Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Biến đổi gia đình người Dao quần trắng ở Xã Tân Hương, Huyện Yên Bình, Tỉnh Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.8 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐỖ VĂN KIÊN



BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH
NGƢỜI DAO QUẦN TRẮNG Ở XÃ TÂN HƢƠNG,
HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ





Hà Nội-2013
2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐỖ VĂN KIÊN



BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH
NGƢỜI DAO QUẦN TRẮNG Ở XÃ TÂN HƢƠNG,
HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60 22 70

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Sỹ Giáo


Hà Nội-2013

3

BẢNG KÊ NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

CNH: Công nghiệp hóa
CTQG: Chính trị quốc gia
HĐH: Hiện đại hóa
KHXH: Khoa học xã hội
KHXH&NV: Khoa học Xã hội và Nhân văn
Nxb: Nhà xuất bản
4

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Diện tích và sản lượng cây trồng năm 2012

19
Bảng 2.2: Thành phần dân tộc xã Tân Hương (theo hộ và nhân khẩu)
20
Bảng 2.3: Phân bố người Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương theo đơn vị
hành chính
26
Bảng 3.1: Tuổi kết hôn lần đầu của người Dao Quần Trắng (trước 1986)
34
Bảng 3.2: Người quyết định hôn nhân (trước 1986)
35
Bảng 3.3: Tuổi kết hôn lần đầu của người Dao Quần Trắng (sau 1986)
38
Bảng 3.4: Người quyết định hôn nhân hiện nay
38
Bảng 3.5: Quy mô gia đình thời điểm trước 1986
41
Bảng 3.6: Quy mô gia đình của người Dao Quần Trắng ở Tân Hương hiện nay
42
Bảng 3.7: Cấu trúc gia đình theo thế hệ (trước 1986)
43
Bảng 3.8: Cấu trúc gia đình theo thế hệ hiện nay
43
Bảng 3.9: Số con trong gia đình người Dao Quần Trắng ở Tân Hương
(trước 1986)
44
Bảng 3.10: Số con trong gia đình người Dao Quần Trắng ở Tân Hương
hiện nay
47
Bảng 3.11: So sánh vai trò của giáo dục của gia đình và nhà trường
57


5

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1
1.
Tính cấp thiết của đề tài
1
2.
Mục đích nghiên cứu
2
3.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2
4.
Nguồn tài liệu và giả thiết khoa học
3
5.
Đóng góp của luận văn
3
6.
Cấu trúc luận văn
4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5
1.1.

Tổng quan về tình hình nghiên cứu
5
1.1.1.
Những nghiên cứu về gia đình và biến đổi gia đình
5
1.1.2.
Những nghiên cứu về người Dao và nhóm Dao Quần Trắng
8
1.2.
Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
9
1.2.1.
Một số khái niệm sử dụng trong luận văn
9
1.2.2.
Một số hướng tiếp cận lý thuyết
12
1.2.3.
Phương pháp nghiên cứu
15

Tiểu kết chƣơng 1
17
6

CHƢƠNG 2: NGƢỜI DAO QUẦN TRẮNG
VÀ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG CỦA HỌ
18
2.1.
Khái quát về địa bàn nghiên cứu

18
2.1.1.
Địa bàn nghiên cứu: Xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái
18
2.1.2.
Giới thiệu về người Dao Quần Trắng ở huyện Yên Bình, tỉnh Yên
Bái
21
2.2.
Gia đình truyền thống của ngƣời Dao Quần Trắng
28
2.2.1.
Phân loại gia đình
28
2.2.2.
Loại hình gia đình truyền thống của người Dao Quần Trắng
29

Tiểu kết chƣơng 2
31
CHƢƠNG 3: BIẾN ĐỔI CẤU TRÚC, CHỨC NĂNG
VÀ MỐI QUAN HỆ GIA ĐÌNH TRƢỚC VÀ SAU ĐỔI MỚI
33
3.1.
Biến đổi cấu trúc gia đình
33
3.1.1.
Cấu trúc (quan hệ) hôn nhân
33
3.1.2.

Cấu trúc gia đình theo số khẩu (quy mô)
40
3.1.3.
Cấu trúc gia đình theo thế hệ
42
3.2.
Biến đổi chức năng gia đình
44
3.2.1.
Chức năng tái sản xuất con người
44
3.2.2.
Chức năng kinh tế
49
3.2.3.
Chức năng giáo dục
53
7

3.3.
Biến đổi mối quan hệ trong gia đình
58
3.3.1.
Trong quan hệ vợ chồng (quan hệ ngang)
58
3.3.2.
Trong quan hệ giữa các thế hệ (quan hệ dọc)
59
3.4.
Tác động của biến đổi cấu trúc, chức năng, mối quan hệ gia đình

đến đời sống gia đình và xã hội
62

Tiểu kết chƣơng 3
64
CHƢƠNG 4: BIẾN ĐỔI CÁC PHONG TỤC, NGHI LỄ
TRONG CHU KỲ ĐỜI NGƢỜI TRƢỚC VÀ SAU ĐỔI MỚI
66
4.1.
Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong sinh đẻ và nuôi con
66
4.1.1.
Các phong tục, nghi lễ trong sinh đẻ và nuôi con trước Đổi mới
66
4.1.2.
Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong sinh đẻ và nuôi con
69
4.2.
Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong lễ cấp sắc
72
4.2.1.
Các phong tục, nghi lễ trong lễ cấp sắc trước Đổi mới
72
4.2.2.
Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong lễ cấp sắc
77
4.3.
Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong cƣới xin
80
4.3.1.

Các phong tục nghi lễ trong cưới xin trước Đổi mới
80
4.3.2.
Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong cưới xin
86
4.4.
Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong ma chay
89
4.4.1.
Các phong tục, nghi lễ trong ma chay trước Đổi mới
89
4.4.2.
Biến đổi các phong tục, nghi lễ trong ma chay
95
8

4.5.
Tác động của biến đổi các phong tục, nghi lễ trong chu kỳ đời
ngƣời đến đời sống gia đình và xã hội
97

Tiểu kết chƣơng 4
99
KẾT LUẬN
100
TÀI LIỆU THAM KHẢO
104
PHỤ LỤC
108
1

Địa bàn nghiên cứu
109
2
Bản đồ tỉnh Yên Bái
110
3
Phiếu thu thập thông tin
111
4
Một số hình ảnh
118

