Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.85 KB, 87 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................1
Chương I: Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào thành phố
Hà Nội........................................................................................................................3
I: Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến việc thu
hút FDI vào Hà Nội....................................................................................................3
1.Điều kiện tự nhiên...................................................................................................3
2.Điều kiện kinh tế xã hội:.........................................................................................4
II. Một số vấn đề lý luận về FDI................................................................................7
1.Khái niệm................................................................................................................7
2. Đặc điểm. ..............................................................................................................7
3. Tính tât yếu thu hút FDI của một quốc gia..............................................................8
III. Tổng quan thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước.........................9
1.Đánh giá tình hình ĐTNN tại việt nam những năm qua...........................................9
2. Xu thế Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm gần đây.......................21
3 Triển vọng đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới..............................................23
II. Thực trạng thu hút đàu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội...............24
1.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội phân theo giai
đoạn............................................................................................................................24
2.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo dự án................................29
3.Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo đối tác. ..............................32
4.Tình hình thu hút FDI phân theo hình thức đầu tư.................................................36
5. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài phân theo ngành...................................38
III. Đánh giá tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội............40
1. Thành công trong thu hút FDI ...........................................................................41
1.1.FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển...............................41
1.2. Góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng và cải thiện cơ cấu kinh tế.....................43
1.3. FDI tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng lao động..............45
1.4.Tạo và tăng thu ngân sách cho thành phố ...........................................................46
1.5.FDI góp phần chuyển giao và nâng cao năng lực công nghệ mới của nền kinh tế,
góp phần tăng nhanh năng suất lao động .................................................................47


1.6. FDI làm tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc
tế 48
2. Những hạn chế và nguyên nhân trong quá trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.................................................................................................................51
2.1. Những hạn chế...................................................................................................51
2.2.Nguyên nhân của những yếu kém trong thu hút FDI vào Hà Nội................54
Chương II: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội........................................58
I. Mục tiêu, nhu cầu, định hướng và các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư nước
ngoài của xã hội Hà Nội thời gian tới.....................................................................58
1. Mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế xã hội Hà Nội thời gian tới........58
1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tới năm 2010.................................................58
1. 2. Nhu cầu vốn đầu tư xã hội và vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn
2006-1010................................................................................................................59
1. 3. Định hướng phát triển thành phố Hà Nội đến năm 2010...................................60
1. 4. Các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài :...............................................62
2. Quan điểm và định hướng thu hút FDI thời gian tới......................................63
2.1. Quan điểm thu hút FDI.....................................................................................63
2.2. Định hướng thu hút FDI của Hà Nội trong thời gian tới.....................................64
3. Những thuận lợi và khó khăn của Hà Nội trong quá trình thu hút FDI.......65
3.1. Những yếu tố thuận lợi......................................................................................65
3.2. Những thách thức..............................................................................................67
II. Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Hà Nội. ..................................70
1.Một số giải pháp về phía Nhà nước.....................................................................70
1.1 Về pháp luật, chính sách:....................................................................................70
1. 2. Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN:..................................................71
1.3. Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động XTĐT:...........................................................72
1. 4. Giải pháp về lao động tiền lương......................................................................73
1.5. Giải pháp về thuế...............................................................................................73
2.Giải pháp từ phía Hà Nội......................................................................................74

2.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch..........................................................................75
2.2. Đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính......................................................................76
2.3 Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư ................................................................77
2.4 Phát triển các dịch vụ tư vấn..............................................................................79
2.5. Tăng cường công tác quản lý nhà nước ............................................................80
2.6. Nâng cấp và cải thiện cơ sở hạ tầng của Thành phố..........................................80
2.7 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực...............................................................81
2.8. Khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân......................................82
2.9. Các hỗ trợ khác................................................................................................83
KẾT LUẬN....................................................................................................84
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình hội nhập, thu hút FDI có ý nghĩa quan trọng đến tăng trưởng
kinh tế bền vững, kể cả đối với các nước đang phát triển cũng như đối với các nứoc
phát triển. Với những lợi ích thu đựơc từ FDI cho cả hai phía( bên đầu tư và bên
nhận),FDI đã mở ra các cơ hội hợp tác và hội nhập cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần
đảm bảo nguồn lực lâu dài và có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế bền vững.FDI giữ
vai trò to lớn và khá toàn diện đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của các nước tiếp
nhận đầu tư.Thu hút ngày càng nhiều FDI trở thành chiến lược phát triển kinh tế chủ
đạo của nhiều quốc gia.
Nước ta đang trong giai đoạn CHN - HĐH nên việc đẩy nhanh thu hút đầu tư
nước ngoài để bổ sung tổng vốn đầu tư phát triển là việc làm có ý nghĩa rất quan
trọng và là một trong những động lực cơ bản giúp nước ta đạt được những thành tựu
to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Khai thác và sử dụng tốt vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế một cách ổn định, tạo công ăn việc
làm cho người lao động, tạo ra hàng hóa để xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ và cân bằng
cán cân thanh toán...
Hà Nội là thủ đô của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm
đầu não chính trị hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục,
kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước.Hà Nội đã và đang nỗ lực cải thiện môi
trường đầu tư để đẩy nhanh tốc độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.Trong những

năm qua, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được nhiều thành tựu quan
trọng và có ý nghĩa, thực hiện được các mục tiêu thành phố đặt ra như bổ sung nguồn
vốn cho phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, tiếp nhận công nghệ tiên tiến, đóng
góp vào ngân sách,chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH...Hà Nội đã trở
thành địa phương đứng thứ hai trong cả nước về thu hút FDI tính từ năm 1989 đến
nay.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động thu hút sử dụng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Hà Nội vẫn chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế, chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển và hiệu quả sử dụng chưa cao. Chính vì vậy, để nhìn lại những
thành quả đã đạt được và tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà
Nội, em đã lựa chọn đề tài “Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Hà Nội”.
Đề tài tập trung nghiên cứu và phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Hà Nội và những kết quả đã đạt được cũng như các hạn chế và nguyên
nhân của nó. Từ đó đưa ra một số giải pháp về phía nhà nước nói chung và một số
giải pháp của Hà Nội dựa trên tình hình cụ thể của địa phương nhằm thu hút ngày
càng có hiệu quả FDI.
Nội dung của đề tài có kết cấu gồm 2 chương :
Chương I : Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào thành phố Hà Nội.
Chương II : Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Hà Nội.
Đề tài được hoàn thành nhờ sự cố gắng nỗ lực của bản thân và sự hướng dẫn
nhiệt tình của TS Vũ Kim Toản. Tuy nhiên, với thời gian và trình độ có hạn nên đề
tài này không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót nhất định, mong nhận được lời
nhận xét, phê bình khách quan của thầy. Em xin chân thành cảm ơn !

Chương I: Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào thành phố
Hà Nội.
I: Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến việc thu
hút FDI vào Hà Nội.

