Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tìm hiểu về đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ (nghiên cứu trường hợp tại xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





LƯƠNG THỊ THU TRANG




TÌM HIỂU VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở NÔNG
THÔN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
(Nghiên cứu trường hợp tại xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, Tỉnh
Thái Bình)




Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30




LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC





Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS. VŨ MẠNH LỢI









Hà Nội - 2012

5
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
2. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN 4
2.1. Ý nghĩa khoa học 4
2.2. Ý nghĩa thực tiễn 4
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 5
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 10
4.1. Mục đích nghiên cứu 10
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 11
5. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU 11
6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU 11
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 13
7.1. Phương pháp luận 13
7.2 Phương pháp chọn mẫu: 14
7.3 Phương pháp thu thập thông tin 14
8. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, MẪU NGHIÊN CỨU 15

8.1. Đối tượng nghiên cứu 15
8.2. Khách thể nghiên cứu 15
8.3. Phạm vi nghiên cứu 15
8.4. Mẫu nghiên cứu 15
9. KHUNG LÝ THUYẾT 18
10. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN 19
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 20
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN 20
1.1.1 Chủ nghĩa Mác quan niệm về văn hóa, văn hóa tinh thần 20
1.1.2 Lý thuyết vốn – vốn văn hóa 21
1.2 CÁC KHÁI NIỆM CÔNG CỤ 21
1.2.1 Khái niệm “văn hóa” 21
1.2.2 Khái niệm về “đời sống văn hóa tinh thần” 23
1.2.3 Khái niệm “nghèo”, “nghèo tuyệt đối” và “nghèo tương đối” 25
CHƯƠNG 2: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ ĐẶC ĐIỂM
GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN Ở
XÃ VŨ ĐOÀI, (HUYỆN VŨ THƯ, TỈNH THÁI BÌNH) 27

6
2.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA CỦA
ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU. 27
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên 27
2.1.2 Tình hình kinh tế xã hội và văn hóa 28
2.2 NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN 29
2.2.1 NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘ TUỔI, GIỚI TÍNH VÀ TÔN GIÁO 29
2.2.1.1 Các hoạt động của đời sống văn hóa tinh thần 30
2.2.1.2 Các quan niệm của người dân về cuộc sống 45
2.2.1.3 Nhu cầu chia sẻ tinh thần 51
2.2.2 NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA HỌC VẤN và TÌNH TRẠNG HÔN NHÂN 55

2.2.2.1 Các hoạt động của đời sống văn hóa tinh thần 57
2.2.2.2 Các quan niệm của người dân về cuộc sống 59
2.2.3 NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NGHỀ NGHIỆP và THU NHẬP 61
2.2.3.1 Các hoạt động của đời sống văn hóa tinh thần 65
2.2.3.2 Các quan niệm của người dân về cuộc sống 70
2.2.4 NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA KINH NGHIỆM DI CƯ 74
2.3 ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẶC ĐIỂM GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN 78
2.3.1Ảnh hưởng của loại hình gia đình và các điều kiện sống 79
2.3.2 Đặc điểm dòng họ 82
2.3.3 Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế gia đình 84
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 91
Kết luận 91
Khuyến nghị 92
PHỤ LỤC 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101









7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Quan hệ của người trả lời với chủ hộ phân theo tuổi
30

Bảng 2.2: Mức độ xem tivi trong tuần phân theo nhóm tuổi
31
Bảng 2.3: Mức độ xem phim truyền hình Việt Nam phân theo nhóm tuổi
33
Bảng 2.4: Mức độ xem các chương trình nghệ thuật truyền thống trên tivi
trong tuần
34
Bảng 2.5: Mức độ đọc báo phân theo giới tính
37
Bảng 2.6: Hoạt động tham gia khi rảnh rỗi của người dân
38
Bảng 2.7: Độ tuổi và cách sử dụng thời gian rảnh
39
Bảng 2.8: Giới tính và những việc thường làm khi rảnh rỗi
40
Bảng 2.9: Tôn giáo của người trả lời
41
Bảng 2.10: Các nhóm tuổi đánh giá ý nghĩa các lễ hội
44
Bảng 2.11: Các độ tuổi đánh giá các nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn trong
gia đình
45
Bảng 2.12: Mức độ các tệ nạn xã hội trong khu vực sống
47
Bảng 2.13: Quan niệm về một người được coi là giàu
49
Bảng 2.14: Độ tuổi và quan niệm về một gia đình được coi là giàu
50
Bảng 2.15: Độ tuổi và quan niệm về một người được coi là giàu
51

Bảng 2.16: Mục đích sử dụng tiền nếu có dư
52
Bảng 2.17: Mức độ chia sẻ suy nghĩ khi gặp khó khăn
54
Bảng 2.18: Trình độ học vấn của người trả lời
55
Bảng 2.19: Những việc thường làm khi rảnh rỗi và trình độ học vấn
57
Bảng 2.20: Mức độ tham dự các lễ hội của người dân
59
Bảng 2.21: Ảnh hưởng của trình độ học vấn và đánh giá kinh tế gia đình
60
Bảng 2.22: Tình trạng hôn nhân và tự đánh giá kinh tế gia đình
61
Bảng 2.23: Nghề nghiệp của người trả lời
62
Bảng 2.24: Quan hệ giữa nghề nghiệp và thu nhập
69
Bảng 2.25: Mức độ tham dự các lễ hội phân theo nhóm thu nhập
71
Bảng 2.26: Tương quan giữa nghề nghiệp và tự đánh giá kinh tế gia đình
72
Bảng 2.27: Các nhóm nghề nghiệp và quan niệm về các nguyên nhân nảy
sinh mâu thuẫn gia đình
73
Bảng 2.28: Kinh nghiệm di cư của người trả lời
75

8
Bảng 2.29: Ảnh hưởng của di cư và mức độ đọc báo trong tuần

76
Bảng 2.30: Ảnh hưởng của kinh nghiệm di cư và mức độ đi dự lễ hội
78
Bảng 2.31: Loại nhà ở và nhà vệ sinh của người trả lời
80
Bảng 2.32: Tài sản chung của gia đình
84
Bảng 2.33: Số tài sản trong 14 tài sản được nêu
86
Bảng 2.34: Ảnh hưởng của thu nhập trung bình gia đình/tháng và đánh giá
một gia đình là giàu có
88

