Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Tìm hiểu việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ trong công ước quốc tế về quyền trẻ em của các gia đình người dân thành phố Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LÊ THỊ VÂN


TÌM HIỂU VIỆC THỰC HIỆN NHÓM QUYỀN ĐƯỢC
BẢO VỆ TRONG CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN
TRẺ EM CỦA CÁC GIA ĐÌNH NGƯỜI DÂN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số: 60 31 30



Người hướng dẫn: TS. Mai Thị Kim Thanh



HÀ NỘI - 2008
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
2
MỤC LỤC


PHẦN I: MỞ ĐẦU Trang
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 6
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 7
Ý nghĩa khoa học 7
Ý nghĩa thực tiễn 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
Mục đích nghiên cứu 8
Nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 9
Đối tượng 9
Khách thể 9
Phạm vi nghiên cứu 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 10
Phương pháp luận 10
Phương pháp nghiên cứu cụ thể 13
Phương pháp phân tích tài liệu 13
Phương pháp phỏng vấn sâu 13
Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi 14
Phương pháp thảo luận nhóm 14
Phương pháp quan sát 14
6. Giả thuyết và khung lý thuyết 15
Giả thuyết nghiên cứu 15
Khung lý thuyết 16
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
3
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH 18
Chƣơng I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 18

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 18
1.1.1.Trên thế giới 18
1.1.2. Tại Việt Nam 19
1.2. Khái niệm công cụ 21
1.2.1.Trẻ em 21
1.2.2. Gia đình 21
1.2.3. Bảo vệ 21
1.2.4. Nhóm quyền được bảo vệ 22
1.2.5 Một số khái niệm liên quan 23
1.3.Lý thuyết nghiên cứu 25
1.3.1.Lý thuyết hành vi 25
1.3.2.Lý thuyết biến đổi xã hội 27
1.3.3.Lý thuyết hành động xã hội 29
1.4. Những điều đƣợc quy định về quyền đƣợc bảo vệ trong Công ƣớc
quốc tế về quyền trẻ em 31
1.4.1. Vì sao trẻ em cần được bảo vệ 31
1.4.2. Sơ lược về Công ước quốc tế về quyền trẻ em và nhóm quyền được bảo
vệ. 31
1.5. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về việc thực hiện Công ƣớc quốc tế
về quyền trẻ em 32
1.5.1. Vị trí, vai trò của trẻ em trong đời sống xã hội nước ta 32
1.5.2. Những quan điểm cơ bản Đảng về việc thực hiện Công ước quốc tế về
quyền trẻ em 33
1.6. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 35
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
4
1.6.1. Vài nét về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của thành phố Hà Nội và
địa bàn khảo sát 35

1.6.1.1. Điều kiện địa lý – dân số 35
1.6.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 35
1.6.1.3 Điều kiện văn hoá, chính trị
36
1.6.1.3. Vài nét về hoạt động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em tại địa bàn
nghiên cứu
CHƢƠNG II: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHÓM QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ TRONG
CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN TRẺ EM TẠI CÁC GIA ĐÌNH NGƢỜI DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY 38
I. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NHÓM QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ TRONG CÔNG ƢỚC
QUỐC TẾ VỀ QUYỀN TRẺ EM 38
1.1. Nhận thức của các gia đình ngƣời dân thành phố Hà Nội về nhóm
quyền đƣợc bảo vệ trong Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em 38
1.1.1. Nhận thức của người dân thành phố Hà Nội về Công ước quốc tế về
quyền trẻ em 38
1.1.1.1. Nhận thức của các bậc cha mẹ về Công ước quốc tế về quyền trẻ
em 38
1.1.1.2. Nhận thức của trẻ em về Công ước quốc tế về quyền trẻ em 43
1.1.2. Nhận thức của người dân thành phố Hà Nội về nhóm quyền được bảo
vệ trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em 45
1.2 Thực trạng việc thực hiện nhóm quyền đƣợc bảo vệ trong Công ƣớc
của các gia đình ngƣời dân thành phố Hà Nội 47
1.2.1. Việc quan tâm chăm sóc trẻ em trong gia đình của các bậc cha mẹ
1.2.1.1. Về mức độ chăm sóc con cái 47
1.2.1.2. Thời gian chăm sóc con cái 52
1.2.2. Lao động trẻ em tại gia đình 55
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
5

1.2.2.1 Làm việc nhà 55
1.2.2.2. Sức ép học hành 57
1.2.3. Về vấn đề bạo lực đối với trẻ khi chúng mắc lỗi của các cha mẹ 59
1.2.3.1 Bạo lực thân thể 59
1.2.3.2 Bạo lực tinh thần 63
1.2.3.3 Chứng kiến bạo lực gia đình 65
II. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN NHÓM QUYỀN ĐƢỢC BẢO
VỆ TRONG CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN TRẺ EM CỦA NGƢỜI DÂN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI 67
2. 1. Nhận thức của trẻ em 67
2.2. Nhận thức của gia đình 67
2.3. Phong tục tập quán 72
2.4. Hoạt động của Hội phụ nữ 75
2.5. Hoạt động của truyên thông văn hóa 77
2.6 Điều kiện kinh tế gia đình 79
2.5. Chính sách luật pháp của Đảng và Nhà nƣớc
III. XU HƢỚNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN NHÓM QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ TRONG
CÔNG ƢỚC TRONG CỦA CÁC GIA ĐÌNH TRONG THỜI GIAN TỚI 80
3. 1. Nhận thức của ngƣời dân về nhóm quyền đƣợc bảo vệ trong thời
gian tới 80
3. 2. Xu hƣớng thực hiện nhóm quyền đƣợc bảo vệ trong thời gian
tớ 81
KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ .83
PHỤ LỤC 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 108

Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
6

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Bạo hành đối với trẻ em đã được lựa chọn là một trong 10 sự kiện chính
trị, xã hội lớn nhất năm 2007. Chưa bao giờ nạn bạo hành, xâm hại trẻ em xuất
hiện nhiều như hiện nay và chưa bao giờ dư luận xã hội lại lên tiếng phản ứng
gay gắt đến vậy. Trong thời gian gần đây không ít vụ xâm hại trẻ em liên tiếp
được phanh phui trước dư luận trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Theo một nghiên cứu của Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển và Viện Khoa
học Dân số, Gia đình và Trẻ em năm 2006 về thực trạng trừng phạt thân thể và
tinh thần trẻ em tại Việt Nam thì hình thức giáo dục bằng roi vọt vẫn tồn tại và
phổ biến trong nhiều gia đình. Việc đánh đập, quát mắng, chửi rủa trẻ em
được người lớn sử dụng thường xuyên khi trẻ mắc lỗi. Có đến 63% bà mẹ và
56% ông bố sử dụng hình thức trừng phạt này đối với con cái. Liệu đó có phải
là cách cư xử, dạy dỗ con cái phù hợp của người cha, người mẹ trong bối cảnh
hiện nay, nhất là khi vấn đề nhân quyền luôn được đưa lên hàng đầu. Rõ ràng
bạo lực, xâm hại trẻ em không còn là vấn đề của riêng các gia đình mà nó đã
trở thành một vấn đề xã hội cần đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy, hơn lúc nào
hết, việc giúp các bậc cha mẹ nhận thức tốt, hiểu và thực hiện tốt nhóm quyền
được bảo vệ trong Công ước cho trẻ em được đặt ra như một yêu cầu bức bách
cần phải được chú trọng, nhằm giúp các em được hưởng một cách tốt nhất
quyền của mình mà Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên Hợp Quốc và
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam đã đề ra.
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ 2 phê chuẩn Công
ước quốc tế về quyền trẻ em. Việt Nam cũng cam kết thực hiện tuyên bố
chung Một thế giới phù hợp với trẻ em mà ở đó trẻ em được an toàn và lớn lên
trong một môi trường không có sự lạm dụng và bạo lực, các em được bảo vệ
khỏi nguy cơ tai nạn giao thông, chết đuối, tai nạn thương tích. Chúng ta cũng
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân

7
đã phê chuẩn Công ước 182 của Tổ chức lao động quốc tế về chống lại các
hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Năm 1991 Nhà nước ta cũng đã ban
hành “Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Như vậy, điều này đã minh
chứng cho sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện những gì
tốt đẹp nhất cho trẻ em. Vậy mà, ở nhiều nơi trong các gia đình trên địa bàn
của Thủ đô – trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của cả nước, tình trạng trẻ
em trong gia đình vẫn bị đánh đập, chửi rủa, bị bóc lột, bị sao nhãng…vẫn tồn
tại phổ biến. Tại sao tình trạng này vẫn tồn tại, thậm chí có những loại hình
xâm hại trẻ em còn phổ biến hơn tại các địa bàn khác, khi mà người dân Hà
Nội hoàn toàn có điều kiện hơn trong việc thực hiện quyền trẻ em, khi mà
hoạt động bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em được nhiều cơ quan đoàn thể,
chính quyền tham gia?
Rõ ràng, hiện nay nhiều trẻ em vẫn phải chịu những xâm phạm từ phía
những người lớn tuổi, bởi sự tác động của những yếu tố về kinh tế, xã hội.
Tiếp cận từ góc độ quyền trẻ em chúng ta nhận thấy rằng người lớn đang vô
tình vi phạm các quyền của trẻ em, vi phạm luật pháp Việt Nam về bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em. Thêm vào đó, chính trẻ em cũng chưa nhận thức
được những quyền của mình để tự bảo vệ khi bị xâm phạm. Có thể nói, đây là
một vấn đề bức thiết không chỉ ở góc độ gia đình mà đã trở thành một vấn đề
mang tính quốc tế, vấn đề vi phạm nhân quyền, cụ thể ở đây là quyền trẻ em.
Đã đến lúc chúng ta cần nhận thức lại một cách nghiêm túc những vấn đề liên
quan đến việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ cho trẻ em của các gia đình
và có những phân tích cẩn trọng nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người
mà Liên hiệp quốc đã nêu và nước ta đang phấn đấu. Đây cũng là ý tưởng gợi
nên trong tôi hướng nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu việc thực hiện nhóm quyền
được bảo vệ trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em của các gia đình người
dân thành phố Hà Nội hiện nay”.
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007


Học viên Lê Thị Vân
8
2. Ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học
2.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ hệ thống lý thuyết của xã hội
học như: Lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết vị trí – vai trò xã hội, lý thuyết
biến đổi xã hội, Nghiên cứu còn góp phần làm rõ hơn những đặc thù cũng
như những thuận lợi và khó khăn của người dân Việt Nam khi thực hiện Công
ước quốc tế về quyền trẻ em.
2.2.Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp thêm thông tin về
Công ước nói chung và quyền được bảo vệ của trẻ em nói riêng cho trẻ em và
đặc biệt là cho cha mẹ. Trên cơ sở đó một phần giúp họ thay đổi nhận thức và
hành vi về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện quyền trẻ em.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn cũng góp phần bổ sung
hoàn thiện cho các nghiên cứu trước đó về tình hình thực hiện Công ước quốc
tế về quyền trẻ em tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ trong Công ước quốc
tế về quyền trẻ em của các gia đình người dân thành phố Hà Nội, tìm hiểu các
nhân tố cơ bản tác động đến việc thực hiện nhóm quyền này của họ; đề ra xu
hướng thực hiện nhóm quyền được bảo vệ trong thời gian tới để từ đó đưa ra
những khuyến nghị có tính khả thi đối với hoạt động bảo vệ trẻ em nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn, phương pháp luận
nghiên của đề tài nghiên cứu.
- Tìm hiểu, phân tích, đánh giá việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ
trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em của người dân thành phố Hà Nội.
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007


