Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Đời sống , việc làm của lao động di cư từ nông thôn tới khu công nghiệp (nghiên cứu tại khu công nghiệp Sông Công, thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 128 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ LOAN



ĐỜI SỐNG, VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG DI CƯ TỪ
NÔNG THÔN TỚI KHU CÔNG NGHIỆP
(Nghiên cứu tại khu công nghiệp Sông Công, Thị Xã Sông Công,
Tỉnh Thái Nguyên)



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Xã hội học






Hà Nội - 2013




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ LOAN



ĐỜI SỐNG, VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG DI CƯ TỪ
NÔNG THÔN TỚI KHU CÔNG NGHIỆP
(Nghiên cứu tại khu công nghiệp Sông Công, Thị Xã Sông Công,
Tỉnh Thái Nguyên)



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xã hội học
Mã số: 60 31 30




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Thu Hà



Hà Nội – 2013


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 3
3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 3
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu 18
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 19
6. Câu hỏi nghiên cứu 20
7. Giả thuyết nghiên cứu và khung phân tích 20
8. Phương pháp nghiên cứu 22
9. Cấu trúc của luận văn 24
NỘI DUNG 25
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 25
1.1. Các khái niệm 25
1.1.1. Đời sống 25
1.1.2. Lao động 26
1.1.3. Việc làm 27
1.1.4. Di cư 27
1.1.5. Lao động di cư 28
1.1.6. Nông thôn 29
1.1.7. Khu công nghiệp 30
1.2. Các lý thuyết áp dụng 31
1.2.1. Lý thuyết mạng lưới xã hội 31
1.2.2. Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý 33
1.2.3. Lý thuyết lực “đẩy – hút” 34
1.3. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 36



Chƣơng 2 THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG DI CƢ TỪ
NÔNG THÔN TỚI KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG, TỈNH
THÁI NGUYÊN 41
2.1. Tình trạng việc làm ở nông thôn, trƣớc khi di cƣ 42
2.2. Đặc điểm công việc hiện tại 45
2.2.1. Số giờ làm việc trung bình mỗi tuần 45
2.2.2. Việc học thêm kỹ năng/nghiệp vụ để làm quen với công việc 47
2.2.3. Tính chất công việc 49
2.2.4. Thu nhập và sử dụng thu nhập 52
2.2.5. Vấn đề hợp đồng lao động 56
2.2.6. Tham gia các loại bảo hiểm 59
2.3. So sánh chung về công việc hiện tại với công việc ở nông thôn trƣớc
khi di cƣ 61
2.4. Dự định về mức độ gắn bó của ngƣời lao động đối với công
việc hiện tại 64
2.5. Khác biệt trong sử dụng lao động thƣờng trú và lao động di cƣ
trong doanh nghiệp 69
Chƣơng 3 THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG CỦA LAO ĐỘNG DI CƢ TỪ
NÔNG THÔN TỚI KHU CÔNG NGHIỆP SÔNG CÔNG, TỈNH
THÁI NGUYÊN 72
3.1. Đời sống vật chất 72
3.1.1. Điều kiện nhà ở 73
3.1.2. Chi tiêu 78
3.1.3. Vấn đề chăm sóc về y tế 81
3.1.4. Vấn đề ô nhiễm môi trường 83
3.2. Đời sống tinh thần 84
3.2.1. Tiếp cận giáo dục của con em người di cư 85
3.2.2. Tình hình an ninh trật tự tại địa phương 86
3.2.3. Tham gia các hoạt động cộng đồng 88

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT
Từ viết tắt
Từ đầy đủ
1
ADB
Ngân hàng phát triển Châu Á
2
BHXH
Bảo hiểm xã hội
3
BHYT
Bảo hiểm y tế
4
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
5
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
6
KCN
Khu công nghiệp
7
KCX

Khu chế xuất
8
UNDP
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
9
UNFPA
Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc
10
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới








DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Tình trạng việc làm ở nông thôn trước khi di cư của NTL 43
Biểu đồ 2.2: Việc học thêm kỹ năng, nghiệp vụ để làm quen với công việc
hiện tại của NTL 48
Biểu đồ 2.3: Tính chất công việc hiện tại của NTL 50
Biểu đồ 2.4: Những nguồn thu nhập thông thường hàng tháng người lao động
di cư nhận được 53
Biểu đồ 2.5: Thực trạng tham gia các loại bảo hiểm 60
Biểu đồ 2.6: Ý định gắn bó với công việc hiện tại của người lao động 65
Biểu đồ 3.1: Loại hình nhà ở của NTL 73
Biểu đồ 3.2: Tình trạng sở hữu nhà 74

Biểu đồ 3.3: Tình trạng nhà bếp của lao động di cư 76
Biểu đồ 3.4: Tình trạng nhà vệ sinh của lao động di cư 77
Biểu đồ 3.5: Cách điều trị của lao động di cư khi bị đau ốm 81
Biểu đồ 3.6: Vấn đề ô nhiễm môi trường 84
Biểu đồ 3.7: Tình hình an ninh trật tự tại địa phương 87


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Cơ cấu mẫu khảo sát 23
Bảng 2.1: So sánh công việc hiện tại với công việc ở nông thôn trước khi di cư 62
Bảng 2.2: Cách thức sử dụng các khoản thu nhập của NTL 55
Bảng 2.3: Việc ký hợp đồng lao động theo giới tính của NTL 57
Bảng 2.4: Ý định gắn bó lâu dài với công việc hiện tại của NTL theo giới tính 66
Bảng 2.5: Lý do muốn/không muốn gắn bó với công việc hiện tại 67
Bảng 2.6: So sánh lao động thường trú với lao động di cư trong doanh nghiệp 70
Bảng 3.1: Người ở cùng nhà của lao động di cư từ nông thôn tới KCN Sông Công 75
Bảng 3.2: Một số khoản chi của lao động di cư từ nông thôn tới KCN Sông Công 79
Bảng 3.3: Nơi khám chữa bệnh của NTL 82










