Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình nông thôn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 125 trang )


Trường đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội & nhân văn
Viện khoa học xã hội việt nam
Viện xã hội học

*


Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình nông thôn
hiện nay

(Nghiên cứu trường hợp xã Trịnh Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam)


Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 603130



Luận văn thạc sĩ xã hội học


Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS Trịnh Duy Luân






Hà Nội, 2009
Mục lục
Trang
Phần I: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Vài nét về vấn đề nghiên cứu 3
3. ý nghĩa khoa học và thực tiễn 11
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 11
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 12
6. Phương pháp nghiên cứu 12
7. Giả thuyết nghiên cứu 13
8. Kết cấu luận văn 14
Phần 2: Nội dung
Chương I:
Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận 16
1.2. Các khái niệm 23
1.2.1. Gia đình 23
1.2.2. Nông thôn 25
1.2.3. Xã hội hóa 26
Chương II: Một số quan hệ giữa cha mẹ và con cái
trong đời sống gia đình nông thôn hiện nay
2.1. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu 30
2.2. Đặc điểm cấu trúc hộ gia đình được nghiên cứu 31
2.3. Cha mẹ với việc học tập của con cái 32
2.3.1. Nhận thức của cha mẹ đối với việc học tập của con cái 32
2.3.2. Sự tham gia của cha mẹ trong đời sống học tập của con 34
2.4. Cha mẹ với định hướng nghề nghiệp cho con 43
2.4.1. Sự tham gia của cha mẹ đối với định hướng nghề nghiệp cho

con cái 43
2.4.2. Mong muốn của cha mẹ đối với nghề nghiệp của con khi
trưởng thành 47
2.5. Quan hệ ứng xử đạo đức giữa cha mẹ và con cái 50
2.5.1. Nhận định của cha mẹ về con cái ngày nay 52
2.5.2. Quan niệm của cha mẹ về giá trị của con cái 64
Phần 3: Kết luận 71
Tài liệu tham khảo 74
Phụ lục 73

Danh mục Hình
Tên Số trang
Hình 1: Người chủ yếu họp phụ huynh cho con 38
Hình 2: Người chủ yếu giúp con học thêm ở nhà 40
Hình 3: Người chủ yếu dạy bảo, đưa con vào kỷ luật 42
Hình 4: Cơ cấu khoản chi tiêu trong gia đình trong 12 tháng qua 43
Hình 5: Tỷ lệ gia đình có hành động cụ thể hướng nghiệp cho con 49
Hình 6: Tỷ lệ gia đình hướng nghiệp cho con một cách cụ thể. 50
Hình 7: Nhận định “Con cái ngày nay không vâng lời cha mẹ
như thời tôi bằng tuổi các cháu bây giờ” 58
Hình 8: Nhận định “Con cái ngày nay không gắn bó với họ hàng
như thời tôi bằng tuổi các cháu bây giờ” 62
Hình 9: Quan niệm về giá trị của con cái trong gia đình ở Trịnh Xá
theo mức độ “rất quan trọng” 76
Danh mục bảng
Tên Số trang
Bảng 1: Tương quan giữa trình độ học vấn của bố mẹ và việc
cho con đi học thêm. 46
Bảng 2: Tỷ lệ gia đình hướng nghiệp cho con một cách cụ thể 50
Bảng 3: Mong muốn nghề nghiệp cho con trai và con gái ở Trịnh Xá 52

Bảng 4: Nhận định “Con gái ngày nay ứng xử giống con trai
hơn thời tôi bằng tuổi các cháu bây giờ” 65
Bảng 5: Tổng kết mức độ nhận định của cha mẹ về con cái ngày nay 69
Bảng 6: Quan niệm về giá trị của con cái trong gia đình ở Trịnh Xá 73



1

Phần I: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của mình, gia đình vừa là một đơn vị kinh tế,
vừa là cái nôi đầu tiên và suốt đời nuôi dưỡng, giáo dục con người, duy trì và
phát triển ở họ những quan hệ tình cảm đặc biệt từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Cùng với thiết chế giáo dục, gia đình có vai trò quan trọng trong việc xã
hội hóa con người, từ con người sinh vật thành con người xã hội. Sự hình
thành những chuẩn mực và định hướng giá trị tốt đẹp của gia đình không chỉ
củng cố các mối quan hệ gia đình mà còn kiến tạo môi trường xã hội thuận lợi
cho mỗi cá nhân được phát triển hài hòa và toàn diện. Về phương diện này,
gia đình là cơ sở đầu tiên cho việc tái sản xuất ra con người và xã hội.
Do những chức năng xã hội đặc thù của mình, gia đình góp phần quan
trọng vào việc duy trì sự tồn tại của đời sống xã hội, phát triển kinh tế, ổn
định xã hội, xây dựng các chuẩn mực và giá trị đạo đức, phong tục tập quán,
lối sống văn hóa, giáo dục. Gia đình cũng là một mắt xích quan trọng trong
mối quan hệ xã hội giữa con người với con người, con người với làng xóm,
cộng đồng, đất nước. Bởi vậy, việc củng cố gia đình, xây dựng các quan hệ
gia đình lành mạnh là cơ sở đầu tiên cho việc xây dựng các quan hệ xã hội tốt
đẹp.
Những năm gần đây, đời sống xã hội nước ta đã có nhiều thay đổi. Đời
sống của người dân được cải thiện rõ rệt, bộ mặt nông thôn có những biến đổi

nhanh chóng. Quá trình giao lưu và hội nhập với các nước đã mở ra nhiều cơ
hội nhưng cũng đem đến cho chúng ta nhiều thách thức. Những biến đổi trong
quan hệ xã hội được phản chiếu trong những biến đổi của các quan hệ gia
đình. Gia đình nông thôn nơi có khoảng 70 - 80% dân số Việt Nam sinh sống
cũng không nằm ngoài dòng chảy lịch sử đó.