9


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống các tộc người nước ta, gia đình là tế bào cơ bản của xã hội,
giữ vai trò hạt nhân trong cấu trúc xã hội và có chức năng rất quan trọng. Bức
tranh gia đình phản ánh sự đa dạng của thiết chế và trình độ xã hội ở các dân tộc.
Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu
dài. Thực tế, gia đình có sự ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ đến xã hội.
Về phương diện văn hóa tộc người, gia đình có thể được coi như xã hội tộc
người thu nhỏ, đồng thời chịu sự ràng buộc bởi điều kiện văn hóa xã hội của đời
sống tộc người. Vì vậy, gia đình là thiết chế quan trọng bảo tồn và phát huy văn
hóa tộc người.
Với tư cách là tế bào, là thiết chế cơ bản của xã hội, gia đình luôn giữ vai
trò quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân, cộng đồng và tộc người cũng
như sự phát triển của xã hội. Nhận thức về vị trí, vai trò của gia đình, Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Gia
đình là môi trường quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách
con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [5, tr 67].
Cùng với những bước chuyển mình rõ rệt trong đời sống kinh tế - văn hóa -
xã hội của đất nước trong thời kỳ Đổi mới, gia đình các dân tộc Việt Nam, đặc
biệt là gia đình của các dân tộc thiểu số trong đó có nhóm Dao Quần Trắng ở
tỉnh Yên Bái đã và đang có những bước biến đổi mạnh mẽ. Chính sự phát triển
kinh tế - xã hội trong gần ba thập kỷ qua đã có tác động nhiều chiều đến đời
sống văn hoá - xã hội của người Dao Quần Trắng, trong đó có gia đình. Thiết
chế gia đình của đồng bào đã có những biến đổi quan trọng cả về cấu trúc, chức
năng, đặc điểm sinh hoạt và lối sống so với truyền thống. Những thay đổi đó đã
tạo ra một diện mạo mới về gia đình của người Dao Quần Trắng ở tỉnh Yên Bái,
đồng thời tác động lên văn hóa và lối sống của cộng đồng cư dân này. Bên cạnh
sự biến đổi trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, những thay đổi của
gia đình người Dao Quần Trắng với tư cách là tế bào và thiết chế cơ bản của
cộng đồng đã diễn ra sự tương tác giữa truyền thống và hiện đại, văn hóa và phát
triển. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ nhưng hết sức sinh động của quá trình biến
đổi và phát triển văn hóa tộc người từ mấy thập kỷ nay ở miền núi Việt Nam.
10

Vì vậy, việc nghiên cứu những khía cạnh trong biến đổi của gia đình người
Dao Quần Trắng được đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng
về cả lý luận và thực tiễn trong việc bảo lưu và phát triển các giá trị văn hoá
truyền thống tộc người nói chung, phát huy những giá trị của gia đình nói riêng
trong việc xây dựng gia đình văn hóa ở nông thôn miền núi. Hơn nữa, nghiên
cứu về chủ đề này sẽ góp phần làm cơ sở cho các chủ trương, chính sách phát
triển của Đảng và Nhà nước đối với vùng dân tộc miền núi trong thời gian tới,
thiết thực góp phần vào công cuộc phát triển cộng đồng người Dao Quần Trắng
và các dân tộc nước ta.

Cho đến nay, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về người Dao nói
chung, về gia đình người Dao nói riêng nhưng chưa có một công trình chuyên
khảo về biến đổi gia đình của người Dao Quần Trắng ở một địa phương cụ thể.
Với ý nghĩa đó, tôi quyết định chọn đề tài: “Biến đổi gia đình người Dao Quần
Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái” làm đề tài luận văn
thạc sĩ dân tộc học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
1. Tìm hiểu cấu trúc, chức năng, các mối quan hệ và một số nghi lễ trong
gia đình truyền thống của người Dao Quần Trắng.
2. Chỉ ra sự biến đổi của gia đình trên các phương diện chính là cấu trúc,
chức năng, mối quan hệ gia đình và các phong tục, nghi lễ có liên quan đến chu
kỳ đời người.
3. Phân tích và đánh giá những biến đổi của gia đình người Dao Quần
Trắng từ Đổi mới đến nay.
4. Lý giải những nguyên nhân của sự biến đổi và chỉ ra xu hướng biến đổi
của gia đình người Dao Quần Trắng hiện nay.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự biến đổi gia đình của người Dao
Quần Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái trước và sau thời
kỳ Đổi mới.
3.2. Phạm vi và địa bàn nghiên cứu
Phạm vi nội dung của luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề về
truyền thống và biến đổi trong gia đình của nhóm Dao Quần Trắng tại địa bàn
nói trên. Bên cạnh đó, luận văn có so sánh đối chiếu vấn đề nghiên cứu với một
số địa phương khác. Do biến đổi gia đình là mảng đề tài rộng lớn gồm nhiều nội
dung nên trong khuôn khổ luận văn này, tập trung vào tìm hiểu một số nội dung
11

cơ bản của biến đổi gia đình về cấu trúc, chức năng, mối quan hệ và một số nghi

lễ cơ bản trong gia đình.
Về phạm vi thời gian, chúng tôi chủ yếu tập trung vào những biến đổi của
gia đình ở hai giai đoạn trước và sau Đổi mới.
Địa bàn nghiên cứu mà chúng tôi chọn là xã Tân Hương, huyện Yên Bình,
tỉnh Yên Bái. Tân Hương là xã đặc biệt khó khăn (xã khu vực III) của huyện
Yên Bình và cũng là một trong những xã tập trung đông người Dao Quần Trắng.
4. Nguồn tài liệu và giả thiết khoa học
4.1. Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là tài liệu điền dã được
thu thập qua các đợt khảo sát tại địa bàn nghiên cứu. Chúng tôi đã tiến hành
khảo sát tại địa bàn làm hai đợt. Đợt 1, từ tháng 01 đến tháng 3 năm 2013; đợt 2,
tháng 5 năm 2013.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các công trình nghiên cứu, các bài viết
về người Dao, về gia đình và biến đổi gia đình của các học giả đã được xuất bản
bao gồm sách, báo, tạp chí, thông báo khoa học, báo cáo khoa học, các luận án,
luận văn, khóa luận của chuyên ngành nhân học/dân tộc học cũng như các số
liệu thống kê, báo cáo tổng kết về kinh tế - văn hoá - xã hội của xã Tân Hương,
huyện Yên Bình và tỉnh Yên Bái.
4.2. Giả thiết nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi xác định một số giả thiết làm cơ sở cho việc nhận
thức, đánh giá vấn đề cũng như quá trình quan sát, thu thập thông tin tại địa bàn,
cụ thể như sau:
Dưới tác động của biến đổi kinh tế - xã hội từ khi Đổi mới đến nay, gia
đình người Dao Quần Trắng tại xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái
đang có sự biến đổi mạnh mẽ trên nhiều phương diện.
Tuy có sự biến đổi mạnh mẽ, nhiều yếu tố của gia đình truyền thống mất đi,
một số yếu tố mới được khẳng định. Song, không vì thế mà mà gia đình mất đi
vai trò của của nó với tư cách là một thiết chế xã hội quan trọng cả trong phạm
vi bản làng và xã hội tộc người.
Sự biến đổi của gia đình của người Dao Quần Trắng có tác động trở lại đến

nhiều mặt trong đời sống văn hóa xã hội của họ.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống về biến đổi gia
đình người Dao Quần Trắng ở một địa bàn cụ thể. Nghiên cứu này có những
đóng góp sau đây:
12

