Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Giải pháp hạn chế tính mùa vụ của các doanh nghiệp lữ hành trên địa bàn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




DƯƠNG THỊ THU HÀ



GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÍNH MÙA VỤ CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP LỮ HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI


LUẬN VĂN THẠC SĨ




Người hướng dẫn: TS. Trần Hữu Nam




HÀ NỘI - 2008


1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
Chương 1. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH DOANH LỮ HÀNH VÀ TÍNH


THỜI VỤ TRONG KINH DOANH LỮ HÀNH 8
1.1. Kinh doanh lữ hành 8
1.1.1. Lữ hành và kinh doanh lữ hành 8
1.1.2. Doanh nghiệp lữ hành và các loại hình doanh nghiệp lữ hành . 16
1.2. Tính thời vụ trong kinh doanh lữ hành 21
1.2.1. Thời vụ và đặc điểm của thời vụ 21
1.2.2. Tính thời vụ trong hoạt động lữ hành 23
1.2.3. Các nhân tố tác động đến tính thời vụ trong hoạt động lữ hành 29
1.3. Các giải pháp hạn chế tính thời vụ trong hoạt động lữ hành 35
1.3.1. Thoả mãn nhu cầu đa dạng của du khách 35
1.3.2 Kéo dài thời vụ du lịch 36
1.3.3. Tạo điều kiện cho thời vụ thứ hai 36
Chương 2. THỰC TRẠNG THỜI VỤ DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 38
2.1. Điều kiện phát triển các loại hình du lịch trên địa bàn Hà Nội 38
2.1.1. Các điều kiện tự nhiên 38
2.1.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn 39
2.1.3. Điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội để phát triển du lịch
Hà Nội 42
2.1.4. Các cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch của Hà Nội 44
2.1.5. Chính sách phát triển du lịch của Hà Nội 52
2.2. Đánh giá hoạt động du lịch tại các doanh nghiệp lữ hành 53
2.2.1. Giới thiệu các doanh nghiệp khảo sát 53
2.2.2. Thời vụ trong hoạt động du lịch tại các doanh nghiệp lữ hành . 56
2.2.3. Những tồn tại cần giải quyết và nguyên nhân 71
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÍNH THỜI VỤ TRONG KINH
DOANH LỮ HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 75
3.1. Dự báo về triển vọng phát triển của du lịch Việt Nam và Hà Nội . 75


2

3.1.1. Một vài dự báo về lữ hành thế giới trong tương lai 75
3.1.2. Một vài dự báo về lữ hành Việt Nam và Hà Nội 77
3.2 . Quan điểm phát triển du lịch và phương hướng hạn chế tính thời
vụ trong kinh doanh lữ hành trên địa bàn Hà Nội 78
3.2.1. Quan điểm chung 78
3.2.2. Phương hướng và mục tiêu cụ thể 79
3.3. Đề xuất các giải pháp và kiến nghị 81
3.3.1. Các giải pháp 81
3.3.2. Kiến nghị 95
KẾT LUẬN 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104


















1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính thời vụ là một quy luật phổ biến ở hầu khắp các lĩnh vực của đời
sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia trên thế giới. Dù ở bất cứ lĩnh vực nào: từ
nông nghiệp, ngư nghiệp, khai thác đến chế biến, sản xuất hay kinh doanh
dịch vụ… cũng không nằm ngoài sự chi phối của quy luật này. Vì vậy trong
mọi hoàn cảnh con người luôn tìm cách để hạn chế tối đa những tác động bất
lợi và tận dụng tối đa những tác động có lợi của quy luật này đến quá trình
hoạt động sản xuất hay kinh doanh của mình.
Hoạt động du lịch cũng không nằm ngoài sự tác động của quy luật tính thời
vụ. Quy luật này tác động lên cả 3 lĩnh vực của hoạt động du lịch là lữ hành,
lưu trú và vui chơi giả trí. Tính thời vụ tạo nên tính mất cân bằng về cung cầu
trên thị trường du lịch, ảnh hưởng đến chất lượng của từng sản phẩm du lịch
và uy tín, hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp du lịch. Do vậy, việc
tìm mọi cách để kéo dài thời vụ du lịch nhằm duy trì hiệu quả kinh doanh và
các hoạt động khác của doanh nghiệp là việc làm thường xuyên, được ưu tiên
của mọi doanh nghiệp du lịch nói chung và doanh nghiệp lữ hành nói riêng.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và du lịch của cả
nước, có rất nhiều lợi thế để phát triển du lịch. Hà Nội là địa phương có nhiều
tài nguyên du lịch văn hoá và nhân văn hấp dẫn, đa dạng và độc đáo. Nơi đây
cũng có hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch vào loại tốt nhất cả
nước, là nơi tập trung các cơ quan của Đảng và nhà nước, các đại sứ quán, các
tổ chức Quốc tế, các văn phòng đại diện nước ngoài Bên cạnh đó, sự kiện
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới -
WTO, thành viên không thường trực của Liên Hiệp Quốc đã đánh dấu bước
chuyển trong quan hệ đối ngoại cũng như trong tiến trình hội nhập Quốc tế,
tạo hậu thuẫn mạnh mẽ cho việc phát triển ngành du lịch Việt Nam nói chung
và du lịch Hà Nội nói riêng. Việc Hà Nội được bình chọn là 1 trong 5 thành
phố hoà bình trên Thế giới; tổ chức thành công các sự kiện mang tầm vóc