1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Gần 30 năm sau đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trên
hầu hết các lĩnh vực và đang phấn đấu đến năm 2020 sẽ trở thành một nước
công nghiệp hiện đại. Sự biến đổi này diễn ra với tốc độ mạnh mẽ và có thể
dễ dàng nhận thấy thay đổi đó chính là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thay vì
trước đây là một nước nông nghiệp lạc hậu, Việt Nam đã chú trọng phát triển
công nghiệp và dịch vụ. Cùng với sự thúc đẩy về công nghiệp và quá trình
công nghiệp hóa đã tạo ra việc làm dồi dào và năng suất cao trong lao động,
góp phần giải quyết nạn thất nghiệp ở Việt Nam. Sự dịch chuyển các dòng lao
động giữa các địa phương, vùng miền góp phần điều tiết lao động giữa các
khu vực.
Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy trong giai
đoạn từ năm 2004 đến năm 2009 có 6,6 triệu người (tương đương với khoảng
7,7% dân số) từ 5 tuổi trở lên thay đổi nơi cư trú tới địa điểm khác. Con số
này thể hiện sự gia tăng đáng kể so với 4,5 triệu người di cư trong nước ghi
nhận từ cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999 [13].
Đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) kể từ năm 2007, có sự sự bùng nổ về hoạt động thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài, cùng với đó là sự phát triển chóng mặt của hệ thống các khu
công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) ở Việt Nam. Cả nước hiện có 283
KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 76.000 ha, trong đó diện
tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt gần 46.000 ha, chiếm khoảng 61%
tổng diện tích đất tự nhiên. Các KCN được thành lập trên 58 tỉnh, thành phố
trên cả nước. Đến cuối tháng 12/2011, trong số 283 KCN đã thành lập, có 180
KCN đã đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư kết cấu hạ tầng đăng ký là 5,3



2
tỷ USD, vốn thực hiện đạt gần 3,2 tỷ USD; còn lại 103 KCN đang trong giai

đoạn đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản [56]. Riêng trong năm
2011, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đăng ký vào các KCN, KCX
đạt 6,47 tỷ USD; tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 7,28 tỷ USD; tương đương
44% và 67% tổng vốn FDI đăng ký và thực hiện được của cả nước trong năm 2011.
Cùng với sự phát triển của hệ thống các KCN là quá trình dịch chuyển
lao động và các dòng di cư từ nông thôn tới các KCN. Lao động di cư đến các
KCN – nơi có nhiều cơ hội việc làm, chẳng hạn như thành phố Hồ Chí Minh
với tỷ suất di cư thuần (tỷ số của tổng số người nhập cư trừ đi tổng số người
di cư trên tổng số dân địa phương) là 116%, Đà Nẵng là 77,9%, Đồng Nai là
64,4% và Hà Nội là 50%. Đsặc biệt nhất là tỉnh Bình Dương với tỷ suất di cư
thuần lên tới 341,7% do có một số lượng lớn các KCN đóng ở đây [12].
Sự dịch chuyển của người lao động nhằm đáp ứng nhu cầu lao động
trong các KCN và các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời, đóng góp
vào sự phát triển kinh tế gia đình của số lượng lớn các gia đình có người di cư
thể hiện ở số tiền gửi về. Bên cạnh những tác động không thể phủ nhận, thì
quá trình chuyển dịch lao động từ nông thôn tới các KCN tại Việt Nam
khoảng 5 năm trở lại đây bộc lộ rất nhiều vấn đề xã hội đáng quan tâm. Mặc
dù các khu vực này phát triển nhanh chóng, nhưng quy hoạch cho các khu
vực này lại chưa có sự phối hợp giữa các bộ ngành của Chính phủ, các đơn vị
chịu trách nhiệm chuẩn bị và thực thi kế hoạch đồng thời chưa có sự phối hợp
với các chủ thể của khu vực tư nhân. Kết quả là các kế hoạch được soạn thảo
thiếu đi các nỗ lực đồng bộ nhằm đảm bảo đầy đủ nhà ở an toàn cho công
nhân làm việc trong các nhà máy, không đảm bảo đủ các điều dịch vụ y tế và
không có các địa điểm cho công nhân vui chơi Do vậy, cần phải thay đổi,
hoàn thiện hơn nữa các chính sách đối với lao động di cư từ nông thôn tới các
KCN. Việc tìm hiểu đời sống, việc làm của lao động di cư từ nông thôn tới



3

các KCN là cần thiết, được coi là cơ sở để thay đổi chính sách liên quan đến
lao động di cư. Tác giả nhận thấy, Thái Nguyên là một trong những tỉnh có
nhiều KCN đang hoạt động hiệu quả, là nơi đến làm việc lý tưởng của lao
động nông thôn. Vì vậy, đề tài “Đời sống, việc làm của lao động di cư từ
nông thôn tới khu công nghiệp” (Nghiên cứu tại khu công nghiệp Sông Công,
thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên) được tiến hành với hy vọng sẽ đưa ra
những khuyến nghị, giải pháp góp phần nâng cao đời sống, điều kiện làm việc
cho lao động di cư tới KCN Sông Công.
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
- Đề tài góp phần bổ sung tài liệu, làm phong phú hơn những nghiên
cứu về đời sống, việc làm của lao động di cư
- Cung cấp những số liệu cần thiết về thực trạng đời sống, việc làm của
lao động di cư từ nông thôn tới khu công nghiệp, làm tài liệu cơ sở cho những
đề tài nghiên cứu sâu hơn về chủ đề lao động di cư.
- Vận dụng một số lý thuyết xã hội học vào phân tích, giải thích các vấn
đề trong việc nghiên cứu di cư
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ những kết quả khảo sát đời sống, việc làm, đề tài đề xuất một số
giải pháp, khuyến nghị góp phần thay đổi chính sách hỗ trợ đối với lao động
di cư từ nông thôn tới khu công nghiệp tại tỉnh Thái Nguyên. Từ đó góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống, điều kiện làm việc cho lao động di cư.
3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Vấn đề di cư là vấn đề có tính toàn cầu, ngày càng trở nên quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi đất nước. Những nghiên cứu về di
cư khá nhiều. Thông qua việc tổng quan tài liệu, tác giả nhận thấy đã có các



