Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Một số nguyên nhân xung đột trong gia đình vợ chồng trẻ tại Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 102 trang )


















































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC




NGUYỄN HỒNG HÀ




MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN XUNG ĐỘT TRONG

GIA ĐÌNH VỢ CHỒNG TRẺ TẠI HÀ NỘI

Chuyên ngành: Xã Hội Học
Mã số: 5.01.09


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC







Hà Nội - 2003






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC





NGUYỄN HỒNG HÀ





MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN XUNG ĐỘT TRONG
GIA ĐÌNH VỢ CHỒNG TRẺ TẠI HÀ NỘI



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Hào Quang






Hà Nội - 2003




1

Mục lục

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU


1- Lý do chọn đề tài
3
2 – Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4
3- Đối tượng, khách thể nghiên cứu
5
4- Giả thuyết nghiên cứu
5
5- Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5
6- Khung lý thuyết
8
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH

Chƣơng I – Cơ sở lý luận thực tiễn của đề tài
9
1- Cơ sở lý luận
9
- Lý thuyết
9
- Khái niệm công cụ
12
2- Cơ sở thực tiễn
21
2.1 – Tổng quan tình hình nghiên cứu
21
2.2 Sơ lược địa bàn nghiên cứu
23
II- Chƣơng 2: Một số nguyên nhân và các dạng xung đột


A- Thực trạng xung đột trong gia đình trẻ
26
1- Hình thức xung đột
26
2- Các nguyên nhân dẫn tới xung đột
26
3- Tần số xung đột
27
4- Các giai đoạt xuất hiện xung đột trong đời sống vợ chồng trẻ
28
B- Một số nguyên nhân

I- Xung đột về quan điểm sống
28
II-Xung đột về ứng xử
55
III-Xung đột về kinh tế
57
IV- Xung đột do không hòa hợp về đời sống tình dục
81
Kết luận và Kiến nghị
87
Danh mục tài liệu tham khảo
92

2
PHẦN MỞ ĐẦU

1- Lý do chọn đề tài

Trong đời sống xã hội từ xưa đến nay, gia đình có một vị trí vô cùng quan
trọng. Đối với người Việt Nam, gia đình mang một giá trị cao cả, thiêng
liêng. Hôn nhân và gia đình luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của nền
kinh tế – xã hội. Gia đình Việt Nam hiện nay đang phải đương đầu với
nhiều thử thách mới khi chuyển từ mô hình gia đình truyền thống sang mô
hình gia đình hiện đại. Thực tế cho thấy, sự tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng không tương xứng với sự phát triển văn hoá - xã hội đã làm khủng
hoảng nhiều hệ thống giá trị tinh thần, đạo đức của nhiều nước trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Tỷ lệ ly hôn ở các cặp vợ chồng trẻ đặc biệt ở
khu vực thành phố hiện nay đang có xu thế tăng lên, kéo theo nhiều hậu
quả tiêu cực về mặt xã hội. Theo số liệu thống kê ngành toà án (1993), tỷ lệ
ly hôn ở thành phố là 3.33% ; tỷ lệ ly thân ở thành phố là 1,77% [7, tr.14].
Báo An ninh thủ đô số 379 ra ngày 16 –2-2002 đã thống kê từ tháng 1 đến
tháng 10-2001, các toà án quận, huyện trên 61 tỉnh thành trong cả nước đã
thụ lý 35.326 vụ án về hôn nhân và gia đình. Trong số đó có đến 21.013 vụ
do các nguyên nhân về xung đột trong gia đình, 2092 vụ do nguyên nhân
ngoại tình, 8628 vụ ly hôn vì những nguyên nhân khác. Như vậy, xung đột
trong gia đình là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến ly hôn. Vậy
nguồn gốc của các xung đột trong gia đình như thế nào? Những nhân tố
nào tác động đến xung đột trong gia đình? Các cặp vợ chồng giải quyết
xung đột như thế nào? Nhân tố nào tác động đến cách giải quyết đó?
Nghiên cứu nguồn gốc của xung đột gia đình cũng như cách giải quyết
xung đột sẽ giúp chúng ta hiểu được độ bền vững của hôn nhân cũng như
các nhân tố tác động tới độ bền vững này.
- Dưới góc độ Xã hội học, gia đình được coi là một nhóm nhỏ, do
vậy sự tương hợp giữa các thành viên trong nhóm là rất cần thiết cho sự tồn
tại của nhóm một cách bình thường. Sự tương hợp này sẽ tạo ra sự cố kết
bên trong nhóm và sự bền vững của nhóm. Sự khác biệt quá lớn về động
cơ, mục đích, nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị … giữa các thành viên
trong nhóm sẽ dẫn đến mâu thuẫn, xung đột. Gia đình tồn tại và phát triển

trên cơ sở các hoạt động chung, các xung đột kéo dài giữa vợ và chồng sẽ

3
ảnh hưởng đến các hoạt động chung và sẽ ảnh hưởng đến sự bền vững của
hôn nhân. Vì thế, Nghiên cứu nguyên nhân xung đột trong gia đình đang
trởthành một vấn đề cấp bách, có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Về mặt lý luận,
trên cơ sở vận dụng các lý thuyết xã hội học về gia đình lý giải các nguyên
nhân xung đột trong gia đình vợ chồng trẻ, góp phần làm phong phú thêm
các lý thuyết về gia đình. Góp phần vào nghiên cứu lý luận, củng cố và bổ
sung tri thức cho xã hội học gia đình. Về mặt thực tiễn, những kết quả điều
tra thực tế của đề tài góp phần bổ sung tư liệu thực tế, làm tài liệu tham
khảo và cơ sở cho các nghiên cứu khác….
Vì thế tìm hiểu các nguyên nhân xung đột trong gia đình, tìm biện
pháp giải quyết các xung đột đang là một vấn đề đáng quan tâm.
Vì thế chúng tôi thực hiện đề tài này với những lý do sau:
a- Những xung đột gia đình làm cho tỷ lệ ly hôn cao.
b- Tầm quan trọng của sự ổn định gia đình trong sự phát triển xã hội nói
chung và các thành viên trong gia đình nói riêng.
c- Những biến đổi kinh tế – xã hội kéo theo sự thay đổi trong gia đình, lý
giải những nguyên nhân xung đột trong quan hệ giữa vợ và chồng dưới
góc độ lý luận và thực tiễn đang trở nên rất cần thiết.
d- Nghiên cứu nguyên nhân xung đột để tìm hiểu các loại xung đột, các
hình thức và sự phát triển xung đột trong giai đoạn hiện nay.

2- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu :
2.1. Mục đích nghiên cứu:
- Thông qua tác động của các yếu tố Kinh tế, văn hóa chính trị, xã
hội để tìm hiểu nguyên nhân xung đột trong gia đình của các cặp vợ chồng
trẻ ở Hà Nội hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Tìm hiểu thực trạng xung đột trong các cặp vợ chồng trẻ hiện nay
- Phân tích các nguyên nhân xung đột trong gia đình dưới các góc
độ quan điểm sống, cách ứng xử, đời sống kinh tế của gia đình, sự
hoà hợp trong quan hệ tình dục.
- Xem xét tác động của các yếu tố kinh tế, văn hoá, chính trị,… tới
xung đột và cách thức giải quyết xung đột trong gia đình.