Trên cơ sở điền dã, luận văn góp phần bổ sung những tư liệu mới về biến
đổi gia đình qua nghiên cứu trường hợp xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh
Yên Bái cho các nghiên cứu về gia đình của nhóm Dao Quần Trắng nói riêng,
người Dao ở nước ta nói chung.
Những phân tích nhân học/dân tộc học chủ yếu từ tư liệu thực địa của luận
văn đã làm rõ xu thế biến đổi của gia đình người Dao Quần Trắng trước sự tác
động của những nguyên nhân kinh tế - xã hội trong bối cảnh xã hội đang biến
đổi mạnh mẽ ở nước ta thời kỳ Đổi mới, CNH - HĐH.
Luận văn đã phân tích mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và biến
đổi của gia đình người Dao Quần Trắng ở địa phương về cấu trúc, chức năng,
mối quan hệ và một số nghi lễ tiêu biểu trong gia đình.
Nghiên cứu này góp phần phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong
sự thích ứng của gia đình trước sự biến đổi của xã hội nhằm xây dựng gia đình
văn hóa ở cơ sở.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính của luận văn được
cấu trúc thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương
pháp nghiên cứu
Chương 2: Người Dao Quần Trắng và gia đình truyền thống của họ
Chương 3: Biến đổi cấu trúc, chức năng, mối quan hệ gia đình trước và sau
Đổi mới
Chương 4: Biến đổi các phong tục, nghi lễ của chu kỳ đời người trong gia

đình trước và sau Đổi mới
13

Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về gia đình và biến đổi gia đình
Cùng với gia đình, biến đổi gia đình là một hiện tượng xã hội phổ biến
trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, đặc biệt từ khi xã hội loài người chuyển từ
sản xuất nông nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp. Biến đổi gia đình là
một đề tài có sức hấp dẫn lớn nên đã được nhiều ngành khoa học quan tâm
nghiên cứu ở các góc độ tiếp cận khác nhau như xã hội học, dân tộc học/nhân
học, tâm lý học… Nhiều thập kỷ đã qua, những khía cạnh của biến đổi gia đình
như cấu trúc, chức năng hay các mối quan hệ trong gia đình đã được tìm tòi,
phát hiện và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm
khoa học.
Một trong những công trình nổi tiếng bàn về gia đình là tác phẩm “Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” (1884) của F. Engels.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu của nhà dân tộc học H. Morgan và quan điểm
duy vật, F. Engels đã phân tích lịch sử nhân loại ở giai đoạn sớm, luận chứng
quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá trình hình thành xã hội
có giai cấp dựa trên chế độ sở hữu tư nhân. Trong tác phẩm này, F. Engels đã
dành cả một chương (chương hai) để phân tích về gia đình. Bắt đầu bằng việc
nghiên cứu nguồn gốc của gia đình trong sự vận động khách quan của quá trình
phát triển gia đình từ chế độ quần hôn đến gia đình một vợ một chồng. Ông đã
đề cập đến các loại hình gia đình trong lịch sử, các thiết chế hôn nhân và giải
thích sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau. F. Engels khẳng định, gia đình là sản phẩm của lịch sử và nó tác

động tích cực đến tiến trình xã hội. Theo ông, gia đình là một “khái niệm động”,
thường xuyên có sự biến đổi về quy mô, kết cấu và chức năng theo diễn trình
lịch sử. Có thể nói đây là một tác phẩm kinh điển chứa đựng những lý luận cơ
bản về gia đình của chủ nghĩa Mác.
Sau đó, những công trình nghiên cứu đáng kể về biến đổi gia đình đã xuất
hiện ngay từ những năm 50 – 60 của thế kỷ XX gắn liền với tên tuổi của các nhà
nhân học/xã hội học hàng đầu phương Tây như Talcott Pasons, G.P. Murdock,
Wiliam Goode…
Theo nhà nghiên cứu Mai Huy Bích, William Goode là một trong những
14

nhà nhân học/xã hội học với những nghiên cứu về biến đổi gia đình được đánh
giá cao, tiêu biểu là công trình “Cách mạng thế giới và những hình mẫu gia
đình” (1963). Trong cuốn sách này, ông đã tìm hiểu gia đình trong xã hội công
nghiệp hóa và cho rằng dưới tác động của công nghiệp hóa các mẫu hình gia
đình đều thay đổi theo hướng trở lên giống nhau và giống với gia đình phương
Tây. Đó là mẫu hình “gia đình vợ chồng” mà ở đó ít có quan hệ với họ hàng nội
ngoại, cá nhân ít phụ thuộc vào gia đình và được mở rộng quyền tự do. Xã hội
công nghiệp đã giải phóng con người vì nó tạo ra một mô hình gia đình tự do và
bình đẳng hơn các xã hội trước đó.
Sau Talcott Pasons và Wiliam Goode, các nhà nhân học Emily A.Schultz
và Rober H. Lavanda cũng có những nghiên cứu về gia đình được công bố.
Trong cuốn “Nhân học – một quan điểm về tình trạng nhân sinh” (2001), ở các
chương XVIII – Thân tộc và chương XIX – Hôn nhân và gia đình, hai tác giả
này đã đề cập đến những vấn đề cơ bản trong nghiên cứu nhân học về gia đình
như các kiểu hôn nhân, các loại hình gia đình, cấu trúc gia đình và biến đổi gia
đình theo thời gian.
Nhìn lại tình hình nghiên cứu ở Việt Nam, những nghiên cứu về biến đổi
gia đình xuất hiện nhiều từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây với những
nhà nghiên cứu tiêu biểu Mai Huy Bích, Nguyễn Linh Khiếu, Lê Ngọc Văn, Vũ

Tuấn Huy, Khuất Thu Hồng… Cho đến nay đã có số lượng lớn công trình
nghiên cứu, sách, bài viết, các hội nghị và hội thảo về chủ đề này được công bố
trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể kể đến một số công trình tiêu
biểu sau:
Trong hàng loạt các ấn phẩm đã xuất bản, đáng chú ý hơn cả, có một công
trình mang tính hệ thống lý luận và thực tiễn về vấn đề gia đình và biến đổi gia
đình ở nước ta là chuyên khảo “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam” của
tác giả Lê Ngọc Văn (2011). Tác phẩm này được kết cấu thành ba phần lớn.
Phần thứ nhất, tác giả giới thiệu những vấn đề lý luận về gia đình và biến
đổi gia đình
1
.
Phần thứ hai đề cập đến thực trạng biến đổi gia đình ở Việt Nam, trong đó
tác giả tập trung làm rõ sự biến đổi về chức năng, cấu trúc của gia đình.