2
Quốc tế như Sea Games 22, ASEM 5, APEC14 đã tạo ra vị thế cho du lịch
thủ đô và chứng tỏ tiềm năng phát triển loại hình du lịch sự kiện, du lịch
MICE, du lịch văn hoá vô cùng to lớn của Hà Nội. Bởi vậy, Hà Nội được xem
như là điểm đến lý tưởng cho khách du lịch Quốc tế và khách nội địa.
Tuy nhiên, có một thực trạng trái ngược là mặc dù Hà Nội được nhìn nhận
như là một điểm đến lý tưởng nhưng hoạt động du lịch ở đây vẫn phải chịu
ảnh hưởng rất lớn, bị động trước những bất lợi do tính thời vụ du lịch gây ra.
Đối với từng lĩnh vực kinh doanh lữ hành (Nội địa đến, inbound), các cơ sở
cung cấp dịch vụ du lịch, thị trường khách (khách công vụ, khách thương gia,
khách gia đình…). Vì vậy, việc tìm ra những giải pháp cụ thể để khắc phục
những bất lợi do tính thời vụ gây ra là việc làm có ý nghĩa sống còn cho sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp du lịch, quyết định đến hiệu quả kinh
doanh, đồng thời tạo dựng được vị thế cho các doanh nghiệp lữ hành thủ đô.
Vậy đâu là những yếu tố tạo ra tính thời vụ du lịch trên địa bàn Hà Nội?
Nó tác động đến hoạt động kinh doanh lữ hành ra sao? Các doanh nghiệp lữ
hành Hà Nội phải chủ động làm gì để đón bắt thời cơ ở thời kỳ cao điểm cũng
như chủ động đối mặt với những khó khăn thời kỳ thấp điểm? Phải làm gì để
duy trì và ổn định hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trước tác động
của quy luật thời vụ? Để tìm lời giải đáp cho vấn đề này tác giả đã mạnh dạn
thực hiện đề tài: “Giải pháp hạn chế tính thời vụ của các doanh nghiệp lữ
hành trên địa bàn Hà Nội’ làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu tính thời vụ trong hoạt động du lịch, luận văn chỉ ra
những nhân tố quyết định tính thời vụ trong du lịch nói chung và du lịch Hà
Nội nói riêng; đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế tính thời vụ trong hoạt
động du lịch tại thành phố Hà Nội.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá một số lý luận cơ bản về hoạt động lữ hành và xây dựng
một số luận cứ khoa học về thời vụ du lịch.