4

công trình nghiên cứu khoa học, các sách, các báo cáo, các bài báo trên tạp
chí chuyên ngành như tạp chí Xã hội học đề cập đến vấn đề di cư. Nhưng đó
mới chỉ tập trung vào việc tổng quan tình hình di cư, xem xét di cư trong mối
liên hệ với các vấn đề khác, và mới chỉ tập trung vào vấn đề di cư từ nông
thôn ra thành thị, còn những đề tài lớn, nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề đời
sống, việc làm của lao động di cư từ nông thôn tới KCN thì chưa có.
Trong cuốn sách “Từ nông thôn ra thành phố - Tác động kinh tế - xã
hội của di cư ở Việt Nam”, chủ biên: Lê Bạch Dương và Nguyễn Thanh
Liêm – Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (2011), đã tập trung phân tích quá
trình di cư nông thôn – đô thị; tác động của di cư đối với khu vực nông thôn
thể hiện qua tác động đến người di cư và hộ gia đình ở quê hương, qua vấn đề
tiền gửi về nhà; tác động của di cư đối với khu vực thành thị qua việc phân
tích những tương đồng và khác biệt giữa người di cư và không di cư, tình
trạng sức khỏe và các hành vi liên quan, mạng lưới xã hội nông thôn – đô thị
và dòng tiền gửi, đánh giá tác động của di cư đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của thành thị. Những khoảng trống chính sách đã được đề cập đến trong
cuốn sách này, cụ thể là việc thiếu khung pháp lý trong việc bảo trợ xã hội
cho người di cư; những rào cản thể chế về bảo trợ xã hội và chính sách xã hội
cho người di cư từ vấn đệ hộ khẩu.
Sách “Điều tra di cư Việt Nam năm 2004: Những kết quả chủ yếu”,
Nhà xuất bản Thống kê (2005) giới thiệu kết quả của cuộc điều tra về di cư
của Việt Nam năm 2004, trong đó đề cập tới những khó khăn mà rất nhiều
người di cư gặp phải. Kết quả điều tra cho thấy 42% những người được điều
tra cho biết họ gặp khó khăn do tình trạng hộ khẩu không phải thường trú của
họ. Phần lớn người di cư trong nước được thống kê trong cuộc điều tra Di cư
ở Việt Nam năm 2004 là di cư vì lý do kinh tế, cụ thể là vì lý do việc làm và
cải thiện đời sống. Số liệu điều tra cho thấy người dân di cư thường có thu




5
nhập thấp hơn người không di cư, trong đó người di cư là phụ nữ hoặc là
người dân tộc thiểu số là nhóm đặc biệt thiệt thòi. Người di cư thường làm tập
trung trong các khu vực phi chính thức, làm các công việc được trả lương thấp
và ít được bảo vệ hơn so với người dân không di cư.
Báo cáo “Tình trạng dân số thế giới năm 2011” của Quỹ dân số Liên
hợp quốc (UNFPA) đã cung cấp hệ dữ liệu khá đầy đủ về tình trạng dân số
thế giới, sự phân bố, sự gia tăng cũng như tác động tích cực, tiêu cực của tình
trạng dân số hiện nay đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thế giới. Báo
cáo đề cập đến tác động của di cư quốc tế và di cư nội địa. Di cư quốc tế có
đóng góp tích cực với người di cư, cũng như với gia đình và quốc gia có
người di cư thông qua khoản tiền gửi về. Báo cáo cũng chỉ ra rằng có sự tăng
đáng kể về số lượng và loại hình di cư trong nước.
Báo cáo “Xu thế tị nạn toàn cầu 2011” của Cao ủy Liên hợp quốc về
người tị nạn (UNHCR) đề cập đến vấn đề đời sống của người tị nạn cũng như
xu hướng tị nạn toàn cầu trong tương lai. Báo cáo đã cung cấp nhiều số liệu
và phân tích quan trọng về tình trạng tị nạn trên thế giới hiện nay cũng như
đưa ra những con số cảnh báo đối với các nhà lập pháp.
Báo cáo “Giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và di cư ở châu Á – Thái
Bình Dương” do Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) thực hiện, các tác giả
đã chỉ ra những nguy cơ tiềm ẩn của tình trạng di cư xuyên biên giới sẽ có
khả năng xảy ra trong tương lai trước các tác động của tình trạng biến đổi khí
hậu toàn cầu. Đồng thời, ADB cũng đưa ra khuyến cáo về tình trạng di cư
xuyên biên giới có khả năng gia tăng mạnh trong thời gian tới dưới tác động
của biến đổi khí hậu, và các khuyến nghị về giải pháp tới các quốc gia.
Báo cáo “Lưu động di cư và nghèo khó ở Đông Nam Á” của Micheal
Bruneau, CNRS – Đại học tổng hợp Bordeaux, những kết quả và phân tích rút