1
Phần này gồm ba chương dựng nên “nền móng lý luận khá vững chắc” về gia đình và biến đổi gia đình. Nhiều
khái niệm then chốt như gia đình, văn hóa gia đình và biến đổi gia đình cùng với những nhân tố và quá trình ảnh
hưởng đến biến đổi gia đình như công nghiệp hóa, toàn cầu hóa, chính sách pháp luật của Nhà nước về gia đình
được giới thiệu và làm rõ. Những quan điểm lý thuyết cơ bản dùng đề nghiên cứu gia đình cũng được giới thiệu
và phân tích
15

Phần thứ ba đề cập đến các quan điểm và giải pháp chính sách về những
vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay. Trong phần này, tác
giả chỉ ra những vấn đề mới đặt ra từ sự biến đổi các chức năng của gia đình và
cấu trúc của gia đình. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra năm nhóm giải pháp kiến
nghị chủ yếu xây dựng gia đình Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa và hội nhập
quốc tế. Bên cạnh việc khái quát và hệ thống những vấn đề cơ bản của gia đình

và biến đổi gia đình ở Việt Nam hiện nay, tác giả đưa ra gợi ý cho những nghiên
cứu về gia đình và biến đổi gia đình. Song, cuốn sách chủ yếu dừng lại ở việc
nghiên cứu về biến đổi gia đình ở khu vực đồng bằng và đô thị mà chưa đề cập
nhiều đến gia đình của các dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi.
Tiếp theo, công trình nghiên cứu “Sự biến đổi và liên tục của gia đình nông
thôn Việt Nam: những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu thử nghiệm ở Yên Bái”
của Vũ Tuấn Huy và cộng sự dựa trên kết quả nghiên cứu liên ngành khá toàn
diện về biến đổi gia đình nông thôn các dân tộc từ khảo sát thực địa tại Yên Bái.
Đây là một nghiên cứu như tác giả đã chỉ rõ là thuộc dự án của nhóm “Micro”
gồm sự liên kết của bốn cơ quan chuyên ngành: Viện Xã hội học, viện Dân tộc
học, Trung tâm Địa lý nhân văn và Trung tâm nghiên cứu Gia đình và Phụ nữ
nhằm xác định các vấn đề và phương pháp nghiên cứu liên ngành. Nghiên cứu
này đã chỉ ra rằng, trong thời kỳ đổi mới, đời sống gia đình đã có nhiều thay đổi.
Chẳng hạn, nếu như trước đây, hôn nhân chỉ diễn ra ở nội bộ tộc người thì hiện
nay đã mở ra với các tộc người khác. Trong đời sống thường ngày, vị trí của
người phụ nữ đã được nâng lên, quyền bình đẳng được tôn trọng và người phụ
nữ có điều kiện hơn để tham gia vào các công việc bên ngoài gia đình. Mỗi gia
đình sẵn sàng thay đổi và hình thành chiến lược sống mới để thích nghi với điều
kiện xã hội mới v.v…
Bên cạnh đó, Vũ Tuấn Huy còn có bài viết chuyên khảo “Những khía cạnh
của sự biến đổi gia đình” in trong sách “Những nghiên cứu Xã hội học về gia
đình” (1996) do Tương Lai chủ biên. Thông qua phân tích các khía cạnh như
những vấn đề về hôn nhân và những quan hệ trong đời sống gia đình, nghiên
cứu này đã chỉ ra rằng, gia đình Việt Nam đã và đang biến đổi dưới sự tác động
của những biến đổi xã hội và giao lưu văn hóa, sự biến đổi đó không tách rời
hoàn toàn với những đặc trưng của gia đình truyền thống Việt Nam, mà là một
sự điều chỉnh, thích nghi với những hoàn cảnh và điều kiện xã hội mới. Tác giả
cũng cho rằng, hiện đại hóa, công nghiệp hóa, đô thị hóa và các quá trình dân số
là những yếu tố tác động đến đời sống gia đình. Tuy nhiên, những yếu tố này
16


vẫn chưa đủ mạnh để tạo ra những biến đổi căn bản trong mô hình nơi ở và các
quan hệ thân tộc.
Gần đây, Hội thảo “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa và
hội nhập” do Viện Gia đình và Giới tổ chức vào ngày 26/3/2012 tại Hà Nội là
một trong những diễn đàn lớn thu hút nhiều nhà khoa học nghiên cứu về gia
đình
2
. Hội thảo đã đề cập và làm rõ nhiều khía cạnh của gia đình trong đó có
biến đổi gia đình do tác động của công nghiệp hóa và hội nhập.
Mặt khác, gia đình và biến đổi gia đình ở các dân tộc Việt Nam cũng là chủ
đề được nhiều luận văn, luận án chọn làm đề tài nghiên cứu. Gần đây nhất, luận
văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Dân tộc học của tác giả Hoàng Phương Mai
với tên đề tài “Gia đình người Sán Dìu ở xã Ninh Lai huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang - truyền thống và biến đổi” (2011) là một nghiên cứu về biến đổi
gia đình của một tộc người ở một địa phương cụ thể. Luận văn đã đề cập đến các
khía cạnh trong gia đình truyền thống và chỉ ra những biến đổi trong gia đình
của người Sán Dìu trên các phương diện như quy mô, cấu trúc, chức năng, mối
quan hệ và các nghi lễ trong gia đình, đồng thời cũng làm rõ các nguyên nhân
dẫn đến sự biến đổi trong gia đình.
Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu về biến đổi gia đình ở nước ta
mấy thập kỷ nay, chúng ta thấy rằng chưa có nhiều những nghiên cứu chuyên
sâu về biến đổi gia đình của các dân tộc, nhất là ở một tộc người tại một địa
phương cụ thể.
1.1.2. Những nghiên cứu về người Dao và nhóm Dao Quần Trắng
Cho đến nay, người Dao là một trong những tộc người nhận được nhiều
quan tâm nghiên cứu dân tộc học/nhân học ở Việt Nam của các nhà khoa học tên
tuổi như Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Trần Quốc Vượng, Phan Hữu Dật,
Lê Sỹ Giáo, Nguyễn Đình Khoa, Phạm Quang Hoan, Nguyễn Ngọc Thanh,
Vương Xuân Tình, Lý Hành Sơn… Trong số đó, các tác giả đã đề cập đến hầu

hết các lĩnh vực từ nguồn gốc lịch sử đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, ngôn
ngữ v.v… của cộng đồng cư dân này. Những công trình trên đã đem đến cái
nhìn khá tổng quát về dân tộc Dao ở Việt Nam. Tuy vậy, chỉ có một số công
trình đề cập đến người Dao Quần Trắng.
Từ rất sớm, nhóm tác giả Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung,
Nguyễn Nam Tiến đã xuất bản công trình nghiên cứu khái quát về “Người Dao