3
- Phân tích thực trạng thời vụ du lịch Hà Nội thông qua các nhân tố tác
động tới cung và cầu du lịch tại 8 công ty lữ hành và đưa ra các nguyên nhân
chính quyết định thực trạng trên.
- Đề xuất một số giải pháp hạn chế tính thời vụ trong hoạt động lữ hành
trên địa bàn Hà Nội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về tính thời vụ trong kinh
doanh lữ hành trong mối quan hệ với thực tiễn kinh doanh lữ hành tại 8 công
ty du lịch trên địa bàn Hà Nội, trong đó tập trung nghiên cứu:
- Các nhân tố quyết định đến tính thời vụ du lịch
- Hướng tác động của từng nhân tố lên cung, lên cầu hoặc cả cung và cầu du lịch
- Xác định mức độ tác động của từng nhân tố
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn xem xét tính thời du lịch
trên địa bàn Hà Nội, nhìn nhận Hà Nội ở góc độ điểm đến. Quá trình khảo sát,
phân tích và đánh giá tính thời vụ du lịch Hà Nội được thực hiện thông qua
hoạt động của 8 doanh nghiệp lữ hành tiêu biểu trên địa bàn Hà Nội và chỉ
nhìn nhận ở góc độ doanh nghiệp lữ hành nhận khách với hoạt động thu hút
khách quốc tế và nội địa đến Hà Nội.
8 công ty lữ hành trên địa bàn Hà Nội đã khảo sát:
+ Công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội - Vietnamtourism
+ Công ty du lịch Hà Nội – Hanoitourist
+ Công ty TNHH một thành viên du lịch dịch vụ Hà Nội – Hà Nội Toserco

+ Công ty Điều hành Hướng dẫn Du Lịch Việt Nam – Vinatour
+ Công ty TNHH du lịch Việt Ý
+ Công ty du lịch dịch vụ Tây Hồ
+ Công ty liên doanh Hồ Gươm – Diethelm
+ Công ty lữ hành Saigontourist chi nhánh Hà Nội
Thời gian nghiên cứu là từ năm 2003 đến 2006


4
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp thống kê, phân tích hệ thống
- Phương pháp tiếp cận thực tiễn
- Phương pháp so sánh và mô hình hoá…
4. Dự kiến những đóng góp của luận văn
- Về mặt khoa học: luận văn hệ thống hoá và bổ sung về mặt lý luận và chỉ
ra những nguyên nhân của tính thời vụ trong hoạt động lữ hành.
- Về mặt thực tiễn: Đề xuất các giải pháp hạn chế tính thời vụ đối trong
hoạt động của các doanh nhiệp lữ hành Hà Nội.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1. Những lý luận cơ bản về kinh doanh lữ hành và tính thời vụ
trong kinh doanh lữ hành
Chương 2. Thực trạng thời vụ du lịch trên địa bàn Hà Nội
Chương 3. Một số giải pháp hạn chế tính thời vụ trong kinh doanh lữ
hành trên địa bàn Hà Nội






5
Chƣơng 1. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH DOANH LỮ
HÀNH VÀ TÍNH THỜI VỤ TRONG KINH DOANH LỮ HÀNH
1.1. Kinh doanh lữ hành
1.1.1. Lữ hành và kinh doanh lữ hành
1.1.1.1 Lữ hành
Trong cuốn “Giáo trình kinh doanh lữ hành” (PGS-TS Nguyễn Văn
Đính), đề cập đến thuật ngữ lữ hành với hai cách hiểu sau:
Cách đề cập thứ nhất: Hiểu theo nghĩa rộng thì lữ hành bao gồm tất cả
những hoạt động di chuyển của con người, cũng như những hoạt động liên
quan đến sự di chuyển đó. Hoạt động du lịch có bao gồm yếu tố lữ hành,
nhưng không phải các tất cả các hoạt động lữ hành là du lịch…Người ta có
thể sử dụng thuật ngữ “Lữ hành du lịch” để ám chỉ các hoạt động đi lại và
các hoạt động khác có liên quan tới chuyến đi với mục đích du lịch.
Cách đề cập thứ hai: Đề cập lữ hành ở một phạm vi hẹp hơn nhiều. Để
phân biệt hoạt động kinh doanh du lịch trọn gói với các hoạt động kinh doanh
du lịch khác như khách sạn, vui chơi giải trí, người ta giới hạn hoạt động lữ
hành chỉ bao gồm những hoạt động tổ chức các chương trình du lịch trọn gói.
Theo luật du lịch của Việt Nam năm 2005 thì: “Lữ hành là việc xây
dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch
cho khách du lịch”.
Từ các khái niệm trên có thể rút ra các nhận xét sau:
+ Hoạt động lữ hành có sự di chuyển và lưu trú qua đêm.
+ Hình thành một lĩnh vực kinh doanh dịch vụ nhằm thoả mãn mọi nhu
cầu của con người trong quá trình di chuyển và lưu trú: có thể là dịch vụ trọn
gói nhưng cũng có thể là dịch vụ từng phần nhằm đáp ứng các yêu cầu ngày
càng phong phú của khách hàng. Trong tương lai, các dịch vụ từng phần,