2

Chẳng hạn như mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không
chỉ dựa trên tình yêu thương mà còn trên cơ sở của pháp luật về quyền tự do
cá nhân. Năm 1979, Pháp lệnh bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ em được ban
hành. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu á và là nước thứ hai trên thế giới
tham gia phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc
(tháng 2/1990). Các quyền cơ bản của trẻ em được Việt Nam tôn trọng và luật
hoá trên cơ sở phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam,
đặc biệt được thể hiện trong Luật chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổi) được
Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004. Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân gia đình,
Luật chống bạo lực gia đình cũng dần được ban hành và thực thi. Các chức
năng của gia đình như chức năng kinh tế, giáo dục, duy trì và phát triển nòi
giống, chức năng thỏa mãn tình cảm cũng được khẳng định, ghi nhận rõ ràng
và khoa học hơn. Trách nhiệm và quyền lợi của các thành viên trong gia đình
đang tiến dần tới sự công bằng, mối quan hệ giới cũng được cải thiện rõ rệt.
Đặc biệt, trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình cũng không quá khắt
khe như trước, mỗi người chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước gia
đình, pháp luật và xã hội. Sự biến đổi kinh tế - xã hội đã tác động sâu sắc đến
sự biến đổi các quan hệ gia đình, trong đó có quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Cho đến nay việc tìm hiểu thực chất chất keo kết dính trong mối quan
hệ giữa các thành viên gia đình vẫn luôn là một vấn đề phức tạp. Có thể nói,
sự gắn bó giữa các thành viên trong gia đình luôn phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố. Nó không phải chỉ đơn thuần là yếu tố vật chất mà còn là những yếu tố phi

vật chất, những giá trị tinh thần, tình cảm, đạo đức vốn không thể thiếu được
trong cuộc sống hàng ngày của gia đình. Thực tế cho thấy, vượt lên trên tất cả
vẫn là những yếu tố về mặt tình cảm, sự yêu thương gắn bó giữa các thành
viên trong gia đình. Chính những yếu tố này đã là cơ sở quan trọng nhất đối
với sự tồn tại của các quan hệ gia đình.

3

Mặc dù trên thực tế, nhiều mâu thuẫn bất đồng trong gia đình đã được
nảy sinh từ những thay đổi trong quan niệm sống hay từ những lý do kinh tế
nhưng chính tình cảm, sự yêu thương giữa các thành viên trong gia đình, sự
nhường nhịn, hòa thuận trong mối quan hệ gia đình đã giúp các gia đình vượt
qua được những khó khăn, trở ngại để tiếp tục tồn tại, gắn bó với nhau hơn.
Chính vì vậy, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái đang trở thành một
trong những mối quan tâm hàng đầu trong việc củng cố các mối quan hệ gia
đình. Do đó, việc đánh giá mối quan hệ này trong gia đình là cần thiết để giúp
ta nhận diện được về thực trạng của gia đình, nhận diện được sự thay đổi của
gia đình nông thôn Việt Nam hiện nay.
2. Vài nét về vấn đề nghiên cứu
Gia đình là một trong những thiết chế xã hội cơ bản nhất có vai trò to
lớn đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội, đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học, trong đó có xã hội học. Những vấn đề gia đình và
nhiều khía cạnh liên quan khác có nội dung hết sức phong phú đã được các
nhà nghiên cứu tìm tòi, phát hiện và công bố trên các ấn phẩm nghiên cứu
chuyên ngành khác nhau.
Khi đề cập đến gia đình, người ta thường nói đến các chức năng của gia
đình như chức năng tái sản xuất con người, chức năng kinh tế, chức năng xã
hội hóa cá nhân và một số chức năng khác. Hiện nay, người ta còn đề cập đến
những vấn đề xã hội của gia đình như: hôn nhân, ly hôn, bạo lực, giá trị,
chuẩn mực, di cư Tất cả những vấn đề đó đều có liên quan mật thiết với mối

quan hệ cơ bản nhất trong gia đình: quan hệ giữa các thế hệ, trong đó có quan
hệ giữa cha mẹ và con cái.
Trong “Từ điển xã hội học” do NXB Larousse ấn hành năm 1973, đã
định nghĩa gia đình là “Nhóm người gắn bó với nhau bằng một liên hệ hôn

4

nhân, huyết thống hay là việc nhận con nuôi. Có sự tác động qua lại giữa
chồng và vợ, giữa bố và mẹ, giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em và họ
hàng xa hơn. Tình hình đó tạo ra một loại cộng đồng ít nhiều hạn chế và được
miêu tả bằng những nét riêng biệt. Cộng đồng ấy được xác định và được đóng
khung trong những sự điều chỉnh xã hội chủ yếu mà không nhất thiết có liên
hệ với tầm quan trọng của hành vi sinh đẻ” [Larousse, 1973, tr.131].
Cũng bàn về định nghĩa gia đình, trong “Từ điển tâm lý học” (Penguin
Books xuất bản năm 1985): “Theo một nghĩa chặt chẽ nhất, gia đình nói lên
một đơn vị thân tộc cơ bản. Trong hình thức tối thiểu của nó hay là hình thức
hạt nhân, gia đình gồm mẹ, bố và các con. Rộng ra nó có thể nói lên gia đình
mở rộng, có thể gồm ông, bà, anh chị em họ, con nuôi… tất cả đều hành động
như một đơn vị được công nhận…” [Penguin Books, 1985, tr.269].
Mối quan hệ trong gia đình phản ánh kết cấu nội tại của hệ thống gia
đình. Hình thức, nội dung và cách thức quan hệ gia đình phụ thuộc vào các
loại hình gia đình như truyền thống hay hiện đại, hạt nhân hay mở rộng…
Ngoài ra, nó còn phụ thuộc vào cơ cấu gia đình và khung cảnh văn hóa xã hội.
Trong gia đình truyền thống, một hệ thống các chuẩn giá trị cổ truyền
được hình thành và tồn tại với những biểu tượng như “tam tứ đại đồng
đường”, “đông con, nhiều cháu”, “tam tòng tứ đức”, “trên kính dưới nhường”
v.v… Vấn đề quan hệ giữa các thế hệ vốn được xem như một chuẩn mực, giá
trị. Các quan hệ này có sự phân biệt theo trật tự cha mẹ, con cái và chồng vợ,
song quyền lực của cha mẹ và chồng (nam giới) không có tính tuyệt đối như
trong gia đình Nho giáo. Con cái trong gia đình phải nghe lời và tuân thủ ý

kiến của cha mẹ. Con cái phải biết ơn và tôn trọng cha mẹ.
ở Việt Nam, những khảo luận và phân tích về gia đình cũng đã được
chú ý từ rất lâu. Trong lịch sử, cha ông ta không chỉ để lại cho con cháu