6
ra từ nghiên cứu này đã cho thấy một bức tranh về thực trạng di cư tại khu
vực Đông Nam Á, những đặc thù cũng như tác động của tình trạng di cư ở
khu vực Đông Nam Á đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia
trong khu vực.
Báo cáo “Giới và tiền chuyển về của lao động di cư (2012) dựa trên
kết quả của nghiên cứu thuộc Chương trình chung về Bình đẳng giới, được
phối hợp thực hiện bởi Chính phủ Việt Nam và Liên Hợp Quốc tại Việt Nam,
với sự hỗ trợ tài chính từ Quỹ Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Tây Ban
Nha, do Tổng cục Thống kê và Tổ chức Di cư Quốc Tế (IOM) Việt Nam thực
hiện. Báo cáo nghiên cứu dựa trên thông tin thu thập được từ 600 bảng hỏi
dành cho nam nữ lao động di cư vào thành phố, 42 cuộc phỏng vấn sâu, 12
cuộc thảo luận nhóm. Quá trình thu thập thông tin được thực hiện trong
khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 5 năm 2010 tại ba phường thuộc ba
quận nội thành Hà Nội. Xuất phát từ cách tiếp cận giới, nghiên cứu hướng vào
tìm hiểu khác biệt giới trong khả năng gửi tiền, khác biệt giới trong thu nhập
và quản lý nguồn tiền tiết kiệm của lao động di cư, khác biệt giới trong việc
tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chuyển tiền, mối quan hệ giới trong việc quản
lý và sử dụng nguồn tiền chuyển về tại hộ gia đình nơi đi.
Báo cáo “Các mô hình di cư và phát triển kinh tế ở Việt Nam”
(2011), thuộc Kỷ yếu Việt Nam học: Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ nhất –
Tập 3, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia, Hà Nội, tác giả Đặng Nguyên Anh
tập trung xem xét bốn mô hình cơ bản của di chuyển lao động trong mối liên
hệ với phát triển kinh tế ở Việt Nam: di cư nông thôn – nông thôn, di cư nông
thôn – thành thị, di cư từ thành thị về nông thôn và di cư từ thành thị đến
thành thị. Theo đó, di cư là một khía cạnh then chốt của biến đổi dân số gắn
liền với kinh tế và hiện đại hóa đất nước.




7
Báo cáo “Di cư trong nước – cơ hội và thách thức đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam” (2010) do Tổ chức Liên Hợp Quốc tại
Việt Nam biên soạn trình bày tổng quan về di cư trong nước vì lý do kinh tế ở
Việt Nam, tổng quan về di cư trong nước ở Việt Nam, mối quan hệ giữa di cư
và phát triển. Theo báo cáo, phần lớn những người di cư trong nước vì lý do
kinh tế, không nằm trong chương trình di cư của Chính phủ vì thế họ được gọi
là “người di cư tự do”. Với phương thức tiếp cận dựa trên vấn đề giới và
quyền, nghiên cứu này sử dụng ba lăng kính nhằm xem xét tác động của phát
triển lên vấn đề di cư, cụ thể là (1) lên bản thân người di cư, (2) lên nơi đến và
(3) nơi đi của người di cư. Đặc biệt, đối với người di cư, họ thường tập trung
ở một số ngành nghề nhất định và ít được đảm bảo cong việc hơn hoặc phải
làm các công việc với mức lương thấp và thường không được hưởng trợ cấp
xã hội, bảo hiểm y tế hoặc bảo hiểm thất nghiệp nếu họ không được ký hợp
đồng lao động. So với người không di cư, người di cư gặp nhiều khó khăn khi
tiếp cận với các dịch vụ xã hội bởi thực trạng đăng ký hộ khẩu của họ. Báo
cáo đưa ra các khuyến nghị nhằm giải quyết những thách thức đặt ra đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội dưới tác động của di cư.
Báo cáo “Xu hướng lao động và xã hội Việt Nam 2009/2010” do Viện
Khoa học Lao động và Xã hội soạn thảo với sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật
của Tổ chức Lao động Quốc tế. Báo cáo khái quát và nêu ra nhiều phát hiện
liên quan đến hoạt động di cư. Đặc biệt là các tác động của khủng hoảng kinh
tế đến dòng di chuyển của người dân di cư ở các vùng nông thôn hiện nay, thể
hiện ở xu hướng gia tăng số dân di cư quay trở về nông thôn do bị mất việc
làm ở khu công nghiệp, đô thị. Cùng với đó, báo cáo nêu ra những định
hướng cơ bản cho việc hoạch định chính sách đối với lao động di cư trong
thời gian tới.




8
Báo cáo “Ảnh hưởng của suy giảm kinh tế lên lao động việc làm và
đời sống người dân nông thôn”, Viện Chính sách và phát triển nông
nghiệp nông thôn đề cập tới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế đến
đời sống của người lao động, đặc biệt là lao động di cư; những thách thức
đối với lao động di cư trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế. Báo cáo nêu ra
vấn đề liên quan đến đời sống việc làm của lao động di cư cũng như
những rủi ro đối với họ song chưa có sự phân tích sâu sắc. Tuy nhiên, nó
giúp định hướng cho việc nghiên cứu sâu hơn về lao động di cư.
Báo cáo “Tổng quan về tình hình di cư của công dân Việt Nam ra
nước ngoài” (2011) do Liên minh Châu Âu, Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại
giao) và Tổ chức di cư quốc tế thực hiện. Trên cơ sở xác định, thu thập,
xử lý và phân tích các số liệu di cư từ nhiều nguồn khác nhau, báo cáo đã
dựng lên bức tranh tổng quan về di cư, phân tích, đánh giá các loại hình di
cư chủ yếu của công dân Việt Nam ra nước ngoài, từ đó thúc đẩy quá
trình xây dựng, phát triển, tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính sách
pháp luật của Việt Nam về di cư. Báo cáo đưa ra một số bài học kinh
nghiệm, một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của di cư quốc tế vì
mục tiêu hội nhập và phát triển, hạn chế, giảm thiểu tác động tiêu cực,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài.
Báo cáo “Nghiên cứu tác động phát triển của di cư quốc tế tại Việt
Nam” (2011) của Đặng Nguyên Anh và nhóm nghiên cứu Trung tâm kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương Hà Nội (VAPEC) – Viện Khoa học xã hội Việt
Nam dựa trên kết quả nghiên cứu đối với 1500 hộ gia đình (cả di cư và không
di cư) trên 6 tỉnh/thành phố lớn của cả nước. Về tác động của di cư quốc tế,
báo cáo đã chỉ ra các tác động tích cực của di cư quốc tế đối với hộ gia đình
cũng như những thách thức liên quan đến vấn đề di cư của người Việt Nam ra
nước ngoài.