Học viên Lê Thị Vân
9
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện nhóm quyền được
bảo vệ của trẻ em tại các gia đình được chọn nghiên cứu.
- Đề xuất những giải pháp, khuyến nghị có tính khả thi giúp người dân
nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
con cái trong gia đình.
4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ trong Công ước quốc tế về quyền
trẻ em tại các gia đình người dân.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Các gia đình người dân ở thành phố Hà Nội có trẻ em dưới 18 tuổi.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung
Nhóm quyền được bảo vệ trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em quan
tâm đến việc trẻ em được bảo vệ khỏi:
- Sự bỏ rơi.
- Các tình huống nguy hiểm và chiến tranh.
- Sự bạo lực, lạm dụng, xâm hại, bóc lột và ngược đãi.
- Sự phân biệt đối xử.
Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, chúng tôi quan tâm tìm hiểu tình
hình thực hiện một số quyền trong nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em của
các gia đình người dân thành phố Hà Nội, cụ thể là quyền được bảo vệ khỏi
các hành vi bạo lực, bị bóc lột và bị sao nhãng.
+ Đối tượng nghiên cứu
Vì điều kiện nghiên cứu, đề tài chỉ khảo sát các gia đình hạt nhân với
hai đối tượng chính là cha mẹ và trẻ em, nên đề tài chỉ tập trung khảo sát
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007


Học viên Lê Thị Vân
10
đối với những bậc cha mẹ có con trong độ tuổi từ 6- 18 tuổi và khảo sát trẻ
em từ 6- 18 tuổi.
Sở dĩ chúng tôi lựa chọn mẫu như vậy là vì: Trẻ em ở độ tuổi dưới 6
tuổi chưa có khả năng hoặc rất hạn chế trong việc nhận thức về quyền của
mình vì thế các em không có những nhận định riêng hoặc không thể trả lời
những câu hỏi liên quan đến quyền trẻ em được. Còn đối với cha mẹ mới chỉ
có con trong độ tuổi nhỏ đó thì việc cha mẹ đánh mắng trẻ, bắt trẻ lao động
hay không dành thời gian chăm sóc con là rất hiếm xảy ra, điều này có thể ảnh
hưởng đến mẫu nghiên cứu.
+ Địa bàn và thời gian nghiên cứu:
Không gian: 3 Quận/huyện thuộc thành phố Hà Nội (quận Hoàn Kiếm,
Quận Thanh Xuân, huyện Từ Liêm)
Thời gian: Từ tháng 11/2007 – 1/2008
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng (DVBC) và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
(DVLS) Mác- Lênin là cơ sở nền tảng phương pháp luận của đề tài nghiên cứu.
Chủ nghĩa DVBC xem xét các sự vật, hiện tượng xã hội trong mối quan
hệ biện chứng. Không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập mà
chúng luôn tồn tại trong mối quan hệ với các sự vật, hiện tượng khác, chúng
tương tác lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Do vậy, khi tìm hiểu việc thực hiện
nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em trong Công ước của các gia đình Hà Nội
cần đặt chúng trong mối quan hệ với việc thực hiện quyền của trẻ em của các
tổ chức, ban ngành, đoàn thể các cơ quan chức năng của Nhà nước để thấy
được sự tác động, ảnh hưởng đến việc thực hiện nhóm quyền này tại các gia
đình. Đồng thời khi xem xét việc thực hiện quyền trẻ em của các gia đình cần
đặt trong mối quan hệ với các yếu tố tác động như kinh tế, văn hoá, trình độ

học vấn, phong tục tập quán và nhận thức của các gia đình.
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
11
Chủ nghĩa DVCB và Chủ nghĩa DVLS xem xét các sự vật hiện tượng
theo một quá trình. Mọi sự vật hiện tượng trong xã hội không tồn tại một cách
bất biến mà chúng luôn vận động, biến đổi không ngừng, từ sự hình thành,
đến sự phát triển và suy vong. Trong mỗi bối cảnh khác nhau, chúng vận động
và phát triển gắn liền với bối cảnh ấy. Vì vậy, tìm hiểu việc thực hiện quyền
được bảo vệ của trẻ em cần đặt nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể về thời
gian, không gian, gắn liền với văn hóa vùng- miền.
Trên cơ sở phương pháp luận Macxit, với đề tài nghiên cứu chúng tôi sử
dụng các cách tiếp cụ thể dưới đây:
- Phương pháp tiếp cận văn hóa
Văn hóa quốc gia, văn hóa vùng miền, văn hóa gia đình là những yếu tố
ảnh hưởng đến nhận thức thái độ, hành vi của mỗi con người. Mỗi con người
chịu sự tác động của nhiều môi trường văn hóa khác nhau và bản thân họ là
chủ thể sáng tạo và đồng thời là sản phẩm của nền văn hóa đó. Có thể dễ dàng
nhận thấy, ở tầm vĩ mô, tại một giai đoạn lịch sử nhất định, mô hình hành vi
của những người trong một cồng đồng là khá giống nhau. Bởi họ đã tiếp nhận
quá trình xã hội hóa một cách chính thức hay không chính thức các hệ giá trị,
chuẩn mực của cộng đồng để trở thành một con người xã hội.
Riêng văn hóa gia đình có đặc thù riêng và là môi trường ảnh hưởng trực
tiếp đến hành vi của mỗi thành viên. Có thể nói gia đình là môi trường xã hội
hóa quan trọng đầu tiên đối với các cá nhân từ khi sinh ra và lớn lên, nó tạo
nên những nhân cách với thái độ, hành vi khác nhau. Tiểu văn hóa gia đình có
thể được lưu truyền, gìn giữ từ đời này qua đời khác tất nhiên có biến đổi ít
nhiều. Tiểu văn hóa này quy định cách nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con
cái của các bậc cha mẹ khác nhau. Có những bậc cha mẹ quan niệm “thương