2
Có 40 tham luận được trình bày chia làm bốn chủ đề: Những vấn đề chung về gia đình; tính đa dạng của gia
đình; mối quan hệ gia đình; giá trị gia đình.
17

ở Việt Nam” (1971). Có thể nói, cho đến nay đây vẫn là công trình phản ánh
toàn diện và đầy đủ nhất về người Dao ở Việt Nam. Trên cơ sở các tài liệu điền
dã, các tác giả đã khái quát về nguồn gốc lịch sử, tên gọi, địa bàn cư trú, các đặc
trưng sinh hoạt kinh tế - xã hội…và những chuyển đổi trong đời sống của dân
tộc Dao từ sau cách mạng tháng Tám 1945. Trong công trình này, nhóm Dao
Quần Trắng nước ta đã được các tác giả đề cập đến ở một số nội dung (tuy còn
sơ lược).
Những nghiên cứu chuyên sâu trên nhiều khía cạnh đời sống xã hội tộc
người về người Dao ở nước ta đã được công bố trong cuộc Hội thảo ở tầm quốc
gia do Trung tâm Khoa học xã hội & Nhân văn quốc gia tổ chức năm 1995 với
chủ đề “Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai”.
Kỷ yếu hội thảo khoa học quan trọng này đã được xuất bản năm 1998, trong đó
tập hợp nhiều nghiên cứu sâu về dân tộc Dao. Những tham luận tại hội thảo đã
làm sáng tỏ nhiều vấn đề về đặc điểm dân tộc, sự phát triển kinh tế - xã hội và
biến đổi văn hóa của dân tộc Dao. Tại hội thảo này, có một số bài viết dưới
nhiều góc độ đã đi sâu nghiên cứu về nhóm Dao Quần Trắng.
Bên cạnh đó, còn có một số công trình và bài viết về người Dao Quần

Trắng ở một số địa phương như “Các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang” của Hà
Văn Viễn và Hà Văn Phụng (1972); “Một sinh hoạt văn hóa lễ hội của người
Dao Họ ở Lào Cai” của Lê Hồng Lý (1997); “Ứng xử của người Dao Họ (Dao
Quần Trắng) ở Lào Cai với nguồn nước” của Trần Hữu Sơn (2008); “Thầy
Shaman người Dao Họ ở Lào Cai (Nghiên cứu trường hợp ông Bàn Văn Xiêm)”
của Phạm Văn Dương (2009) v.v …và một số bài báo giới thiệu về một số
phong tục tập quán đặc sắc của người Dao Quần Trắng.
Tựu trung lại, những công trình đề cập đến người Dao Quần Trắng ở nước
ta còn rất sơ lược và tản mạn, hoặc chỉ khảo cứu ở một khía cạnh cụ thể. Đặc
biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu về biến đổi gia đình của người Dao
Quần Trắng ở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Chính vì vậy, nghiên cứu của
chúng tôi nhằm bổ sung vào vấn đề còn bỏ ngỏ này.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
1.2.1. Một số khái niệm sử dụng trong luận văn
Để thống nhất nội dung của một số thuật ngữ sử dụng trong luận văn,
chúng tôi xin đưa ra một số khái niệm chính như sau:
1.2.1.1. Khái niệm gia đình
Như đã đề cập ở trên, cho đến nay, trong các nghiên cứu khoa học trên thế
giới và ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về gia đình từ những cách
18

tiếp cận khác nhau và đã có nhiều định nghĩa về gia đình được đưa ra. Song cho
đến nay gia đình là gì vẫn đang còn là vấn đề gây tranh luận và được định nghĩa
theo nhiều cách khác nhau. Theo nhà xã hội học Tương Lai, thuật ngữ này vẫn
là một thuật ngữ được định nghĩa lỏng lẻo nhất trong từ vựng của các nhà xã hội
học [44, tr 33].
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước", F.Enggels đã đề cập đến khái niệm gia đình của Morgan: “Gia đình là
một yếu tố năng động, nó không bao giờ đứng yên tại chỗ mà nó chuyển từ hình
thức thấp lên hình thức cao khi xã hội phát triển từ hình thức thấp lên hình thức

cao, khi xã hội phát triển từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao”. Định nghĩa này
nhấn mạnh đến yếu tố “động” của gia đình, sự biến đổi của gia đình gắn liền với
sự vận động biến đổi của xã hội. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mark đã
đưa ra định nghĩa: “Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người
còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ,
cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [28, tr 41]. Với quan niệm này, gia đình được
nhấn mạnh trên các khía cạnh quan hệ trong gia đình đó là quan hệ hôn nhân và
quan hệ huyết thống.
Ở Việt Nam, khi bàn tới khái niệm gia đình, các tác giả cũng đưa ra các
định nghĩa khác nhau. Theo Đại từ điển tiếng Việt, “Gia đình là tập hợp những
người có quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống sống chung trong cùng một
nhà” [3, tr 719]. Tác giả Ngô Công Hoàn trong cuốn “Tâm lý học gia đình” đưa
ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội, có quan hệ gắn bó về hôn
nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có chung giá trị vật chất, tinh thần, ổn định
trong các thời điểm lịch sử nhất định” [24, tr 9]. Tác giả Lê Ngọc Văn trong
chuyên khảo “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam” định nghĩa :“Gia đình
là một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hoặc quan
hệ nghĩa dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng chung sống,
có ngân sách chung” [16, tr 38]
Qua các khái niệm trên, có thể thấy rằng sẽ không có một định nghĩa duy
nhất cho gia đình trong mọi nền văn hóa, mọi chế độ xã hội và mọi thời kỳ lịch
sử khác nhau. Mặc dù còn có các tiêu chí riêng để nhận diện gia đình nhưng
cũng có những tiêu chí chung cơ bản đó là: Là một nhóm người (có từ hai người
trở lên); có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hay nghĩa dưỡng; cùng
chung sống.
Trong luận văn này, chúng tôi thống nhất sử dụng định nghĩa mang tính
pháp lý về gia đình ở Việt Nam được ghi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
19

