ chức chính trị- xã hội có
chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công
nhân. Có 68,8% công nhân được giới thiệu bộ Luật Lao động; 49,9% công
nhân được giới thiệu Luật Công đoàn; 34,1% công nhân được giới thiệu Luật
Doanh nghiệp [3, tr.13].
Nhìn chung, sự giác ngộ giai cấp, ý thức chính trị và hiểu biết pháp luật
của giai cấp công nhân có những bước chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, dưới
tác động của mặt trái kinh tế thị trường; sự phân hóa về lao động giữa các khu
vực kinh tế, giữa các vùng miền trong cả nước, giữa các khu công nghiệp, khu
chế xuất trọng điểm với các khu công nghiệp, khu chế xuất lân cận…dẫn đến
sự không đồng đều về trình độ nhận thức xã hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh
chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Do đó, cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến việc phát huy vai trò, tính tiên phong của giai cấp Việt Nam

trong công cuộc đổi mới đất nước.
Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế là môi trường thuận lợi cho công nhân lao động, làm việc, rèn luyện tính tổ
chức, kỷ luật, tính lao động tập thể, khả năng hợp tác, liên kết và phối hợp
hoạt động cao. Song, nước ta đang trong quá trình phát triển công nghiệp theo
hướng hiện đại, nền công nghiệp còn có sự phân hóa ở nhiều trình độ khác
nhau. Thêm vào đó, công nhân nhiều thế hệ ở nước ta còn ít, lại xuất thân chủ

16
yếu từ nông dân, nên mang nặng tâm lý tiểu nông, phường hội, đồng thời lao
động mang tính thời vụ, mức độ thay đổi việc làm, luân chuyển nghề cao…
Tất cả làm hạn chế tính tổ chức, kỷ luật và tác phong công nghiệp của công
nhân. Theo số liệu, chỉ có 33.8% số ý kiến cho rằng, công nhân trong doanh
nghiệp có ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp “tốt”, 33,5% cho là
“khá”, 26,2% cho là trung bình [3, tr.14]. Với tình hình này, việc nâng cao ý
thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp là yêu cầu quan trọng góp phần
cho giai cấp công nhân Việt Nam nâng cao hơn nữa vai trò của mình trong
sản xuất và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Cơ cấu của giai cấp công nhân Việt Nam khá đa dạng và vẫn luôn có sự
biến đổi. Thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, cho nên bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước,
các thành phần kinh tế khác cũng được tạo điều kiện, khuyến khích phát triển.
Sự đa dạng về cơ cấu thành phần kinh tế, kéo theo sự đa dạng về cơ cấu giai
cấp công nhân. Việc tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, do đó,
cơ cấu công nhân theo thành phần kinh tế có những biến động nhất định. Nếu
như năm 1986, công nhân làm việc trong các cơ sở sản xuất công nghiệp và
dịch vụ công nghiệp thuộc khu vực nhà nước là 1,65 triệu người (bằng
38,37%), trong tổng số gần 4,3 triệu công nhân. Đến năm 2000 giảm còn 1,46
triệu người (bằng 23,9%), trong tổng số 6,10 triệu công nhân. Đến năm 2005

là 1,61 triệu người (bằng 18,1%), trong tổng số 8,89 triệu công nhân. Trong
khi đó, công nhân làm việc trong thành phần kinh tế tư nhân, tập thể có xu
hướng tăng lên. Năm 1986 có khoảng 1 triệu người (bằng 3,25%), đến năm
2000 tăng lên 4,41 triệu người (bằng 72,3%), tỷ lệ này tiếp tục tăng lên 6,59
triệu người (bằng 74,2%) vào năm 2005, đến đầu năm 2007 tăng khoảng 9,16
triệu người. Công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
cũng không ngừng tăng lên: Năm 1986, khu vực này mới chỉ thu hút khoảng