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Biểu 2.1: Tỷ lệ nam-nữ ở các lứa tuổi
29
Biểu 2.2: Tỷ lệ người quan tâm đến nội dung của thời sự quốc tế
32
Biểu 2.3: Mức độ đọc báo phân theo nhóm tuổi
36
Biểu 2.4: Nhóm tuổi và mức độ đi chùa/nhà thờ trong tháng
42
Biểu 2.5: Những việc thường làm khi rảnh rỗi và tình trạng hôn nhân
58
Biểu 2.6: Thu nhập trung bình/tháng của người trả lời
64
Biểu 2.7: Nghề nghiệp và những việc thường làm khi rảnh rỗi
68
Biểu 2.8: Những việc thường làm khi rảnh rỗi phân theo nhóm thu nhập

70
Biểu 2.9: Nhóm thu nhập và quan niệm về một người được coi là giàu
74
Biểu 2.10: Cách sử dụng thời gian rỗi của các nhóm nghề nghiệp
76
Biểu 2.11: Tương quan giữa kinh nghiệm di cư và mức độ đi chùa/nhà thờ
trong tháng
77
Biểu 2.12: Kinh nghiệm di cư và cách đánh giá một người là giàu
78
Biểu 2.13: Tương quan giữa người đỗ đạt trong gia đình và đầu tư cho con
cái học hành
83
Biểu 2.14: Tương quan giữa số tài sản về tiếp cận thông tin và cách sử dụng
thời gian rảnh
86
Biểu 2.15: Thu nhập trung bình/tháng của gia đình người trả lời
87


9
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang diễn
ra hiện nay, nông thôn và gắn với nó là văn hóa nông thôn đang thay đổi
nhanh chóng. Cùng với việc mở rộng các đô thị hiện có và phát triển các đô
thị mới, quá trình đô thị hóa diễn ra đến đâu thì đều có ảnh hưởng và làm biến
đổi đời sống dân cư đến đấy. Nhiều người bày tỏ sự lo ngại rằng văn hóa làng
xã sẽ bị tổn thương trong dòng chảy của đô thị hóa. Có ý kiến cho rằng đô thị
hóa sẽ thay đổi văn hóa làng xã; văn hóa đô thị, lối sống đô thị sẽ dần dần lấn

át văn hóa và lối sống nông thôn. Đó là những lo ngại có căn cứ.
Một trong những hệ lụy của các ảnh hưởng của đô thị hóa hiện nay
đang diễn ra phổ biến ở các vùng nông thôn là tình trạng người chưa thành
niên và thanh thiếu niên phạm tội ở các vùng nông thôn gia tăng, tính chất của
tội phạm ngày càng phức tạp hơn. Các tệ nạn xã hội tràn về nông thôn, phá vỡ
những trật tự truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân. Mức độ rạn
nứt trong quan hệ gia đình, hàng xóm láng giềng cũng tăng. Khiếu nại về
tranh chấp đất đai, tài sản trong gia đình và giữa hàng xóm với nhau ngày
càng nhiều.
Dưới ảnh hưởng của đô thị hóa, sự phân hóa giàu nghèo cũng diễn ra
khá sâu sắc trong cộng đồng các làng ở vùng nông thôn. Ở nông thôn không
phải ai cũng có thể tận dụng tốt các cơ hội phát triển do Đổi Mới và quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa mang lại. Một bộ phận dân cư biết
tận dụng các cơ hội này nên đã có nhiều thành công trong phát triển kinh tế
gia đình. Bộ phận dân cư khác vì nhiều lý do chủ quan và khách quan khác
nhau còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế gia đình. Song song với
quá trình phân hóa giàu nghèo về kinh tế, tình trạng phân hóa giàu nghèo
trong mức độ hưởng thụ các phúc lợi văn hóa xã hội cũng diễn ra mạnh mẽ
không kém. Việc tiếp thu và thích ứng với các loại hình văn hóa mới, hiện

10
đại, và mức độ hòa nhập vào lối sống mới đang hình thành ở Việt Nam và
trên thế giới cũng khác nhau giữa các nhóm có mức sống kinh tế khác nhau.
Cách ứng xử về văn hóa và thái độ đối với các giá trị văn hóa tinh thần của
các nhóm có mức sống kinh tế khác nhau cũng rất khác nhau (thậm chí đôi
khi không thể dung hòa lẫn nhau trong lối sống, cách hưởng thụ cuộc sống,
phong cách sống, quan niệm sống…). Sự phân hóa giàu–nghèo với những
tiêu chuẩn khác biệt về sự hưởng thụ tiện nghi, lợi ích vật chất và tinh thần sẽ
dẫn đến việc thụ hưởng và tiếp nhận văn hóa khác biệt đáng kể giữa hai tầng
lớp giàu - nghèo.

Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiều đời sống văn hóa tinh thần ở
nông thôn đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh Đổi Mới, hiện đại hóa, đô thị
hóa, đặc biệt là tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt giữa nhóm dân cư có
mức sống thấp và nhóm dân cư có mức sống cao trong việc thụ hưởng các sản
phẩm văn hóa tinh thần, sự khác biệt về thái độ ứng xử đối với một số giá trị
văn hóa tinh thần cơ bản.
Do những hạn chế về nguồn lực cho nghiên cứu, bao gồm cả nguồn
nhân lực, thời gian, và nguồn lực tài chính, (nghiên cứu chỉ do một người
nghiên cứu chính tiến hành bằng nguồn lực cá nhân), nên nghiên cứu này sẽ
sử dụng hình thức nghiên cứu trường hợp, tìm hiểu sâu một trường hợp là một
xã ở đồng bằng sông Hồng nhằm qua đó có thể nói câu chuyện lớn hơn về giả
thuyết đối với sự phân hóa xã hội trong đời sống văn hóa tinh thần đi kèm với
sự phân hóa giàu-nghèo về kinh tế trong quá trình hiện đại hóa, đô thị hóa ở
nông thôn Việt Nam hiện nay. Để phục vụ mục đích này, xã Vũ Đoài ở huyện
Vũ Thư tỉnh Thái Bình được chọn làm địa bàn nghiên cứu trường hợp. Xã Vũ
Đoài là một xã nông thôn có mức phát triển trung bình ở một tỉnh có trình độ
phát triển trung bình của Đồng bằng sông Hồng.
Thái Bình là một tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt
Nam. Thành phố Thái Bình là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của tỉnh