cho voi cho vọt” và coi việc đánh, mắng, chửi con cái là chuyện bình thường
và cha mẹ có quyền dạy dỗ, ứng xử theo cách như vậy với con cái. Tuy nhiên,
họ đã vô tình vi phạm quyền trẻ em mà không nhận thấy sai lầm của mình.
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
12
Vì vậy, tìm hiểu việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ trong Công
ước quốc tế về QTE em tại gia đình cần xem xét trong hoàn cảnh môi trường
văn hóa của gia đình để thấy được quan niệm họ trong việc nuôi dạy con cái
cũng như quan niệm về việc vi phạm quyền trẻ em.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
Theo quan điểm của Macx, xã hội được cấu trúc bởi các hệ thống xã hội
con, mỗi hệ thống đó được gắn với quyền hạn và nghĩa vụ xác định. Các hệ
thống xã hội đó cùng tồn tại và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Và bản thân
các hệ thống xã hội đó luôn thực hiện các chức năng của mình để nó được tồn
tại và được công nhận.
Theo quan điểm này gia đình được coi là một tiểu hệ thống được đặt
trong hệ thống xã hội cụ thể. Nó có mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ đối
với các cơ quan nhà nước, các tổ chức ban ngành, đoàn thể để cùng thực hiện
chức năng bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em như nhà trường, cộng đồng, hội
phụ nữ, đoàn thanh niên, mặt trận tổ quốc Nó không chỉ có quan hệ chặt chẽ
mà còn có sự ràng buộc lẫn nhau. Chẳng hạn, nếu một gia đình có những hành
vi vi phạm quyền trẻ em trong việc nuôi dạy con cái, các tổ chức đoàn thể địa
phương sẽ có sự khuyên giải, thậm chí can thiệp khi cần thiết. Hay một gia
đình có cha hoặc mẹ tham gia vào các tổ chức, đoàn thể như hội phụ nữ, “hội
những người hai con”, “hội gia đình nuôi dạy con giỏi” thì hành vi của họ sẽ
bị chi phối bởi chuẩn mực và giá trị của nhóm, tổ chức, đoàn thể đó. Như vậy,
các tổ chức trong xã hội có tác động, chi phối lẫn nhau, hệ thống lớn tác động
lên hệ thống nhỏ cụ thể ở đây là các tổ chức đoàn thể sẽ tác động đến các gia

đình trong việc nuôi dạy con cái.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
5.2.1 Phân tích tài liệu
- Các nghiên cứu về vấn đề bảo vệ trẻ em, trẻ em bị lạm dụng, xâm hại,
bóc lột, sao nhãng và các vấn đề liên quan như: “Nghiên cứu của Tổng thư ký
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
13
Liên hiệp quốc về vấn đề bạo lực với trẻ em”, “báo cáo tình trạng lạm dụng trẻ
em ở Việt Nam” của UNICEF; “Báo cáo về hoạt động tham vấn đối với trẻ em
bị bạo lực tại khu vực Trung á và Châu Á Thái bình dương”; “Khảo sát thực
trạng trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em”.
- Các báo cáo quốc gia về tình hình thực hiện Công ước quốc tế về
quyền trẻ em lần 1, lần 2 và dự thảo báo cáo lần 3, lần 4.
- Các văn kiện, quyết định, đề án của Chính phủ liên quan đến vấn đề
BVTE, ngăn ngừa tình trạng trẻ em bạo lực, xâm hại, bóc lột, lạm dụng trẻ em.
- Các tài liệu trên mạng, sách báo, tạp chí.
- Các tài liệu khác.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn sâu với 3 nhóm đối tượng:
- Cha mẹ - với tư cách là người trực tiếp chăm sóc, bảo vệ trẻ.
Phỏng vấn 5 cha mẹ theo các chỉ báo về nghề nghiệp, trình độ học vấn,
độ tuổi, mức sống.
- Trẻ em – Người được bảo vệ và chăm sóc
Phỏng vấn 3 trẻ em theo các bậc học ( 1 em độ tuổi tiểu học, 1 em độ
tuổi THCS, 1 em độ tuổi THPT)
- Đại diện các cơ quan đoàn thể tại địa phương: 3 người thuộc các
phường/ xã thuộc 3 Quận, huyện (Chủ tịch hội phụ nữ phường/xã
hoặc cán bộ dân số phường/xã).