1. Điều kiện tự nhiên.
Hà Nội là thủ đô của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm đầu
não chính trị hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh
tế và giao dịch quốc tế của cả nước.
Là nơi có tình hình an ninh chính trị ổn định, được Unesco trao tặng “ Thành phố
vì hoà bình” Hà nội có lợi thế rất lớn trong việc thu hút các nhà đầu tư, như lầ Hà nội
có những đặc thù : cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, văn hoá phát triển hơn; có nguồn
nhân lực chất lượng cao hơn; tập trung nhiều loại hình doanh nghiệp hơn; tập trung
nhiều tổ chức kinh tế xã hội, nghề nghiệp hơn v.v.. đây là những lợi thế quan trọng
của Hà Nội sau khi gia nhập WTO. Những lợi thế này sẽ giúp Hà Nội có thể gia tăng
thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Hà Nội hơn,và do vậy sẽ phát triển hơn.Hà Nội
nằm trên châu thổ Sông Hồng là trung tâm của miền Bắc Việt nam là nơi hội tụ nhiều
điều kiện thuận lợi về kinh tế, văn hoá, thương mại giao dịch quốc tế và du lịch.
Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, giới hạn trong khoảng từ 20o
53' đến 21o 23' vĩ độ Bắc, 105o 44' đến 106o 02' kinh độ đông, tiếp giáp với 5 tỉnh:
Bắc Thái ở phía bắc, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía đông, Hà Tây và Vĩnh Phúc ở
phía nam và phía tây. Hà Nội có diện tích tự nhiên 918,1 km2, khoảng cách dài nhất
từ phía bắc xuống phía nam là trên 50km và chỗ rộng nhất từ tây sang đông 30 km.
Điểm cao nhất là núi Chân Chim: 462 m (huyện Sóc Sơn); nơi thấp nhất thuộc xã Gia
Thụy (huyện Gia Lâm) 12 m so với mặt nước biển. Hà Nội nằm hai bên bờ sông
Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú và nổi tiếng từ lâu đời, Hà Nội có vị trí
và địa thế đẹp, thuận lợi để trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học
và đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.
Khí hậu Hà Nội khá tiêu biểu cho kiểu khí hậu Bắc Bộ với đặc điểm là khí hậu
nhiệt đới gió mùa ấm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, mưa ít. Nằm trong
vùng nhiệt đới, Hà Nội quanh nǎm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời rất dồi dào
và có nhiệt độ cao. Ðặc điểm khí hậu Hà Nội rõ nét nhất là sự thay đổi và khác biệt
của hai mùa nóng, lạnh. Giữa hai mùa đó lại có hai thời kỳ chuyển tiếp (tháng 4 và
tháng 10) cho nên có thể nói rằng Hà Nội có đủ bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Ðông.
Địa hình Hà Nội tương đối bằng phẳng, được bồi tích phù sa dầy của phù sa đệ

tứ trung bình là 90-120 m. Vùng đồi núi của Hà Nội và vùng phụ cận có thể tổ chức
nhiều loại du lịch và phát triển chăn nuôi… Ở phía Bắc và Tây – Tây Bắc của Thủ
đô có điều kiện và diện tích rất thuận lợi cho việc phân bố công nghiệp đẻ giãn bớt sự
tập trung quá mức cho nội thành và liên kết hình thành vùng phát triển ở Bắc Bộ.
Nguồn nước ngầm của Hà Nội tương đối dồi dào (Hà Nội có khả năng khai thác
nước ngầm khoảng 1triệu m3/ngày đêm), có thể đáp ứng nhu cầu đời sống và sản
xuất kinh doanh với qui mô lớn.Hà nội có 36 nhà máy nước, nguồn cung cấp nước rất
dồi dào, ổn định từ song hồng và song đuống đảm bảo phục vụ đầy đủ cho sinh hoạt
và sản xuất,đặc biệt là sản xuất công nghiệp.Nguồn nước mặt và nước ngầm tương
đối dồi dào. Chất lượng nước ngầm tốt đảm bảo nhu cầu về nước sinh hoạt và nước
phục vụ sản xuất công nghiệp.Giá nước kinh doanh dịch vụ và cho người nước ngoài:
0.43USD/m3. Giá nước dùng cho sản xuất, cơ quan bệnh viện, trường học: 0.2 USD/
m3. Nước sinh hoạt: 0,10 USD/m3.
Nhờ có vị trí cấu trúc đặc biệt, nơi qui tụ nhiều đới kiến tạo. khoáng sản của Thủ
đô Hà Nội và vùng phụ cận rất phong phú và đa dạng. Trên tổng diện tích khoảng
32000 km2 của Hà Nội và vùng phụ cận đã pát hiện trên 500 mỏ và diểm quặng của
gần 40 loại khoáng sản khác nhau, Nhiều loại có trữ lượng và chất lượng có thể đáp
ứng nhu cầu xây dựng và phát triển các cơ sở kinh tế - công nghiệp của Hà Nội .
2. Điều kiện kinh tế xã hội:
Hệ thống cơ sở hạ tầng khá phát triển. Các loại hình giao thông như đường bộ,
đường sắt, đường thuỷ, đường hang không đồng bộ đã hình thành nên mạng lưới giao
thông vận tải rộng khắp nối liền các tỉnh, các địa phương trong cả nước và tới các
nước trên thế giới. Đặc biệt là cảng hang không quốc tế nội bài là trung tâm không
lưu của khu vực vận tải hang không phía bắc với 44 chuyến bay quốc tế và nội địa
một ngày, phục vụ 1.5 triệu lượt khách mỗi năm. Quốc lộ 1 nối liền Bắc Nam, quốc
lộ 5 nối liền cảng biển quốc tế Hải Phòng với Hà Nội. Cảng khuyến lương và cảng
Phà Đen cho phép tàu có trọng tải 2000-3000 tấn cập cảng. Là đầu mối của 5 tuyến
đường sắt, trong đó có 2 tuyến quốc tế, khoảng 50-60% lượng hang hoá cung cấp cho
Hà Nội, 30-40% lượng hang hoá của HN đi tới các vùng khác trong cả nứơc được
vận chuyển bằng đường sắt.