5

những giá trị truyền thống về tính cộng đồng, tinh thần tương thân tương ái,
sự ham học hỏi và tôn trọng tri thức mà còn là sự tôn trọng và bảo vệ các giá
trị gia đình và vai trò của nó trong việc tổ chức và điều hành xã hội. Điều này
thể hiện rất rõ trong các câu chuyện lịch sử, trong văn chương bác học và văn
học dân gian (Cá không ăn muối cá ươn. Con cưỡng cha mẹ trăm đường con
hư ). Có khi gia đình là đề tài riêng biệt, cũng có khi nó được đề cập đến
trong các đề tài khác và nó cũng thường được đề cập trong các chính sách,
chiến lược xây dựng và phát triển đất nước.
Khi bàn đến lĩnh vực gia đình không thể không nhắc tới các tác giả như
Vũ Khiêu, Lê Thi, Trần Đình Hượu, Vũ Tuấn Huy, Vũ Mạnh Lợi, Mai Huy
Bích, Lê Ngọc Văn, Mai Quỳnh Nam với nhiều công trình nghiên cứu về
gia đình tiêu biểu. Từ góc độ tiếp cận Văn hóa học có công trình nghiên cứu
"Nho giáo và gia đình" của Vũ Khiêu (1995) đã cung cấp một khối lượng tri
thức rất sâu rộng về văn hóa gia đình, những tác động ảnh hưởng của Nho
giáo trong giáo dục gia đình, những ưu điểm và hạn chế của Nho giáo đối với
việc củng cố gia đình, vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách
con người và xã hội.
Tổng kết những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, có các
công trình nghiên cứu: "Gia đình và giáo dục gia đình" của Trần Đình Hượu,
"Tam giác gia đình" của Hồ Ngọc Đại Đây là những công trình mang nhiều
dấu ấn của phương pháp liên ngành. Cuốn sách "Trẻ em gia đình và xã hội"
(2004) của Mai Quỳnh Nam (chủ biên) có nhiều bài viết về vai trò của gia
đình và xã hội đối với việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em, trong đó đề cập đến
những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nêu ra những khó khăn và giải pháp.

Cùng tác giả Mai Quỳnh Nam, cuốn sách "Gia đình trong tấm gương xã hội
học" (2004) được tập hợp từ những nghiên cứu của nhiều tác giả về gia đình
trong đó có nói tới cấu trúc gia đình và những vấn đề với giới; các chức năng

6

của gia đình; gia đình và các ảnh hưởng của văn hóa; sự biến đổi của các quan
hệ trong gia đình.
Cuốn sách "Gia đình Việt Nam và chức năng xã hội hóa" của Lê Ngọc
Văn (1996) đề cập đến gia đình Việt Nam truyền thống với chức năng xã hội
hóa, biến đổi chức năng xã hội hóa của gia đình, những khó khăn và giải pháp
cho gia đình Việt Nam trong việc thực hiện chức năng xã hội hóa. Tác giả dựa
trên quan điểm xã hội học để phân tích đánh giá, dự báo các hiện tượng, các
xu hướng diễn ra trong gia đình nói chung và chức năng xã hội hóa của gia
đình Việt Nam nói riêng.
Cũng bàn về sự biến đổi trong các chức năng của gia đình, Vũ Mạnh
Lợi & Vũ Tuấn Huy đã chỉ ra rằng: Trong những thay đổi quan trọng nhất các
chức năng của gia đình là sự “đổi ngôi” trong giá trị con cái, từ chỗ con cái
được xem như một tài sản (hay lao động) sang việc con cái được coi như
nguồn thỏa mãn nhu cầu tình cảm của cha mẹ (điều này thường đi kèm với sự
“đổi ngôi” khó khăn khác là vị trí của người già trở nên yếu đi) [Vũ Tuấn
Huy, 2004, tr.35].
Trong cuốn "Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới”
(2002) của GS. Lê Thi, đã nghiên cứu những chuyển đổi của gia đình Việt
Nam khi đất nước chuyển sang thế kỷ XXI; tiếp cận các vấn đề của gia đình ở
góc độ giới. Trong đó, chương III: tác giả đã đề cập đến vần đề xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp giữa cha mẹ và con cái từ góc độ tâm lý và tình cảm. Những
yếu tố xã hội đang ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái hiện
nay như: sự đổi mới về cơ chế quản lý từ bao cấp sang kinh tế hàng hóa và cơ
chế thị trường đã nâng cao mức hưởng thụ vật chất và tinh thần của các thành

viên trong gia đình; sự phát triển nhanh chóng đa dạng của các phương tiên
thông tin đại chúng; quyền tự do bình đẳng, dân chủ; quỹ thời gian dành cho