17
100.000 công nhân lao động trực tiếp, chiếm tỷ lệ chưa đáng kể, đến năm
2000 tăng lên 266 800 công nhân (bằng 3,8%), năm 2005 là 676 100 công
nhân (bằng 7,8%), đến đầu năm 2007 có khoảng 1,4 triệu công nhân
[31, tr.41; 2, tr.10].
Như vậy, công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước có xu hướng
giảm về tỷ lệ trong cơ cấu giai cấp công nhân, nhưng đây vẫn là lực lượng
chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong khi đó, công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân, tập thể, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài không ngừng tăng lên cả về số lượng tuyệt đối và tỷ
lệ trong cơ cấu giai cấp công nhân, lực lượng này đang đóng góp ngày càng
nhiều trong nền kinh tế quốc dân.
Cùng với quá trình thực hiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân ngày
càng đa dạng và có sự chuyển biến quan trọng. Công nhân không chỉ hoạt
động trong các ngành công nghiệp nặng (cơ khí, khai mỏ, luyện kim), xây
dựng và dịch vụ, mà cả trong các ngành công nghiệp nhẹ, ngành nông- lâm-
ngư nghiệp; không chỉ hoạt động trong các ngành công nghiệp truyền thống
mà cả trong các ngành công nghiệp hiện đại như điện tử, tin học, các ngành tự
động hóa… tạo nên sự đa dạng về cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang có sự chuyển biến theo hướng hiện
đại, kéo theo sự chuyển biến trong ngành nghề của giai cấp công nhân. Nhìn

về tổng thể, khu vực kinh tế thuộc các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch
vụ, các ngành sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp chiếm
tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, các ngành nông- lâm- ngư nghiệp
giảm dần. Theo số liệu, công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp
chiếm 44,8%, xây dựng chiếm 9,78%, thương mại, khách sạn, nhà hàng
chiếm 29,46%, vận tải chiếm 6,69%, các ngành khác chiếm 9,24% [2, tr.10].

18
Sự chuyển biến ngành nghề còn được bộc lộ ngay trong nội bộ của
từng ngành, như ngành công nghiệp, nếu trước thời kỳ đổi mới, lực lượng lao
động tập trung chủ yếu trong các ngành công nghiệp truyền thống như: luyện
kim, cơ khí, khai mỏ… thì nay số lao động trong các ngành này tăng chậm,
thậm chí là giảm đi như ngành khai mỏ giảm từ 264.000 người (1990) xuống
còn 147.000 người (2005). Trong khi đó, các ngành như công nghiệp chế
biến, giao thông vận tải, thông tin liên lạc lại thu hút một lực lượng lớn lao
động vào làm việc và không ngừng tăng lên. Ví dụ, trong ngành công nghiệp
chế biến, năm 1992 có 2 triệu người, thì đến năm 2005 đã tăng lên 5 triệu
người. Cũng trong khoảng thời gian này công nhân ngành công nghiệp tăng từ
67.000 người lên 2,1 triệu người. Công nhân ngành giao thông vận tải, thông
tin liên lạc tăng từ 625.000 người lên 1,5 triệu người [31, tr.41-42]. Điều đó
cho thấy, lực lượng lao động đang có sự chuyển dịch từ những ngành công
nghiệp truyền thống sang những ngành công nghiệp đáp ứng nhu cầu của thị
trường, tạo ra sự đa dạng trong ngành nghề của giai cấp công nhân.
Bên cạnh các vùng kinh tế trọng điểm lâu năm như Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…, đến nay đã hình thành thêm những trung tâm kinh
tế mới, những khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao năng động
như: khu công nghiệp Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu, Dung Quất, Láng
Hòa Lạc… đã thu hút lực lượng lớn công nhân, lao động làm việc.
Ngoài ra, với chủ trương phát triển mạng lưới công nghiệp rộng khắp
trong cả nước, nhằm rút ngắn khoảng cách kinh tế và nhằm khai thác thế

mạnh của từng vùng miền, nhiều trung tâm kinh tế, trung tâm công nghiệp,
các khu chế xuất vừa và nhỏ hình thành và phát triển, đã giải quyết việc làm
tại chỗ cho nhiều lao động. Tuy nhiên, qua 20 năm đổi mới, nhìn chung sự
phân bố các ngành công nghiệp ở nước ta chưa đồng đều, chưa rộng khắp.
Chủ yếu tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm, những nơi có điều kiện
thuận lợi về địa lý, giao thông, trong khi những vùng miền xa trung tâm chưa