9
Báo cáo “Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp tham gia” (2010)
của Tổ chức ActionAid Việt Nam, Oxfam Anh và Oxfam Hồng Kông cùng
thực hiện, trình bày kết quả nghiên cứu trong vòng 3 năm từ 2007 – 2010 tại
một số phường/xã của Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh. Báo
cáo đưa ra những phân tích, đánh giá về nhóm nghèo nhập cư; các đặc trưng
của nhóm này; vấn đề đời sống – việc làm cũng như khó khăn, rủi ro họ phải
đối mặt như chi phí cuộc sống cao, việc làm bấp bênh, hạn chế trong tiếp cận
dịch vụ công.
Báo cáo “Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam: thực trạng, xu hướng và
khác biệt” (2011) do Tổng cục Thống kê thực hiện dựa trên kết quả của Cuộc
Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, phân tích vấn đề di cư ở khu vực
đô thị hiện nay, xu hướng của quá trình di cư cũng như những đóng góp của
hoạt động di cư đối với quá trình phát triển. Về xu hướng di cư tại Việt Nam
trong vòng 20 năm từ 1989 đến 2009, báo cáo chỉ ra rằng, số dân di cư, đặc
biệt là di cư giữa các tỉnh có chiều hướng gia tăng mạnh mẽ, xu hướng nữ hóa
và trẻ hóa di cư ngày càng rõ rệt. Báo cáo cũng chỉ ra những khác biệt di cư
giữa các khu vực kinh tế, các tỉnh/thành phố và giữa đô thị với nông thôn.
Báo cáo “Thị trường lao động, Việc làm và Đô thị hóa ở Việt Nam
đến năm 2020: Học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế” (2009), các tác giả Ian
Coxhead, Diệp Phan, Đinh Vũ Ngân Trang, Kim N. B. Ninh, thuộc dự án hỗ
trợ xây dựng Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã hội Việt Nam, giai đoạn 2011
– 2020, do Chính phủ Việt Nam và Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
thực hiện. Các tác giả đã quan sát thấy những mô hình chung về chính sách và
kết quả đạt được tại các nền kinh tế Châu Á thành công, trong đó có các chính
sách về thị trường lao động đã khuyến khích dự dịch chuyển lao động giữa
các vùng và ngành và duy trì tính linh hoạt của thị trường lao động. Ở Trung
Quốc và Ấn Độ có nhiều rào cản khác nhau đối với dịch chuyển lao động; kết




10
quả là, họ đang gặp nhiều khó khăn trong việc hấp thụ lao động dư thừa và
tình trạng bất bình đẳng đang tăng lên.
Báo cáo kết quả “Khảo sát nghèo đô thị ở Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh năm 2009” (UPS-09) thuộc dự án: “Hỗ trợ đánh giá sâu về tình
trạng nghèo đô thị ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh” do Chương trình
Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tài trợ đã nêu ra đặc điểm về đời sống,
việc làm và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội của người nghèo tại vùng đô
thị Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; những thông tin về đời sống, lao
động, việc làm của người di cư tại các khu vực này. Theo đó, cuộc sống khắc
nghiệt; thu nhập thấp, bấp bênh; hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ
xã hội là những khó khăn đối với người di cư. Báo cáo là cơ sở để xây dựng
các chính sách quản lý, hỗ trợ đối với người lao động di cư tại đô thị nước ta
hiện nay.
Báo cáo “Thực trạng tuyển dụng và việc làm của lao động nữ di cư
tới các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam” (2009) do Tổ chức lao
động quốc tế (ILO) và Viện Khoa học lao động xã hội (ILSSA) thuộc Bộ Lao
động - Thương binh - Xã hội (MOLISA) thực hiện đã phân tích quá trình
tuyển dụng và sử dụng lao động di cư nữ tại các khu công nghiệp, khu chế
xuất ở Việt Nam; những khó khăn, rủi ro khi xin việc, làm việc của lao động
di cư nữ.
Báo cáo “Người lao động di cư đến các khu công nghiệp: điều kiện
sống, sinh hoạt và tình hình sử dụng dịch vụ y tế”, nhóm tác giả Lê Thị Kim
Ánh, Phạm Thị Lan Liên, Nguyễn Tuấn Hưng dựa trên kết quả nghiên cứu
định tính với nhóm cán bộ cơ quan công lập và người di cư tại các khu công
nghiệp tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh đã mô tả khó khăn về
điều kiện sống, sinh hoạt và hạn chế trong việc tiếp cận dịch vụ y tế của lao
động di cư tại các địa bàn này.