2008 như sau: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ

hôn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các
nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định”.
Hộ gia đình
Thông cáo về gia đình của Liên Hợp Quốc cho rằng: “Hộ là những người
cùng chung sống dưới một mái nhà, có chung ngân quỹ”. Theo quan niệm này,
hộ gia đình có thể là một người (độc thân), có thể là 2,3 …người cùng giới và
khác giới sống chung với nhau.
Năm 1989, Tổng cục Thống kê đưa ra khái niệm: “Hộ gồm những người có
quan hệ hôn nhân hoặc ruột thịt hoặc nuôi dưỡng, có quỹ thu chi chung và cùng
chung sống lâu dài”. Mỗi hộ gia đình có sổ đăng ký nhân khẩu gồm chủ hộ và
các thành viên quan hệ với chủ hộ.
Như vậy, gia đình và hộ gia đình là hai khái niệm khác nhau. Một gia đình
có thể là một hộ nhưng có thể có hơn một hộ.
Ở Việt Nam, khi nói đến gia đình, thường được hiểu đó là hộ và như vậy
nhiều khi khái niệm gia đình được hiểu đó là khái niệm hộ.
1.2.1.2. Biến đổi gia đình
Gia đình là một thiết chế xã hội và đương nhiên cũng là một phần của xã
hội. Do đó, biến đổi gia đình cũng là một phần của biến đổi xã hội. Để hiểu
được biến đổi gia đình cần hiểu biến đổi xã hội. Biến đổi xã hội có thể được hiểu
là một quá trình chuyển đổi từ hình thái xã hội này sang một hình thái xã hội
khác trên một trục thời gian. Hay cụ thể hơn là, ở thời điểm t
1
, có trạng thái x
1
,
thời điểm t
2
có trạng thái x
2
…và đến thời điểm t

n
có trạng thái x
n.
.

Từ biến đổi
xã hội, có thể suy ra biến đổi gia đình, đó là một quá trình chuyển biến của gia
đình từ trạng thái này sang trạng thái khác trên một trục thời gian. Trong luận
văn này, chúng tôi xem xét sự biến đổi của trạng thái gia đình trên các phương
diện cấu trúc, chức năng, mối quan hệ và một số phong tục, nghi lễ trong chu kỳ
đời người.
1.2.1.3. Nghi lễ
Theo từ điển tiếng Việt, “Nghi lễ là nghi thức và trình tự tiến hành của một
buổi lễ” [44, tr 866]. Còn theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, nghi lễ là
“những hoạt động mang tính truyền thống được thực hiện tại những thời điểm
quan trọng trong đời sống và trong hoạt động sản xuất của con người. Phân biệt
hai loại nghi lễ chính: Một loại gắn với chu kì đời sống con người (từ sinh đẻ,
cưới xin đến ma chay) gọi là nghi lễ gia đình; một loại liên quan đến sản xuất
20

nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác gọi là nghi lễ theo lịch”
3
. Trong luận
văn này, chúng tôi chỉ để cập đến một số nghi lễ gắn với chu kì của con người
trong gia đình mà như khái niệm trên gọi là nghi lễ gia đình.
1.2.2. Một số hướng tiếp cận lý thuyết
1.2.2.1. Tiếp cận lý luận Mác xít
Luận văn áp dụng nguyên lý và nguyên tắc phương pháp luận của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, cụ thể là:
- Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan. Nguyên tắc này chỉ ra rằng, cần

nghiên cứu sự vật, hiện tượng như chúng đang tồn tại thực tế, các kết luận phải
xuất phát từ thực tế, không phán đoán chủ quan; để có hiểu biết đúng đắn về sự
vật, hiện tượng, phải hướng tới cái bản chất, không hướng tới cái ngẫu nhiên,
không ổn định.
- Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự phát triển. Mỗi sự vật, hiện tượng
đều có quá trình nảy sinh, vận động (biến đổi) và phát triển; đều tồn tại trong
một không gian và thời gian xác định. Khi nghiên cứu, cần nhìn nhận sự vật,
hiện tượng trong những giai đọan cụ thể và trong toàn bộ tiến trình phát triển;
cần chú ý đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể làm nảy sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện
thực khách quan và chủ quan. Có như vậy sẽ giúp ta thấy được sự vận động,
biến đổi cũng như lý giải được quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng đó.
- Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể toàn vẹn. Khi xem xét
sự vật, hiện tượng cần phải đặt trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các
yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Đồng thời,
phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện
tượng khác.
Vận dụng các nguyên lý này vào nghiên cứu biến đổi gia đình của người
Dao Quần Trắng, chúng tôi quan niệm gia đình là một thiết chế xã hội có mối
liện hệ qua lại với các thiết chế xã hội khác trong chỉnh thể xã hội. Gia đình tồn
tại và biến đổi trong những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể dưới sự tác động của
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan.
1.2.2.2. Tiếp cận theo lý thuyết chức năng (hay chức năng – cấu trúc)
Được khởi xướng từ G. Spencer và E. Durkheim và sau đó được phát triển
và hoàn thiện bởi các học giả tiêu biểu như Malinowski, Radcliffe – Brown và
Talcott Parsons. Đây là lý thuyết được ứng dụng nhiều trong các nghiên cứu xã


3


21

hội học, dân tộc học và nhân học. Những người sáng tạo và phát triển lý thuyết
này đều coi lý thuyết chức năng - cấu trúc như một công cụ quan trọng trong
việc tiếp cận nghiên cứu văn hóa và xã hội. Mỗi đại diện của lý thuyết này có
những kiến giải riêng, nhưng về cơ bản đều thống nhất ở những luận điểm sau:
- Xã hội tồn tại như một hệ thống, trong đó gồm nhiều yếu tố khác nhau có
quan hệ với nhau tạo thành cấu trúc của hệ thống. Mỗi yếu tố của hệ thống lại có
thể trở thành một hệ thống con và dưới hệ thống con lại có các hệ thống
nhỏ hơn nữa.
- Giữa các hệ thống có sự tác động qua lại lẫn nhau và liên hệ mật thiết với
môi trường. Tương tự, giữa các yếu tố của hệ thống cũng có liên hệ và tác động
như vậy.
- Mỗi hệ thống, cũng như mỗi bộ phận của hệ thống đều đảm bảo một hay
nhiều chức năng để duy trì sự thống nhất của hệ thống. Khi chức năng hoạt động
bình thường thì hệ thống vận hành ổn định, bền vững và ngược lại, khi các chức
năng này bị rối loạn sẽ dẫn tới sự bất ổn định của cấu trúc tổng thể, thậm chí có
thể phá vỡ cấu trúc tổng thể.
Tiếp cận lý thuyết chức năng trong nghiên cứu đề tài “Gia đình người Dao
Quần Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái”, chúng tôi quan
niệm: Thứ nhất, gia đình người Dao là một bộ phận trong hệ thống xã hội. Đến
lượt mình, gia đình người Dao lại là một hệ thống gồm nhiều yếu tố như cấu
trúc, chức năng, các mối quan hệ…và sự phân cấp bên trong của các yếu tố này
lại còn các yếu tố nhỏ hơn nữa; Thứ hai, với tư cách là một bộ phận của hệ
thống xã hội, gia đình đảm nhiệm một số chức năng trong hệ thống xã hội của
người Dao Quần Trắng vừa chịu sự tác động của hệ thống xã hội, vừa có tác
động trở lại đến đời sống xã hội. Luận điểm này giúp chúng tôi đưa ra những
câu hỏi mang tính định hướng như chức năng của gia đình người Dao Quần
Trắng là gì? Chức năng này có sự biến đổi không? Mối quan hệ giữa chức năng
của gia đình với các yếu tố xã hội khác như thế nào? Nếu có thì điều gì dẫn đến