7

con cái ít ỏi Do đó, các thành viên trong gia đình cần một nghệ thuật ứng xử
đúng đắn mới đảm bảo gia đình trở thành tế bào của xã hội trong gia đoạn
chuyển đổi.
Nhiều kết quả điều tra xã hội học cho thấy, quan hệ giữa cha mẹ và con
cái đang là mối quan tâm hàng đầu trong việc củng cố các quan hệ gia đình.
Hầu hết những người được hỏi đều cho rằng cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc
giáo dục lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà cho thế hệ trẻ. Có tới 94,6% ý
kiến người được hỏi cho rằng họ được hấp thụ lòng hiếu thảo từ gia đình qua
ông bà, cha mẹ, 88,5% số người được hỏi cho rằng cần phải dạy dỗ lòng hiếu
thảo cho con cháu. Theo tương quan với thu nhập, nhu cầu phải truyền dạy sự
hiếu thảo cho con cái ở các gia đình giàu có cao hơn các gia đình nghèo:
92,6% gia đình giàu; 88,4% ở gia đình khá giả; 82,1% ở gia đình đủ ăn [Đặng
Cảnh Khanh-Lê Thị Quý, 2007, tr.256]. Quan hệ cha mẹ - con cái quyết định
mối quan hệ ông bà - cháu. Trẻ em thường bắt chước cách mà cha mẹ chúng
ứng xử với ông bà để ứng xử với ông bà và với chính bố mẹ. Do đó trên thực
thế, thế hệ cha mẹ rất quan tâm, chú ý làm gương cho con trong cách ứng xử
với cha mẹ họ.
Vũ Khiêu khi “Bàn về văn hiến Việt Nam” cũng cho rằng, các chuẩn
mực mới của chữ hiếu trong gia đoạn hiện nay cần phải được hình thành trên
một nguyên tắc cơ bản nhất - đó là việc xây dựng những tình cảm nhân ái và
chân thành giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là tình cảm giữa cha
mẹ và con cái. Sự trợ giúp về tình cảm và vật chất giữa các thế hệ trong gia
đình ông bà, cha mẹ và con cái được thể hiện vai trò của mỗi thế hệ trong đời
sống gia đình. Tuy nhiên, những vấn đề nảy sinh trong gia đình mở rộng cho
thấy những vấn đề đáng quan tâm. Tác giả cho rằng “Ngày nay trong gia

đình, quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với
nhau không còn chặt chẽ và thân thiết như trước. [Vũ Khiêu, 2002].

8

Về mặt huyết thống, giữa cha mẹ và con cái có quan hệ máu mủ, ruột
thịt rất sâu đậm. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con
thành người, từ lúc sinh ra đến tuổi trưởng thành. Người mẹ có vai trò rất
quan trọng trong việc giáo dục trẻ. Quan hệ tình cảm mẹ con đặt nền tảng cho
sự phát triển tình cảm với gia đình và cộng đồng xã hội. Người mẹ thường tỷ
mỉ, gần gũi con hàng ngày, khi cho ăn, tắm rửa, ru ngủ v.v phát hiện và uốn
nắn kịp thời những sai lệch của con. Với thái độ dịu dàng, kiên nhẫn, tế nhị,
người mẹ có khả năng cảm hóa, thuyết phục con, giáo dục tình yêu cho con,
kể cả khi con đã trưởng thành. Nhưng trong thời đại mới, người mẹ chỉ có thể
làm tốt trách nhiệm của mình khi có những kiến thức văn hóa cần thiết và
những tri thức về tâm lý tuổi trẻ. [Lê Thi, 2002].
Tuy nhiên, đã có lúc chúng ta quá đề cao vai trò người mẹ trong việc
giáo dục trẻ, như là người thầy đầu tiên, là linh hồn của gia đình v.v và có
phần xem nhẹ vai trò của người cha, một trụ cột của gia đình và có ảnh hưởng
lớn đến sự hình thành phát triển nhân cách của trẻ. Sự thiếu vắng người cha ở
các gia đình phụ nữ đơn thân, nuôi con một mình đã dẫn đến những hạn chế
nhất định trong việc giáo dục con.
Người cha, đặc trưng cho lý trí, kỷ cương của gia đình, là tấm gương để
các con noi theo, đặc biệt là con trai. Do đó, người cha cần tham gia vào việc
nuôi daỵ con từ nhỏ, dành thời gian chơi với con, chăm sóc hướng dẫn con
một cách tin cậy. Cần khắc phục quan niệm cho rằng nuôi dạy con là việc của
phụ nữ Thực tế, đây là công việc của cả hai vợ chồng, cùng có trách nhiệm,
chung lưng đấu cật nuôi dạy con cái. Đó cũng chính là quyền lợi thiết thân
của cả hai người, qua đó con cái có tình cảm thương yêu, gắn bó với cả cha và
mẹ.


9

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái là quan hệ mật thiết tình cảm. Ngay từ
nhỏ, mối quan hệ này là khuôn khổ cần thiết cho sự phát triển của trẻ, làm cho
sự trưởng thành sinh học của nó và những mối liên hệ của nó phù hợp với môi
trường. Sự phụ thuộc về vật chất và mật thiết về tình cảm tạo ra sự kết dính
mạnh mẽ giữa con cái với những người chăm sóc nó là bố mẹ. Vì thế đối với
trẻ, gia đình đại diện cho thế giới rộng lớn xung quanh nó. Do đó, sự cảm
nhận về thế giới, về xã hội, về chính bản thân ảnh hưởng trực tiếp bởi thái độ,
hành vi, niềm tin của bố mẹ. Thông qua các thông tin thành văn và bất thành
văn, cha mẹ đã truyền đạt lại cho con cái những giá trị, niềm tin, thái độ và cả
những tri thức về thế giới xung quanh.
Gia đình là cái gốc của con người, nơi con người sinh ra, bắt đầu một
cuộc đời, bắt đầu sự nhận biết và trong suốt cuộc đời cho đến khi kết thúc. Rõ
ràng quá trình xã hội hóa của một người từ những năm tháng đầu tiên của
cuộc đời có ảnh hưởng quyết định tới những thái độ và hành vi khi đã lớn.
Những gì mà cá nhân thu nhận được từ gia đình là rất đáng kể. Một trong
những khía cạnh thể hiện bản chất của mối quan hệ này là chức năng xã hội
hóa của bố mẹ đối với con cái.
Khi phân tích tác động của kinh tế thị trường đến mối quan hệ cha mẹ –
con cái trong gia đình nông thôn khu vực châu thổ sông Hồng, Nguyễn Đức
Truyến đưa ra nhận xét sau: “Đối với nhóm hộ kinh doanh phi nông nghiệp:
Kinh tế thị trường kích thích chủ nghĩa cá nhân, làm suy yếu các chuẩn mực
đạo đức gia đình nhất là quan hệ cha mẹ - con cái. Bố mẹ thường thích ở riêng
khi còn khả năng lao động. Đối với nhóm hộ thuần nông: quan hệ cha mẹ -
con cái được duy trì tốt hơn vì con cái vẫn phụ thuộc vào cha mẹ về mặt kinh
tế (đất ở, vốn sản xuất); có sự ưu tiên cho mối quan hệ cha mẹ, con cái, đặc
biệt đối với người nuôi dưỡng cha mẹ khi về già, không nhất thiết phải là con
trưởng. Đối với nhóm kinh doanh hỗn hợp: sự tách biệt giữa quan hệ kinh tế