11
Báo cáo “Phát triển con người” (2009) do UNDP thực hiện đã phân
tích những tác động tích cực của di cư qua các vấn đề: quyền tự do và di cư,
con người trong tình trạng di cư, cuộc sống của người di cư, tác động tới nơi
đi và nơi đến, chính sách phát huy kết quả phát triển con người. Báo cáo cũng
chỉ ra một số đặc thù trong hoạt động di cư trên toàn cầu hiện nay.
Báo cáo “Tình trạng dân số thế giới năm 2006” do Quỹ dân số Liên
Hợp Quốc thực hiện chỉ ra rằng phụ nữ di cư đóng góp đáng kể thông qua
việc gửi tiền về quê nhà song đóng góp của họ không được thừa nhận. Nhóm
nữ lao động di cư phải đối mặt với nguy cơ lớn của tệ buôn bán người và lây
nhiễm HIV.
Báo cáo “Lao động nữ di cư giúp việc nhà từ đồng bằng sông Cửu
Long”, nghiên cứu tại phường 9 thị xã Trà Vinh, do tác giả Nguyễn Thị Hòa
– Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ thực hiện. Tác giả chọn nghiên cứu
ngành nghề phổ biến của lao động nữ di cư đó là nghề giúp việc gia đình. Báo
cáo chỉ ra đặc thù của vấn đề lao động nữ di cư giúp việc gia đình và những
rủi ro liên quan đến đối tượng này.
Báo cáo “Phụ nữ và lao động di cư” của TS. Lê Thị Kim Lan, nằm
trong khuôn khổ của Dự án Lao dộng di cư ở miền Trung Việt Nam trong thời
kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện từ
2009 đến 2011 do nhóm nghiên cứu trường Đại học Khoa học Huế thực hiện.
Báo cáo phân tích hoạt động di cư của phụ nữ và trẻ em ở cả nơi đi và nơi
đến, chỉ ra đặc điểm về ngành nghề của lao động di cư, nguyên nhân di cư,
những thách thức mà lao động di cư nữ phải đối mặt cũng như những rủi ro
liên quan đến bệnh tật, tệ nạn xã hội, nạn buôn bán người.
Báo cáo “Di cư lao động từ nông thôn ra thành phố: Những khía
cạnh tâm lý xã hội của người phụ nữ bán hàng rong” của PGS.TS. Trần

Thị Minh Đức dựa trên kết quả số liệu thống kê của Bộ Lao động Thương



12
binh và Xã hội, Tổng cục Thống kê về di cư lao động nữ cũng như kết quả
phỏng vấn bán cấu trúc với một số lao động nữ di cư theo mùa (năm 2000 và
2004), tác giả đã có sự phân tích tâm lý của những người phụ nữ bán hàng
rong di cư về đời sống – công việc của họ. Từ đó, tác giả chỉ ra khó khăn, vất
vả trong đời sống, việc làm của những lao động di cư nữ bán hàng rong.
Báo cáo “Tóm tắt một số chỉ số phân tích theo giới tính từ số liệu của
tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009”, UNFPA, (2011), dựa
trên bộ số liệu của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, đã
tập trung vào vấn đề nữ hóa di cư. Báo cáo phân tích những khác biệt về giới
tính trong các vấn đề như tình trạng hôn nhân, học vấn, giáo dục Đồng thời,
báo cáo phân tích xu hướng nữ hóa di cư và khẳng định sự gia tăng của dòng
di cư nữ ngày càng rõ rệt hơn.
Báo cáo “Rủi ro của lao động di cư và một số kiến nghị” của tác giả
Nguyễn Huyền Lê – Viện Khoa học Lao động và Xã hội nêu bật những rủi ro
mà lao động di cư phải đối mặt hiện nay. Tác giả chỉ ra 6 nhóm nguy cơ phổ
biến là bị lạm dụng, lừa gạt; khó khăn về nhà ở; nguy cơ dễ bị tiêm nhiễm các
tệ nạn xã hội; rủi ro trong suy giảm sức khỏe; khó khăn trong tiếp cận và sử
dụng các dịch vụ xã hội cơ bản và an sinh việc làm thấp. Từ đó, tác giả đề
xuất một số giải pháp nhằm quản lý và hỗ trợ cho người lao động di cư.
Báo cáo “Sống con lắc, tình dục có là con lắc” dựa trên kết quả
nghiên cứu định tính về nhận thức, thái độ và đời sống tình dục của người lao
động di cư tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh của nhóm tác giả: Nguyễn
Ngọc Hường, Khuất Thu Hồng, Đinh Thái Sơn. Nghiên cứu được thực hiện
với 35 người lao động di cư trong nhóm tuổi từ 15 đến 55, là những người cư
trú ngắn hạn và thường xuyên trở về quê. Các tác giả đã có những phát hiện

khá quan trọng về đời sống tình dục của những người di cư con lắc tại hai



13
thành phố lớn cũng như những nguy cơ từ hoạt động tình dục của các nhóm
đối tượng này.
Báo cáo “Sức khỏe sinh sản cho lao động nhập cư” nghiên cứu định
tính tại Quy Nhơn, Bình Định do UNFPA phối hợp với Uỷ ban nhân dân tỉnh
Bình Định thực hiện năm 2008 cũng đề cập đến vấn đề tình dục cũng như
những nguy cơ xung quanh vấn đề này, báo cáo đã cho thấy những cái nhìn
sâu sắc về các khía cạnh khác nhau trong hoạt động chăm sóc sức khỏe sinh
sản của lao động nhập cư tại Bình Định.
Nghiên cứu của Cục phòng, chống Tệ nạn xã hội (Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội) về “Mại dâm và di biến động nhìn từ góc độ giới”
(2012) đã đưa ra những phát hiện về vai trò giới trong việc đưa ra quyết định
di cư và tham gia hoạt động mại dâm. Bên cạnh đó báo cáo cũng giúp người
đọc hiểu sâu hơn về các khuôn mẫu và tính dễ bị tổn thương liên quan đến
tính di biến động của những người hoạt động mại dâm nhìn từ góc độ giới
Năm 2004, cuộc tổng điều tra di cư Việt Nam đã được thực hiện bởi
Tổng cục thống kê – đây là cuộc tổng điều tra về di cư có quy mô lớn nhất tại
Việt Nam từ trước tới nay. Từ kết quả của cuộc khảo sát này, báo cáo “Di cư
trong nước và mối liên hệ với các sự kiện cuộc sống” (2006) với sự hỗ trợ
kỹ thuật của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc, do nhóm cán bộ phân tích và
nghiên cứu của Viện Xã hội học thực hiện và trình lên Tổng Cục Thống kê.
Báo cáo cung cấp những phân tích sâu hơn về mối quan hệ giữa di cư và các
sự kiện quan trọng khác trong chu trình sống của người di cư. Trong đó, nêu
bật những ảnh hưởng của các sự kiện như giáo dục, hôn nhân, nghề nghiệp,
sinh đẻ đối với cuộc sống của người dân di cư cũng như sự khác biệt về bản
chất của các sự kiện này ở từng nhóm người di cư.