4
3- Đối tượng, khách thể nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Nguyên nhân xung đột
trong gia đình vợ chồng trẻ ở Hà Nội.
- Khách thể nghiên cứu là các cặp vợ chồng tuổi từ 18-30.
- Phạm vi khảo sát: phường Nghĩa tân – Quận Cầu Giấy và phường
Cửa Đông – Quận Hoàn Kiếm
4- Giả thuyết nghiên cứu
- Trong nền kinh tế thị trường sự biến đổi các yếu tố kinh tế xã hội
làm tăng các xung đột trong gia đình trẻ.
- Những xung đột trong quan hệ vợ chồng bắt nguồn từ sự khác
biệt về quan điểm sống của hai vợ chồng.
- Mối quan hệ giữa vợ chồng với các thành viên khác trong gia
đình, họ hàng là một trong những lý do dẫn đến xung đột giữa hai
vợ chồng.
- Yếu tố kinh tế có ảnh hưởng đến sự ổn định trong gia đình.
- Các cặp vợ chồng có sự khác biệt về trình độ học vấn, nghề
nghiệp, lứa tuổi có cách xử lý xung đột khác nhau.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1- Phương pháp luận Mác-xít
Phương pháp luận Mác xít chỉ rõ: “Những nguyên lý cơ bản của lý

luận Mác – Lê nin về xã hội là nguyên lý duy vật, nguyên lý phát triển,
nguyên lý tính hệ thống, nguyên lý tính phản ánh …” [15, tr.13]. Sử dụng
hệ thống quan điểm trên để nghiên cứu nguyên nhân xung đột trong gia
đình vợ chồng trẻ:
- Theo quan điểm lịch sử: - Không tách gia đình với hoàn cảnh kinh
tế, văn hoá - xã hội của đất nước trong các giai đoạn lịch sử cũng như hiện
nay.
- Theo quan điểm hệ thống: Gia đình là tế bào của xã hội, là một bộ
phận hợp thành của một chỉnh thể thống nhất bao gồm một hệ thống các
yếu tố có liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Nghiên cứu nguyên nhân

5
xung đột trong gia đình cần phải đặt trong mối tương quan, tác động qua lại
qua các yếu tố như: Văn hoá, Chính trị, Kinh tế ….
- Theo quan điểm phát triển: Gia đình luôn luôn vận động và biến đổi
không ngừng. Theo đó hàng loạt các cơ cấu, chức năng của gia đình cũng
như vị thế vai trò của các thành viên trong gia đình cũng không ngừng vận
động và biến đổi.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1 - Phương pháp phân tích tài liệu
Mục đích cơ bản của phương pháp này là dựa trên cơ sở tổng quan
của các nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm làm rõ cơ sở lý luận của đề
tài. Tham khảo các nguồn tư liệu khác nhau: Những hồ sơ, văn bản, các tài
liệu lưu trữ, các nguồn sách báo, tạp chí trong và ngoài nước nhằm bổ sung
những tư liệu cho việc điều tra.
5.2.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đây là phương pháp cơ bản,
chủ yếu sử dụng để thu thập thông tin về nhận thức, hành vi của những vợ
hoặc chồng có độ tuổi từ 18-30. Bảng hỏi được thiết kế để hỏi chung cho
tất cả các đối tượng điều tra trong mẫu chọn.
- Nội dung bảng hỏi chia thành các nhóm thông tin chính như sau:

+ Các thông tin về bản thân người được hỏi (Tuổi, giới tính,
trình độ học vấn, nghề nghiệp …)
+ Các thông tin về quan điểm lối sống (về các vấn đề sinh con;
Sử dụng tiền; về vấn đề tình dục …)
+ Các thông tin về kinh tế (mức thu nhập; người đóng góp
ngân sách, người quản lý tiền )
+ Thông tin về quan hệ họ hàng bên nội, bên ngoại, quan hệ
bạn bè …
+ Các thông tin về xung đột trong gia đình (hình thức, mức độ,
thời gian diễn ra , hình thức giải quyết xung đột …)
Cách thức chọn mẫu: Sử dụng phương pháp chọn mẫu cụm trên cơ sở đó
có khung mẫu gồm hai cụm là phường Nghĩa Tân – quận Cầu Giấy và

6
phường Cửa Đông – quận Hoàn Kiếm. Sau đó lấy mẫu ngẫu nhiên đơn
giản với kích thước mẫu là 300, tiếp tục sử dụng phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên phân tầng có được cơ cấu mẫu như sau:





Sau khi hoàn thành quá trình khảo sát thực địa, các thông tin định
lượng được kiểm tra, mã hoá và xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 12.0.
Các bảng tần suất (Frequencies) và các bảng tương quan (Crosstabulation)
giữa các biến số được sử dụng như là sản phẩm chính trong báo cáo nghiên
cứu. Những thông tin định tính được lựa chọn, khái quát hoá, trích dẫn
nhằm phục vụ theo từng chủ đề của luận văn.
5.2.3 Phương pháp phỏng vấn sâu: Bổ sung các dữ liệu định tính, nhằm
hiểu sâu hơn về vấn đề nghiên cứu và góp phần lý giải những kết quả định

lượng thu được.
Phương pháp phỏng vấn sâu được tiến hành 2 giai đoạn: Giai đoạn 1
nhằm phát hiện vấn đề và xây dung bảng hỏi định lượng. Giai đoạn 2: sau
khi thu thập và phân tích sơ bộ thông tin thu được, tiến hành phỏng vấn sâu
để lý giải những kết quả định lượng.
Đối tượng phỏng vấn sâu:
- 5 nam, 5 nữ cưới năm 2000-2002, tuổi 20-30.
Sử dụng chương trình xử lý định tính NVivo để phân tích kết quả nghiên
cứu định tính.
Nội dung phỏng vấn gồm các thông tin sau:
+ Các thông tin về bản thân người được hỏi (Tuổi, giới tính, trình độ
học vấn, nghề nghiệp …)
+ Các thông tin về quan điểm sống (về các vấn đề sinh con; Sử dụng
tiền; về vấn đề tình dục …)
150 người ở Nghĩa Tân
300 người
72 Nam
150 người ở Cửa Đông
78 Nữ
72 Nam
78 Nữ
Tầng 1: Khu vực
Tầng 2: Giới tính

7
+ Các thông tin về kinh tế (mức thu nhập; người đóng góp ngân
sách, người quản lý tiền )
+ Thông tin về quan hệ họ hàng bên nội, bên ngoại, quan hệ bạn bè.

6 – Khung lý thuyết

- Nghiên cứu này xác định biến độc lập là: điều kiện kinh tế – xã hội,
chính trị – xã hội, văn hoá - xã hội; các đặc điểm riêng của vợ, chồng và
biến phụ thuộc là những xung đột trong gia đình các cặp vợ chồng trẻ. Sự
tác động của các biến này thông qua các biến trung gian là nhận thức của
vợ chồng trẻ.