10

và quan hệ gia đình đòi hỏi sự kết hợp giữa trật tự gia đình, quyền uy của cha
mẹ với con cái và sự mở rộng tính độc lập của con cái trong kinh doanh; quan
hệ cha mẹ – con cái cần có tính nghi lễ để duy trì tình cảm gia đình”. [Nguyễn
Đức Truyến, 1997].
Trong các vấn đề liên quan đến mối quan hệ cha mẹ và con cái thì vai
trò của cha mẹ trong việc học tập của con được xem là một trong những yếu
tố quan trọng và gần đây đã có một số nghiên cứu đề cập đến vấn đề này.
Đặng Bích Thuỷ trong “Tìm hiểu về vai trò của cha mẹ trong việc học hành
của con cái” đã chỉ ra rằng: trẻ em trong các gia đình dân tộc thiểu số ở Yên
Bái chịu nhiều thiệt thòi về giáo dục do đói nghèo và thực tế là trẻ em sống ở
các vùng sâu và ở rất xa các trường học. Tuy nhiên, các gia đình ở đây vẫn ưu
tiên cho con đi học vì họ hiểu được sự cần thiết phải đầu tư cho tương lai của
con em mình bằng cách cho chúng học tốt hơn. Rất nhiều phụ huynh mơ ước
rằng con mình sẽ tìm được việc làm thoát ra khỏi nghề nông để có một cuộc
sống tốt hơn, đỡ vất vả hơn cuộc sống mà họ đã trải qua. [Trịnh Duy Luân,
2008, tr.23].
Cũng theo hướng phân tích này, bài viết của Nguyễn Thị Minh Phương
về “ảnh hưởng của địa vị xã hội của cha mẹ lên giáo dục đạt được của con
cái” tại Tiền Giang thì cho thấy: địa vị xã hội của cha mẹ có ảnh hưởng nhất
định đến việc học của con cái. Tuy nhiên, ảnh hưởng này khá phức tạp và có
thể bị can thiệp bởi nhiều yếu tố. Học vấn của cha mẹ là một yếu tố quan
trọng giải thích sự khác biệt về học vấn của con cái thuộc các gia đình có học
vấn bố mẹ khác nhau. Tuy nhiên, nếu mặt bằng học vấn chung của cha mẹ
còn thấp dưới cấp trung học cơ sở thì sự khác biệt giữa hai nhóm trẻ thuộc
cha mẹ có học vấn cấp tiểu học và trung học cơ sở sẽ không rõ lắm. Sự khác
biệt chỉ thực sự rõ khi bố mẹ có học vấn từ cấp ba trở lên. Vấn đề là những
đứa trẻ thuộc gia đình có bố mẹ học vấn cấp 3 trở lên sẽ có nhiều khả năng để


11

học hết cấp 3 và học lên cao hơn. Trong khi đó, những đứa trẻ có cha mẹ học
vấn tiểu học hoặc trung học cơ sở thường kết thúc việc học hành ở trình độ
trung học cơ sở và vì vậy chúng khó có thể có cơ hội có việc làm cao. [Kết
quả nghiên cứu khảo sát tại Tiền Giang, 2005].
Thái độ của các gia đình nông thôn với việc học tập của trẻ em cũng
được thể hiện ở nguyện vọng, dự định của họ. Có thể nói dự định “các con
đều hết cấp II” được những người mù chữ tính tới nhiều nhất (100%), rồi đến
những người biết đọc, biết viết (13,3%). Kết quả điều tra cho thấy, các bậc
cha mẹ càng có trình độ học vấn cao thì càng mong muốn con cái học cao (hết
cấp III). Con số này ở những người học hết cấp I là 1,2%, hết cấp II là 12%,
hết cấp III là 14,2% và số người có trình độ đại học là 50%. Xét theo nghề
nghiệp, nhóm gia đình làm nghề “nông nghiệp kết hợp với nghề khác” có
nhiều người mong muốn cho con học lên cao (16,9% tùy con trai, con gái hết
phổ thông trung học). Dự định cho con học hết cấp III ở nhóm gia đình “phi
nông nghiệp” cao hơn hẳn (30,4%) so với nhóm gia đình nông nghiệp (8,3%).
[ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em, 2004].
Các nghiên cứu về mối quan hệ cha mẹ và con cái trong gia đình bao
gồm cả mô hình sống giữa cha mẹ và con cái. Đặc điểm cấu trúc hộ gia đình
có bố mẹ sống cùng với con cái đã trưởng thành và đã kết hôn: mô hình sống
cùng con trai là chủ yếu. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là tỷ lệ bố/mẹ hoặc
cả hai bố mẹ sống cùng với con trai út đã có vợ cao hơn là sống cùng với con
trai trưởng đã có vợ. Kết quả phân tích cho thấy, khoảng 38% người trả lời
mong muốn sống với con cái khi về già. Trong dàn sếp sống chung này, mong
muốn sống với con trai trưởng là chủ yếu, chiếm 29% trong tổng số người trả
lời. Điều đặc biệt khi so sánh giữa thế hệ già và thế hệ trẻ, tỷ lệ mong muốn
sống chung với con cái của thế hệ trẻ giảm so với thế hệ già. Điều đáng quan
tâm là khoảng một nửa số người trả lời mong muốn sống riêng khi về già.