mang tính mở sẽ chiếm ưu thế trong sự lựa chọn của khách hàng. Bởi sự phát
triển như vũ bão của khoa học công nghệ. Thế giới bị thu hẹp do sự phát triển
của công nghệ thông tin; tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng dễ dàng lựa
chọn sản phẩm. Vì thế các nhu cầu sẽ đa dang và phong phú hơn.


6
1.1.1.2 Kinh doanh lữ hành
a. Khái niệm:
Theo PGS – TS. Nguyễn Văn Đính (Giáo trình quản trị kinh doanh lữ
hành – NXb Thống kê, trang 15): “Kinh doanh lữ hành(Tour Operator
business) là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các
chương trình du lịch trọn gói hay từng phần, quảng cáo và bán các chương
trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc văn phòng đại diện,
tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn du lịch. Các doanh nghiệp lữ
hành đương nhiên được phép tổ chức mạng lưới đại lý lữ hành”.
Kinh doanh lữ hành hiểu theo nghĩa rộng là tổ chức các hoạt động
nhằm cung cấp các dịch vụ được sắp đặt trước nhằm thoả mãn đúng các nhu
cầu của con người trong sự di chuyển để thu lợi nhuận. Kinh doanh lữ hành
được thể hiện bởi các doanh nghiệp lữ hành
Kinh doanh lữ hành hiểu theo nghĩa hẹp là kinh doanh chương trình du
lịch. Trong các văn bản quy phạm pháp luật quản lý nhà nước về du lịch của
Việt Nam kinh doanh lữ hành được định nghĩa như sau: “Kinh doanh lữ hành
là việc xây dựng, bán, tổ chức thực hiện các chương trình du lịch nhằm mục
đích sinh lợi”. Định nghĩa này xác định sản phẩm của kinh doanh lữ hành là
chương trình du lịch. Kinh doanh lữ hành tức là kinh doanh chương trình du
lịch. Định nghĩa này làm cho nội dung của hoạt động kinh doanh lữ hành
nghèo nàn đi, không phản ánh đầy đủ bản chất của nó.
b. Thị trường và cung – cầu trong kinh doanh lữ hành
* Thị trường

Chúng ta đều biết, “Thị trường là một phạm trù của nền sản xuất và lưu
thông hàng hoá, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua và người
bán đã được thể chế hoá”. Như vậy, thị trường chứa đựng tổng cung, tổng
cầu, mối quan hệ cung – cầu, mức giá và những yếu tố không gian thời gian,
xã hội đối với một loại sản phẩm nào đó của nền sản xuất hàng hoá.
Thị trường du lịch được hiểu là sự trao đổi mua bán sản phẩm và hàng hoá
du lịch. Hoạt động du lịch là một bộ phận của đời sống xã hội. Do vậy, thị


7
trường du lịch là một bộ phận không thể tách rời của thị trường hàng hoá và
dịch vụ nói chung.
Vậy, thị trường du lịch là một phạm trù phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi
mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa khách du lịch và các nhà cung cấp hàng
hoá và dịch vụ đã được thể chế hoá. Thị trường du lịch là bộ phận đặc biệt của
thị trường hàng hoá và dịch vụ, trong đó khách du lịch có vai trò quyết định
tới tính chất và phạm vi của thị trường.
Thị trường du lịch chứa đựng những mối quan hệ sau:
- Chứa đựng tổng cung (các nhà cung cấp) và tổng cầu (khách du lịch) về
du lịch. Các loại hình cung du lịch bao gồm: Cung về dịch vụ du lịch (vận
chuyển, lưu trú, ăn uống, dịch vụ bổ sung, dịch vụ đặc trưng), tài nguyên du
lịch (thiên nhiên và nhân văn), cung về hàng hoá (hàng lưu niệm và hàng có
giá trị kinh tế cao). Tương ứng với các loại hình về cung du lịch sẽ có các loại
hình về cầu du lịch.
- Bao gồm toàn bộ những yếu tố có liên quan tới quan hệ trao đổi, mua
bán, cung – cầu được thể chế hoá
Thị trường khách của kinh doanh lữ hành là người mua sản phẩm của
doanh nghiệp lữ hành. Người mua để tiêu dùng, người mua để bán. Người
mua là cá nhân, gia đình hay nhân danh tổ chức, thậm chí chính là các doanh
nghiệp lữ hành.