Hệ thống điện ổn định, gần nhà máy thuỷ điện hoà bình và nhà máy nhiệt điện
Phả Lại, mạng lưới điện rộng khắp, nâng cấp và bảo dưỡng thường xuyên, cung cấp
điện liên tục, ổn định. Mạng lưới viễn thông đựơc trang bị hiện đại, hoà mạng với hệ
thống viễn thông toàn cầu. Mạng lưới điện đã được nâng cấp đảm bảo nguồn cung
cấp ổn định liên tục. Giá điện sinh hoạt: 0,10 USD/KWh, giá điện sản xuất: 0,09
USD/KWh và điện trong khu công nghiệp: 0,08 USD/KWh.
Mạng lưới viễn thông được trang bị các thiết bị hiện đại, tổng đài kỹ thuật số, cáp
quang và đã hoà mạng với hệ thống viễn thông toàn cầu. Cước điện thoại quốc tế: 1,3
USD/phút. Giá cước tuy vẫn còn cao, song hy vọng sẽ giảm nhiều vào cuối năm 2002
khi Việt nam có được vệ tinh riêng của mình.
Là nơi tập trung các cơ quan ngoại giao, các văn phòng đại diện của các tổ chức
quốc tế, Hà Nội có lợi thế rất lớn trong việc hợp tác quốc tế và phát triển kinh tế đối
ngoại.
Về tiềm lực tài chính, Hà Nội đứng thứ hai của cả nước về tiềm năng và thực tế
huy động các nguồn tài nguyên cho phát triển kinh tế - xã hội ,bao gồm cả vốn trong
nước và ngoài nước , vốn ngân sách và ngoài ngân sách, vốn tập trung và phi tập
trung, vốn dài hạn và ngắn hạn…
Nguồn vốn của Hà Nội gồm có :
+ Nguồn vốn bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm.
+ Nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước
+ Nguồn tài chính huy động từ hoạt động của hệ thống ngân hàng, tín dụng.
+ Nguồn tài chính huy động từ phát hành trái phiếu.
+ Nguồn tài chính do bản thân các đơn vị kinh tế tự huy động.
+ Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
+ Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
+ Nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức phi chính phủ (NGOs)
+ Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Vốn huy động trong nước và vốn từ nước ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội Hà Nội trong những năm qua đều có mức tăng đáng kkể. Giai đoạn 1996 – 1998 :
trên địa bàn thành phố tổng số vốn huy động phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội là

59 559.7 tỷ đồng( năm 1996 : 17 334.3 tỷ đồng. Năm 1997 : 20 744.2 tỷ đồng. Năm
1998 :21 400.8 tỷ đồng), bình quân mỗi năm huy động 19 750 tỷ đồng, trong đó :
nguồn vốn huy động trong nước là : 36 219.5 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 61.12% tổng
nguồn vốn huy động. Nguồn vốn huy động qua ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất :
30.84% ), và có xu hướng tăng nhanh. Nguồn vốn từ ngân sách hàng năm chiếm
khoảng : 10.42%. Nguồn huy động thêm từ các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh
doanh khoảng 18 %, còn các nguồn huy động trong dân chiếm tỷ trọng nhỏ.
Hà Nội là một trong những thành phố có nền giáo dục và đào tạo phát triển
nhất. Hiện tại có 27 trường công nhân kỹ thuật và đào tạo nghề với hơn 10.000 học
viên, 32 trường cao đẳng và đại học với trên 30.000 sinh viên, 3 trường quốc tế. Điều
này sẽ giúp các nhà đầu tư nước ngoài giảm bớt được các chi phí đào tạo khi đầu tư
vào Hà Nội.
Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Hà Nội trên 11%, cao hơn 3% tốc độ tăng
trung bình của cả nước. Mức thu nhập của người dân cao, GDP bình quân đầu người
18.2 triệu VND/người, thị trường rộng lớn với dân số 3.118 nghìn người cũng như
tâm lý và cơ cầu tiêu dùng của nhân dân tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiêu thụ
các sản phẩm đầu ra.
Tiền thuê đất tại Hà Nội được chia làm 4 nhóm, từ 0,06 USD/m2/năm đến
12/USD/m2/năm và được ổn định ít nhất 5 năm kể từ ngày ký hợp đồng thuê đất. Khi
điều chỉnh tăng thì mức tăng không vượt quá 15% của mức quy định lần trước.
Trường hợp thuê nhà xưởng, nhà đầu tư chỉ phải trả tiền thuê nhà xưởng cho bên cho
thuê. Bên cho thuê có trách nhiệm trả tiền thuê đất cho nhà nước. Mức tiền thuê nhà
xưởng khoảng từ 1-2 USD/m2/tháng. Chi phí thuê văn phòng từ 10-25
USD/m2/tháng.
Ngoài những thuận lợi trên, Hà Nội còn có tiềm năng cơ bản khác như tình hình
an ninh, chính trị ổn định, thị trường rộng lớn, qui hoạch tổng thể ổn định đến năm
2020, thời gian cấp giấy phép đầu tư nhanh, có truyền thống văn hoá lâu đời và 5 khu
công nghiệp cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, Hà Nội có nhiều điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội rất thuận lợi để thu
hút đầu tư trực tiếp nứơc ngoài.Thu hút FDI sẽ tạo ra động lực lớn phát triển kinh tế

của thủ đô nói riêng và nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa VN nói chung.Hà Nội sẽ xây
dựng được các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung hiện đại với các ngành nghề
sản phẩm có tính cạnh tranh, các đô thị hiện đại xứng tầm với các thủ đô trên thế
giới. Tăng cường thu hút FDI sẽ giúp HN trở thành trung tâm kinh tế ngày càng có uy
tín trong khu vực và nhanh chóng đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đặt
ra.Muốn vậy chúng ta cần tìm hiểu một số vấn đề về đàu tư trực tiếp nước ngoài.
II. Một số vấn đề lý luận về FDI.
1. Khái niệm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là việc làm đầu tư nước ngoài bỏ vốn để thiết
lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư và tiến hành quản lý, điều
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đó nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Theo quy định của luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh của Việt Nam ngay
31/7/2000 : “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đưa vốn bằng tiền hoặc bất cứ
tài sản nào khác của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam để trực tiếp tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lơị nhuận theo hình thức của Luật đầu tư
nước ngoài”.
Như vậy cho dù các khái niệm về FDI có khác nhau nhưng hoạt động này đề dựa
trên một mục đích cuôí cùng là lợi nhuận cho các nhà đầu tư.
2. Đặc điểm.
* Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định,
tùy theo luật đầu tư của mỗi nước.
* Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì
doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý.
* Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt
động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định.
* FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại từng
phần hay toàn bộ doanh nhgiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay
sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
* FDI được thực hiện ít chịu phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa nước chủ đầu
tư và nước sở tại.

* FDI được thực hiện theo cơ chế thị trường tức là ở đâu có môi trường đầu tư
thuận lợi, lợi nhuận cao thì sẽ có nhiều dự án .
3. Tính tât yếu thu hút FDI của một quốc gia.
Thu hút FDI là phù hợp và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình hội nhập, đặc biệt là thu hút FDI có ý nghĩa quan trọng đến tăng
trưởng kinh tế bền vững, kể cả đối vớicác nước đang phát triển cũng như đối với các
nứoc phát triển. Với những lợi ích thu đựơc từ FDI cho cả hai phía( bên đầu tư và bên
nhận),FDI đã mở ra các cơ hội hợp tác và hội nhập cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần
đảm bảo nguồn lực lâu dài và có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Trên
thực tế cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của các quốc gia tham gia vào quá trình
toàn cầu hoá gần đây đã tăng 2,9%/năm trong thập niên 70 lên 3,7%/năm trong thập
niên 80 và 5,0% trong thập niên 90. Còn các quốc gia phát triển không nằm trong
nhóm toàn cầu hoá thì tốc độ tăng trưởng GDP giảm từ 3,3% năm 70 xuống 0,8%
thập ký 80 và chỉ tăng lê4n mức 1,4%/năm trong thập kỷ 90. Vì vậy thu hút FDI là
phù hợp và đáp ứng hội nhập kinh tế quốc tế.
FDI có ưu thế hơn so với các nguồn vốn ĐTNN khác
Trong số các kênh bổ sung vốn từ bên ngoài, nguồn vốn FDI và ODA là quan trọng
nhất.Nguồn vốn FDI không thay thế được vốn ODA, nhưng nó có những đặc trưng
và thế mạnh riêng. Vốn ODA thường gắn liền với quan hệ chính trị giữa nước cấp
vốn với nước nhận viện trợ; các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB cũng
đòi hỏi các nước đi vay phải thực hiện nhiều cam kết, đôi khi khá ngặt nghèo về tái
cơ cấu kinh tế, về cải cách hệ thống tài chính, tiền tệ…Hơn nữa, chi phí ODA xét ra
là khá đắt cho nước nhận viện trợ vì buộc phải chịu các quy định khác về giải ngân
và triển khai dự án ODA theo các điều kiện bất lợi như: mua, bán thiết bị công nghệ
theo các địa chỉ, đối tác chỉ định sẵn, trả lương cao cho chuyên gia v.v
FDI là kênh đầu tư tương đối an toàn
Do nhà ĐTNN tự chịu trách nhiệm về chi phí và hiệu quả đầu tư, chịu trách nhiệm
vay và trả nợ; không để lại gánh nặng nợ nần cho ngân sách nhà nước như vay
thương mại, không phải chịu sức ép ràng buộc các điều kiện kinh tế, chính trị như
vay ODA, đồng thời tránh cho nước chủ nhà những biến động đầy rủi ro từ những