19
thực sự thu hút được các dự án lớn, còn ít các khu công nghiệp, khu chế
xuất… Điều này kéo theo tình trạng phân bố không đồng đều công nhân lao
động giữa các vùng miền, giữa các vùng trung tâm và xa trung tâm, vùng núi,
biên giới, hải đảo.
Nhìn chung, công nhân nước ta tuổi đời tương đối trẻ, năng động, trong
đó, công nhân từ 18 đến 30 tuổi chiếm 48,9%, số công nhân trên 50 tuổi chỉ
khoảng 4,8%. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có số lượng công
nhân tuổi đời trẻ (từ 18 đến 30 tuổi) chiếm tỷ lệ cao nhất với 74,4%, trong khi
chỉ có khoảng 2% có tuổi đời trên 50 [2, tr.11].
Cơ cấu tuổi nghề của công nhân nước ta tương đồng với cơ cấu tuổi
đời, với 54,7% công nhân có số năm làm việc dưới 5 năm (tỷ lệ này ở doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 72,7%, trong doanh nghiệp tư nhân là
69,4%, trong doanh nghiệp ngành nông- lâm- thủy sản là 55,6%), khoảng
10.8% công nhân có thâm niên làm việc dưới 1 năm và chỉ có 9,7% công
nhân có thời gian làm việc trên 20 năm, số này tập trung chủ yếu ở doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa [2, tr.11; 3, tr.8].
Như vậy, cơ cấu tuổi đời, tuổi nghề công nhân nước ta còn trẻ, một
mặt cho thấy, thời gian họ ra nhập vào giai cấp công nhân còn ngắn, chưa
được tôi luyện nhiều trong phong trào công nhân, và nếu không được quan
tâm giáo dục, rèn luyện thì họ dễ bị lôi cuốn bởi mặt trái kinh tế thị trường.
Mặt khác, cũng cho thấy, họ tham gia vào giai cấp công nhân chủ yếu trong
thời kỳ đổi mới, không bị ảnh hưởng của cơ chế cũ, do vậy, nhìn chung họ

năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và việc tiếp cận
với khoa học công nghệ hiện đại. Đây là một trong những ưu điểm của giai
cấp công nhân nước ta hiện nay cần được phát huy đầy đủ, góp phần vào
phát triển kinh tế đất nước.

20
Với việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, kéo theo quan hệ giữa
người lao động và người sử dụng lao động có những thay đổi nhất định, điều
này được phản ánh rõ nhất trong vấn đề tuyển dụng, đào tạo và ký kết hợp
đồng lao động. Hiện nay, việc tuyển dụng, đào tạo công nhân còn nhiều hạn
chế. Theo số liệu, chỉ có khoảng 10% công nhân được tuyển dụng thông qua
các cơ quan tuyển dụng. Công tác đào tạo, đào tạo lại công nhân cũng không
sáng sủa hơn. Nhà nước chưa có sự quan tâm đúng mức đến công tác đào tạo
công nhân. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gần như không có sự quan tâm đến vấn đề
này. Bởi vậy, chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn nhiều bất cập, chưa tạo
ra được nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế.
Về hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, theo số liệu, có
95,4% công nhân trong doanh nghiệp nhà nước được ký hợp đồng lao động,
có 41,7% công nhân trong doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được ký hợp đồng
lao động không xác định thời hạn và có thời hạn từ 1-3 năm, tỷ lệ này là
30,7% công nhân trong hợp tác xã và 37,3% công nhân trong doanh nghiệp tư
nhân. Về thỏa ước lao động tập thể, có khoảng 7,9% công nhân không biết
doanh nghiệp mình có hay chưa có thỏa ước lao động tập thể; chỉ có 76,3%
công nhân biết doanh nghiệp mình có ký thỏa ước lao động tập thể hay
không. Có tới 12,1% công nhân trong doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, 11,5%
công nhân trong hợp tác xã không biết doanh nghiệp có hay chưa có thỏa ước
lao động tập thể [3, tr.9]. Việc ký kết hợp đồng lao động không được thực

hiện triệt để kéo theo quyền lợi của người công nhân, người lao động không
được đảm bảo, cũng như quan hệ giữa công nhân và người sử dụng lao động
có những diễn biến phức tạp.