* Căn cứ vào nguồn khách của kinh doanh lữ hành người ta chia như sau:
- Chủ thể mua với mục đích tiêu dùng gồm có khách du lịch quốc tế và
khách du lịch nội địa. Trong đó, Luật du lịch Việt Nam định nghĩa cụ thể như sau:
+ “Khách du lich Quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước
ngoài cư trú tại Việt Nam ra nứơc ngoài du lịch”. Theo cách định nghĩa này,
khách du lịch Quốc tế sẽ bao gồm: khách du lịch từ nước khác đến Việt Nam
(inbound), khách du lịch từ là người Việt Nam hoặc sinh sống tại Việt Nam đi
du lịch các nước khác (outbound).


8
+ “Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài
cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”. Như vậy,
khách du lịch nội địa sẽ bao gồm: khách từ các địa phương khác đến du lịch
tại một địa bàn du lịch (ví dụ như khách từ các địa phương khác đến du lịch
Hà Nội ) và khách từ một địa phương đi du lịch các nơi khác trong phạm vi
lãnh thổ Việt Nam (Ví dụ khách từ Hà Nội đi các điểm du lịch trong cả nước).
- Chủ thể mua với mục đích kinh doanh bao gồm: đại lý lữ hành là
công ty lữ hành nước ngoài và đại lý lữ hành là công ty lữ hành trong nước.
* Căn cứ vào động cơ của chuyến đi người ta chia như sau: khách du lịch
thuần tuý, khách công vụ, khách du lịch nghiên cứu.
* Căn cứ vào mô hình tổ chức chuyến đi người ta chia làm 3 loại: khách theo
đoàn, khách lẻ và khách từ các hãng lữ hành gửi khách.
Thị trường khách của kinh doanh lữ hành là người mua sản phẩm của
doanh nghiệp lữ hành. Người mua để tiêu dùng, người mua để bán. Người
mua là cá nhân, gia đình hay nhân danh tổ chức, thậm chí chính là các doanh
nghiệp lữ hành.
* Căn cứ vào nguồn khách của kinh doanh lữ hành người ta chia như
sau:

- Chủ thể mua với mục đích tiêu dùng gồm có khách du lịch quốc tế và
khách du lịch nội địa.
- Chủ thể mua với mục đích kinh doanh bao gồm: đại lý lữ hành là
công ty lữ hành nước ngoài và đại lý lữ hành là công ty lữ hành trong nước.
* Căn cứ vào động cơ của chuyến đi người ta chia như sau: khách du
lịch thuần tuý, khách công vụ, khách du lịch nghiên cứu.
* Căn cứ vào mô hình tổ chức chuyến đi người ta chia làm 3 loại:
khách theo đoàn, khách lẻ và khách từ các hãng lữ hành gửi khách.
* Cầu và một số nhân tố tác động lên cầu du lịch
Cầu du lịch là một bộ phận chủ yếu có tính chất quyết định tới thị
trường du lịch, là nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ du lịch của khách du lịch.
Phần lớn nhu cầu về sản phẩm du lịch là các dịch vụ. Hệ thống các nhu cầu về


9
dịch vụ của khách du lịch tương đối da dạng, phong phú và có thể phân chia
thành 5 nhóm cơ bản sau đây:
- Cầu về dịch vụ vận chuyển
- Cầu về dịch vụ lưu trú, ăn uống, nghỉ ngơi tại các khách sạn, khu nghỉ mát
- Cầu về dịch vụ thăm quan du lịch
- Cầu về dịch vụ mua sắm hàng hoá
- Cầu về các dịch vụ đặc biệt như hội nghị, hội thảo, chữa bệnh…
Một số nhân tố tác động đến cầu du lịch bao gồm:
- Những nhân tố thuộc môi trường vĩ mô: tình hình thế giới, quan hệ quốc
tế, điều kiện chính trị, kinh tế, nhân khẩu, địa lý, văn hóa xã hội, mức giá so
sánh, khả năng di chuyển, chính sách khuyến khích phát triển du lịch của
chính phủ, truyền thông…
- Những nhân tố nội tại của khách du lịch: động cơ đi du lịch, phong tục
tập quán, thói quen, tâm sinh lý, trình độ văn hoá, độ tuổi, thu nhập…
* Cung và một số nhân tố tác động tới cung du lịch