thăng trầm trên thị trường chứng khoán.
Tóm lại, FDI giữ vai trò to lớn và khá toàn diện đối với sự phát triển kinh tế-
xã hội của các nước tiếp nhận đầu tư. Thực tiễn thế giới đã cho thấy nhiều ví dụ
thuyết phục về các nước (điển hình là Trung Quốc và Indonesia) sau khi có chính
sách mở cửa và Luật ĐTNN, nền kinh tế đã như một người khổng lồ đang ngủ bừng
tỉnh dậy, trở thành một quốc gia có tốc độ phát triển và mức độ hiện đại hoá kinh tế
nhanh. Thu hút ngày càng nhiều FDI trở thành chiến lược phát triển kinh tế chủ đạo
của nhiều quốc gia và việc thu hút tới mức nào còn tuỳ thuộc vào điều kiện, nhu cầu
tạo vốn để phát triển kinh tế mỗi nước và một số yếu tố khác.
III. Tổng quan thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước.
1. Đánh giá tình hình ĐTNN tại việt nam những năm qua.
Theo khảo sát mới nhất của Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Việt
Nam đứng thứ 4 trên thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan về sức hấp dẫn
của môi trường đầu tư.
Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành (1988) đến hết ngày
28/02/2006, Việt Nam đã thu hút được trên 6.090 dự án (còn hiệu lực) với mức vốn
đăng ký đạt hơn 52,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 28 tỷ USD. Các doanh nghiệp
FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, trở thành một thành phần kinh tế trong hệ thống kinh tế quốc
dân.Khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành bộ phận hữu cơ năng động của nền kinh
tế, có tốc độ tăng trưởng cao và vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Đầu tư
nước ngoài đóng góp tới 27% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), 33% giá trị
sản xuất công nghiệp, 22% vốn đầu tư xã hội và hơn 14% GDP của cả nước, tạo
thêm việc làm cho hơn 80 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp
khác.
Khu vực FDI đã làm tăng khả năng cung ứng hàng hoá cho thị trường, giảm
nhu cầu nhập khẩu hàng hoá thiết yếu, góp phần bình ổn thị trường, nâng cao đời
sống xã hội. Mức đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài vào thu ngân sách ngày
càng gia tăng về giá trị tuyệt đối và tương đối, tạo khả năng chủ động trong cân đối
ngân sách, giảm bội chi. Trong thời gian vừa qua, dòng ngoại tệ vào Việt Nam thông

qua FDI vẫn lớn hơn rất nhiều so với dòng ngoại tệ từ Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài; cộng thêm việc mở rộng nguồn thu gián tiếp từ FDI (qua khách tham quan, tìm
hiểu cơ hội đầu tư, tiền cho thuê đất, tiền lương cho lao động thuộc khu vực đầu tư
nước ngoài, tiền cung cấp nguyên vật liệu địa phương và các dịch vụ thu ngoại tệ tại
chỗ khác) đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước.
Những năm gần đây, thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam có một số
đặc điểm mới như sau: Thứ nhất, có nhiều dự án vốn đầu tư nước ngoài có quy mô
trên 100 triệu USD, trong đó có những dự án đầu tư lớn trị giá từ 1 tỷ USD trở lên.
Tiêu biểu là dự án của tập đoàn Intel Corp (Mỹ) đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất vi
mạch trị giá 1 tỷ USD tại TP. Hồ Chí Minh trong năm 2006; dự án xây dựng Nhà
máy Sản xuất thép (do Tập đoàn POSCO (Hàn Quốc) đầu tư tại miền Nam) trị giá tới
1,126 tỷ USD. Năm 2006, vốn đăng ký đầu tư của 10 dự án đầu tư nước ngoài hàng
đầu tại Việt Nam đạt trên 4 tỷ USD.
Thứ hai, nội dung đầu tư có những thay đổi so với trước đây. Các dự án có
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tin học và công nghệ cao tại Việt Nam tăng mạnh.
Ngoài dự án của Intel còn có dự án sản xuất thiết bị y tế hiện đại do tập đoàn lớn
Terumo (Nhật Bản) đầu tư; dự án đầu tư sản xuất thiết bị máy fax và máy in lade của
tập đoàn công nghiệp Brothers-co; các dự án công nghệ cao liên doanh giữa Việt
Nam và các doanh nghiệp Nhật Bản, như Canon, Toshiba.
Bảng 1: Tình hình thu hút FDI trong giai đoạn 1988-2006
Đơn vị: triệu USD,%
Năm Số dự án Vốn đăng
ký(VĐK)
Vốn thực
hiện(VTH)
Tốc độ tăng
VTH so với
năm trước
Tỷ lệ VTH/
VĐK

Quy mô b/q
dự án của cả
nước
Tổng
số
6,935 65,847.90 33,306.50 - 50.58 9.49 4.8
1988-
1990
214 1.582 - - - 7.39 -
1988 38 321,50 - - - 8.46 -
1989 68 525,50 - - - 7.73 -
1990 108 735,00 - - - 6.81 -
1991-
1995
1,397 19,007.6 6,517.8 - 34.16 13.6
5
4.67
1991 151 1,291.50 328.80 - 25.46 8.55 2.18
1992 197 2,208.50 574.90 74.85 26.03 11.2
1
2.92
1993 274 3,347.20 1,017.50 76.99 30.40 12.2
2
3.71
1994 367 4,534.60 2,040.60 100.55 45.00 12.3
6
5.56
1995 408 7,695.80 2,556.00 25.26 33.21 18.8
6
6.26