12

Điều này cho thấy một sự thay đổi đáng kể trong tâm thế hướng đến gia đình
mở rộng [Vũ Tuấn Huy, 2004, tr.139].
Nhìn chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu, các đề tài khoa học và
các bài viết phản ánh nhiều chiều cạnh về mối quan hệ giữa các thế hệ trong
gia đình nói chung và quan hệ giữa cha mẹ và con cái nói riêng. Tuy nhiên,
khi đề cập đến mối quan hệ này cũng còn một số điểm trống cần được làm rõ
hơn, chẳng hạn sự lúng túng của lớp trẻ nông thôn trước khi bước vào lập
nghiệp và vai trò của cha mẹ như thế nào trong việc định hướng cho con em
mình hoặc quan niệm về ứng xử đạo đức của các bậc cha mẹ và con cái ở
nông thôn hiện nay ra sao
Để tiếp tục có những đóng góp trong lĩnh vực này đề tài luận văn
nghiên cứu về “Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình nông thôn
hiện nay” sử dụng số liệu điều tra tại địa bàn xã Trịnh Xá, huyện Bình Lục,
tỉnh Hà Nam thuộc Dự án “Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi”,
luận văn cố gắng phân tích thực trạng mối quan hệ cha mẹ và con cái trong
một số biểu hiện: mối quan tâm của cha mẹ trong việc học tập của con cái;
cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp cho con cái; quan hệ ứng xử đạo
đức giữa cha mẹ và con cái. Trong nghiên cứu, chúng tôi cũng kế thừa và tiếp
thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến chủ đề
này, đồng thời phát hiện thêm những vấn đề mới nhằm làm rõ hơn mối quan
hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình nông thôn hiện nay dưới tác động
của sự chuyển đổi kinh tế - xã hội đang diễn ra hiện nay ở nước ta.
3. ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Bằng cách phân tích các tác đông của điều kiện kinh tế – xã hội làm
biến đổi văn hóa gia đình, các chức năng cơ bản của gia đình, vai trò xã hội
của gia đình, đề tài góp phần bổ sung vào lý thuyết đã có với những luận


13

điểm, lập luận về mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình nông
thôn hiện nay.
- Phát hiện và khái quát những biểu hiện của những thay đổi chức năng
xã hội hóa của gia đình Việt Nam trong sự chuyển đổi từ truyền thống đến
hiện đại.
- Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa cha mẹ
và con cái trong việc xây dựng gia đình nông thôn ấm no, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ một số biểu hiện của mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái
trong đời sống gia đình nông thôn dưới tác động của những biến đổi kinh tế –
xã hội ở nước ta trong gia đoạn hiện nay.
- Nghiên cứu đánh giá vai trò, sự tương tác, chức năng xã hội hóa và xã
hội hóa trở lại giữa cha mẹ và con cái, những vai trò và chức năng này thay
đổi như thế nào trong điều kiện biến đổi kinh tế xã hội như hiện nay.
- Từ những phân tích về mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia
đình nông thôn hiện nay để hiểu rõ thực trạng cũng như sự biến đổi để đề xuất
các giải pháp can thiệp.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số biểu hiện của mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái
trong đời sống gia đình nông thôn hiện nay.
- Tìm hiểu về mối quan hệ của cha mẹ và con cái trong gia đình nông
thôn tại xá Trịnh Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam bao gồm: việc quan tâm
của cha mẹ đối với việc học của con cái, định hướng nghề nghiệp, ứng xử đạo

14


đức giữa cha mẹ và con cái trên cơ sở đó chỉ ra các yếu tố tác động đến mối
quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
- Đề xuất một số định hướng cơ bản nhằm đảm bảo tính liên tục của
chức năng xã hội hóa của gia đình, góp phần xây dựng gia đình nông thôn
mới ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong đời sống gia đình nông thôn
hiện nay.
Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện thông qua bảng câu hỏi dành cho các bậc
cha mẹ trong các gia đình ở nông thôn. Các đối tượng cung cấp thông tin khác
gồm các cá nhân, các đại diện tổ chức đoàn thể, lãnh đạo địa phương, trường
học trên địa bàn nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu.
Địa bàn nghiên cứu là xã Trịnh Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Nguồn số liệu sử dụng trong luận văn.
Nguồn số liệu được sử dụng trong luận văn lấy từ số liệu gốc thuộc dự
án nghiên cứu liên ngành “Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi”
(VS-RDE-05) với sự cho phép của Ban chủ nhiệm Dự án. Dự án “Gia đình
nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi” là dự án nghiên cứu liên ngành thuộc
chương trình hợp tác nghiên cứu Việt Nam - Thuỵ Điển do Bộ Khoa học và
Công nghệ là cơ quan chủ quản và SIDA/SAREC tài trợ. Dự án do Viện Xã
hội học là cơ quan điều phối cùng với Viện Gia đình và Giới, Viện Dân tộc
học và hai đối tác Thuỵ điển gồm Đại học Goteborg và Đại học Linkoping