14
Báo cáo “Chất lượng cuộc sống của người di cư ở Việt Nam”, cũng sử
dụng bộ số liệu của cuộc điều tra di cư năm 2004 song báo cáo này lại khai thác
khía cạnh khác về di cư đó là vấn đề chất lượng cuộc sống của người di cư.
Bài báo “Di cư và phát triển trong bối cảnh đổi mới kinh tế - xã hội
của đất nước”, đăng trên Tạp chí Xã hội học, số 1(61) năm 1998, tác giả
Đặng Nguyên Anh tìm hiểu kinh nghiệm di cư mà các quốc gia Châu Á đã
trải qua những năm trước đây. Tác giả cho rằng nếu so sánh Việt Nam với các
quốc gia Châu Á trên lĩnh vực di cư, có thể thấy nhiều điểm khác biệt cũng
như tương đồng. Quá trình di cư ở Việt Nam có những nét đặc thù, chủ yếu
do sự tác động liên tục của chiến tranh và vai trò chủ đạo của nhà nước đối
với công tác di dân, nhưng đồng thời Việt Nam cũng tìm thấy sự tương đồng
với các quốc gia trong khu vực về hình thái, nguyên nhân và bản chất của di
cư trong tiến trình hiện đại hóa đất nước.
Bài báo “Vai trò của mạng lưới xã hội trong di cư”, đăng trên Tạp chí
Xã hội học số 2(62) năm 1998, tác giả Đặng Nguyên Anh tập trung phân tích
ảnh hưởng của mạng lưới xã hội đối với di cư nông thôn – đô thị, cụ thể là tìm
hiểu vai trò của mạng lưới xã hội đến quyết định chuyển cư và lựa chọn nơi
chuyển đến, quá trình thích ứng với cuộc sống ở thành thị cũng như thu nhập
và tiền chuyển về cho gia đình của người di cư.
Bài báo “Đảm bảo cung cấp dịch vụ xã hội cho người lao động nhập
cư ở thành phố” đăng trên Tạp chí Xã hội học số 4(64), 1998, của hai tác giả
Đặng Nguyên Anh và Nguyễn Bình Minh sử dụng số liệu khảo sát “Di cư và
Sức khỏe” do Viện Xã hội học (thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân
văn Quốc gia Việt Nam) thực hiện năm 1997. Các tác giả tìm hiểu dịch vụ xã
hội trên phương diện nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, dịch vụ tìm việc làm, điều
kiện y tế và sức khỏe của đối tượng lao động phổ thông. Kết quả khảo sát cho




15
thấy lao động nhập cư tự phát vào thành phố không có đuợc điều kiện sinh
hoạt đủ để tái tạo sức lao động. Đa số có hoàn cảnh sống tạm bợ, nhà ở tồi
tàn, điều kiện vệ sinh yếu kém. Ngay cả những đối tượng làm việc tại các cơ
sở công nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài ở Bình Dương, Đà Nẵng cũng
phải cư trú tại các nhà trọ tập thể, với diện tích ở tính trung bình không quá 6
m² một đầu người. Thu nhập eo hẹp và đòi hỏi phải dành dụm trong chi tiêu
không cho phép người lao động nhập cư có được nơi ăn ở đủ điều kiện. Cuộc
khảo sát Di cư và Sức khỏe còn tìm hiểu khả năng tiếp cận lao của lao động
nhập cư đến các dịch vụ giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe. Qua đó, các tác
giả đã đưa ra một số định hướng chính sách đối với người di cư.
Bài báo “Di dân và quản lý di dân trong giai đoạn phát triển mới:
Một số suy nghĩ từ góc độ nghiên cứu”, đăng trên Tạp chí Xã hội học số
3&4 (67&68), năm 1999 của Đặng Nguyên Anh lại tập trung xem xét quá
trình di cư trên bình diện quản lý. Bài báo đưa ra những ý kiến đóng góp cho
công tác đổi mới chính sách di dân và quản lý dân cư ở Việt Nam. Bài báo chỉ
xem xét loại hình di cư tự phát, hoàn toàn do người lao động thực hiện. Hình
thái di dân này đặt ra những đòi hỏi mới về chính sách quản lý.
Trong bài báo “Chính sách di dân đi xây dựng vùng kinh tế mới ở
Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Xã hội học số 1 (109), năm 2010, tác giả Đặng
Nguyên Anh nhìn nhận di dân đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Việt Nam là
một trong nhiều chủ trương lớn nhằm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Quá trình di dân được chia thành 4 giai đoạn: giai đoạn 1961 – 1975, giai
đoạn 1976 – 1985, giai đoạn 1986 – 1995 và giai đoạn 1996 đến nay. Tác giả
đã chỉ rõ những thành tựu và hạn chế của di dân kinh tế mới và có những đề
xuất, nhấn mạnh việc xây dựng hệ thống chính sách phù hợp, đồng bộ đối với
di dân nói chung, di dân kinh tế mới nói riêng.