11
Thái Bình. Cũng như những thành phố khác ở đồng bằng sông Hồng, trong
thời gian qua Thái Bình có tốc độ đô thị hóa cao, kinh tế - xã hội phát triển
nhanh. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, thành phố Thái Bình phấn đấu
trở thành đô thị văn minh, giàu đẹp, kinh tế, văn hóa phát triển, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, sớm đưa địa phương
trở thành thành phố loại 2 ở vùng đồng bằng sông Hồng. Cùng với quá trình
đô thị hóa, hiện đại hóa của cả nước nói chung, sự phát triển nhanh chóng của
thành phố Thái Bình đã có ảnh hưởng nhất định đến vùng nông thôn của tỉnh.
Xã Vũ Đoài thuộc huyện Vũ Thư, cách thành phố Thái Bình khoảng

hơn 10km. Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra nông nghiệp, lâm nghiệp, và
thủy sản năm 2006, Vũ Đoài có 1878 hộ gia đình, với số dân là 5765 người.
Theo số liệu mới nhất, tính đến tháng 12/2011, tổng số dân là 6.874 nhân
khẩu, có 1.825 hộ phân bổ trên 11 thôn. [Xem 5].
*
Tỷ lệ hộ trong diện nghèo
tại thời điểm năm 2006 là 30% (tương đương 609 hộ), con số này đến năm
2009 đã giảm xuống còn khoảng 11,5% (khoảng 220 hộ). Người dân ở Vũ
Đoài về cơ bản làm nông nghiệp, với 63,1% số hộ có thu nhập chính từ nông
nghiệp và thủy sản, 10% từ công nghiệp và xây dựng, 7,4% từ dịch vụ, và
khoảng 20% từ các nguồn khác (Tổng điều tra nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản 2006). Xuất phát từ đặc điểm của xã không có điều kiện thuận lợi để
phát triển công nghiệp và dịch vụ, thương mại, không có chợ, ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp tự phát và manh mún, lãnh đạo xã đã xác định phát triển
nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2010-2015 [Xem 5]. Với
các điều kiện về tình hình kinh tế, xã hội như trên, Vũ Đoài là xã phù hợp để
nghiên cứu tác động của công nghiệp hóa, đô thị hóa đối với một xã nông
nghiệp ở đồng bằng sông Hồng.

*
Từ đây và tiếp sau này chúng tôi qui ước: Trong ngoặc vuông, số thứ nhất (trước dấu phẩy) chỉ tên tài liệu
trong danh mục tài liệu tham khảo, sau dấu phẩy, số thứ 2 – tập của tài liệu, số cuối cùng chỉ trang của tài
liệu. Trong quá trình trích dẫn, đôi khi có thể xuất hiện những chữ số La Mã (như I, II,…) sau dấu phẩy cũng
chỉ tập của tài liệu trích. Bên cạnh đó, trong ngoặc vuông khi trích dẫn các số liên tục liền nhau được ngăn
cách bởi dấu chấm phẩy (;) đó là số thứ tự của các tài liệu tham khảo cùng được trích dẫn.

12
2. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
2.1 Ý nghĩa khoa học
- Đề tài góp phần tìm hiểu và soi sáng thêm lý luận về mối quan hệ

giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa-xã hội, công bằng xã hội trong
hưởng thụ các thành quả kinh tế và văn hóa-xã hội, trong quá trình phát triển
chung ở Việt Nam hiện nay.
- Những nghiên cứu trước đây thường đề cập nhiều tới sự phân tầng xã
hội, phân hóa giàu nghèo dựa trên các yếu tố kinh tế, trong khi đề tài này đặt
trọng tâm làm rõ hơn khái niệm phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo về mặt
đời sống văn hóa tinh thần.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
- Hiểu được đời sống văn hóa tinh thần của các nhóm dân cư nông thôn
có mức sống khác nhau cũng như hiểu được quan niệm và nguyện vọng sống
của họ sẽ giúp gợi ra những can thiệp chính sách có hiệu quả nhằm duy trì
bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc và giúp người dân tiếp thu các giá trị văn
minh chung của nhân loại, thích ứng tốt hơn với đời sống hiện đại, tránh được
những xung đột giá trị không đáng có trong gia đình và cộng đồng. Điều này
đặc biệt có ý nghĩa thực tiễn khi Đảng và Nhà nước và toàn dân đang nỗ lực
thúc đẩy phong trào xây dựng làng văn hóa, khu dân cư văn hóa, và gia đình
văn hóa. Nghiên cứu này chỉ là một nghiên cứu trường hợp quy mô nhỏ nên
tính khái quát rộng của nó có thể rất hạn chế. Song những điều đề tài này thảo
luận có thể đóng góp làm cơ sở thực tế cho các giả thuyết nghiên cứu của các
nghiên cứu quy mô lớn hơn về đề tài đời sống văn hóa tinh thần của người
dân nông thôn. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai
quan tâm, tìm hiểu về đời sống văn hóa tinh thần và sự phân hóa trong các
biểu hiện của nó ở các nhóm dân cư có mức sống khác nhau ở vùng nông
thôn, đặc biệt là những nhà nghiên cứu khoa học xã hội, những nhà hoạt động

13
thực tiễn, và những nhà hoạch định chính sách liên quan đến văn hóa và phát
triển nông thôn.
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Nông thôn và văn hóa vùng nông thôn là một trong những đối tượng

chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất của các quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và quá trình đô thị hóa, vì vậy nó cũng là chủ đề của rất nhiều hội thảo, công
trình nghiên cứu khoa học từ khi nước ta bắt đầu thời kỳ Đổi mới đến nay.
Các nhà nghiên cứu đã xem xét “nông thôn” và “văn hóa tinh thần” khu vực
nông thôn dưới nhiều chiều cạnh khác nhau nhằm tìm ra những đặc điểm và
những quy luật phát triển chung nhất của vùng nông thôn để phục vụ cho các
công tác hoạch định chính sách và điều chỉnh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và đô thị hóa nói riêng, xã hội nói chung được hợp lý hơn. Có thể kể
đến một số các công trình nghiên cứu có liên quan tiêu biểu sau đây:
Trong cuốn “Văn hóa của nhóm người nghèo ở Việt Nam - Thực
trạng và giải pháp” [Xem 13] do TS. Lương Hồng Quang chủ biên (Nxb
Văn hóa – Thông tin, 2001), các tác giả cho rằng nghèo và văn hóa của nhóm
nghèo là những chủ đề nghiên cứu có tính lý luận và thực tiễn trong giai đoạn
hiện nay. Dựa trên các thành tựu nghiên cứu về thực trạng nghèo của Việt
Nam và một số nước trên thế giới, nhóm tác giả đã đưa ra một định hướng
nghiên cứu mới, khi cho rằng nghèo không chỉ là sự thiếu hụt các khả năng
gia nhập đời sống xã hội, thiếu hụt các nguồn lực và điều kiện sống mà còn là
hệ quả của một kiểu loại văn hóa - văn hóa của sự khốn cùng. Là hệ quả của
những thiếu hụt về mặt kinh tế, đến lượt nó, các hệ thống giá trị, chuẩn mực,
khuôn mẫu văn hóa của nhóm nghèo qui định lại khả năng hòa nhập xã hội
của nhóm nghèo.
Cuốn “Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay”
[Xem 18] do GS. Trần Văn Bính chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, 1997) tập
trung nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và quá trình phát triển đô thị hóa

14
ở nước ta trên cơ sở phân tích và khái quát thực trạng tình hình kinh tế xã hội
và văn hóa ở nước ta hiện nay. Tác giả đã đánh giá vai trò của nhân tố văn
hóa trong quá trình đô thị hóa, xác định cơ cấu, cơ chế mà qua đó văn hóa tác
động tới quá trình này và tác động trở lại của đô thị hóa tới văn hóa. Tác giả

cũng phân tích những đặc điểm chung và tính đặc thù trong việc đưa nhân tố
văn hóa vào quá trình đô thị hóa của nước ta.
Với đề tài “Đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn Hà Nam hiện
nay” [Xem 12] là luận án chuyên ngành Triết học (2008), tác giả Lê Thành
Hưng đã làm rõ các khái niệm về văn hoá, đời sống văn hoá tinh thần, vai trò
của văn hoá tinh thần trong đời sống xã hội Việt Nam. Tác giả cũng đi sâu
phân tích thực trạng đời sống văn hoá tinh thần ở nông thôn Hà Nam hiện nay
thông qua việc tìm hiểu những truyền thống lịch sử văn hoá Hà Nam; những
giá trị tích cực và những biểu hiện tiêu cực trong đời sống văn hoá tinh thần ở
nông thôn Hà Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển
văn hoá tinh thần ở nông thôn Hà Nam trong thời kỳ đổi mới.


Liên quan đến phạm trù “văn hóa tinh thần”, tác giả Nguyễn Trần Bạt
có bài “Khái niệm và bản chất của văn hóa” [Xem 16]. Theo Nguyễn Trần
Bạt, “cách phân chia văn hóa thành hai lĩnh vực: văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần là không thật hợp lý và thấu đáo. Nó phản ánh lối tư duy lưỡng phân
điển hình, ảnh hưởng của những định kiến về tư tưởng cần phải xoá bỏ”. Tuy
nhiên, ông cũng khẳng định rằng, thật khó, và ngày càng khó phân biệt rạch
ròi đâu là sản phẩm vật chất, đâu là sản phẩm tinh thần. Mặt khác, không có
sản phẩm tinh thần nào lại không được thể hiện dưới một hình thức vật chất
nhất định và cũng như không có một sản phẩm vật chất nào lại không mang
trong nó những giá trị tinh thần. Hiểu được mối liên hệ mật thiết không thể
tách rời của những giá trị văn hóa tinh thần và vật chất là điều vô cùng quan
trọng. Và ông khẳng định: “Vật chất chỉ là phương tiện để thể hiện những giá
trị tinh thần trong đời sống văn hóa mà thôi.”
Field Code Changed

15
Bài viết “Quan tâm đời sống văn hóa, tinh thần của thanh niên nông

thôn” [Xem 20] nêu lên một thực trạng đó là đời sống văn hóa, tinh thần của
thanh niên nông thôn vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Tại nhiều nơi,
ngoài thời gian lao động trên đồng ruộng, vào buổi tối, thanh niên nông thôn
chỉ biết ngồi xem ti-vi hoặc tụ tập đánh bài, tán gẫu, nói chuyện phiếm Do
đời sống văn hóa, tinh thần của thanh niên nông thôn khá nghèo nàn, đơn
điệu, đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển nhân cách, cũng
như lối sống của lớp trẻ ở nông thôn. Thực tế cho thấy, tỷ lệ thanh niên nông
thôn mắc tệ nạn xã hội, như cờ bạc, rượu chè, ma túy hoặc ham mê trò chơi
điện tử có chiều hướng tăng. Kéo theo đó là những ảnh hưởng về sức khỏe,
tâm lý và nhân cách… Do vậy, việc chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần của
lớp trẻ ở nông thôn cần được chính quyền, đoàn thể các cấp quan tâm hơn
nữa. Đoàn thanh niên các địa phương cần tạo thêm nhiều "sân chơi" bổ ích
dành cho lớp trẻ. Cần phát triển mạnh mẽ phong trào văn hóa, thể thao quần
chúng nhằm thu hút đông đảo thanh niên ở nông thôn tham gia.
Trong bài “Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, góp phần xây dựng
đời sống văn hóa nông thôn mới” [Xem 8] của tác giả Đỗ Văn Hạnh (Phó
Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hòa Bình) tác giả nêu lên hai
mặt cơ bản của đời sống văn hóa nông thôn mới cần quan tâm đó là: Xây
dựng cơ sở vật chất và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần. Tác giả cũng
thống kê hàng loạt các kết quả đạt được của tỉnh Hòa Bình trong công cuộc
xây dựng văn hóa nông thôn mới như “nếp sống văn minh trong việc cưới,
việc tang, về cơ bản thực hiện tốt, dần dần hình thành tổ chức đám cưới theo
nếp sống mới và theo quy ước, hương ước. Công tác quản lý và tổ chức lễ hội
có nhiều chuyển biến tích cực. Hàng chục lễ hội truyền thống được tổ chức
hàng năm đã đảm bảo đúng nghi lễ, hình thức phù hợp, phát huy được các giá
trị đạo lý văn hóa truyền thống, khôi phục phát triển nhiều trò diễn dân gian
kết hợp với các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao ”. Bên cạnh