5.2.3. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Khảo sát được tiến hành trên 3 Quận, huyện được lựa chọn
- Quận Hoàn Kiếm (Là quận trung tâm, đại diện cho địa bàn tập trung
kinh doanh, buôn bán, dịch vụ).
- Quận Thanh Xuân (Là quận với đại đa số các gia đình là gia đình công
nhân, viên chức).
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
14
- Huyện Từ Liêm (Huyện ngoại thành, đại diện cho địa bàn có thành
phần kinh tế nông nghiệp và các gia đình nông dân)
Mẫu khảo sát: - 450 Cha mẹ ( mỗi quận/ huyện 150 người)
- 210 trẻ em ( mỗi quận/ huyện 70 trẻ em)
5.2.4. Phương pháp thảo luận nhóm
Đề tài sử dụng phương pháp thảo luận nhóm bán cấu trúc với nhóm bố
mẹ theo chủ đề: Thái độ đối với quan niệm “yêu cho roi cho vọt” trong việc
nuôi dạy con cái của các bậc cha mẹ hiện nay?
5.2.5. Phương pháp quan sát
- Quan sát hình dáng bên ngoài của trẻ em để biết các em có thường bị
bạo lực trong gia đình.
- Quan sát khi làm việc với trẻ để thái độ của chúng khi tiếp xúc, trả lời
câu hỏi. Với người lớn quan sát để thấy được sự nhiệt tình, sự phản ứng, lảng
tránh hay đồng tình với nội dung được hỏi. Do vậy, quan sát cũng giúp đánh
giá được giá mức độ tin cậy của thông tin mà người trả lời cung cấp.
6. Giả thuyết và khung lý thuyết
6. 1. Giả thuyết nghiên cứu
- Đại đa số các gia đình người dân thành phố Hà Nội còn chưa biến
đến Công ước quốc tế về QTE nói chung và nhóm quyền được bảo vệ nói
riêng.

- Trong số các bậc cha mẹ biết đến Công ước và nhóm quyền được bảo
vệ, đại đa số họ vẫn có những hành động vi phạm các quyền của trẻ em.
- Phong tục tập quán lạc hậu và hoạt động của các tổ chức đoàn thể,
chính quyền chưa hiệu quả trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em là nhân tố cơ bản ảnh
hưởng đến nhận thức và hành động của các bậc cha mẹ trong việc thực hiện
nhóm quyền được bảo vệ trong Công ước quốc tế về QTE.
- Việc thực hiện chưa tốt nhóm quyền được bảo vệ trong Công ước
quốc tế về QTE trong thời gian tới vẫn còn tồn tại.
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
15
6.2. Khung lý thuyết




























ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, VĂN HÓA, CHÍNH TRỊ, XÃ
HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI KỲ CNH - HĐH
Đặc điểm
gia đình
(văn hóa gia
đình, trình
độ, kinh tế,
cơ cấu)
Hoạt động
của các Cơ
quan, đoàn
thể
( tuyên truyền,
nâng cao nhận
thức, can
thiệp)

Nhân thức về nhóm quyền được bảo vệ trong
Công ước quốc tế về quyền trẻ em
Yếu tố

luật
pháp
Đặc điểm
cộng đồng
(Phong tục
tập quán)



Hoạt
động
truyền
thông
văn hóa

Việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ trong
Công ước quốc tế về quyền trẻ em
Trẻ em được bảo vệ
Trẻ em không được
bảo vệ
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
16

Sự tương quan của các biến số:
+ Biến độc lập: Môi trường kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội thành phố HN.
+ Biến can thiệp (trung gian).
- Đặc điểm gia đình
- Đặc điểm cộng đồng

- Hoạt động của các cơ quan, đoàn thể
- Hệ thống truyền thông
- Yếu tố pháp luật
+ Biến phụ thuộc
- Nhận thức của các gia đình về nhóm quyền được bảo vệ trong Công
ước quốc tế về quyền trẻ em.
- Việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ trong Công ước quốc tế về
quyền trẻ em


Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
17
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1.Trên thế giới
“Nghiên cứu của tổng Thư ký liên hợp quốc về tình trạng bạo lực với
trẻ em” cho thấy tính chất, mức độ, quy mô của
tình trạng xâm hại trẻ em trên phạm vi toàn cầu.
Đây là nghiên cứu đầu tiên lớn nhất cung cấp
một bức tranh toàn cảnh về các hình thức và
quy mô của nạn bạo hành diễn ra hằng ngày đối
với trẻ em. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, bạo hành
không chỉ diễn ra tại trường học, trong cộng
đồng mà nó còn diễn ra ngay chính trong gia
đình.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng quan hệ mang tính quyền lực giữa người

lớn và trẻ em đã góp phần tạo ra sự bạo hành về cả thể chất và tâm lý đối với
trẻ em. Những đối tượng như trẻ em lang thang đường phố, trẻ em tàn tật, trẻ
em vi phạm pháp luật, trẻ em sống trong các cơ sở giáo dưỡng là những đối
tượng có nguy cơ bị bạo lực cao. Đặc biệt, nghiên cứu đã đưa ra các kiến nghị
cần thiết để ngăn chặn và giải quyết tình trạng bạo lực với trẻ em ở mọi nơi
trên thế giới.
“Đánh giá về tình trạng bạo lực trẻ em ở Đông Á và Châu Á Thái Bình
Dương” do UNICEF tiến hành năm 2002 đã tiến hành nghiên cứu ở nhiều
nước khác nhau như Australia, Trung Quốc, Combodia, Indonexia, Việt
Nam…Nghiên cứu đã cho thấy hiện nay dữ liệu định lượng và định tính về
tình hình bạo hành với trẻ em ở các quốc gia còn hạn chế. Sự cởi mở và nhận
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
18
thức về vấn đề bạo lực với trẻ em ở các quốc gia là khác nhau. Và để có sự
thay đổi nhận thức của người dân về vấn đề này cần có một thời gian nhất
định và cần có sự nâng cao nhận thức của chính các em về bạo lực và những
điều quy định trong Công ước quốc tế về QTE.
“Báo cáo tại Hội nghị tham vấn khu vực Đông Á và Thái Bình dương
về tình trạng bạo lực đối với trẻ em” thực hiện năm 2005, do UNICEF tiến
hành đã bổ sung nhiều và đóng góp quan trọng cho nghiên cứu của Tổng thư
ký Liên hiệp quốc về tình trạng bạo lực đối với trẻ em.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trẻ em bị bạo lực tại nhiều môi trường khác
nhau, ở nhà, tại trường học, ở các tổ chức, ở nơi làm việc, tại cộng đồng, trên
đường phố hay cả trên mạng. Trong đó, tại
gia đình thì các em bị các hình thức đối xử
tàn tệ như: trừng phạt thân thể, lạm dụng
tình dục và tâm lý, sao nhãng, bắt lao động,
phân biệt đối xử dựa trên giới, khả năng.