Cung du lịch được tạo bởi một số yếu tố sau:
- Tài nguyên du lịch
- Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
- Những dịch vụ phục vụ khách du lịch
- Hàng hoá cung cấp cho khách du lịch
- Cơ chế chính sách của nhà nước
Tài nguyên du lịch là “chất liệu” xây dựng các chương trình du lịch. Kinh
doanh vận chuyển có vai trò cung cấp các dịch vụ vận chuyển khách du lịch
từ nơi ở thường xuyên tới những nơi có tài nguyên du lịch cũng như trong
suốt thời gian du lịch. Kinh doanh lưu trú cung cấp các dịch vụ ngủ, nghỉ, ăn
uống cho khách du lịch trong thời gian họ đi du lịch. Cơ quan quản lý nhà
nước về du lịch thực hiện chức năng quản lý với các doanh nghiệp, đóng vai
trò quan trọng trong việc khuyếch trương hình ảnh của một quốc gia và một
vùng. Các doanh nghiệp lữ hành là các nhà tổ chức du lịch, hay là những nhà
cung cấp hàng hoá và dịch vụ du lịch.


10
Một số nhân tố tác động đến cung du lịch:
- Giá của hàng hoá và dịch vụ từ các nhà cung cấp dịch vụ.
- Tài nguyên du lịch
- Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội
- Chính sách của chính phủ
- Khoa học kỹ thuật
- Cạnh tranh
- Nhu cầu du lịch
Tuy nhiên, nhiều trường hợp, cung du lịch chủ động tạo ra nhu cầu. Mối
quan hệ cung - cầu là mối quan hệ tương tác, qua lại lẫn nhau.
c. Phân loại kinh doanh lữ hành
- Căn cứ vào tính chất hoạt động để tạo ra sản phẩm:

+ Kinh doanh đại lý lữ hành hoạt động chủ yếu là làm dịch vụ trung
gian tiêu thụ và bán sản phẩm một cách độc lập, riêng lẻ cho các nhà sản xuất
du lịch để hưởng hoa hồng theo mức phần trăm của giá bán, không làm gia
tăng giá trị của sản phẩm trong quá trình chuyển giao từ lĩnh vực sản xuất
sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch. Loại hình kinh doanh này thực hiện nhiệm vụ
là “chuyên gia cho thuê”, không phải chịu rủi ro. Các yếu tố quan trọng bậc
nhất đối với hoạt động kinh doanh này là vị trí, hệ thống đăng ký và kỹ năng
chuyên môn, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng bán hàng của đội ngũ nhân viên.
Các doanh nghiệp thuần tuý thực hiện loại hình này được gọi là các đại lý lữ
hành bán lẻ.
+ Kinh doanh chương trình du lịch hoạt động theo phương thức bán
buôn, thực hiện “sản xuất” làm gia tăng giá trị của các sản phẩm đơn lẻ của
các nhà cung cấp để bán cho khách. Với hoạt động kinh doanh này chủ thể
của nó phải gánh chịu rủi ro, san sẻ rủi ro trong quan hệ với các nhà cung cấp
khác. Các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh chương trình du lịch được gọi
là các công ty du lịch lữ hành. Cơ sở của hoạt động này là liên kết các sản
phẩm mang tính đơn lẻ của các nhà cung cấp độc lập thành sản phẩm mang
tính trọn vẹn bán với giá gộp cho khách, đồng thời làm gia tăng giá trị sử


11
dụng của sản phẩm cho người tiêu dùng thông qua sức lao động của các
chuyên gia marketing, điều hành và hướng dẫn.
+ Kinh doanh lữ hành tổng hợp bao gồm tất cả các dịch vụ du lịch có
nghĩa là đồng thời vừa sản xuất trực tiếp từng loại dịch vụ, vừa liên kết các
dịch vụ thành sản phẩm mang tính nguyên chiếc, vừa thực hiện bán buôn và
bán lẻ, vừa thực hiện chương trình du lịch đã bán. Đây là kết quả trong quá
trình phát triển và thực hiện liên kết dọc, liên kết ngang của các chủ thể kinh
doanh du lịch. Các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh lữ hành tổng hợp được
gọi là các công ty du lịch.