16
các thành tựu đã đạt được, tác giả cũng nêu lên một số hạn chế như mức

hưởng thụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, nhất là khu vực nông
thôn, vùng sâu, vùng xa còn chênh lệch với khu vực đô thị, vẫn còn một số hủ
tục dị đoan đốt vàng mã, v.v… tràn lan ở một số lễ hội đã ảnh hưởng đến
thuần phong mỹ tục và đời sống tinh thần của nhân dân. Tác giả cũng nêu ra
một số phương hướng phát triển cho phong trào xây dựng đời sống văn hóa
mới của Hòa Bình như: “cần tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” cho phù hợp với thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Tăng cường quản lý nhà nước, thực hiện tốt vệ
sinh môi trường, tổ chức tốt các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể
thao hướng về cơ sở, phát triển đa dạng các loại hình câu lạc bộ nhằm nâng
cao đời sống tinh thần cho các tầng lớp nhân dân…”
Bàn về “Nhu cầu văn hóa”, tác giả Hà Nhi có bài “Vài nét về văn hóa
nông thôn hiện nay” [Xem 9]. Tác giả cho rằng: nhu cầu văn hóa là một vấn
đề quan trọng trong đời sống tinh thần của con người nói chung, của người
nông dân nói riêng. Sự hiểu biết về nhu cầu văn hóa của người nông dân là
hết sức khác nhau, phụ thuộc vào vị trí, điều kiện xã hội, giới tính. nghề
nghiệp, tuổi tác, thậm chí cả sở thích của từng cá thể. Quan điểm chung của
người nông dân về nhu cầu văn hóa là: coi mọi nhu cầu của con người trong
xã hội, kể cả nhu cầu kinh tế đều thuộc phạm trù nhu cầu văn hóa và việc thỏa
mãn những nhu cầu xã hội cũng chính là thỏa mãn nhu cầu văn hóa. Trong hệ
thống nhu cầu ấy, không thể đáp ứng như nhau toàn bộ những nhu cầu của
con người bởi có nhu cầu hợp lý và nhu cầu bất hợp lý; có nhu cầu nổi trội,
cấp thiết và có những nhu cầu chưa thực sự cần thiết đối với người nông dân
trong bối cảnh hiện nay hoặc tương lai. Vì thế, việc tìm hiểu kỹ, phân loại và
định hướng nhu cầu văn hóa của người nông dân là vấn đề hết sức cần thiết.
Không đề ra được một hệ thống tiêu chí phân loại nhu cầu của cộng đồng, gia
đình, người dân, cá nhân ở nông thôn… thì rất dễ sa vào việc đáp ứng tràn lan

17
mọi nhu cầu khi nó xuất hiện và không đạt được hiệu quả cao về văn hóa xã

hội cũng như phát triển kinh tế.
Tác giả Bùi Thiết có bài “Hưởng thụ văn hóa chênh lệch giữa nông
thôn – thành thị” [Xem 2]. Theo tác giả, nhìn từ góc độ văn hóa, chúng ta sẽ
thấy một bức tranh “phản cảm” mà khi soi rọi vào đó các mảng màu văn hóa
nông thôn hiện lên không mấy lạc quan và sáng sủa. Cũng theo tác giả, sự thụ
hưởng văn hóa của dân cư nông thôn không chỉ là có ngôi nhà để ở, có cơm
để ăn mà là việc họ không được thụ hưởng văn hóa một cách công bằng như
dân cư thành thị. Sự hưởng thụ những giá trị văn hóa được gọi là những tiến
bộ của khoa học kỹ thuật của cư dân nông nghiệp rõ ràng là thấp kém hơn so
với dân cư thị thành. Bên cạnh đó, mặt trái của các phương tiện hiện đại đó
tìm được thị trường béo bở ở dân cư nông thôn chủ yếu là ở lứa tuổi vị thành
niên và thanh niên, trung niên. Dân cư nông nghiệp – nông thôn không những
không được hưởng thụ một cách công bằng mọi giá trị văn hóa do họ và cộng
đồng sáng tạo ra, họ thua thiệt đủ thứ, và hơn thế nữa họ lại bị sức ép từ phía
các giá trị văn hóa được sáng tạo ra bởi khoa học và công nghệ hiện đại.
Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn trước mắt và lâu dài không chỉ
là việc cư dân nông thôn phải làm gì, nông nghiệp phát triển đến đâu, mà còn
là việc nâng cao không ngừng trình độ thụ hưởng văn hóa một cách đầy đủ -
công bằng - tiện lợi cho dân cư nông thôn.
Tác giả Minh Sơn có bài viết “Gắn xây dựng nông thôn mới với việc
giải quyết những bức xúc đang đặt ra” [Xem 15]. Tác giả nêu lên những
vấn đề bức xúc đang xuất hiện ở các khu vực nông thôn của Việt Nam, trong
đó, văn hóa tinh thần ở nông thôn là một vấn đề bức xúc đang gây lo lắng cho
những người quan tâm tới đời sống văn hóa, tinh thần ở nông thôn. Tác giả
nêu lên các vấn đề nổi cộm trong đời sống văn hóa tinh thần ở nông thôn hiện
nay đó là tình trạng thất học, tệ nạn xã hội ngày càng có xu hướng lan rộng ở
làng quê từ miền xuôi lên miền ngược. Một nỗi lo lắng, nhức nhối khác cũng

18
khá nghiêm trọng và rõ nét là môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm nặng nề.

Bên cạnh đó, tồn tại một vấn nạn làm không ít người băn khoăn, lo lắng là các
tệ mê tín dị đoan, buôn thần, bán thánh, lừa bịp tâm linh và các sinh hoạt phản
văn hóa khác lại tràn lan và hoạt động công khai ở nông thôn hiện nay. Tác
giả đề xuất một số giải pháp cho các vấn đề đang gây bức xúc ở nông thôn,
trong đó có vấn đề về đời sống văn hóa tinh thần như: Xây dựng cơ sở hạ tầng
ở nông thôn khang trang hơn. Điều chỉnh, bổ sung các chính sách sao cho sát
sao hơn. Theo tác giả, trong quá trình thực hiện triển khai cuộc vận động xây
dựng nông thôn mới, vai trò người nông dân cần được đề cao và tôn vinh để
người nông dân khẳng định vị thế về kinh tế - chính trị của họ, để họ thực sự
là chủ thể của công cuộc xây dựng nông thôn mới trong tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Trên đây là một số các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong rất nhiều
các bài nghiên cứu, các tham luận hội thảo, các bài báo, tạp chí chuyên ngành
xoay xung quanh vấn đề nông thôn, văn hóa tinh thần khu vực nông thôn và
đều là những tài liệu tham khảo quý báu, cung cấp những thôn tin hữu ích cho
người thực hiện đề tài. Nghiên cứu
Tìm hiểu về đời sống văn hóa tinh thần ở
nông thôn đồng bằng Bắc bộ, nghiên cứu trường hợp tại xã Vũ Đoài, huyện
Vũ Thư, tỉnh Thái Bình là một nỗ lực tiếp theo nhằm làm rõ những đổi mới về
văn hóa tinh thần của người dân nông thôn đồng bằng Bắc bộ trong bối cảnh
công nghiệp hóa, đô thị hóa đang gia tăng.