Bạo lực tại gia đình dẫn tới các loại bạo lực
khác và bị khai thác ở các bối cảnh khác
nhau và để lại nhiều hậu quả lâu dài đối
với sự phát triển của trẻ.
Nghiên cứu chỉ ra các loại môi trường gia đình mà ở đó có nguy cơ cao
dẫn đến bạo lực đối với các em đó là: Trẻ em sống trong các gia đình tồn tại
tình trạng bạo lực gia đình, tồn tại tình trạng uống rượu hay sử dụng ma tuý,
các gia đình khó khăn về tài chính, hay những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
như sống với HIV/AIDs, chậm phát triển trí tuệ.
Những trẻ em sống trong các gia đình đơn thân, gia đình có một trong
hai người chăm sóc bắt buộc phải xa nhà vì cộng việc, hay những đứa trẻ được
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
19
nhận về nuôi, trẻ sinh ra ngoài mong muốn của cha mẹ đều là những đứa trẻ
có nguy cơ bị bạo lực cao.
1.1.2. Tại Việt Nam
Việt Nam là nước phê chuẩn Công ước quốc tế về QTE từ rất sớm -
năm 1990, tuy nhiên đến nay những nghiên cứu đánh giá tình hình thực
hiện Công ước quốc tế về QTE còn chưa được quan tâm. Hầu hết là các
nghiên cứu nhỏ về các vấn đề riêng lẻ như vấn đề lạm dụng, xâm hại, bóc
lột, bạo lực trẻ em.
Ở cấp Nhà nước đã có một số nghiên cứu nhỏ được tiến hành để xây
dựng “Báo cáo quốc gia tình hình thực hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em
lần 1 và lần 2 của Việt Nam” cho Uỷ ban quyền trẻ em của Liên Hợp quốc,
do Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em trước đây thực hiện.
Nghiên cứu này đã đánh giá tình hình thực hiện cả bốn nhóm quyền trẻ
em được đề cập trong Công ước. Nhìn chung, Việt Nam đã và đang trên
đường hội nhập quốc tế, nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế. Hiện nay, Việt

Nam đang nghiên cứu để xây dựng “báo cáo lần 3 và 4 về tình hình thực hiện
Công ước quốc tế về QTE”.
Nghiên cứu về “tình trạng lạm dụng trẻ em tại Việt Nam” do UNICEF
thực hiện năm 2003. Nghiên cứu này đã xác định khái niệm, bản chất và phạm
vi vấn đề lạm dụng trẻ em. Theo nghiên cứu này khái niệm về lạm dụng trẻ
em phải được hiểu một cách toàn diện, lạm dụng bao gồm các loại hình khác
nhau như lạm dụng thân thể, lạm dụng tình dục, sao nhãng, đối xử tàn tệ về thể
chất và tinh thần, bạo lực, bóc lột vì mục đích tình dục, mại dâm trẻ em, du lịch
tình dục.
Nghiên cứu được tiến hành tại ba tỉnh Hà Nội, An Giang và Lào Cai để
phản ánh các đặc điểm khác nhau về địa lý, văn hoá, xã hội. Nghiên cứu đã chỉ ra
rằng trong đời sống tồn tại rất nhiều loại hình bạo lực đối với trẻ em.
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
20
Phát hiện đáng chú ý nhất của nghiên cứu là tình trạng đánh trẻ em nhằm
“giáo dục”, hay “kỷ luật” là khá phổ biến, trong khi các bậc cha mẹ đều ý thức
được rằng phương pháp dạy dỗ này là đã lạc hậu và khó chấp nhận, nhưng
trên thực tế phương pháp này vẫn được áp dụng rộng rãi. Tình trạng lạm dụng
tình dục hay chứng kiến bạo lực cũng là những vấn đề mà trẻ em Việt Nam
phải đối mặt ngày càng nhiều.
“Thực trạng xâm hại trẻ em qua một khảo sát nhanh tại Hà Nội” là một
nghiên cứu trong chương trình phòng chống xâm hại tình dục trẻ em Hà Nội
của tổ chức Csap tìm hiểu về các hình thức xâm hại trẻ em tại một số trường
trong nội thành . Khảo sát được tiến hành với 674 em trong độ tuổi cấp 1 và
cấp 2. Mặc dù nghiên cứu được tiến hành tại trường học với mục đích tìm hiểu
các hình thức xâm hại trẻ em nói chung, nhưng kết quả đã chỉ ra một số hình
thức xâm hại trẻ em tại gia đình. Cụ thể, các em bị người nhà đánh đập là
11%, bị sao nhãng 4.2%. Nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng, tất cả các hình