- Mối quan hệ giữa các biến số được thể hiện qua khung lý thuyết
sau:


















Nhận thức của vợ chồng trẻ
Xung đột gia đình
- Học vấn
- Nghề nghiệp

- Thành phần XH
- Thu nhập
Hành vi lệch chuẩn
Hành vi hợp chuẩn
-Kinh tế
-Văn hoá
-Xã hội
- Chính trị

8
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
I- Cơ sở lý luận:
1- Lý thuyết:
- Lý thuyết xung đột:
Các nhà lý thuyết xung đột cũng đặt trọng tâm nghiên cứu về cấu trúc và
thể chế xã hội. Những quan điểm của họ về vấn đề này lại đối lập với các
nhà chức năng luận. Chẳng hạn, nếu như các nhà chức năng luận xem xã
hội là một trạng thái tĩnh hoặc có quan điểm xem xã hội là trạng thái
chuyển động thăng bằng, thì các nhà xung đột lại cho rằng xã hội trong
mọi thời điểm đều hướng tới quá trình biến đổi. Các nhà xung đột nhìn
nhận thấy sự bất đồng và xung đột ở bất kỳ một thời điểm nào trong hệ
thống xã hội thì các nhà chức năng lại đề cao tính trật tự của xã hội. Xu
hướng của các nhà chức năng coi xã hội được duy trì và liên kết nhờ các
giá trị và nền tảng đạo đức chung, còn các nhà xung đột luôn chỉ ra tính trật
tự của xã hội là sự áp bức của một số người có vị trí ở trên cùng. Hay nói
cách khác, các nhà chức năng nhấn mạnh tới vai trò của giá trị trong sự cố
kết xã hội thì các nhà xung đột lại nhấn mạnh vai trò của quyền lực trong
việc duy trì trật tự xã hội.
Khái quát về lý thuyết xung đột theo xã hội học.

Có thể tóm tắt các luận điểm của lý thuyết này được phổ biến rộng
rãi như sau: Các chức năng và các hành động xã hội góp phần vào sự phát
triển của tập đoàn và của xã hội, chúng hoà hợp với nhau, hoặc một cách tự
phát, hoặc do ý chí của quyền lực xã hội. Nhưng trong nhiều trường hợp,
chúng cũng xung đột với nhau. Thậm chí người ta có thể nói rằng , nếu
hiểu xung đột theo nghĩa rộng nhất của nó, thì xung đột là một trong những
mặt thường xuyên của cuộc sống con người. Nó tồn tại ở tất cả các trình độ
trong gia đình, tập đoàn (tộc người, tầng lớp, giai cấp), xã hội - chính trị,
cộng đồng thế giới.
- Sự xung đột qui định cả một loạt những hành động đặc thù nhằm
giải quyết nó, và đi từ sự thảo luận để sửa lại sự vật cho đúng và tìm kiếm
một miếng đất thoả hiệp cho cuộc đấu tranh và cho chiến tranh. Sự giải

9
quyết nó đem lại những kết quả khác nhau, trong đấy, có khả năng lập một
hay nhiều tập đoàn có thể biến mất. Nhưng nó luôn luôn dẫn đến một sự
phân phối lại, ít nhiều quan trọng các vai trò xã hội, xuất phát từ đấy mà tạo
nên một sự thống nhất mới. Người ta phân biệt hai kiểu xung đột lớn:
những xung đột làm nguy hại cho sự tồn tại của tập đoàn và những xung
đột xét cho cùng chỉ là biểu hiện sức sống của tập đoàn đó. Tuy nhiên, một
sự tích luỹ quá lớn những xung đột nhỏ có thể đưa đến một sự thay đổi về
chất, được thể hiện thành một cuộc xung đột lớn và không sao có thể hàn
gắn được. Tiêu chuẩn nặng hay nhẹ của một cuộc xung đột chính yếu
không gây nên sự đoạn tuyệt của những mối liên hệ xã hội, mà chỉ xác
nhận sự đoạn tuyệt ấy. Sự đoạn tuyệt đã có trong thực tế và tập đoàn chỉ
tiếp tục sống về bên ngoài.
- Nguồn gốc của những xung đột thật khác nhau, tuỳ theo sự khác
nhau của bản thân những cuộc xung đột. Nhưng mọi cuộc xung đột đều
được giải thích bởi sự kiện là những hành động xã hội và mục đích mà
chúng tìm kiếm tất yếu sẽ gặp nhau, đúng như là tự do của mỗi người gặp

gỡ tự do của người khác. Việc gặp gỡ này là một sự hạn chế lẫn nhau. Nếu
nó được thừa nhận và chấp nhận ngay tức khắc, thì tình hình xung đột
không nảy sinh. Trong trường hợp ngược lại, sự xung đột không thể tránh
khỏi. Tóm lại, nguồn gốc của những sự xung đột là ở trong vô số những
quyền lợi xã hội đặc thù. Nếu nhiều cuộc xung đột không nảy sinh, đó là vì
xã hội, bằng các quyền lực và các luật lệ của nó, đã qui định từ trước những
giới hạn mà mọi người đều biết và được chấp nhận như qui luật của trò
chơi. Một số những xung đột rất hiện thực và được thể hiện thành một cuộc
thử sức mạnh, cũng diễn ra trong khuôn khổ của xã hội, điều này cũng duy
trì chúng trong một giới hạn nào đó. Người ta cũng nhận thấy rằng những
cuộc thử sức (và cả chiến tranh nữa) đều không xoá bỏ sự thảo luận, bàn
bạc: các bên hữu quan của xung đột vẫn tiếp tục, nếu không phải là điều
đình thì ít ra cũng là thảo luận, và thường là thảo luận kín.
- Người ta muốn coi ganh đua như là một xung đột. Thực tế, nó là
hình thức bình thường của những cuộc xung đột bình thường của một xã
hội. Đôi khi, người ta đề nghị những người ganh đua hãy tỏ ra "hiếu chiến".
Và giống như những cuộc xung đột nghiêm trọng hơn, việc ganh đua, dẫn

10
đến sự loại bỏ một đối thủ. Thêm nữa, ganh đua và xung đột không phải là
vô chính phủ; chúng cũng có qui tắc mà trong cả hai trường hợp, đôi khi
cũng bị vi phạm. Cuối cùng, việc loại bỏ đối phương không bao giờ là vĩnh
viễn. Trong một cuộc ganh đua, đối thủ này trỗi dậy, thay đổi và tiếp tục
cuộc đấu tranh lại tiếp tục. Trong một cuộc xung đột xã hội,, đối thủ thua
không bao giờ thừa nhận hoàn toàn sự thất bại của họ. Vì thế, thường
thường những sự xung đột lại là nguồn gốc đẻ ra những sự xung đột.
- Sự xung đột có thể là ở bên trong tập đoàn hoặc giữa tập đoàn này
với một tập đoàn khác. Trong trường hợp sau, sự đe doạ xung đột, là một
yếu tố làm cho tập đoàn có liên quan cấu kết lại với nhau, và chính quyền
có thể viện ra sự đe doạ ấy, dù nó là hoang đường, vì mục đích đoàn kết nói