4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
4.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những thông tin thu được từ cuộc khảo sát đời sống văn hóa
tinh thần của người dân xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, phân tích
một cách có hệ thống các đặc điểm sống, cách hưởng thụ các hoạt động văn
hóa tinh thần, cách ửng xử với xã hội và sự biến đổi tâm lý của họ trước
những ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa-đô thị hóa đang diễn ra hiện


19
nay để có cái nhìn tổng quan hơn về những khác biệt của đời sống văn hóa
tinh thần trong hai nhóm giàu và nghèo ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ hiện
nay như thế nào.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thao tác hóa các khái niệm, làm rõ các yếu tố trong đời sống văn hóa
tinh thần của người dân vùng nông thôn.
- Khảo sát thực nghiệm đời sống văn hóa tinh thần của người dân ở địa
bàn được chọn nghiên cứu trường hợp.
- Phân tích một cách có hệ thống các kết quả khảo sát thu được.
- Tổng hợp, luận giải các vấn đề đặt ra từ việc nghiên cứu về đời sống
văn hóa tinh thần của người dân ở địa bàn nghiên cứu trường hợp nói riêng,
người dân ở nông thôn đồng bằng bắc bộ nói chung.
5. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
- Liệu những người có mức sống khác nhau trong cộng đồng ở nông
thôn đồng bằng sông Hồng có các khuôn mẫu ứng xử khác nhau về văn hóa
tinh thần hay không?
- Nếu có, sự khác nhau đó thể hiện như thế nào?
- Mức độ mà theo đó các điều kiện kinh tế và quá trình đô thị hóa, hiện
đại hóa ảnh hưởng đến sự ứng xử văn hóa của họ là như thế nào?
6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Tên đề tài và những thảo luận nêu trên dựa trên một giả thuyết chung
quan trọng nhất, và cũng là luận điểm cơ bản nhất của Chủ nghĩa Mác, là các
điều kiện kinh tế có tác động quyết định đến các khuôn mẫu ứng xử về văn
hóa tinh thần. Áp dụng vào đề tài này, những người sống trong hộ gia đình có
mức sống cao thường có những ứng xử văn hóa tinh thần khác với những
người sống trong hộ gia đình có mức sống thấp. Sự phân hóa giàu-nghèo ở
nông thôn đồng bằng sông Hồng là hiện tượng mới nảy sinh trong thời kỳ Đổi
Mới (trong thời bao cấp sự phân hóa này rất nhỏ, có thể nói không đáng kể) đi


20
kèm với quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa, hội nhập toàn cầu. Những người
thành công về kinh tế thường là những người có khả năng thích ứng tốt với
quá trình thay đổi này hơn là người nghèo. Những nghiên cứu gần đây cũng
cho thấy những người thành công về kinh tế hơn cũng thường là những người
có vốn xã hội, vốn văn hóa phong phú (Luận án Tiến Sĩ của Khúc Thị Thanh
Vân 2012, “Vai trò của vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ ở nông thôn
đồng bằng sông Hồng hiện nay – Nghiên cứu trường hợp tại Nam Định và
Bắc Ninh”). Một giả thuyết chung khác của đề tài là những người có mức
sống cao thường có xu hướng có khuôn mẫu văn hóa tinh thần có tính hiện
đại hơn, và gần với các giá trị văn hóa của xã hội phát triển về kinh tế hơn so
với những người có mức sống thấp là những người có nhiều gắn bó hơn với
các khuôn mẫu văn hóa tinh thần truyền thống.
Giả thuyết này làm định hướng cho quá trình nghiên cứu, phân tích tài
liệu hiện có, thu thập thông tin, phân tích và xử lý số liệu, và viết luận văn.
Trên thực tế không có giả thuyết nào tuyệt đối đúng trong mọi tình huống.
Thời gian gần đây trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng người ta có nói
tới mối lo ngại khi mức sống được nâng cao thì nhiều người lại quay lại các
phong tục tập quán cổ truyền hơn như xem bói, đi chùa cầu phước, xem tử vi,
v.v là những điều trái ngược với giả thuyết nêu trên của tác giả về hướng tác
động của điều kiện kinh tế đến các giá trị văn hóa tinh thần. Tác giả cũng sẽ
tìm hiểu khía cạnh này trong nghiên cứu này.
Do nghiên cứu chỉ được tiến hành ở một xã (nghiên cứu trường hợp)
nên tác động của cộng đồng đến hành vi cá nhân là như nhau cho cả nhóm
giàu và nhóm nghèo (là hằng số) vì họ cùng ở trong xã đó. Do đó, khung phân
tích và các giả thuyết chỉ tập trung vào tác động của các đặc điểm cá nhân và
gia đình đến ứng xử văn hóa của người được nghiên cứu. Dưới đây là một số
luận điểm chi tiết hơn của giả thuyết:

21

- Đặc điểm cá nhân và đặc điểm gia đình là điều kiện trực tiếp tạo ra sự
khác biệt về đời sống văn hóa tinh thần giữa hai nhóm giàu nghèo khu vực
nông thôn khi biến động xã hội của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
tác động đến.
- Những người có học vấn cao, làm nghề phi nông nghiệp, có kinh
nghiệm di cư (đã từng sống và làm việc ở các khu đô thị), có điều kiện tiếp
cận với nhiều nguồn thông tin và những người thuộc lớp trẻ hơn, thường có
xu hướng cởi mở hơn đối với các giá trị văn hóa tinh thần hiện đại (như quan
hệ gia đình dân chủ hơn, bình đẳng hơn, sử dụng thời gian nhàn rỗi với nhiều
hình thức đa dạng hơn, ưa thích cái mới, mang tính khoa học và công nghệ
hơn, năng động và sáng tạo hơn trong cách nhìn đối với hoạt động kinh tế, ít
tính gia trưởng hơn, có cách nhìn vị tha hơn, cởi mở hơn đối với các hiện
tượng mới, chẳng hạn như tình dục trước hôn nhân của thanh niên, vấn đề li
dị, v.v )
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1 Phương pháp luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở
phương pháp luận của toàn bộ quá trình nghiên cứu. Nguyên tắc lịch sử cụ
thể, khách quan, toàn diện luôn được vận dụng và tuân thủ một cách chặt chẽ
trong suốt quá trình nghiên cứu. Quan điểm Mác-xít chỉ ra rằng để hiểu đời
sống văn hóa, tinh thần của người dân cần xuất phát từ sự phân tích các điều
kiện vật chất, sản xuất, đời sống của người dân trong thời gian và không gian
cụ thể, những yếu tố là điều kiện vật chất giúp định hình thế giới quan, niềm
tin, tâm thế, thái độ, và các nhu cầu đối với đời sống văn hóa, tinh thần. Lý
thuyết vốn – vốn văn hóa cũng được sử dụng để tìm hiểu các khía cạnh của
đời sống văn hóa tinh thần của người dân ở Vũ Đoài. Theo lý thuyết này,
ngoài vốn kinh tế, mối quan hệ xã hội rộng rãi của con người trong gia đình,
cộng đồng, và xã hội cùng với các giá trị văn hóa gắn với các mối quan hệ

22

này góp phần quy định thái độ, tâm thế, động cơ và hành động của con người
liên quan đến những gì được cho là đáng mong muốn hoặc không đáng mong
muốn, tốt hay không tốt. Vốn xã hội (mạng lưới xã hội) và vốn văn hóa (các
giá trị văn hóa gắn với mạng lưới xã hội) đặc biệt có ảnh hưởng đến đời sống
văn hóa tinh thần của con người. Nghiên cứu này có mục đích chỉ ra những
điểm tương đồng hay khác biệt của người dân trong các sở thích, nhu cầu,
cách hưởng thụ các sản phẩm của đời sống văn hóa tinh thần của người dân
Vũ Đoài nói riêng, qua đó góp phần hiểu thêm người dân nông thôn đồng
bằng bắc bộ nói chung, dưới ảnh hưởng của những đặc điểm cá nhân, gia
đình, và quan hệ xã hội của họ.
7.2 Phương pháp chọn mẫu:
- Số lượng mẫu 220, chia đều trên 11 xóm của xã Vũ Đoài, huyện Vũ
Thư, tỉnh Thái Bình
- Mỗi xóm khảo sát 20 hộ: 10 hộ có mức sống trên trung bình (hộ giàu)
tại xóm đó và 10 hộ có mức sống trung bình trở xuống (hộ nghèo) trong xóm
đó. Phỏng vấn được tiến hành sao cho một nửa số người được hỏi là nam, và
một nửa là nữ.
- Nguyên tắc chọn mẫu: chọn ngẫu nhiên từ danh sách hộ gia đình của
các xóm.
7.3 Phương pháp thu thập thông tin
- Phỏng vấn bằng bảng hỏi: Theo phương pháp này, người được
phỏng vấn sẽ trả lời các câu hỏi theo một bảng hỏi đã được thiết kế sẵn.
Nguồn thông tin thu thập được là toàn bộ các phương án trả lời đã được mã
hóa từ các câu hỏi trong bảng hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả luận văn đã tiến hành 12 cuộc
phỏng vấn sâu, bao gồm: 02 cán bộ xã; 05 người dân thuộc “nhóm nghèo” và
05 người dân đại diện cho “nhóm giàu” của xã Vũ Đoài để thu thập cụ thể và
chi tiết hơn những thông tin liên quan đến những vấn đề mà nghiên cứu quan

23

tâm. Những thông tin thu được từ phương pháp này được sử dụng trực tiếp
trong quá trình phân tích.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Đề tài đã tham khảo một số đề tài
khoa học, luận văn, luận án, sách báo, các công trình đã được công bố … có
liên quan đến đời sống tinh thần của người dân ở nông thôn để có cái nhìn
tổng quan hơn về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân nông thôn đồng bằng
Bắc bộ nói chung, dân cư Vũ Đoài nói riêng. Ngoài ra tác giả luận văn còn sử
dụng những thông tin thu được từ sách báo, các văn kiện của Đảng, các báo
cáo của Đảng ủy xã Vũ Đoài và các tư liệu khác.
- Phương pháp quan sát: Tác giả luận văn đã tiến hành quan sát đời
sống sinh hoạt hàng ngày, môi trường sống của người dân, khung cảnh Vũ
Đoài nói chung để có cái nhìn tổng quan về đời sống tinh thần của người dân
Vũ Đoài.
- Phương pháp xử lý thông tin bằng chương trình SPSS 13.0: Đề tài
sử dụng phầm mềm SPSS 13.0 để tính tần suất và một số tương quan của
nguồn thông tin thu được từ bảng hỏi định lượng.
8. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, MẪU NGHIÊN CỨU
8.1 Đối tượng nghiên cứu: Đời sống văn hóa tinh thần của hai nhóm người
giàu và người nghèo vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ.
8.2 Khách thể nghiên cứu: Hai nhóm dân cư: nhóm giàu và nhóm nghèo ở
khu vực nông thôn trong độ tuổi từ 30-50.
8.3 Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Cuộc nghiên cứu thực hiện tại xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình.
- Thời gian nghiên cứu tại thực địa: Tháng 6/2011 đến tháng 9/2011
8.4 Mẫu nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, do tác giả chỉ thực hiện được với một cỡ mẫu
nghiên cứu tương đối nhỏ nên tác giả chỉ tập trung phân tích đời sống văn hóa