1996-
2000
1,730 25,627.6 12,944.8 - 50.51 14.8
1
7.48
1996 387 9,735.30 2,714.00 6.18 27.88 25.1
6
7.01
1997 358 6,055.30 3,115.00 14.78 51.44 16.9
1
8.70
1998 285 4,877.00 2,367.40 -24.00 103.12 17.1
1
8.31
1999 311 2,524.20 2,334.90 -1.37 89.53 7.28 7.51
2000 389 2,695.70 2,413.50 3.37 70.77 6.93 6.20
2001-
2005
3,594 19,560.7 13,843.9 - 75.87 5.44 3.85
2001 550 3,320.00 2,450.50 1.53 87.45 5.87 4.46
2005 802 2,963.00 2,591.00 5.73 84 3.69 3.23
2003 748 3,145.50 2,650.00 2.28 25 4.21 3.54
2004 723 4,222.20 2,852.40 7.64 67.56 5.84 3.95
2005 771 6,000.00 3,300.00 15.69 55.00 7.78 4.28
2006 833 10,200.00 4,100.00 24.2 40.02
Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài Việt Nam 1991-2006
0
20 0 0
40 0 0

60 0 0
80 0 0
10 0 0 0
12 0 0 0
1 9 9 1 1 9 9 2 1 9 9 3 19 9 4 1 9 9 5 19 9 6 1 9 9 7 19 9 8 1 9 99 2 0 0 0 20 0 1 2 0 0 2 2 0 0 3 2 0 0 4 2 0 0 5 2 00 6
năm
V

n đ

u tư
(tri

u USD)
0
20 0
40 0
60 0
80 0
10 0 0
S

d

án
vốn đăng ký vốn thực hiện số dự án
Đồ thị phát triển FDI vào Việt Nam là một đường cong; ba năm đầu kể từ khi có
Luật Đầu tư nước ngoài, 1988 - 1990 vốn FDI còn ít; bảy năm tiếp theo, 1991-1997
đường cong lên dần và đạt đến đỉnh vào năm 1997; sau đó là sáu năm, 1998-2003
đường cong giảm xuống rõ rệt. Năm 2004, FDI bắt đầu phục hồi, năm 2005 đã tăng

trưởng rõ rệt và năm 2006 đạt được nhiều kỷ lục về vốn đăng ký mới, vốn đầu tư
tăng thêm và vốn thực hiện.
Vốn đăng ký thời kỳ 88-90 mới thi hành luật đầu tư nước ngoài mới đạt 1,58 tỷ
USD, nhưng trong giai đoạn 91-95 đã tăng lên gấp 10 lần( 16,2 tỷ USD). Sau giai
đoạn suy giảm ( từ năm 1997-1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
khu vực), nhịp độ tăng ĐTNN vào Việt Nam từ năm 2000 đến nay còn chậm và
chưa ổn định. Tính chung trong cả giai đoạn 1996-2000 vốn đăng ký đạt 21 tỷ USD,
tăng 27% so với thời kỳ 1991-1995. Đồng thời trong quá trình hoạt động , số lượt các
dự án triển khai có hiệu quả đã tăng vốn đăng ký, mở rộng quy mô sản xuất tăng dần
theo thời gian. Từ năm 1998 tới cuối năm 2003 đã có khoảng 2.100 lượt dự án tăng
vốn đăng ký với số vốn tăng them trên 9 tỷ USD. Số vốn tăng thêm trong giai đoạn
1996-2000 đạt gần 4 tỷ USD. Như vậy, tính chung cả vốn cấp mới và tăng vốn thì
tổng vốn đăng ký trên 25 triệu USD. Riêng trong ba năm 2001-2003 vốn đăng ký cấp
mới và bổ sung đạt gần 9 tỷ USD, bằng 75% mục tiêu đề ra của thời kỳ
2001-2005( 12 tỷ).
Trong những năm đầu và giữa thập niên 90, vốn FDI vào Việt Nam không ngừng
tăng. Vốn FDI đăng ký đạt mức đỉnh điểm 9735.30 tỷ USD vào năm 1996 và vốn
FDI thực hiện đạt mức cao nhất khoảng 3,115.00 tỷ USD vào năm 1997, trong đó
vốn thực hiện của bên nước ngoài khoảng 2,8 tỷ USD. Cũng trong thời gian này FDI
chiếm 28-30% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và là một trong những nguồn
vốn chủ yếu góp phần tăng tỷ trọng đầu tư trên GDP của Việt Nam lên 30%. Việt
Nam đã trở thành một trong những nước đứng đầu trong danh sách những nước tiếp
nhận đầu tư. Cùng với xuất khẩu, đầu tư được coi là một trong hai động lực phát triển
chủ đạo của kinh tế Việt Nam.
Mặc dù vậy, từ khoảng giữa năm 1996, đã bắt đầu xuất hiện một số dấu hiệu suy
giảm của FDI cho dù vào thời điểm cuối năm có hai dự án lớn là khu đô thị Nam
Thăng Long và An phú với số vốn ước đạt 3,1 tỷ USD và một trong hai dự án này đã
không triển khai được trong năm 1997( có ý kiến cho rằng năm 1996 là năm đỉnh
điểm của vốn đăng ký chẳng qua là vì có hai dự án này, mà nếu quả thực như vậythì
tính tới tháng 7-1997, năm đạt cao nhất phải là năm 1995). Hơn nữa, vốn thực hiện

giai đoạn 1991-1998 so với vốn cam kết chỉ chiếm khoảng 34%.
Không thể không nói đến những nhân tố bên ngoài đã tác động thuận chiều và
ngược chiều đến FDI vào Việt Nam, như dòng vốn FDI thế giới đã tăng nhanh trong
15 năm gần đây, tạo cơ hội cho những nước đang phát triển hoặc chuyển đổi cơ chế
kinh tế có thể thu hút được một lượng vốn nước ngoài cần cho công cuộc xây dựng
kinh tế; như cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực đã làm cho các nhà đầu tư quốc
tế đánh giá lại “sự thần kỳ của Đông Á” làm giảm đi tính hấp dẫn của các nước trong
khu vực đối với các nhà đầu tư lớn.
Tuy vậy, cần khách quan thừa nhận rằng, đường cong của đồ thị FDI ở nước ta do
tác động chủ yếu của nhân tố chủ quan, liên quan đến việc tận dụng thời cơ và tạo lập
môi trường đầu tư đủ bảo đảm lợi thế cạnh tranh trong một thế giới vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh khá gay gắt trong việc thu hút các nguồn vốn quốc tế.
Năm 1996, lần thứ ba Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi, nhưng không phải
theo chiều hướng của hai lần trước đó, 1990 và 1992, mà ngược lại, đã giảm bớt khá
nhiều ưu đãi đầu tư gây nên phản cảm đối với nhiều doanh nghiệp FDI và nhà đầu tư
mới. Tháng 7/1997 xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, các nước chịu tác
động lớn nhất là Thái Lan, Philippines, Indonesia và Malaysia…; nước ta nằm ngoài
“tâm bão”.
Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định rằng, mặc dù cuộc khủng hoảng này có tác động
tiêu cực đến Việt Nam, nhưng lại tạo ra thời cơ cho việc thu hút nguồn vốn quốc tế
khi mà các nước khác trong khu vực đang phải đối phó với “trận cuồng phong kinh
tế”. Đáng tiếc là do môi trường đầu tư trở nên kém hấp dẫn từ khi sửa Luật năm
1996, lại không có được một đối sách thích hợp để chủ động đối phó với khủng
hoảng, nên nước ta đã gánh chịu hậu quả nặng nề, giảm sút rõ rệt tốc độ tăng trưởng
kinh tế và thu hút FDI quốc tế trong nhiều năm liên tiếp.
Mấy năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều chủ trương cải thiện môi trường đầu tư,
tạo lập cơ sở pháp lý bình đẳng trong kinh doanh cho mọi loại hình doanh nghiệp, coi
trọng hơn cải tiến quản lý nhà nước và cải cách thủ tục hành chính trong các hoạt
động kinh tế, chủ động trong hoạt động xúc tiến đầu tư. Năm 2006 với Luật Đầu tư
và Luật Doanh nghiệp mới đánh dấu bước tiến quan trọng trên lộ trình hội nhập kinh