trên. Thực vậy, trước sự đe doạ này, các quyền lợi đang xung đột hoặc
ganh đua với nhau có thể dễ dàng tự hạn chế lại để đương đầu với tình
hình: sự tồn tại của tập đoàn, là một điều kiện cơ bản cho sự sống còn của
họ.
Nhận xét này, dẫn đến một nhận định quan trọng. Các xã hội năng
động và đang phát triển được đặc trưng bởi một tinh thần đấu tranh rất rõ
rệt trong nội bộ của nó cũng như đối với bên ngoài. Một xã hội mất tinh
thần ấy, một xã hội không biết đến sự xung đột căng thẳng, hoặc che giấu
chúng và không dám đương đầu với chúng, sẽ nhanh chóng rơi vào trạng
thái hôn mê. Đó là một trong những chân lý lớn mà chủ nghĩa Mác đã làm
sáng tỏ, đó là chân lý cho rằng xung đột, đấu tranh là những yếu tố bên
trong của sự phát triển xã hội…
Thực vậy, những sự va chạm về quyền lợi luôn luôn đặt thành vấn
đề, những vấn đề công lý: con người và các xã hội xung đột với nhau vì
công lý và xung quanh công lý. Và những vấn đề công lý này còn bắt
nguồn từ sự kiện là những quan niệm về công lý là khác nhau, chúng tiến
triển, chúng chú ý đến những hoàn cảnh và đến sự đổi mới của hoàn cảnh
đó.
Trên cơ sở lý thuyết xung đột, đề tài đã tập trung phân tích ảnh
hưởng của các nhân tố hành động xã hội tới sự hình thành và phát triển các
dạng xung đột trong gia đình vợ chồng trẻ.


11

2. Khái niệm:
2.1 Khái niệm chung về xung đột: Thuật ngữ xung đột được hiểu như là
sự va chạm, sự đụng độ, sự xô xát, chống đối giữa những khuynh hướng
đối lập nhau, không tương hợp nhau trong ý thức của một cá nhân riêng
biệt, trong sự tác động qua lại liên nhân cách của các cá thể hay của các

nhóm người, gắn liền với những thể nghiệm xúc cảm tiêu cực, gay gắt.
Xung đột xã hội là những tranh chấp giữa hai hoặc nhiều cá nhân hay
nhóm. Nguyên nhân mâu thuẫn có thể là những vấn đề khác nhau trong đời
sống xã hội. Chẳng hạn, xung đột về vật chất, về các giá trị và cá phương
châm sống, về quyền lực, về những khác biệt địa vị – vai trò của cơ cấu xã
hội, về những khác biệt cá nhân. Như vậy, xung đột bao trùm lên tất cả
mọi phạm vi hoạt động sống của con người, toàn bộ mọi quan hệ xã hội, sự
tương tác xã hội. Xung đột thực chất là một trong số những kiểu tác động
xã hội mà chủ thể và người tham gia trong đó là các cá thể đơn lẻ, các tập
đoàn, các tổ chức xã hội.[24, tr.252]
Tuy nhiên, sự tương tác xung đột tạo ra sự đối đầu giữa các bên, tức là
hành động nhằm chống đối nhau.
Cơ sở của xung đột là những mâu thuẫn chủ quan - khách quan, xung đột
xã hội đó là sự đối đầu công khai, là mâu thuẫn giữa hai hoặc nhiều hơn
nữa chủ thể và người tham gia vào tương tác xã hội mà nguyên nhân là sự
bất đồng về nhu cầu, lợi ích và giá trị.
- Các chủ thể tham gia vào xung đột: Người tham gia xung đột có thể tự
giác và không hoàn toàn ý thức được mục đích và nhiệm vụ đối kháng
tham gia vào xung đột và cũng có thể ngẫu nhiên hoặc bất chấp ý chí và bị
cuốn hút vào xung đột. Vì vậy, chủ thể xung đột khi tham gia đối đầu tự
giác theo đuổi và bảo vệ mục đích và lợi ích của mình.
Khách thể của xung đột
Một trong những yếu tố nhất định phải có của xung đột là khách thể,
mà có nó mới hình thành xung đột. Khách thể, đó là nguyên nhân, động cơ,
động lực cụ thể của xung đột. Tất cả mọi khách thể được phân ra ba dạng
cơ bản: 1. Các khách thể mà chúng không thể phân thành các phần và
không hợp sức cùng ai chế ngự chúng. 2. Các khách thể mà chúng có thể

12
phân theo những tỷ lệ thức khác nhau giữa những người tham gia xung

đột…3. Các khách thể mà cả hai người tham gia xung đột có thể hợp sức
chế ngự chúng, đây là tình thế "xung đột ảo"
Các hình thức xung đột.
Trong giới nghiên cứu xã hội học, không quan điểm thống nhất về
vấn đề phân loại xung đột xã hội. Tuy nhiên, quan điểm của V.I Szepaskij
[24, tr.252], được nhiều nhất các nhà lý thuyết xã hội quan tâm, vì ông đề
xuất việc định ra cơ sở để phân loại. Chẳng hạn, nếu lấy đặc thù của các
bên làm cơ sở thì có thể tách ra xung đột cá nhân, xung đột giữa cá nhân và
tập đoàn, xung đột bên trong tập đoàn, xung đột giữa các cộng đồng xã hội
nhỏ và lớn, xung đột giữa các sắc tộc và giữa các quốc gia. Nếu lấy các
phạm vi đời sống xã hội, mà trong đó bộc lộ xung đột làm cơ sở để phân
loại thì có thể nói về xung đột chính trị, kinh tế, hệ tư tưởng, xã hội, pháp
lý, đời sống gia đình, văn hoá xã hội .v.v…
Tuỳ thuộc vào nguyên nhân xung đột, các nhà lý thuyết xã hội học
tách ra ba cụm xung đột xã hội: 1. Xung đột về việc phân chia quyền lực
và vị trí quyền lực hiện có trong thứ bậc các cấu trúc quyền lực và quản lý.
2. Xung đột về vật chất. 3. Xung đột về các giá trị, các phương châm sống
cơ bản.
NHỮNG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA XUNG ĐỘT.
Trong xung đột xã hội thường phân ra bốn giai đoạn phát triển: giai
đoạn tiền xung đột, giai đoạn phát triển xung đột, giai đoạn giải quyết xung
đột và giai đoạn hậu xung đột.
Giai đoạn tiền xung đột
Đi trước xung đột là tình thế tiền xung đột. Đây là bước gia tăng
căng thẳng trong quan hệ giữa các chủ thể tiềm tàng của xung đột xuất phát
từ những mâu thuẫn được khẳng định. Nhưng các mâu thuẫn như đã nói ở
trên, không phải bao giờ cũng kéo theo xung đột. Chỉ những mâu thuẫn
nào được các chủ thể tiềm tàng của xung đột nhận thức là những mặt đối
lập xung khắc nhau về lợi ích, mục đích, giá trị v.v…, mới dẫn tới chỗ căng
thẳng xã hội gay gắt và xung đột.