sự biến đổi đó? …
Như vậy, lý thuyết chức năng giúp chúng tôi từng bước tiếp cận với đối
tượng nghiên cứu ở các cấp độ ngày càng cụ thể hơn và cho phép giải thích
được các hiện tượng biến đổi của gia đình. Bên cạnh đó, lý thuyết chức năng
còn coi xã hội như một hệ thống mang tính thống nhất và ổn định qua thời gian,
qua đó giúp cho việc nhận dạng xã hội trong sự vận động cân bằng với tất cả các
yếu tố cấu thành nên nó.
22

1.2.3.3. Tiếp cận lý thuyết biến đổi văn hóa
Biến đổi văn hóa (theo nghĩa rộng bao gồm cả biến đổi xã hội) là một quá
trình diễn ra trong tất cả các xã hội và là một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng của
nhân học. Liên quan đến biến đổi văn hóa, có nhiều lý thuyết giải thích về vấn
đề này như giải thích sự biến đổi văn hóa theo quá trình tiến hóa (theo thời
gian); giải thích biến đổi văn hóa theo “tán xạ” hay phát tán văn hóa (theo không
gian); giải thích biến đổi văn hóa theo đặc thù lịch sử; giải thích biến đổi văn
hóa theo chức năng; giải thích biến đổi văn hóa theo nhân học tâm lý…
Trong nhiều lý thuyết giải thích về sự biến đổi văn hóa, chúng tôi đặc biệt
chú ý đến lý thuyết tiếp biến văn hóa.
Tiếp biến văn hóa dùng để chỉ sự tiếp xúc giữa các hệ thống văn hóa với
nhau dẫn đến sự biến đổi, hội nhập một số yếu tố văn hóa lẫn nhau giữa các hệ
thống văn hóa đó. Sự tiếp xúc này làm tăng đặc tính của nền văn hóa này trong
nền văn hóa kia. Tiếp biến văn hóa gồm nhiều quá trình khác nhau như truyền
bá, thích nghi, phản ứng lại…và “tan rã văn hóa”.
Giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội, của
văn hóa, gắn bó với tiến hóa xã hội và cũng gắn bó với sự phát triển của văn
hóa. Giao lưu và tiếp biến văn hóa vừa là kết quả của sự trao đổi văn hóa, vừa là
chính bản thân của sự trao đổi ấy, do đó sự giao lưu tiếp biến văn hóa có một
tầm quan trọng trong lịch sử nhân lọai.
Tiếp biến văn hóa là quy luật tồn tại và phát triển của mọi nền văn hóa và

mọi xã hội từ xưa đến nay. Xét về thực chất, tiếp biến văn hóa chính là sự tác
động qua lại biện chứng giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh của quá trình
phát triển. Trong đó, các yếu tố nội sinh, mà trung tâm là con người giữ vai trò
chủ thể có ý nghĩa quyết định trong việc định hướng mối quan hệ của chúng với
các yếu tố ngoại sinh.
Lý thuyết tiếp biến văn hóa được vận dụng trong luận văn nhằm lý giải sự
biến đổi của các giá trị văn hóa trong gia đình như các nghi lễ, các quan niệm,
những nhận thức mới về xã hội.
1.2.3.4. Tiếp cận từ góc độ lịch sử - so sánh
Đây là cách tiếp cận xem xét sự vật, hiện tượng diễn ra theo một quá trình,
trong đó có các giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong từng giai đoạn lịch sử, các sự
vật, hiện tượng tồn tại dưới những trạng thái khác nhau. Nếu đem so sánh các
trạng thái khác nhau này chúng ta sẽ thấy được sự biến đổi của sự vật, hiện
tượng từ giai đoạn này sang giai đoạn khác.
Vận dụng cách tiếp cận từ góc độ lịch sử - so sánh vào trong nghiên cứu
23

này sẽ cho ta thấy được sự biến đổi của gia đình diễn ra trong những quá trình
kinh tế - xã hội ở những giai đoạn lịch sử khác nhau (ở đây chủ yếu là từ trước
và sau thời điểm Đổi mới, tính từ năm 1986).
Bước sang thời kỳ Đổi mới, thời kỳ có tính bước ngoặt trong lịch sử Việt
Nam với đặc điểm của thời kỳ này là đất nước chuyển đổi từ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong giai đoạn lịch sử này, nổi lên
hai sự kiện chính đó là thực hiện khoán 10 (Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm
1988) và Luật đất đai mới năm 1993. Cùng với hai sự kiện trên, từ năm 1986
đến nay Việt Nam thực hiện quá trình CNH, HĐH đất nước và mở cửa hội nhập
mạnh mẽ với khu vực và quốc tế. Những sự kiện trên tác động mạnh mẽ và sâu
sắc đến những biến đổi xã hội ở Việt Nam trong đó có biến đổi về gia đình.
Ở hai giai đoạn lịch sử đất nước - trước và sau Đổi mới, có sự khác nhau
không chỉ ở phương diện kinh tế mà còn cả ở phương diện chính trị, xã hội và

văn hóa. Sự khác biệt này tác động đến gia đình trên tất cả các phương diện. So
sánh những đặc trưng của gia đình trong hai giai đọan này sẽ thấy được sự biến
đổi của gia đình.
Vậy, trong các lý thuyết vừa trình bày trên đây, nên chọn lý thuyết hay khía
cạnh nào của các lý thuyết để áp dụng vào đề tài nghiên cứu? Thực tế cho thấy,
trong khoa học xã hội, không có một khung lý thuyết nào có thể lý giải được
mọi tình huống hay hiện tượng trong đời sống xã hội vốn rất phức tạp và bị chi
phối bởi những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Mỗi lý thuyết hay mô hình lý luận soi
rọi ánh sáng vào một khía cạnh nhất định trong đời sống xã hội. Thật sai lầm khi
muốn áp dụng một mô hình lý luận duy nhất trong toàn bộ đời sống xã hội ở mọi
nơi trên hành tinh và mọi lúc trong quá trình lịch sử. Vì vậy, luận văn này đã
chắt lọc một số luận điểm của các lý thuyết kể trên ứng dụng vào nghiên cứu
biến đổi gia đình ở người Dao Quần Trắng.
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này tiếp cận vấn đề từ cơ sở nhân học văn hóa; trong đó, phân
tích định tính được đặc biệt nhấn mạnh. Tuy nhiên, sự kết hợp và bổ sung các
nguồn thông tin định tính và định lượng cũng như các tư liệu lịch sử được lưu
trữ ở các cơ sở nhà nước và người dân.
Chúng tôi bắt đầu bằng việc tiến hành thu thập và đánh giá thông tin hiện
có liên quan đến đề tài. Những nguồn tài liệu này đã mang lại hiểu biết có hệ
thống về gia đình và biến đổi gia đình trong bối cảnh xã hội của địa phương và
cả nước. Về thu thập nguồn tài liệu thứ cấp, để nhìn nhận một cách khái quát,
tổng thể, chúng tôi đã tiến hành thu thập các loại báo cáo, quyết định, chỉ thị, tài
24