tế với thế giới trong lĩnh vực lập pháp. Chính phủ đã phân cấp cho chính quyền tỉnh,
thành phố việc thẩm định và cấp phép, việc quản lý nhà nước các doanh nghiệp FDI,
vừa tạo thế chủ động cho UBND các địa phương, vừa gây nên phong trào thi đua cải
tiến thủ tục và môi trường đầu tư giữa các địa phương.
Cũng phải kể đến địa - chính trị của khu vực; với sự nổi lên của Trung Quốc đã
trở thành nền kinh tế thứ ba thế giới, chỉ sau và đang thách thức Mỹ và Nhật Bản,
châu Á đã có hai cường quốc kinh tế đang cạnh tranh với nhau. ASEAN ngày càng
được các cường quốc đánh giá cao hơn, trong đó Việt Nam cũng có vị thế gia tăng
trong tổ chức khu vực này.
Chỉ tính riêng trong 5 năm gần đây (2001-2005), các dự án ĐTNN đã đạt doanh
thu khoảng 74,061 tỷ USD. Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN tăng
bình quân trên 20%/năm, đã làm cho tỷ trọng của khu vực kinh tế này trong tổng giá
trị xuất khẩu cả nước tăng liên tục trong các năm qua. So sánh giá trị xuất khẩu và
đóng góp cho GDP như trên với tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội mới thấy
hết hiệu quả của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN. Chính vì vậy, cần phải khuyến khích
các dự án ĐTNN hoàn thành và đưa vào sử dụng, vì những dự án này sẽ mang lại lợi
ích lớn về kinh tế cho đất nước, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, rút ngắn được tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thu hút vốn FDI qua các năm 2000-2005
Hiện nay, các doanh nghiệp ĐTNN đang hoạt động có hiệu quả và ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Chỉ riêng trong năm 2005 đã đạt
tổng doanh thu khoảng 18 tỷ USD (không kể dầu khí), ngang bằng với năm 2004.
Hơn nữa, cả vốn và lao động đều được bồi bổ thêm đáng kể. Cụ thể là trong năm
2005, khu vực kinh tế ĐTNN đã thực hiện được 6,338 tỷ USD vốn đầu tư, tăng
trên 50% so với năm 2004.
Nhờ hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh được tăng cao hơn mà trong
năm 2005, chủ đầu tư của 607 dự án trong khu vực ĐTNN đã đề nghị và được các cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt cho tăng thêm vốn đầu tư để mở rộng quy mô hoạt
động, với tổng vốn đầu tư tăng thêm 2,070 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài năm 2005 đã có những kết quả rất ấn tượng với kỳ

lục về số lượng và chuyển biến về chất lượng. Dường như nhận định về một làn sóng
đầu tư mới vào Việt Nam đang trở thành hiện thực. Với nhiều điều kiện thuận lợi
mới cộng với những nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư nước
ngoài được đánh giá là đang trên đà thuận lợi.
Bộ Kế hoạch đầu tư (KH - ĐT) cho biết, năm 2006, thu hút đầu tư nước ngoài đã
đạt mức kỷ lục kể từ khi ban hành luật Đầu tư nước ngoài đến nay, dự kiến số vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký có thể đạt hơn 9 tỷ.Bên cạnh đó, thu hút
vốn FDI năm 2006 đã đánh dấu một bước chuyển mới về chất mà cụ thể chúng ta đã
thu hút được nhiều dự án lớn của các tập đoàn xuyên quốc gia có công nghệ cao. Lần
đầu tiên Việt Nam có những dự án công nghiệp lớn trên một tỷ USD và lần đầu tiên
chúng ta thu hút được những dự án công nghệ cao như dự án đầu tư sản xuất chíp
điện tử của Intel với số vốn ần 1 tỷ USD. Nhiều tập đoàn công nghiệp lớn trên thế
giới đã chọn Việt Nam là điểm đầu tư sản xuất cho cả khu vực, đưa Việt Nam tham
gia vào chu trình sản xuất mang tính toàn cầu của các tập đoàn lớn. trước. Điều đó
cho thấy, nhiều nhà ĐTNN muốn làm ăn lâu dài tại Việt Nam. Năm 2006 có thể coi
như sự khởi đầu cho một thời kỳ mới, với hy vọng không chỉ vốn đăng ký, vốn thực
hiện FDI ngày càng tăng, mà quan trọng hơn là cùng với việc tiếp tục thu hút nhiều
doanh nghiệp vừa và nhỏ, sẽ có các tập đoàn hàng đầu trên thế giới đầu tư những dự
án công nghệ cao, có tầm ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Theo một báo cáo của Bộ KH&ĐT, trong 5 tháng đầu năm 2006 nước ta đã thu
hút thêm hơn 2,412 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký mới, bao gồm cả vốn bổ sung của
những dự án cũ. Trong đó, riêng phần mới cấp phép có 281 dự án, với tổng vốn đăng
ký trên 2 tỷ USD, tăng 8,5% về số dự án và tăng 19,5% về vốn so với cùng kỳ năm
trước. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 74,3% số dự án và 66,1% tổng vốn
đăng ký cấp mới; lĩnh vực dịch vụ chiếm tương ứng là 21,1% và 33,4%; phần còn lại
thuộc lĩnh vực nông-lâm-thuỷ sản. Đáng chú ý là, trong số dự án mới cấp phép không
chỉ có một số dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, mà còn gắn liền với việc sẽ chuyển
giao công nghệ cao, như Tập đoàn Intel 605 triệu USD, Công ty Tây Hồ Tây 314
triệu USD, Winvest Investment 300 triệu USD, Công ty Panasonic Communication