13
Căng thẳng xã hội không phải bao giờ cũng là điều báo trước xung
đột. Đây là hiện tượng xã hội phức tạp mà nguyên nhân phát sinh có thể hết
sức khác nhau. Chúng ta sẽ điểm tên một số nguyên nhân làm gia tăng căng
thẳng xã hội:
- "Những tổn thương" thực sự về lợi ích, nhu cầu và giá trị của mọi
người.
- Nhận thức không đúng về những thay đổi đang xảy ra trong xã hội
hoặc trong một số cộng đồng xã hội.
- Thông tin sai hoặc bị bóp méo về các sự kiện, biến số này hay khác
(thực hoặc ảo…).
Căng thẳng xã hội thực chất là trạng thái tinh thần của mọi người và
đến trước khi bắt đầu xung đột. Căng thẳng xã hội, biểu hiện tiêu biểu nhất
trong thời kỳ này là những tình cảm tập đoàn. Vậy mức độ nhất định trong
căng thẳng xã hội đang vận hành tối ưu là điều hoàn toàn tự nhiên, như thế
là phản ứng tự vệ và thích ứng của một cơ thể xã hội. Tuy nhiên vượt qua
mức căng thẳng xã hội "nhất định" có thể dẫn tới xung đột.
Trong đời sống hiện thực, các nguyên nhân phát sinh căng thẳng xã
hội có thể nguyên nhân này "chồng lên" nguyên nhân kia, hoặc nguyên
nhân này bị thay thế bằng nguyên nhân kia. Ví dụ, thái độ tiêu cực đối với
thị trường ở một số bộ phận công dân Nga, trước hết là do những khó khăn
kinh tế nhưng thường thường nó được bộc lộ ra như thế là định hướng giá
trị. Và ngược lại, các định hướng giá trị thông thường được biện giải bằng
các nguyên nhân kinh tế.
Thái độ "không vừa lòng" cũng là một trong số những khái niệm
then chốt trong xung đột xã hội. Sự tích luỹ thái độ không vừa lòng về sự
thể hoặc tiến trình phát triển các sự kiện hiện có sẽ dẫn tới chỗ gia tăng
căng thẳng xã hội. Lúc này xảy ra sự chuyển hoá thái độ không vừa lòng từ
chủ quan - khách quan sang chủ quan - chủ quan. Thực chất sự "chuyển

hoá" này là ở chỗ chủ thể tiềm tàng của xung đột do bất mãn với sự thể tồn
tại một cách khách quan nên phơi bày ra (nhân cách hoá) những người khởi
xướng thực và dự định của thái độ không vừa lòng, đồng thời xảy ra việc

14
chủ thể (các chủ thể) của xung đột nhận thức được là không giải quyết tình
thế xung đột đã hình thành bằng các phương pháp tương tác thông thường.
Giai đoạn tiền xung đột có thể ước định phân chia thành ba kỳ phát
triển mà tiêu biểu với chúng có các đặc điểm dưới đây trong mối quan hệ
qua lại giữa các bên:
 Phát sinh mâu thuẫn về khách thể tranh chấp nào đó; gia tăng thái
độ không tin cậy và căng thẳng xã hội; đưa ra các yêu sách đơn phương
hoặc cho nhau; giảm tiếp xúc và sự tích tụ sự oán giận.
 Cố gắng chứng minh tính đúng đắn trong những yêu sách của mình
và buộc tội đối thủ không muốn giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng
những biện pháp "công bằng"; thu mình trong những khuôn mẫu của riêng
mình; xuất hiện thái độ định kiến và hằn học trong tình cảm;
 Phá bỏ các cơ cấu tương tác; chuyển từ những lời buộc tội lẫn nhau
sang đe doạ; tăng cường gây sự; tạo ra hình ảnh "kẻ thù" và chuẩn bị tranh
chấp.
Như vậy, tình thế xung đột dần dần chuyển thành xung đột công
khai. Nhưng tự bản thân tình thế xung đột có thể tồn tại một thời gian dài vì
không chuyển thành xung đột. Để xung đột trở thành thực tế cần đến sự
phức tạp, rắc rối.
Rắc rối là cái cơ bên ngoài để khởi sự cuộc đụng độ trực tiếp giữa
các bên. Chẳng hạn, vụ giết thái tử của vua Áo - Hung Franc Ferdinand và
vợ ông ta do nhóm khủng bố Bsnigia thực hiện ngày 28 tháng 6 năm 1914
ở thành phố Saraevo, trở thành cái bên ngoài để bắt đầu thế chiến I. Mặc dù
khách quan mà nói tình trạng căng thẳng giữa khối Đồng minh và khối
quân sự Đức đã có từ nhiều năm.

Rắc rối có thể xảy ra ngẫu nhiên và cũng có thể gây nên bởi chủ thể
(các chủ thể) xung đột. Rắc rối còn có thể là kết quả của tiến trình phát
triển tự nhiên của các sự kiện. Thông thường, "thế lực thứ ba" nào đó theo
đuổi lợi ích của mình trong cuộc xung đột do "người khác" tạo ra làm công
việc chuẩn bị và khiêu khích rắc rối.

15
Các tác giả cuốn sách "Hãy chú ý: xung đột!", F.M.Borodkin và
N.M.Korjak phân ra bốn kiểu tình thế xung đột và bốn kiểu rắc rối theo đặc
tính phát sinh của chúng:
- Khách quan có mục đích (ví dụ, áp dụng các hình thức dạy và học
mới, do đó phát sinh sự cần thiết phải thay đổi cơ cấu giảng dạy và thay thế
đội ngũ giảng viên);
- Khách quan phi mục đích (tiến trình phát triển tự nhiên của nền sản
xuất đưa tới mâu thuẫn với các tổ chức lao động hiện có);
- Chủ quan có mục đích (người ta đến với xung đột nhằm giải quyết
những vấn đề của mình);
- Lợi ích chủ quan phi mục đích của hai hay vài bên (bất ngờ bị đụng
độ), có một phiếu đi an dưỡng nhưng lại có một số người muốn đi
9
.
Rắc rối đánh dấu xung đột chuyển hoá sang phẩm chất mới. Ở tình
thế này, có thể có bản dị bản chính hành vi của các bên xung đột.
 Các bên (hay một bên) gắng sức dàn xếp những mâu thuẫn nảy
sinh và tìm ra sự nhượng bộ;
 Một trong số các bên làm ra vẻ "chẳng có gì ghê gớm cả" (để tránh
xung đột);
 Rắc rối trở thành tín hiệu khởi sự cho cuộc đối đầu công khai. Việc
lựa chọn dị bản này hay khác, phần nhiều phụ thuộc vào chủ trương xung
đột (các mục tiêu, hi vọng, định hướng tình cảm) của các bên.

Giai đoạn phát triển xung đột.
Bước khởi sự cuộc đối đầu công khai giữa các bên là kết quả của
hành vi xung đột được hiểu là những hành động nhằm vào bên đối địch
nhằm định đoạt, kìm chế khách thể tranh chấp hoặc buộc người phản thiện
từ bỏ các mục tiêu của mình hoặc thay đổi chúng. Các nhà lý thuyết về
xung đột phân ra một số hình thức hành vi xung đột:
- Hành vi xung đột chủ động (thách thức);
- Hành vi xung đột bị động (đáp trả thách thức);
- Hành vi xung đột nhượng bộ.