liệu thống kê có liên quan đến đề tài ở xã Tân Hương, ở huyện Yên Bình và ở
tỉnh Yên Bái.
Trong quá trình bắt tay vào nghiên cứu, tôi đã sử dụng phương pháp
chuyên gia tham khảo ý kiến của các chuyên gia và những người có kinh
nghiệm nghiên cứu chuyên sâu về chủ đề này trong giới chuyên môn đặc biệt là

của các nhà dân tộc học. Ngoài ra, trải nghiệm cuộc sống và các câu chuyện đời
sống của người dân và những cán bộ đã từng công tác tại địa phương trong
khoảng thời gian trước và sau Đổi mới để từ đó xác định những trọng tâm
nghiên cứu.
Về nguồn tài liệu sơ cấp, phương pháp điền dã dân tộc học được xem là
phương pháp nghiên cứu chủ yếu để thu thập thông tin và phân tích vấn đề của
luận văn. Phương pháp này bao gồm các thao tác cơ bản như thu thập các tài
liệu văn bản và thống kê kinh tế - xã hội có liên quan đến đề tài nghiên cứu,
quan sát tham gia, phỏng vấn sâu các đối tượng nghiên cứu, phỏng vấn bằng
bảng hỏi. Tôi đã thực hiện quan sát tham gia tại các điểm nghiên cứu sâu ở xã
Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, trong các bản của người Dao Quần
Trắng để trực tiếp tìm hiểu về gia đình của đồng bào từ đời sống kinh tế xã hội,
môi trường sinh thái, con người, hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân.
Tôi đã chia nghiên cứu điền dã thành nhiều đợt trong năm nhằm thu thập thông
tin định lượng và định tính để làm rõ các giả thiết nghiên cứu.
Về thông tin định tính, tôi đã tập trung trò chuyện với người dân địa
phương, ghi chép và phân tích các câu chuyện đời sống gia đình của người dân,
những suy nghĩ và cảm nhận của họ về gia đình trước và sau khi Đổi mới đất
nước, sự thay đổi trong sinh kế, đời sống và nghi lễ.
Ngoài ra, tôi đã thực hiện các cuộc phỏng vấn sâu các đối tượng đa dạng
của cộng đồng, từ già làng, trưởng bản, chủ hộ khá giả và người nghèo đến
thanh niên, phụ nữ và cán bộ nghỉ hưu. Nội dung các cuộc phỏng vấn tập trung
vào các vấn đề lịch sử và đời sống gia đình trước và sau Đổi mới, tình hình sản
xuất và mức sống, những đánh giá của người dân về đổi thay của gia đình và
thôn bản.
Chúng tôi cũng tiến hành trao đổi với cán bộ chính quyền xã, cán bộ làm
công tác văn hoá trên địa bàn để tìm hiểu về tình hình gia đình của người Dao
Quần Trắng cùng với gia đình các dân tộc khác trong xã. Qua đó, xem xét các
đánh giá của họ về những vấn đề: chính sách, đặc điểm biến đổi gia đình hiện
nay so với truyền thống.

Để thu thập thông tin định lượng, chúng tôi tiến hành điều tra xã hội học,
25

sử dụng một bảng hỏi chi tiết về gia đình và biến đổi gia đình đối với các chủ hộ
và thành viên, mỗi hộ một lần tại 50 hộ gia đình khác nhau ở 3 điểm nghiên cứu
sâu. Các thông tin thu được liên quan đến các vấn đề lịch sử kinh tế hộ gia đình,
dân số, kinh tế xã hội, giáo dục… Từ đó, kết hợp với các số liệu thống kê và báo
cáo điều tra từ các nguồn có sẵn, chúng tôi phân tích các số liệu để tìm ra xu
hướng, đặc điểm, bản chất của vấn đề thể hiện dưới dạng các con số và biểu đồ.
Ngoài ra, phương pháp kế thừa được luận văn sử dụng như trong phần lịch
sử vấn đề đã trình bày, có một số công trình đề cập đến nội dung hay một phần
nội dung của vấn đề chúng tôi nghiên cứu. Qua những nguồn tư liệu này, chúng
tôi kế thừa được một số kết quả đồng thời cũng đem lại cho chúng tôi một cái
nhìn mang tính khái quát.
Tiểu kết chƣơng 1
Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam là mảng đề tài rộng lớn và có sức
hấp dẫn nên đã thu hút được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Biến đổi
gia đình không chỉ là đối tượng quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà làm
chính sách mà còn của toàn xã hội. Tuy nhiên, các nghiên cứu về biến đổi gia
đình ở Việt Nam chủ yếu tập chung vào người Việt (Kinh) ở khu vực đồng bằng
và đô thị. Có rất ít các nghiên cứu về biến đổi gia đình các dân tộc thiểu số
đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu về biến đổi gia đình của người
Dao Quần Trắng.
Khi tiến hành nghiên cứu biến đổi gia đình người Dao Quần Trắng, chúng
tôi đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nhìn nhận,
phân tích đánh giá các vấn đề một cách khoa học và khách quan. Đây cũng là
phương pháp luận để vận dụng các phương pháp cụ thể trong quá trình nghiên
cứu, như chọn mẫu nghiên cứu, thu thập thông tin, số liệu trong hệ thống
phương pháp nghiên cứu chuyên ngành dân tộc học/nhân học.
Luận văn cũng lựa chọn tiếp cận của lý thuyết chức năng, lý thuyết tiếp

biến văn hóa và tiếp cận từ góc độ lịch sử - so sánh. Tuy nhiên, chúng tôi cũng
chỉ chắt lọc một số luận điểm của từng lý thuyết để vận dụng cho phù hợp vào
từng khía cạnh nghiên cứu.
Ngoài ra, chúng tôi cũng đề cập đến một số khái niệm cơ bản có liên quan
đến gia đình và biến đổi gia đình để thống nhất về mặt thuật ngữ đã được sử
dụng trong luận văn này.

×