76,36 triệu USD, Công ty Kho xăng dầu Vân Phong 60 triệu USD…
Năm 2006 đánh dấu sự tăng trưởng ngoạn mục của đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào Việt Nam. Cả nước có 833 dự án FDI mới, với tổng vốn đăng ký
7.838 triệu USD và 486 dự án tăng vốn đầu tư 2.362 triệu USD; gộp lại là 10,2 tỷ
USD. Đây là năm có vốn FDI cao nhất trong gần hai thập kỷ vừa qua, kể từ khi Quốc
hội nước ta ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào tháng 12 năm 1987.
Năm 2006, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo dự án đạt 10,2 tỷ USD,
tăng 52% so với năm 2005, đạt mức cao nhất kể từ năm 1987 khi Việt Nam công bố
Luật Đầu tư nước ngoài. Đồng thời, tổng vốn đầu tư thực tế của nước ngoài vào Việt
Nam năm 2006 cũng lập kỷ lục cao mới, đạt 4,1 tỷ USD, tăng 24,2% so với năm
2005.
Năm 2006 cũng là năm vốn thực hiện của FDI có mức tăng trưởng cao nhất trong
những năm gần đây, 24,2% so với năm 2005, đạt 4,1 tỷ USD; có thêm 250 doanh
nghiệp mới đi vào hoạt động, đưa số doanh nghiệp FDI đang kinh doanh ở nước ta
lên con số 3.500, tạo ra doanh thu 29,4 tỷ USD, tăng 31,3%, kim ngạch xuất khẩu
(chưa kể dầu thô) đạt 14,5 tỷ USD, tăng 30,1% so với năm trước; tính cả dầu thô thì
kim ngạch xuất khẩu là 22,6 tỷ USD, chiếm hơn 57% tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước
Nếu năm 1997 được coi là đỉnh điểm của FDI thì sau 10 năm, đến năm 2006
mới vượt qua được đỉnh điểm đó (!).
Như vậy, tính đến cuối năm 2006, nước ta đã thu hút được 60,4 tỷ USD vốn
FDI đăng ký, trong đó vốn thực hiện là 36 tỷ USD, kể cả các dự án đã ngừng hoạt
động
Bức tranh về đầu tư nước ngoài ở nước ta trong năm 2006 có màu sắc phong phú
hơn với sự xuất hiện của một số dự án mới có quy mô lớn từ các tập đoàn xuyên
quốc gia Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, như dự án của Công ty thép Posco có vốn
đầu tư 1,126 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Intel với tổng vốn đầu tư 1 tỉ USD, dự án
của Tập đoàn Tycoons với tổng vốn đầu tư 556 triệu USD, dự án Tây Hồ Tây vốn
đầu tư 314,1 triệu USD, dự án Winvest Investment với vốn đầu tư 300 triệu USD...
Nhiều dự án được cấp phép đã tích cực triển khai thực hiện như các nhà máy của

Công ty Hoya Glass Disle, Canon, Matsushita, Brothers Industries, Honda… Ước
tính vốn thực hiện trong năm 2006 đạt khoảng 4,1 tỉ USD, tăng 24,2% so với năm
2005.
Kết quả tốt đẹp này đã được dư luận nước ngoài đánh giá là hiện tượng Việt Nam.
Trong năm 2006, vị thế của nước ta trên thế giới được nâng cao sau khi trở thành
thành viên 150 của WTO và tổ chức thành công Hội nghi cấp cao APEC lần thứ 14
tại Hà Nội, tiếp tục làm gia tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng
thời, môi trường kinh doanh của nước ta đã tiếp tục được hoàn thiện nâng cao nhằm
tạo một mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo
môi trường kinh doanh minh bạch thông thoáng hơn phù hợp với thông lệ quốc tế.
Lý do dẫn đến việc đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh trong năm
2006.
- Các nhà đầu tư hy vọng sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các yếu tố bất ổn
định sẽ bị loại bỏ, môi trường xuất khẩu sang Mỹ sẽ được cải thiện, thị trường
dịch vụ sẽ được mở rộng sẽ tạo ra những cơ hội kinh doanh mới.
- Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện nhờ những nỗ lực cải thiện
môi trường đầu tư của chính phủ Việt Nam.
- Việt Nam luôn được đánh giá cao nhờ tính ổn định về thể chế so với các quốc
gia khác như Campuchia, Mianna, Lào.
- Hy vọng rằng cơ hội tham gia vào các dự án quy mô lớn đang được triển khai
hoặc dự kiến ttrieenr khai trong thời gian tới như xây dựng khu đô thị mới, dự
án tái phát triển, xây dựng đường sắt cao tốc, nhà máy phát điện, nhà máy lọc
dầu, nhà máy hóa dầu, khu sản xuất sắt thép, xây dựng khu công nghiệp…
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến gần cuối tháng
3/2007 cả nước đã thu hút được trên 2,5 tỉ USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI), mức
cao nhất từ trước đến nay. Chỉ cần so với thống kê của năm ngoái, một chuyên gia
đầu tư nhận xét: "Đã qua rồi thời kỳ mỗi tháng thu hút được vài chục triệu USD.
Tại Diễn đàn Đầu tư lần thứ 2 vừa diễn ra ở Hà Nội, nhiều nhà đầu tư cũng như
giới chuyên môn cho rằng mục tiêu thu hút 12 tỉ USD vốn FDI năm nay của Việt
Nam là trong tầm tay, thậm chí có thể lên đến 15 - 16 tỉ USD.

Theo nguồn tin từ Cục Đầu tư nước ngoài, từ đầu năm đến nay trên cả nước đang
có khoảng 200 dự án FDI với tổng vốn đăng ký khoảng 30 tỉ USD đang trong quá
trình "dạm hỏi" tại các địa phương. Trong đó có rất nhiều dự án lớn và khả năng triển
khai là thực tế. Ví dụ như Tập đoàn dầu khí BP cùng các đối tác đang tiếp tục đệ
trình một dự án khí - điện - đạm, tương tự dự án Nam Côn Sơn (vốn đầu tư 1,3 tỉ
USD), có tổng vốn đăng ký dự kiến là 2 tỉ USD. Hay, dự án khu đô thị - địa ốc - khu
công nghiệp và sản xuất công nghệ cao của Tập đoàn Honhai (Đài Loan) có số vốn
kỷ lục 5 tỉ USD,...
Thời gian gần đây, có nhiều yếu tố để đưa ra nhận định về khả năng xuất hiện
một làn sóng đầu tư mới của nước ngoài vào Việt Nam. Làn sóng này dường như âm
ỉ từ sau các động thái khi Việt Nam đàm phán vòng cuối để gia nhập WTO, khi các
tập đoàn lớn của Nhật Bản, Hoa Kỳ gửi các đoàn vào Việt Nam tìm hiểu môi trường
đầu tư, kinh doanh để tìm kiếm cơ hội đầu tư ... Rồi hàng loạt các sự kiện diễn ra tại
Việt Nam trong năm 2006 đã góp phần làm nổi lên làn sóng đầu tư mà đỉnh cao là
vốn đăng ký và vốn thực hiện của năm 2006 đều đạt mức đỉnh điểm kể từ khi nước ta
thực thi Luật Đầu tư. Rõ ràng nước ta đang đứng trước những cơ hội mới và cả
những thách thức để có thể thu hút mạnh mẽ hơn nguồn vốn FDI, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Xu hướng gia tăng dòng vốn đầu tư nước ngoài dự báo sẽ tiếp tục được duy trì
trong các năm tới. Trong 5 năm (2006 - 2010), vốn cấp mới sẽ có thể đạt trên 30 tỉ
USD, bình quân mỗi năm khoảng trên 6 tỉ USD; vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt
khoảng 24 - 25 tỉ USD, bình quân gần 5 tỉ USD/năm. Cơ cấu đầu tư phân theo đối tác
sẽ có sự chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư từ các nước công
nghiệp phát triển, nhất là từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU. Đầu tư phát triển sản xuất
công nghiệp sẽ tập trung chủ yếu trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao và khu kinh tế. Một số dự án quy mô lớn đang đàm phán sẽ được thực thi.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng môi trường đầu tư của nước ta và các yếu tố mới
có tác động đến hoạt động đầu tư nước ngoài, kể cả yếu tố thuận lợi và bất lợi, có thể
dự báo tình hình FDI năm 2007 như sau:
- Vốn thực hiện đạt 4,2 - 4,5 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2006;