24

tinh thần của nhóm dân cư trung niên, những người trong độ tuổi từ 30-50,
thường là những cặp vợ chồng có con đang trong độ tuổi đi học. Nhóm dân cư
này đang ở giai đoạn giữa trong chu trình sống của gia đình họ, có vai trò vô
cùng quan trọng đối với việc giáo dục con cái, định hình tương lai của thế hệ
trẻ, và là nhóm có vai trò rất quan trọng trong việc tái tạo, sáng tạo, và duy trì
các giá trị văn hóa trong cuộc sống văn hóa tinh thần hàng ngày. Đồng thời,
họ cũng là nhóm dân cư có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc người cao
tuổi trong gia đình mình.
Dựa trên thông tin về mức sống thu thập từ các thống kê sẵn có tại địa
phương và dựa trên thông tin thu thập thông qua sử dụng bảng hỏi điều tra
định lượng, tác giả sẽ phân các hộ dân trong mẫu thành nhóm có mức sống
trên trung bình và nhóm có mức sống từ trung bình trở xuống để so sánh các
biểu hiệu của đời sống văn hóa tinh thần của họ trong gia đình và trong cộng
đồng. Để cho tiện trong thảo luận và trình bày, nhóm có mức sống trên trung
bình sẽ được gọi là “nhóm giàu” và nhóm còn lại là “nhóm nghèo”. “Nghèo”
theo nghĩa này sẽ bao gồm cả người nghèo theo chuẩn quốc gia và những
người trong cộng đồng địa phương có mức sống từ trung bình trở xuống.
Sở dĩ tác giả không sử dụng chuẩn “nghèo” quốc gia vì người nghèo
theo chuẩn quốc gia ở khu vực nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng không
nhiều, thường là những hộ có hoàn cảnh đặc biệt (người già neo đơn, phụ nữ
đơn thân, gia đình có người bệnh nặng kéo dài, người tàn tật, v.v ) và họ
thường sống phân tán khắp các thôn trong địa bàn xã nên họ khó có thể tạo
thành một khuôn mẫu ứng xử về văn hóa tinh thần mang tính tập thể được.
Trong khi đó trọng tâm của nghiên cứu không nhằm mục đích xóa đói giảm
nghèo (mục đích kinh tế), mà chỉ nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu là liệu
những người có mức sống khác nhau trong cộng đồng ở nông thôn đồng bằng
sông Hồng có các khuôn mẫu ứng xử về văn hóa tinh thần khác nhau hay
không? Nếu có, sự khác nhau đó là gì và mức độ mà theo đó các điều kiện

25

kinh tế và quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa ảnh hưởng đến các ứng xử văn
hóa của họ là như thế nào? Nói cách khác, giàu-nghèo trong nghiên cứu này
được xem như một căn cứ về đời sống vật chất, về mức sống hơn là dựa vào
căn cứ này luận văn khảo sát sự biến động của đời sống văn hóa tinh thần khi
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tác động.
























26

9. KHUNG LÝ THUYẾT
Dựa vào những khung lý thuyết đã có trong nghiên cứu xã hội học
nông thôn, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên hướng dẫn, luận văn này
chọn khung lý thuyết sau đây để triển khai các thao tác nghiên cứu và phân
tích:
Tác động của đô thị hóa
trong quá trình Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa


Nông thôn

Nông nghiệp

Nông dân



Đặc điểm cá nhân
- tuổi
- giới tính
- học vấn
- nghề nghiệp
- kinh nghiệm di cư
- Tôn giáo
Đặc điểm gia đình
- đặc điểm của bố mẹ
(nghề nghiệp, trình độ học
vấn…)
- số người trong gia đình
(giới tính, tuổi…)

- tài sản chung của gia đình
- đặc điểm dòng họ










Đời sống văn hóa tinh thần nhóm giàu và nhóm nghèo
- cách sử dụng thời gian rảnh rỗi (thời gian ngoài kinh tế)
- các sở thích hưởng thụ các sản phẩm văn hóa (nghe đài,
xem tivi, đọc sách báo…)
- các ước vọng (về cuộc sống, gia đình, tương lai …)
- quan niệm của hai nhóm (về giàu-nghèo, cách làm kinh
tế, về văn hóa-xã hội…)
- nhu cầu của hai nhóm (nhu cầu vật chất và tinh thần)

27
10. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Kết cấu của luận văn gồm có phần mở đầu, 2 chương, kết luận và khuyến
nghị:
- Mở đầu: Tính cấp thiết của đề tài, ý nghĩa thực tiễn, ý nghĩa khoa
học, đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu của đề tài. Giả thuyết nghiên
cứu và khung lý thuyết. (Từ trang 1 - trang 18)
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. (Từ trang 20 – trang
26)

- Chương 2: Những ảnh hưởng của đặc điểm cá nhân và đặc điểm gia
đình đối với đời sống văn hóa tinh thần của người dân ở xã vũ đoài, huyện Vũ
Thư, tỉnh Thái Bình (Từ trang 27- trang 90)
- Kết luận và khuyến nghị. (Từ trang 91 - trang 93)

















28
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1.1.1 Chủ nghĩa Mác-Lenin quan niệm về văn hóa, văn hóa tinh
thần
Theo quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lenin, văn hóa là toàn bộ những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt
động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình. Văn hóa là biểu hiện trình độ
phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Khi nghiên cứu quy luật

phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác-Lênin đã khái quát các loại
hình hoạt động của xã hội thành hai hoạt động cơ bản là “sản xuất vật chất”
và “sản xuất tinh thần”. Với ý nghĩa như vậy, theo nghĩa rộng, văn hóa bao
gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: Văn hóa vật chất là năng lực
sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được hiểu chủ yếu là văn hoá tinh thần. [Xem 23]
Cũng theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lenin, văn hóa tinh thần là
tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh
thần và hoạt động tinh thần của con người; chúng được biểu thị chủ yếu dưới
dạng các hiện tượng tinh thần và các giá trị tinh thần. Như vậy, nói tới văn
hoá là nói tới con người, tới việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của
con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác cho rằng “tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội”. Theo quan điểm này, tồn tại xã hội như thế nào sẽ quyết định ý
thức xã hội như thế, mặc dù ý thức xã hội có thể tác động ngược trở lại tồn tại
xã hội. Cũng có thể hiểu rằng, các điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất kỹ thuật
ảnh hưởng rất lớn và quyết định tới đời sống văn hóa, tinh thần của người
dân. Đề tài sẽ vận dụng quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lenin để tìm hiểu các
điều kiện về cơ sở vật chất, kinh tế,…ảnh hưởng như thế nào đến văn hoá của
người dân Vũ Đoài trong lĩnh vực tư tưởng, tinh thần và tìm hiểu xem văn

×