15

phối hợp thực hiện 2004 - 2008. Số liệu được trích dẫn trong đề tài lấy từ
nguồn thông tin của dự án. Thông tin định tính là của tác giả. Ngoài ra, các số

liệu khác dùng để so sánh đều có trích dẫn cụ thể.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Hệ thống lý luận, phương pháp luận của xã hội học đại cương trong
việc giải thích các sự kiện, hiện tượng xã hội.
Lý thuyết chức năng của xã hội học.
Các lý thuyết xã hội học về xã hội hóa, về nhân cách và vai trò của gia
đình trong việc hình thành nhân cách con người.
Lý thuyết xã hội học gia đình.
Lý thuyết tương tác biểu trưng.
Phương pháp lịch sử cụ thể (phạm vi thời gian, không gian nghiên cứu
khái quát).
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu định lượng
Sử dụng và phân tích thứ cấp các số liệu điều tra của dự án nghiên cứu
“Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi” (VS-RDE-05) nghiên cứu
trường hợp xã Trịnh Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Cuộc điểu tra được
tiến hành năm 2008 do Viện Xã hội học (IOS) cùng hai đối tác Thuỵ điển
gồm Đại học Goteborg và Đại học Linkoping, Viện Gia đình và Giới (IFGS)
và Viện Dân tộc học phối hợp thực hiện năm 2008. Tổng số mẫu được khảo
sát là 302 gia đình thuộc xã Trịnh Xá.
Phương pháp nghiên cứu định tính

16

Tác giả tiến hành 15 phỏng vấn sâu và 5 thảo luận nhóm với các đối
tượng là các bậc phụ huynh có con đang đi học, các bậc ông bà, các em đang
trong độ tuổi đi học từ cấp Tiểu học đến PTTH.
Thu thập các thông tin thứ cấp: luận văn sử dụng số liệu thông kê, báo
cáo phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, báo cáo của trường THPT

Trịnh Xá, báo cáo của trường THCS Trịnh Xá Ngoài ra, tác giả cũng sử
dụng một số tài liệu có liên quan đến chủ đề nghiên cứu được công bố trên
các sách báo, tạp chí khoa học từ trước tới nay.
7. Giả thuyết nghiên cứu.
Thứ nhất: Sự chuyển đổi kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong hai thập kỷ
qua đã có những tác động làm cho quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia
đình nông thôn hiện nay trở nên đa dạng và phức tạp hơn.
Thứ hai: Có sự chuyển đổi trong chức năng xã hội hóa gia đình hiện
nay. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái thực chất là mối quan hệ tương tác nhiều
chiều mà kết quả của nó là quá trình đan xen giữa những giá trị truyền thống
và những giá trị hiện đại.
8. Kết cấu của luận văn.
Luận văn gồm 3 phần chính:
Phần I: Mở đầu
Giới thiệu khái quát nội dung của đề tài
Phần II: Nội dung chính
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
Chương II: Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong đời sống gia đình nông
thôn hiện nay.
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu

17

2.2. Đặc điểm cấu trúc hộ gia đình được nghiên cứu
2.3. Cha mẹ với việc học tập của con cái
2.4. Cha mẹ với việc định hướng nghề nghiệp cho con
2.5. Quan hệ ứng xử đạo đức giữa cha mẹ và con cái
Phần 3: Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
















18

Phần II: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
của vấn đề nghiên cứu
1.1. Cở sở lý luận
Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó
có xã hội học. Gia đình được hiểu là một thiết chế xã hội liên kết con người
lại với nhau nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống và chăm sóc con cái. Nhận
thức được vị trí quan trọng của gia đình trong sự phát triển của xã hội nên từ
rất lâu, vấn đề gia đình cũng đã được các nhà tư tưởng, các nhà khoa học, các
nhà hoạch định chính sách và các lực lượng tiên tiến hết sức quan tâm, coi
trọng. Từ các trường phái khác nhau, các học giả phương tây áp dụng các
cách tiếp cận của trường phái mình trong nghiên cứu về các vấn đề gia đình.
Khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã

có những đóng góp to lớn cho vấn đề nghiên cứu gia đình. Các ông cho rằng
gia đình là một tổ chức xã hội đặc biệt và mang tính xã hội cao. Sự ra đời của
gia đình đã gắn liền với sự hình thành xã hội với những cấu trúc chặt chẽ và
logic. Tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà
nước” của F. Engels được coi là một trong những tác phẩm dẫn đường cho
trào lưu nghiên cứu về gia đình của thế kỷ XIX. Trong cuốn sách này, vấn đề
nguồn gốc của gia đình được soi sáng như là quá trình phát sinh của chế độ
một vợ một chồng. Quá trình này bị chế định – như F. Engels đã nêu – không
phải bởi tình yêu nam nữ - yếu tố được coi là sản phẩm của quá trình phát
triển lâu dài và đầy mâu thuẫn của lịch sử, mà bởi sự hình thành chế độ tư hữu
và nhà nước.
F. Engels đặt lên hàng đầu nhiệm vụ nghiên cứu nguồn gốc của gia
đình bằng cách xem xét sự vận động khách quan của quá trình đó đi từ chế độ
quần hôn tới gia đình một vợ một chồng. Ông cũng phân biệt các khái niệm

19

“hôn nhân” và “gia đình”. Khi nói đến hôn nhân, F. Engels cho rằng trọng
tâm ý nghĩa thường rơi vào mặt tính giao xác thịt trong quan hệ giữa đàn ông
và đàn bà, vào việc làm thỏa mãn những nhu cầu sinh dục. Mức độ phát triển
cao nhất của nó, như F. Engels đã đặc biệt nhận xét, là tình yêu có chọn lọc
giữa các cá nhân với nhau, với niềm hưng phấn bởi một tình cảm cao quý.
Vấn đề bảo đảm các nhu cầu sinh học khác, trước tiên là tư liệu sinh hoạt,
cũng như việc sinh con đẻ cái và giáo dục chúng, trong trường hợp này, nổi
lên như một nhu cầu thứ yếu, có thể phát sinh hoặc không phát sinh từ cuộc
hôn nhân nói trên.
Ngược lại, khái niệm gia đình thường gắn với hôn nhân và là khái niệm
phát sinh từ chính hôn nhân, song không thể chỉ quy trực tiếp vào hôn nhân
được. Gia đình đòi hỏi phải có hành động tương hỗ giữa các cá thể trong quá
trình thỏa mãn không chỉ các nhu cầu sinh dục, mà còn cả các nhu cầu ăn