16
Tuỳ thuộc vào chủ trương xung đột và hình thức hành vi xung đột
của các bên, xung đột sẽ có lôgíc phát triển riêng của nó. Xung đột bị mở
rộng, có xu thế tạo nên những lý do bổ sung để xung đột trầm trọng thêm
và gia tăng. Mỗi "nạn nhân" mới đều trở thành "lời biện hộ" cho cuộc xung
đột leo thang. "Và nếu như xung đột chẳng bị cái gì ngăn trở, thì nó dường
như bắt đầu tự dung dưỡng mình, để ra ngày các lý do mới để tiếp tục phát
triển. Vì thế, ở chừng mực nhất định, mỗi cuộc xung đột đều có đặc trưng
độc nhất vô nhị.
Có thể tách ra ba giai đoạn cơ bản trong bước phát triển xung đột ở
giai đoạn thứ hai của nó: 1. Xung đột chuyển từ trạng thái tĩnh tại sang đối
đầu công khai giữa các bên. Cuộc tranh chấp nổ ra đến lúc này mới chủ
dùng đến các nguồn lực hạn chế và mang tính chất cục bộ. Đây là sự thử
sức đầu tiên, ở kỳ này vẫn còn nhiều khả năng thực thế đẻ chấm dứt cuộc
tranh chấp công khai và giải quyết xung đột bằng các biện pháp khác. 2.
Tiếp tục leo thang đối đầu. Để đạt được các mục tiêu của mình và phong
toả hành động của đối thủ, các bên sử dụng tất cả nguồn lực ngày càng
mới. Hầu như mọi khả năng tìm ra sự nhượng bộ đều bị bỏ lỡ. Xung đột trở
lên ngày càng không thể kiểm soát và không thể dự đoán. 3. Xung đột đạt
tới đỉnh điểm và mang hình thức chiến tranh tổng lực, áp dụng tất cả mọi

lực lượng và phương tiện có thể có. Ở kỳ này, các bên xung đột dường như
quên đi các nguyên nhân và mục đích thực của xung đột. Gây tổn thất tối
đa cho đối thủ đã trở thành mục tiêu chủ yếu.
Đề tài này dựa vào dạng xung đột thứ 3 “ Xung đột về các giá trị,
các phương châm sống cơ bản.” để tìm hiểu về các dạng nguyên nhân dẫn
tới các quá trình xung đột trong đời sống vợ chồng trẻ.
Trong nghiên cứu này chúng tôi xem xét các dạng xung đột biểu hiện
dưới các hình thức : (Tranh luận, mắng chửi, chiến tranh lạnh, đánh đập, bỏ
nhà đi, cấm đoán làm một việc gì đó và doạ ly hôn)
2.2 Gia đình – Gia đình trẻ: Gia đình là một phạm trù xuất hiện rất sớm
trong lịch sử xã hội loài người và không ngừng biến đổi cùng với những
bước tiến của nền văn minh nhân loại. Lịch sử loài người đã trải qua nhiều
dạng gia đình khác nhau. Ph.Ăng-ghen đã khái quát lại rằng “Có 3 hình
thức hôn nhân chính, tương ứng về đại thể với 3 giai đoạn phát triển chính

17
của nhân loại. Ở thời đại mông muội, có chế độ quần hôn; ở thời đại dã
man có chế độ hôn nhân cặp đôi; ở thời đại văn minh có chế độ hôn nhân
một vợ một chồng”
Có thể nói, hình thức gia đình biến thiên theo lịch sử và khác nhau ở các xã
hội khác nhau. Thế nhưng trong nhiều năm, các nhà xã hội học đã sử dụng
định nghĩa hạn chế của George Murdock về gia đình như là một chuẩn
mực. Murdock định nghĩa gia đình là “một nhóm xã hội được xác định bởi
một nơi trú ngụ chung, sự cộng tác và tái sản xuất về kinh tế (bao gồm):
những người trưởng thành của cả hai giới, trong đó có ít nhất là hai người
duy trì mối quan hệ tình dục được xã hội công nhận, và một hoặc nhiều đứa
trẻ, là con đẻ hay con nuôi, của những người trưởng thành có quan hệ như
vợ chồng với nhau” [6, tr.35-37]
- Trong nghiên cứu này, điều chúng tôi đặc biệt quan tâm ở đây là
gia đình với tư cách là một nhóm xã hội, với các mối quan hệ bên trong của

nó, sự tác động qua lại trong nội bộ của các thành viên để thoả mãn những
nhu cầu riêng tư của họ.
Trên cơ sở tiếp cận gia đình như một nhóm xã hội, việc nghiên cứu
gia đình trẻ như là một phân khúc của chu kỳ đời sống gia đình. Hình (1)
Theo Hình (1) thì gia đình trẻ nằm ở các giai đoạn 1 và 2.
M.C Matxcôpski định nghĩa gia đình trẻ là gia đình mà cả hai vợ chồng ở
tuổi thanh niên, mới kết hôn lần đầu.
Gia đình được coi là gia đình trẻ nếu nó đảm bảo những tiêu chí sau:
- Cả hai vợ chồng chưa quá 30 tuổi.
- Vợ chồng đã có 1-2 con hoặc chưa có con.
- Thời gian chung sống chưa quá 5 năm.
Khái niệm gia đình trẻ phản ánh những đặc trưng xã hội như tuổi trẻ và
chưa có nhiều kinh nghiệm trong đời sống gia đình.

18
HÌNH 1: CHU KỲ ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH [19, Tr.55]


Các giai
đoạn của
chu kỳ gia
đình
Chưa có con,
trước khi làm
cha mẹ
Giai đoạn xã hội hoá
Làm ông
làm bà
Giai đoạn
sinh sản


I
II
III
IV









- Cơ cấu gia đình: Cơ cấu là các yếu tố và các mối quan hệ gắn bó
với nhau hợp thành hệ thống. Gia đình là một tiểu hệ thống, vì vậy gia đình
cũng có cơ cấu của nó. Cơ cấu gia đình gồm 4 loại đáng chú ý nhất đó là :
Cơ cấu tổ chức, cơ cấu quyền uy, cơ cấu giao tiếp, cơ cấu vai trò.
- Cơ cấu tổ chức: Cho biết kiểu gia đình được hình thành (gia đình
hạt nhân, gia đình mở rộng…), số lượng các thành viên, tình trạng hôn
nhân, các thế hệ cùng chung sống.
- Cơ cấu quyền uy: Cho biết người quyền lực quyết định trong gia
đình thuộc về thành viên nào. Từ đó thấy được gia đình gia trưởng hay gia
đình dân chủ.
- Cơ cấu giao tiếp: Cơ cấu giao tiếp phản ánh trình độ văn hoá và
mức độ giao tiếp của các thành viên gia đình; phản ánh trình độ văn hoá và
mức độ giao tiếp của các thành viên và sự bền vững của hôn nhân gia đình.
- Cơ cấu vai trò: phản ánh vị thế và quan hệ tương tác giữa các thành
viên trong gia đình. Các yếu tố pháp lý qui định liên quan đến gia đình
được xã hội thừa nhận. Cơ cấu vai trò thể hiện ở vai trò của các thành viên

trong gia đình và xã hội.
Sinh
con thứ
nhất
Sinh con
tiếp theo
1 trong
những
đứa con
kết hôn
sinh cháu
thứ nhất