21
Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiện đại
đã giải quyết nhu cầu việc làm của khối lượng lớn công nhân, lao động, góp
phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp trong xã hội. Tuy
nhiên, về lâu dài, tính chất ổn định của việc làm chưa cao. Theo số liệu, chỉ có
83% công nhân trong các loại hình doanh nghiệp đang có việc làm ổn định.
Tỷ lệ này cao nhất ở doanh nghiệp nhà nước với 87,6% và thấp nhất là doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với 73,8%; có tới 14,7% công nhân thường
xuyên thiếu việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định. Tỷ lệ này ở
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 20%, doanh nghiệp nhà nước là
10,7%, doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa là 9,3%, doanh nghiệp tư nhân
là 17,1% và hợp tác xã là 14,4% [3, tr.8]. Với số liệu trên cho thấy, chỉ có
công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước đã cổ
phần hóa là có việc làm tương đối ổn định. Còn công nhân làm việc trong các
loại hình doanh nghiệp khác, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
thường bấp bênh, không ổn định. Điều này tác động không nhỏ đến đời sống
mọi mặt người công nhân như thu nhập, tỉnh cảm giai cấp, ý thức chính trị,
tâm lý vô sản
Bên cạnh đó, công nhân có việc làm nhưng số công nhân làm việc
chưa đúng với chuyên môn đào tạo còn cao. Theo số liệu có 26,3% công nhân
trong các loại hình doanh nghiệp làm việc không đúng hoặc gần đúng với
chuyên môn được đào tạo. Có 64,6% công nhân làm việc đúng với chuyên
môn được đào tạo, tỷ lệ này ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là
33,9%, doanh nghiệp tư nhân là 26,6%, hợp tác xã là 26,1%, doanh nghiệp
nhà nước là 25,6% và doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa là 20,7% [3,
tr.8]. Công nhân làm việc không đúng với chuyên môn được đào tạo có ảnh

hưởng không nhỏ đến năng suất, chất lượng công việc cũng như lòng yêu
nghề, gắn bó với nghề nghiệp của mỗi công nhân.

22
Qua hơn 20 năm đổi mới, đời sống của công nhân đã và đang được
nâng lên. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, đời sống công nhân còn nhiều
khó khăn, điển hình là vấn đề thu nhập và nhà ở. Tiền lương của công nhân
hiện nay đã được tăng lên so với trước, nhờ việc Nhà nước điều chỉnh tiền
lương tối thiểu, song vẫn còn thấp so với mặt bằng chung của xã hội, nhất là
bộ phận công nhân trực tiếp đứng máy. Theo số liệu, có 1,3% công nhân có
mức thu nhập dưới 300 nghìn đồng/tháng, 4% có mức thu nhập từ 300 nghìn
đến 600 nghìn đồng/tháng, 12,5% có mức thu nhập từ 600 nghìn đến dưới 800
nghìn đồng/tháng. Chỉ có 23,8% công nhân có mức thu nhập trên 1,5 triệu
đồng/tháng [3, tr.10]. Với tiền lương như vậy, có tới 42,8% công nhân khẳng
định mức thu nhập hiện nay không đủ sống, không đảm bảo mức chi trung
bình tối thiểu cho bản thân và gia đình họ.
Vấn đề nhà ở của công nhân cũng còn nhiều bất cập. Cùng với quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mạng lưới các khu công
nghiệp, khu chế xuất được mở rộng và phát triển mạnh mẽ, trong khi đó,
việc quy hoạch và xây dựng nhà ở cho công nhân chưa được quan tâm
đúng mức, công nhân thiếu nhà ở trầm trọng. Theo số liệu chỉ có khoảng từ
6%- 8% công nhân được thuê nhà do Nhà nước, doanh nghiệp xây dựng,
30,3% công nhân đi thuê nhà trọ trong các khu dân cư, phải sống trong
những khu trọ chật hẹp, đông đúc, không đảm bảo vệ sinh. Với điều kiện
sống này, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của công nhân và là nguyên
nhân nảy sinh các tệ nạn xã hội.
Nhìn chung, hoạt động của các tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh
niên trong các doanh nghiệp có những đổi mới về nội dung và hình thức hoạt
động. Việc thành lập các tổ chức này trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, được Đảng và Nhà nước quan tâm ở mức độ nhất định. Song, so

với yêu cầu của thực tiễn, mạng lưới các tổ chức này còn mỏng. Hiện nay, có
khoảng 49% doanh nghiệp đã có Đảng bộ, chi bộ, 83,5% doanh nghiệp đã

×