- Cơ cấu ngành: công nghiệp - xây dựng khoảng 60%, nông - lâm -ngư nghiệp 6% và
dịch vụ 34%;
Doanh thu xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô)
đạt 17 tỉ USD (tăng 23% so với năm 2006), nhập khẩu 19 tỉ USD (tăng 16,5 % so với
năm 2006).
- Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tuyển dụng thêm 24 vạn lao
động trực tiếp, đưa tổng số lao động trong khu vực đầu tư nước ngoài lũy kế đến cuối
năm 2007 lên 1,4 triệu người;
- Vốn cấp mới đạt 6,8 tỉ USD, (tăng 5% so với năm 2006) trong đó vốn đầu tư cấp
mới đạt khoảng 5 tỉ USD, số còn lại là vốn tăng thêm.
Nhìn tổng thể bức tranh kinh tế - xã hội, cũng như dấu hiệu của làn sóng mới FDI
vào nước ta trong năm 2006 đã làm tăng thêm lòng tin của người dân vào con đường
đi lên của dân tộc, làm cho nhiều chuyên gia kinh tế thế giới đánh giá cao thành quả
của Việt Nam trong một thế giới đang biến động và đầy bất trắc. Ông Ayumi
Konishi, Giám đốc quốc gia cơ quan đại diện thường trú Ngân hàng Phát triển châu
Á (ADB) tại Việt Nam nhận xét: “Về phát triển kinh tế, có thể nói, Việt Nam là một
ngôi sao của khu vực Đông Nam Á. Chính sự tăng trưởng trong đầu tư tư nhân, tiêu
dùng và xuất khẩu là những động lực thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam”. Giám
đốc Viện nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Raghuram Rajan cho rằng:
“Chắc chắn là Việt Nam đang được rất nhiều người coi như một ‘Trung Quốc mới’
(Emerging China). Tôi tin rằng, đó là một lời khen ngợi xứng đáng”.
Đặc biệt là từ sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, hợp
tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được đưa vào chương trình nghị sự chính
thức, mang lại thuận lợi hơn các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam. Bộ
Thương mại Việt Nam cho hay, đến năm 2010, kim ngạch thương mại Việt - Nhật sẽ
tăng lên 17 tỷ USD, so với 10 tỷ USD năm 2006.
Sự gia tăng mạnh mẽ trong đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam là một trong
những nguyên nhân khiến đầu tư của Nhật Bản vào Trung Quốc giảm. Theo thống
kê, năm 2006, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Trung Quốc (không kể đầu tư vào
lĩnh vực tài chính) giảm 29,58% xuống 4,598 tỷ USD. Trong tổng kim ngạch đầu tư

nước ngoài tại Trung Quốc năm 2006, tỷ lệ vốn đầu tư của Nhật Bản đã giảm từ
10,82% năm 2005 xuống 7,3%. Năm 2005 viện trợ không hoàn lại của Nhật Bản
dành cho Việt Nam lên tới 90,8 tỷ yên, viện trợ có hoàn lại 4,5 tỷ yên và hỗ trợ kỹ
thuật 5,7 tỷ yên. Kim ngạch đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam cũng lên tới
6,22 tỷ USD với 591 dự án đầu tư và xu thế này sẽ còn tiếp tục tăng trong năm nay.
2. Xu thế Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm gần đây.
Kể từ sau khủng khoảng tài chính khu vực năm 1997, xu hướng dòng vốn FDI
vào Việt nam tiếp tục phục hồi và tăng trưởng. Các vùng trọng điểm kinh tế vẫn là
đầu tàu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, làm động lực phát triển kinh tế của
nước ta, tạo sức lan tỏa của đầu tư nước ngoài sang những vùng có điều kiện kinh tế
khó khăn. Chỉ tính riêng trong năm 2005 (tính đến ngày 20/12/2005), trong tổng số
798 dự án được cấp phép, ngoại trừ có 1 dự án dầu khí ngoài khơi thì 797 dự án còn
lại được thực hiện trên 40 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Dẫn đầu là thành
phố Hồ Chí Minh với 243 dự án được cấp phép, tỉnh Bình Dương với 140 dự án, tỉnh
Đồng Nai với 87 dự án và tỉnh Tây Ninh với 26 dự án. Tại khu vực phía Bắc, Hà Nội,
Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh và Hưng Yên là các địa phương dẫn đầu về số
lượng các dự án FDI được cấp phép hoạt động, trong đó, Hà Nội có 103 dự án, Vĩnh
Phúc có 24 dự án và Hải Phòng có 21 dự án. Các tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn cũng thu hút được các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài như Lào Cai (5 dự
án), Cao Bằng (3 dự án), Đắc Nông (2 dự án), Yên Bái (2 dự án),.
Với môi trường đầu tư kinh doanh từng bước được cải thiện, các doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài đã hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển, thể hiển ở
các chỉ tiêu vốn thực hiện, doanh thu, xuất khẩu và nộp ngân sách nhà nước ngày
càng tăng.
Chất lượng các dự án mới và các dự án tăng vốn trong năm 2005 có chuyển biến
tích cực ; đã thu hút được một số dự án quy mô lớn, sử dụng công nghệ tiên tiến như
dự án xây dựng hệ thống điện thoại di động CDMA, dự án đầu tư nghiên cứu phát
triển và sản xuất mô tơ chính xác cao của tập NIDEC, dự án nghiên cứu, phát triển và
sản xuất các thiết bị âm thanh siêu nhỏ của tập đoàn SONION, các dự án mở rộng sản
xuất của Canon. Ngày càng nhiều dự án của các tập đoàn đa quốc gia quay trở lại đầu

tư và mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Đến nay, đã có 95 công ty đa quốc gia đầu tư
vào trên 230 dự án FDI tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký (kể cả tăng vốn) là 10,6 tỷ
USD, chiếm 20% tổng vốn đăng ký. Hầu hết các công ty nói trên đầu tư vào các dự
án có quy mô lớn (bq trên 45 triệu USD/dự án).
Bảng 2: Thu hút FDI,2005 theo cơ cấu ngành
Dự án Vốn
Công nghiệp và xây dựng 66.20% 58.70%
Dịch vụ 24.20% 37.10%
Nông nghiệp 9.60% 4.20%
V?n
Công nghi?p và xây d?ng D?ch v? Nông nghi?p
dự án
Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ Nông nghiệp

×