Tan rã
gia đình
(chết
một hoặc
cả hai vợ
chồng)

Kết hôn
0
1,2
7
25
40
Thời gian hôn nhân

19
2.3- Hôn nhân: Gia đình hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan

hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó. Khái niệm hôn nhân hẹp
hơn khái niệm gia đình, nó chỉ sự kết hợp giữa người đàn ông và người đàn
bà, là quan hệ tính giao tình cảm giữa nam và nữ, được xã hội phê chuẩn
dưới nhiều hình thức khác nhau. Theo quan điểm hiện đại, hôn nhân là sự
kết hợp tự nguyện, bình đẳng tự do trên cơ sở tình yêu và được pháp luật
công nhận.
2.4 Quan hệ vợ chồng: là một dạng quan hệ xã hội, một sự kết hợp độc
đáo giữa hai cá nhân, tạo thành một nhóm nhỏ xã hội. Nhóm nhỏ này chịu
sự tác động mạnh mẽ của các điều kiện kinh tế – xã hội – chính trị và văn
hoá. Quan hệ vợ chồng được tạo lập bởi hai cá nhân khác giới, hai chủ thể
riêng biệt với những vai trò và trách nhiệm riêng của từng cá nhân. Quan
hệ vợ chồng được thể hiện bằng sự tác động qua lại giữa hai thành viên và
sẽ tan vỡ khi nào sự tác động qua lại đó chấm dứt. Quan hệ này thể hiện
tính đa chức năng; những chức năng có thể bổ sung hoặc mâu thuẫn với
nhau, tuỳ thuộc vào quan niệm và điều kiện sống của đôi vợ chồng.
Nói đến quan hệ vợ chồng, người ta thường nói đến sự hoà hợp về các mặt
như sự tương đồng tâm lý, tương đồng về các quan hệ xã hội, tương đồng
về tình dục … Tuy nhiên, trên thực tế hầu như không có những cặp vợ
chồng hoà hợp với nhau về tất cả các mặt trên. Vì vậy, việc xem xét mối
quan hệ giữa vợ và chồng sẽ làm sáng tỏ được những nguyên nhân xung
đột nội tại trong gia đình.
Có thể nói Quan hệ vợ chồng là quan hệ trực tiếp giữa hai người nam và nữ
được pháp luật thừa nhận, nó có tính ổn định tương đối, là quan hệ chủ đạo
trong gia đình, nhằm mục đích thoả mãn các nhu cầu khác nhau trong gia
đình, thực hiện các chức năng của gia đình trong những điều kiện lịch sử -
xã hội cụ thể.





II- Cơ sở thực tiễn:

20
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong bài viết “Hoà giải ở nông thôn miền bắc Việt Nam” (2001) do
tác giả Bùi Quang Dũng thực hiện cho rằng mâu thuẫn và hoà giải trong
bối cảnh Việt Nam hiện nay chỉ có các nhà dân tộc học quan tâm đến chủ
đề này, và chủ yếu đề cập đến xã hội truyền thống trước năm 1954 mặc dù
nhiều tác giả nước ngoài đã viết về chủ đề này và đa số nói về xã hội nông
thôn (Robert Samson 1967, James Scott 1976, Samuel Popkin 1979 ).
PGS. TS – Lê Thị Quý đã xem xét các vấn đề xung đột trong gia
đình dưới các hình thức bạo lực trong gia đình, chia bạo lực trong gia đình
thành hai dạng: bạo lực nhìn thấy được và bạo lực không nhìn thấy được.
Bạo lực không nhìn thấy được là sự phân công lao động bất hợp lý giữa
nam và nữ. Trong xã hội, phụ nữ làm việc như nam giới, về nhà lại làm
việc nội trợ dẫn đến xung đột do làm việc quá sức, không có thời gian nghỉ
ngơi và không có thời gian học tập để nâng cao trình độ. Nó không nhìn
thấy được vì quan niệm của xã hội cho rằng nội trợ là thiên chức của phụ
nữ. Bạo lực nhìn thấy được là kết quả tiêu cực của xung đột thể hiện ra các
hành vi như là đánh vợ, bạo lực tâm lý, bạo lực tình dục. Hình thức này thì
cả vợ và chồng đều là nạn nhân.
Tác giả Lê Thị Phương Mai có các công trình nghiên cứu về bạo lực
gắn với sức khoẻ sinh sản phụ nữ, gây hậu quả nặng với gia đình.
TS . Vũ Tuấn Huy có công trình nghiên cứu về mâu thuẫn vợ chồng
trong gia đình và những yếu tố ảnh hưởng
-Hiện nay đang có các nghiên cứu mang tính can thiệp của Trung
tâm nghiên cứu giới và phát triển phối hợp với Quỹ dân số liên hợp quốc và
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Trên cơ sở xem xét hiện tượng xung đột vợ chồng trong gia đình mà
hai người đều là công chức, đặt vào bối cảnh của hệ thống phát triển giới

trong xã hội Trung Quốc để tìm hiểu căn nguyên và thực chất của vấn đề
xung đột vợ chồng thì Phan Thanh Nội (1999) cho rằng xung đột vợ chồng
là hiện tượng tất nhiên trong quá trình thay đổi mô hình phân công lao động
theo giới trong gia đình mặc dù tác giả không phủ nhận các yếu tố khác
như cá tính không hòa hợp, tập quán không giống nhau giữa vợ chồng ảnh
hưởng đến quan hệ hôn nhân, mà muốn nhấn mạnh quan hệ về giới không

21
bình đẳng trong gia đình cũng là một nhân tố quan trọng dẫn đến xung đột
hôn nhân và là điểm không thể xem thường.
Vấn đề được đề cập tới là sự biến đổi mô hình phân công giới trong
gia đình vợ chồng công chức Trung Quốc trong bối cảnh xã hội đang đề
xướng “nam nữ bình đẳng”. Tư tưởng “nam chủ ngoại, nữ chủ nội” và tư
tưởng “ trọng nam khinh nữ” theo truyền thống hiện vẫn đang tồn tại trong
gia đình và xã hội Trung Quốc. Họ cho rằng cần phải nhấn mạnh quan
niệm truyền thống nam quyền “chưa thay đổi” nhưng khi nghiên cứu hiện
tượng xung đột vợ chồng trong gia đình cả hai là công chức ở Trung Quốc
mà chỉ phát hiện cái “chưa thay đổi” là không đầy đủ, hơn thế nữa cần phải
tìm ra được cái gì “đã thay đổi”, đó là quan niệm truyền thống “nam
quyền” ít nhiều đã thay đổi, không còn hiện diện nhiều trong tâm trí của họ
trong xã hội hiện nay, bởi vì nếu như chỉ chú ý đến các thực tế “chưa thay
đổi” thì không thể giải thích đầy đủ mối liên hệ giữa xung đột vợ chồng
ngày càng phức tạp với sự phân công theo giới bất bình đẳng, hay nói cách
khác là nếu hình thức phân công lao động ban đầu (không bình đẳng)
không chịu sự “tấn công” nào và cũng không sinh ra biến đổi nào cả, thì
việc dẫn đến xung đột vợ chồng chỉ là một khả năng. Sự va chạm giữa
“biến mất“ và “biến đổi” chỉ có khi mà trên cơ sở của ý thức đối với
“không bình đẳng” và cảm thấy không công bằng mà hai vợ chồng không
thể hoà hợp lập trường thì việc phát sinh xung đột mới có khả năng.