thức xâm hại đều xảy ra tại các địa bàn được nghiên cứu, ngay cả hình thức
sao nhãng, bỏ mặc. Trẻ em nhỏ lại phải gánh chịu các hình thức xâm hại nhiều
hơn, đặc biệt là bạo lực gia đình và xâm hại tình dục.
1.2 Khái niệm công cụ
1.2.1. Trẻ em
Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em – “Trẻ em là người dưới 18
tuổi, trừ khi luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn”.
Trẻ em là những công dân Việt Nam dưới 16 tuổi – Theo Luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam.
Theo quan điểm của xã hội học, trẻ em là nhóm nhân khẩu đặc biệt ở
giai đoạn đầu của quá trình xã hội hóa, đang tiếp thu những giá trị chuẩn mực,
kiến thức kỹ năng để trở thành một chủ thể của xã hội. Gia đình và xã hội có
trách nhiệm tôn trọng, đảm bảo những quyền chính đáng mà các em được hưởng.
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
21
1.2.2. Gia đình
Có nhiều định nghĩa khác nhau về “gia đình”, tuy nhiên tôi xin được trích
một số định nghĩa được sử dụng rộng rãi và có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Theo Luật hôn nhân gia đình, “gia đình được hiểu là tập hợp những
ngưới gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ thuyết thống hoặc do quan hệ
nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau”. Như vậy
Luật hôn nhân cũng đã khẳng định trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái, cụ
thể là trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục con cái.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp những người cùng sống
chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ
hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”. Đây là
một khái niệm khái quát tuy nhiên nó chưa đầy đủ, chưa bao gồm các đặc
trưng của gia đình.

Các nhà xã hội học coi gia đình là đơn vị cơ sở của tổ chức xã hội, là tế
bào xã hội, là nhóm xã hội. Có thể hiểu “gia đình là một nhóm xã hội được
hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi
dưỡng tuy không có quan hệ máu mủ. Các thành viên trong gia đình gắn bó
với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (tình cảm, kinh tế, văn hoá,…). Giữa họ
có những rằng buộc pháp lý được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ, đồng thời
có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong
quan hệ tình dục giữa những thành viên trong gia đình”.
1.2.3. Bạo hành trẻ em
Hội chứng bạo hành trẻ em (child abuse) là những hành động xúc
phạm/hành hạ về thể xác, tinh thần hoặc tình dục do cha mẹ, những người
xung quanh hoặc những người khác thực hiện. Ngoài những trường hợp bạo
hành xảy ra ngay tại nhà của trẻ, phần lớn những trường hợp bạo hành khác
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
22
diễn ra ngay tại những nơi quen thuộc hay tưởng an toàn như: trường học, nơi
trông trẻ, trường nội trú…
Bạo hành trẻ em với rất nhiều biến tướng khác nhau có tác động rất
mạnh và lâu dài cả về thể xác và tinh thần. Bạo hành trẻ em để lại những di
chứng kéo dài từ tuổi ấu thơ cho đến khi trưởng thành. Những di chứng và hậu
quả này phụ thuộc vào tính khắc nghiệt và khủng khiếp của cách thức bạo
hành cũng như môi trường xung quanh đứa trẻ.
Theo Wikipedia
Đó là mọi hình thức bạo hành thể chất và tinh thần, bỏ rơi, chểnh
mảng trong chăm sóc, bạc đãi, khai thác, bao gồm cả lạm dụng tình dục
theo điều 19 của Công ước quốc tế về quyền của trẻ em (Liên Hiệp Quốc ,
1989).
Bạo hành trẻ em xảy ra dưới nhiều hình thức, từ đánh đập gây các

thương tật có thể thấy được trên cơ thể cho đến ngược đãi dẫn đến các tổn
thương về tinh thần như buộc làm những điều ngoài ý muốn, nhốt giam, bỏ
đói hoặc cho ăn rất ít, cưỡng ép tình dục
Các hành động này, các cách đối xử này vi phạm quyền con người của
trẻ em, tước đoạt những quyền mà trẻ em lẽ ra được hưởng như mọi lứa tuổi
khác; đó là quyền được bảo vệ trước những hành vi bạo lực dưới hình thức
này hay hình thức kia, thay vì bị ngược đãi, bóc lột hoặc lạm dụng về nhiều
phương diện.
1.2.4. Quyền được bảo vệ
Quyền được bảo vệ trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em
xuất phát từ nhận thức rằng, trẻ em là những người non nớt về mặt thể xác và
tinh thần. Do vậy các em dễ bị rủ rê vào những việc làm trái với pháp luật, dễ
bị lợi dụng sức lao động và lợi dụng tình cảm, bị sao nhãng, bỏ rơi…
Vì vậy, Công ước quốc tế về QTE quan tâm đến việc trẻ em được bảo
vệ khỏi:
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
23
- Sự bỏ rơi: Bao gồm cả sự bỏ rơi của bố mẹ hoặc của toàn xã hội mà có
thể tước đi sự nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
- Các tình huống nguy hiểm và chiến tranh: Bao gồm những gì gây ra
những đe doạ khẩn cấp đối với sự sống còn và phát triển của trẻ em. Trẻ em tị
nạn, trẻ em sống trong bối cảnh xung đột vũ trang và trẻ em làm trái pháp luật
là những đối tượng thuộc nhóm này.
- Sự bạo lực, lạm dụng, ngược đãi và bóc lột: bao gồm tất cả các hình
thức xâm hại, đối xử gây tổn hại về mặt thể chất và tinh thần đối với trẻ em,
làm ảnh hưởng đến sự phát triển một cách toàn diện của các em.
- Sự phân biệt đối xử: Công ước quốc tế về QTE quy định bảo vệ trẻ em
gái, trẻ em tàn tật, trẻ em bị nạn, trẻ em dân tộc thiểu số trẻ em bản xứ khỏi bất