uống, sinh hoạt, giáo dục và tình cảm. Nó cũng bao gồm cả việc làm kinh tế
chung, sinh con đẻ cái và giáo dục chúng, việc con cháu được thừa hưởng tài
sản của tổ tiên v.v
Trong xã hội học, quan điểm của Parson (1955) coi gia đình là một tiểu
hệ thống xã hội (sub system) đã định hướng cho phần lớn công trình phân tích
gia đình từ cách tiếp cận xã hội học trong thập niên 1950 từ các thông số tâm
lý (sinh vật học sang xã hội học thuần túy). Parson chứng minh tầm quan
trọng của xã hội hóa và học hỏi vai trò xã hội, không những từ thời thơ ấu mà
suốt cả cuộc đời. Parson biện luận rằng sự khác biệt giữa vai trò làm mẹ và
làm bố, là bằng chứng phân công lao động trong xã hội hiện đại. Ông cho
rằng trẻ em không có khả năng bẩm sinh gì ngoài khả năng sống còn cần
thiết. Vậy nên đứa trẻ phải học cách xin được thỏa mãn nhu cầu cũng như học
thương yêu những ai thỏa mãn nhu cầu của nó. Trong cuốn “Xã hội hóa gia
đình và quá trình tương tác” của T. Pasons và R. F .Bales (1955), Parson cũng

20

nhấn mạnh ý kiến cho rằng gia đình chỉ là một hệ thống nhỏ trong hệ thống xã
hội. Dần dần có một tiểu hệ thống trong gia đình, như quan hệ giữa cha mẹ và
con và tiểu hệ thống hôn nhân một vợ một chồng. [Những bài giảng về xã hội
học, 2006, tr 290].
Còn David M. Newman trong tác phẩm “Xã hội học về gia đình”
(1999) đã trình bày các định nghĩa về gia đình, hình thức tồn tại của gia đình,
vấn đề quyền cá nhân và trách nhiệm của gia đình, mối quan hệ giữa đời sống
gia đình và xã hội, hôn nhân và lao động, quyền của cha mẹ và con cái
Một đại biểu khác trong nghiên cứu về gia đình là August Comte (1798
– 1857), nhà triết học Pháp đồng thời là một trong những người sáng lập ra
ngành xã hội học. Ông cho rằng: gia đình là công cụ xã hội hóa cá nhân,
chuẩn bị cho con người bước vào cuộc sống xã hội, là trường học của đời
sống xã hội. Gia đình là một tập đoàn xã hội cơ bản và quan trọng nhất. Cơ sở

gắn bó gia đình trong xã hội là kết quả hợp tác giữa các gia đình trong sự
phân công lao động.
Cũng trong giai đoạn này, còn có Le Play (1806-1882), nhà xã hội học
Pháp, được coi là một trong những người đầu tiên đề xướng việc nghiên cứu
thực nghiệm về gia đình. Ông coi gia đình là một bộ phận của xã hội và do đó
có thể thông qua việc phân tích, mổ xẻ những quan hệ gia đình mà tiến tới
phân tích toàn bộ xã hội. Ông nhấn mạnh vào việc nghiên cứu ngân sách gia
đình và cho rằng nó là một yếu tố quan trọng, sẽ quyết định toàn bộ đời sống
gia đình cũng như các chức năng của gia đình.
Ch. H. Cooley, nhà xã hội học Mỹ trong cuốn sách “Bản chất con
người và trật tự xã hội” thì lại đưa ra quan điểm coi gia đình như là một thành
tố của cấu trúc xã hội. Ông chia xã hội thành nhiều nhóm nhỏ có vai trò rất
quan trọng trong quá trình xã hội hóa cá nhân. Đưa hệ thống phương pháp

21

luận có tính cơ cấu chức năng vào việc phân tích gia đình, Cooley và những
học trò của ông đã có điều kiện để mổ xẻ, phân tích các quan hệ gia đình một
cách cụ thể, sát thực, nhưng lại có phần coi nhẹ các nhân tố mang tính chủ thể
như nhận thức, tâm lý, tâm trạng, các nhân tố về văn hóa, truyền thống, phong
tục tập quán trong sự vận động của các quan hệ gia đình.
Từ giữa thế kỷ XX đến nay là giai đoạn có những biến đổi to lớn trong
nghiên cứu và nhận thức khoa học về gia đình. Trước đây, khái niệm gia đình
chỉ được bao hàm hai người nam nữ khi họ đã cưới nhau và chung sống với
con cái. Người chồng là người duy nhất trụ cột gia đình và người vợ là người
ở nhà chăm sóc công việc gia đình và con cái. Vào khoảng những năm 50 của
thế kỷ XX, trong giới nghiên cứu rất thịnh hành một định nghĩa về gia đình:
“là một nhóm xã hội gồm hai hoặc nhiều người gắn bó với nhau bằng quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nhận con nuôi nhằm thỏa mãn
nhu cầu về xã hội về tái sản xuất dân cư theo cả nghĩa thể xác và tinh thần”.

Tuy nhiên trên thực tế xã hội đang ngày càng phát triển, các hình thức
gia đình cũng càng đa dạng và phức tạp. Các hình thức như cặp vợ chồng; gia
đình chỉ có một mẹ hoặc một cha; gia đình tái hôn; nam nữ sống chung mà
không cưới; vợ chồng không có con; mẹ kế, cha dượng; cha mẹ và con nuôi
đã khiến những định nghĩa cứng nhắc như trên sẽ không còn phù hợp.
Cách đây hơn một thế kỷ, F. Engels (1848) đã mô tả gia đình như thể
một cội nguồn căn bản của bất bình đẳng xã hội do vai trò của nó trong sự
chuyển giao quyền lực, của cải và đặc quyền đặc lợi. Gần đây hơn, các lý
thuyết gia duy xung đột đã chủ trương rằng gia đình góp phần vào sự bất công
xã hội; phủ nhận các cơ hội của phụ nữ, những cơ hội vốn đang được mở rộng
ra cho nam giới. Trái lại, quan điểm duy chức năng thì nhắm vào những

×