“ Điều tra tâm lý xã hội học về vai trò vợ chồng và cơ cấu gia đình”
do Hubert Touzard thực hiện là cuốn sách giới thiệu trọn vẹn một công
trình nghiên cứu xã hội học về gia đình Pháp (Đặng Thanh Trúc, 1989).
Tác giả đã dành một số trang nhất định để phân tích về vấn đề mâu thuẫn
trong nhóm vợ chồng. Ông chỉ ra rằng có hai loại mâu thuẫn về vai trò:
giữa các cá nhân và trong từng cá nhân. Mâu thuẫn trong một cá nhân sinh
ra khi người vợ (chồng) phải thực hiện cùng một lúc những vai trò khác
nhau, còn mâu thuẫn giữa các cá nhân nảy sinh khi người vợ hoặc người
chồng thấy thất vọng trong sự chờ đợi vào việc thực hiện những vai trò
không được lựa chọn của người kia.
Xung khắc xuất hiện thì hoà giải được đặt ra và chính sự bổ sung của
vai trò hoà giải là biện pháp làm cân bằng tạm thời mâu thuẫn. Những mâu

22
thuẫn về văn hoá cũng được Touzard bàn đến, chủ yếu là xung khắc trong
văn hoá gia đình được biểu hiện ra trong các bữa ăn, cách cho con ngủ,
những đêm dạ hội, ngày tết gia đình và trong những thói quen trong cách
sống chung, cách cảm thụ những giá trị Đôi vợ chồng có thể xung khắc
nhau trong lĩnh vực này khi nền văn hoá gia đình của họ có những nét rất
khác nhau. Muốn giải quyết mâu thuẫn gia đình, tốt hơn hết là nên có một
bầu không khí dân chủ cho phép có những cuộc bàn luận giữa hai vợ chồng
để đi đến hoà giải.
Kế thừa các nghiên cứu trước đó, nghiên cứu này tập trung xem xét
nguyên nhân xung đột gia đình trẻ dưới các tác động của các nhân tố kinh
tế, xã hội, văn hoá xã hội.

2.2- Sơ lược địa bàn và mẫu nghiên cứu.
2.2.1 – Sơ lược về thành phố Hà Nội
Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, là Thủ đô của nước Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giới hạn trong khoảng từ 20

0
53' đến 21
0

23' vĩ độ Bắc, 105
0
44' đến 106
0
02' kinh độ đông, tiếp giáp với 5 tỉnh: Bắc
Thái ở phía bắc, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía đông, Hà Tây và Vĩnh
Phúc ở phía nam và phía tây. Hà Nội có diện tích tự nhiên 918,1 km2,
khoảng cách dài nhất từ phía bắc xuống phía nam là trên 50 km và chỗ rộng
nhất từ tây sang đông 30 km. Điểm cao nhất là núi Chân Chim: 462 m
(huyện Sóc Sơn); nơi thấp nhất thuộc xã Gia Thuỵ (huyện Gia Lâm) 12 m
so với mặt nước biển. Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng
bằng Bắc Bộ trù phú và nổi tiếng từ lâu đời. Hà Nội có vị trí và địa thế đẹp,
thuận lợi để trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học và đầu
mối giao thông quan trọng của cả nước.
Theo tổng điều tra dân số đến 1/9 năm 2001 Hà Nội có 2.931.400
người trong đó dân số thành thị là 1.659,000 (chiếm 56,6% ) dân số nông
thôn là 1,272,400 (chiếm 43,4%); Dân số Nam là 1,466,500 (chiếm 50%);
Dân số Nữ là 1,464,900 (chiếm 50%) [25]. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là
1.08%. Hà Nội có mật độ dân số cao nhất khu vực các tỉnh phía Bắc, đứng
thứ hai so với cả nước, sau Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1990 mật độ dân

23
số là 2.223 người/km2, năm 2002 là 3000 người /Km2. Mật độ khu vực nội
thành có tỷ lệ đặc biệt cao là 18.246 người /km2.
Năm 1990 toàn thành phố chỉ có 220 xã, phường với 4 quận là Ba
Đình; Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng và Đống Đa. Từ năm 1995 đến nay Hà

Nội thành lập thêm 5 quận mới là: Hoàng Mai, Cầu Giấy, Tây Hồ, Long
Biên, Thanh Xuân, nâng tổng số quận nội thành lên 9 quận, với 5 Huyện
Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn.
Hà Nội đang trong quá trình đô thị hoá nhanh cùng với sự phát triển
mạnh về Kinh tế- Xã Hội, do đó sức hút của các luồng di dân từ các tỉnh
trong cả nước. Tốc độ tăng dân số cơ học chiếm tỷ lệ đáng kể. Năm 1995
có 0.8% dân số từ tỉnh ngoài di cư tới Hà Nội; năm 1997 có 2,1% (gấp 2.6
lần so với năm 1995) , năm 1998 là 1,12%. Như vậy, bình quân mỗi năm
có khoảng 1,5% dân số là dân từ tỉnh ngoài vào Hà Nội [25].
Trong hơn 10 năm qua từ năm 1990 đến nay, Hà Nội đang tiến vào
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đạt nhiều thành tựu quan trọng :
kinh tế phát triển, chính trị ổn định, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của
nhân dân được nâng lên và cải thiện rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng GDP liên
tục trung bình từ 1990 đến nay là 16.8%. Từ năm 1995 đến nay, thu nhập
bình quân theo nhân khẩu tăng lên đáng kể: năm 1995 là 318.000 đồng;
năm 1996 là 342.000 đồng; năm 1997 là 350.000 đồng; năm 1999 là
427.000 đồng; năm 2002 là 494.000 đồng [25].
Mặc dù trong nhiều năm qua kinh tế Hà Nội tăng trưởng liên tục,
đời sống nhân dân được cải thiện, nhưng nhìn chung đại bộ phận dân cư
còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến các quan hệ trong gia đình. Hệ
thống cơ sở hạ tầng còn thấp, quá tải về giao thông, nhà ở, ô nhiễm môi
trường Nhiều vấn đề xã hội bức bách tác động xấu đến các quan hệ gia
đình , tỷ lệ ly hôn tăng .

2- Sơ lƣợc địa bàn khảo sát.
2.1 Quận Hoàn Kiếm và phƣờng Cửa Đông
Quận Hoàn Kiếm là một quận trung tâm kinh tế và văn hoá của Thủ đô Hà
Nội, là một quận có mật độ người cao nhất thành phố (gần 4 vạn người
/Km2). Quận Hoàn Kiếm có nhiều khu phố cổ, là một đầu mối giao lưu
quan trọng về kinh tế, văn hoá với cả nước và quốc tế. Đây là địa bàn có

×