cứ hình thức phân biệt đối xử nào
1
.
1.2.5 Một số khái niệm liên quan
- Xâm hại, lạm dụng trẻ em
“Là tất cả các hình thức ngược đãi về tình cảm, thể chất, lạm dụng
tình dục, xao nhãng hoặc đối xử lơ đãng hoặc bị khai thác vì mục đích
thương mại dẫn đến nguy hại về sức khoẻ, sự sống còn, phát triển hoặc
nhân cách của trẻ trong bối cảnh của mối quan hệ hay trách nhiệm, sự tin
cậy và quyền lực
2
.
- Sao nhãng với trẻ em
Sao nhãng hoặc đối xử lơ đãng với trẻ em trong gia đình “Được hiểu là
sự không hoặc ít quan tâm, bỏ mặc của cha mẹ về mọi khía cạnh: sức khoẻ,
giáo dục, phát triển tâm lý, dinh dưỡng, sự che trở và những điều kiện sống an
toàn trong bối cảnh tiềm lực hiện có đối với gia đình và những nguyên nhân
hoặc có khả năng cao gây ra nguy hại cho sức khoẻ của trẻ, sự phát triển về

1
Quyền trẻ em, Trung tâm nghiên cứu Quyền con người, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003
2
Tài liệu tập huấn về Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Save the children Sweden, trang 118, 2007
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân
24
xã hội, đạo đức, tinh thần, trí tuệ và thể chất. Điều này bao gồm cả việc không
có khả năng giám sát đúng đắn và bảo vệ trẻ em khỏi nguy hại”
1

. Hay nói
một cách chung nhất sao nhãng là bất kỳ một hành vi chểnh mảng hay uỷ
thác trong giới hạn truyền thống văn hoá, gây ra tình trạng không cung cấp
những điều kiện cần thiết cho sự phát triển về tình cảm và thể chất lành
mạnh của trẻ em.
- Lao động trẻ em
Gồm tất cả công việc do trẻ em dưới 18 tuổi ( trẻ em Việt Nam là dưới 16
tuổi) thực hiện mà có hại cho sức khoẻ hoặc cơ thể, tinh thần, trí tuệ hay sự
phát triển về mặt xã hội và có ảnh hưởng tới công việc học tập của trẻ em.
- Chứng kiến bạo lực gia đình
Có thể hiểu trẻ em chứng kiến bạo lực bạo gia đình là việc trẻ em trực
tiếp nhìn thấy cảnh bạo lực giữa cha và mẹ, chẳng hạn như việc xung đột, cãi
cọ nặng lời, đặc biệt là hành động người cha dùng tay chân hoặc dụng cụ đánh
đập người mẹ gây thương tích.
Hiện nay, tình trạng trẻ em chứng kiến bạo lực gia đình ngày một gia
tăng, điều này có thể gây ra những hậu quả về thể chất, tình cảm và hình vi cư
xử của trẻ. Chính vì vậy, có thể coi việc chứng kiến bạo lực gia đình là một
hình thức xâm hại, bạo lực với trẻ em tại gia đình.
1.3 .Lý thuyết nghiên cứu
1.3.1. Lý thuyết Hành động xã hội
Hành động xã hội, xét trên phương diện triết học thì chính là một hình
thức giải quyết các mâu thuẫn, vấn đề xã hội. Hành động xã hội được tạo ra
bởi phong trào xã hội, các tổ chức, các đảng phái chính trị… Trong xã hội học,

1
Báo cáo rà soát, đánh giá chính sách, pháp luật của Việt Nam về phòng chống lạm dụng, xâm hại trẻ em,
UNICEF, 2006. trang 11
Luận văn thạc sĩ xã hội học Khóa học 2004 - 2007

Học viên Lê Thị Vân

25
hành động xã hội được hiểu cụ thể hơn và thường gắn với các chủ thể hành
động là các cá nhân. Lịch sử xã hội học đã ghi nhận rất nhiều các quan điểm
khác nhau của các nhà xã hội học về hành động xã hội.
Theo M. Weber: hành động xã hội là một hành vi mà chủ thể gán cho nó ý
nghĩ chủ quan nhất định. Weber đã nhấn mạnh đến “động cơ bên trong” của
chủ thể như là nguyên nhân của hành động. Và cái “ý nghĩa chủ quan” chính là
ý thức, là những hoạt động có ý thức, chủ thể hiểu được mình thể hiện hành
động gì và sẽ thực hịên nó như thế nào khác hẳn với những bản năng sinh học.
Hành động xã hội được Weber tổng quát định nghĩa là hành động được chủ thể
gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó có tính đến hành vi của người khác và
vì vậy có định hướng tới người khác trong đường lối, quá trình của nó.
Weber phân loại hành động xã hội thành bốn loại như sau:
* Thứ nhất, hành động duy lý – công cụ là hành động được thực hiện với
sự cân nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có
hiệu quả cao nhất. Ví dụ rõ nhất là hành động kinh tế.
* Thứ hai, hành động duy lý giá trị là hành động được thực hiện vì bản
thân hành động (mục đích tự thân). Thực chất loại hành động này có thể nhằm
vào mục đích phi lý nhưng lại được thực hiện bằng những công cụ, phương
tiện duy lý như hành vi tín ngưỡng…
*Thứ ba, hành động duy cảm (xúc cảm) là hành động do các trạng thái
xúc cảm hoặc tình cảm bột phát gây ra mà không có sự cân nhắc, xem xét,
phân tích mối quan hệ giữa công cụ, phương tiện và mục đích hành động như
hành động của đám đông quá khích, hành động do tức giận gây ra…
*Thứ tư, hành động duy lý - truyền thống là loại hành động tuân thủ
theo những thói quen, nghi lễ, phong tục, tập quán đã được truyền lại từ đời
này qua đời khác.

×