16
Bài báo “Vận dụng lý thuyết di động xã hội vào nghiên cứu chuyển
cư” đăng trên Tạp chí Xã hội học, số 1 (89), năm 2005 của Tống Văn Chung,
tác giả đã nêu ra một vài vấn đề lý luận về di động xã hội. Việc vận dụng lý
thuyết di động xã hội vào quá trình nghiên cứu chuyển cư cho phép xem xét
khía cạnh khác nhau về sở hữu, uy tín (địa vị) xã hội của người di cư không
chỉ về mặt sở hữu mà cả về vị thế của họ trong các mối tương tác với những
người khác, nhóm khác mà nơi họ đến, kể cả cơ hội cũng như “khả năng tiếp
cận” để chiếm lĩnh cơ hội của họ.
Bài báo “Vài nét về tâm lý người dân chuyển cư ở vùng xây dựng
khu kinh tế trọng điểm” đăng trên Tạp chí Tâm lý học, số 3 (72), năm 2005
của tác giả Tống Văn Chung tập trung phân tích khía cạnh tâm lý của người
dân chuyển cư ở vùng xây dựng khu kinh tế trọng điểm được ghi nhận bước
đầu qua cuộc điều tra xã hội học. Chuyển cư là một sự kiện lớn trong đời sống
của người dân, tác động mạnh tới tâm lý của người dân nơi đây. Theo đó, vấn
đề đặt ra đối với những nhà hoạch định chính sách kinh tế là phải lưu ý đúng
mức tới những yếu tố tâm lý để có phương hướng giải quyết thỏa đáng, giúp
cho quá trình chuyển cư diễn ra thuận lợi.
Bài báo “Di chuyển lao động con lắc đến làng nghề”, đăng trên Tạp
chí Dân số và Phát triển, số 5 (50), năm 2005 của tác giả Tống Văn Chung,
tác giả đưa ra kết luận việc phát triển làng nghề tạo ra thị trường lao động ở
nông thôn dưới nhiều hình thức khác nhau, một hiện tượng đặc thù đó là “chợ
lao động”. Thị trường lao động này giải quyết một bộ phận lao động trong
thời gian nông nhàn. Làng nghề đã tạo ra hiện tượng xã hội di chuyển lao
động và thu hút lao động không chỉ theo thời vụ mà thậm chí theo từng ngày,
từng mùa vụ. Sự đáp ứng nhu cầu lao động trong làng nghề cho thấy tác động




17
của nhân tố thị trường vào dòng di động lao động ở nông thôn. Từ đó, cần có
các chính sách, các cơ chế phù hợp với những người lao động thời vụ này.
Luận án Tiến sĩ “Những nhân tố kinh tế - xã hội tác động đến sự
chuyển cư của cư dân nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa” (2010) của Tống Văn Chung đã khái quát và đưa ra bức tranh đa
dạng về di chuyển của cư dân dưới những hình thức khác nhau trong giai
đoạn 1986 - 2010 ở nông thôn Việt Nam, đóng góp vào việc nhận thức đúng
về động thái chuyển cư ở nông thôn. Luận án lần đầu tiên hướng đến việc hệ
thống hóa những nhân tố kinh tế - xã hội chính tác động lên sự chuyển cư
nông thôn theo các hướng khác nhau dưới góc nhìn xã hội học trong giai đoạn
đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Qua việc tổng quan tài liệu, có thể thấy, vấn đề di cư đã được chú ý đến
từ rất lâu và được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên, các sách, các báo cáo nghiên cứu, và các bài báo trên tạp chí , đặc
biệt tạp chí chuyên ngành Xã hội học đề cập đến vấn đề di cư nói chung.
Cuộc điều tra Di cư tại Việt Nam năm 2004 và Tổng điều tra dân số và nhà ở
Việt Nam 2009 được coi là hai cuộc điều tra lớn, cung cấp những số liệu liên
quan đến di cư. Bên cạnh đó, còn có các chương trình, dự án có sự phối hợp
giữa chính phủ Việt Nam với tổ chức phi chính phủ Từ các số liệu điều tra
đó các bài viết, bài báo tập trung phân tích các chiều cạnh khác nhau của di
cư. Vấn đề đời sống, việc làm, rủi ro của lao động di cư đã phần nào được đề
cập đến trong các bài báo, các báo cáo. Về cơ bản báo cáo nghiên cứu về di
dân tới các KCN chưa có sự tách biệt hẳn mà chủ yếu nằm xen kẽ trong
các báo cáo tổng quát về di cư. Thêm vào đó, các nghiên cứu về lao động
KCN tuy nhiều, song lại chưa có sự tách biệt hẳn trong đánh giá về lao
động di cư tới KCN. Những thiếu hụt này đòi hỏi những nghiên cứu sâu




18
hơn đưa ra các số liệu và dẫn chứng thuyết phục hơn về thực trạng đời
sống – việc làm của người lao động di cư từ nông thôn đến đô thị và các
KCN hiện nay.
Điểm mới của luận văn so với các nghiên cứu trước đó là các nghiên
cứu trước mới chỉ tập trung vào đối tượng lao động di cư tự do mà chưa chú ý
đến đối tượng lao động di cư từ nông thôn tới khu công nghiệp. Đây là một xu
hướng dịch chuyển lao động mới ở nước ta trong vài năm gần đây. Chỉ những
công nhân di cư từ nơi khác đến làm việc tại các doanh nghiệp trong khu công
nghiệp mới là khách thể nghiên cứu của đề tài. Trong đề tài này, tôi mong
muốn sẽ tìm hiểu và đánh giá được đời sống, việc làm của lao động di cư từ
nông thôn tới KCN Sông Công trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Hy vọng, bên
cạnh những con số thống kê thu được, sẽ có sự lý giải, phân tích sâu hơn về
những khó khăn mà lao động di cư gặp phải trong cuộc sống cũng như trong
công việc.
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đời sống, việc làm của lao động di cư từ nông thôn tới KCN
Sông Công nhằm đánh giá đời sống, việc làm cũng như những khó khăn mà
họ gặp phải. Từ đó đề xuất khuyến nghị về giải pháp nhằm cải thiện đời sống,
điều kiện làm việc của người lao động di cư từ nông thôn tới KCN Sông
Công.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
(1) Phân tích một số khái niệm có liên quan đến tên đề tài
(2) Xây dựng cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
(3) Chỉ rõ thực trạng việc làm hiện nay của người di cư từ nông thôn tới
KCN Sông Công

×