- Căn cứ vào phương thức và phạm vi hoạt động:
+ Kinh doanh lữ hành gửi khách bao gồm cả gửi khách quốc tế, gửi
khách nội địa, là loại kinh doanh mà hoạt động chính của nó là tổ chức, thu
hút khách du lịch một cách trực tiếp để đưa khách đến nơi du lịch. Loại kinh
doanh lữ hành này thích hợp với những nơi có nhu cầu du lịch lớn. Các doanh
nghiệp thực hiện kinh doanh lữ hành gửi khách được gọi là công ty gửi khách.
+ Kinh doanh lữ hành nhận khách bao gồm cả nhận khách quốc tế và
nội địa, là loại hình kinh doanh mà hoạt động chính của nó là xây dựng các
chương trình du lịch, quan hệ với các công ty lữ hành gửi khách để bán các
chương trình du lịch và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho
khách thông qua các công ty lữ hành gửi khách. Loại kinh doanh này thích
hợp với những nơi có tài nguyên du lịch nổi tiếng. Các doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành loại này được gọi là các công ty nhận khách.
+ Kinh doanh lữ hành kết hợp có nghĩa là sự kết hợp giữa kinh doanh lữ
hành gửi khách và kinh doanh lữ hành nhận khách. Loại kinh doanh này thích
hợp với doanh nghiệp có quy mô lớn, có đủ nguồn lực để thực hiện các hoạt
động gửi khách và nhận khách. Các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh lữ
hành kết hợp được gọi là công ty du lịch tổng hợp.
1.1.2. Doanh nghiệp lữ hành và các loại hình doanh nghiệp lữ hành
1.1.2.1 Doanh nghiệp lữ hành
a. Định nghĩa


12
Doanh nghiệp lữ hành là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, kinh
doanh chủ yếu trong lĩnh vực tổ chức, xây dựng, bán và thực hiện các chương
trình du lịch trọn gói cho khách du lịch. Ngoài ra, công ty lữ hành còn có thể
tiến hành các hoạt động trung gian, bán sản phẩm của các nhà cung cấp du
lịch hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh tổng hợp khác, đảm bảo phục
vụ các nhu cầu du lịch của khách từ khâu đầu đến khâu cuối cùng.

Tuỳ vào quy mô, phạm vi hoạt động và tính chất của sản phẩm hình
thức tổ chức, tư cách pháp nhân mà doanh nghiệp kinh doanh lữ hành có các
tên gọi khác nhau: Hãng lữ hành, công ty lữ hành, đại lý lữ hành, công ty lữ
hành quốc tế, công ty lữ hành nội địa.
b. Vai trò của doanh nghiệp lữ hành
- Vai trò cung cấp thông tin: Thông qua việc phát hành ấn phẩm, quảng
cáo các tập gấp, sách, báo, internet, thư, tạp chí điện tử…các công ty lữ hành
đã cung cấp cho khách du lịch hầu hết các thông tin mà họ cần tìm kiếm cho
chương trình du lịch sắp tới. Hình thức trình bày đẹp, hấp dẫn, có khả năng
cuốn hút người đọc và tạo ra những ham muốn đi du lịch.
- Vai trò tổ chức thực hiện: Thông qua việc xây dựng và tổ chức các
chương trình du lịch, các công ty lữ hành góp phần làm cho hoạt động đi du
lịch của khách được tiến hành một cách khoa học và hiệu quả hơn, đáp ứng
nhu cầu của du khách.
- Vai trò hướng dẫn: Là một trong những mục tiêu dài hạn của doanh
nghiệp lữ hành cần tập trung thực hiện. Không chỉ dừng lại ở việc thoả mãn
nhu cầu của thị trường, về lâu dài các doanh nghiệp du lịch vẫn phải dẫn dắt
và định hướng thị trường du lịch thông qua những sản phẩm mới tác động tới
nhu cầu và tạo ra nhu cầu.
c. Hệ thống sản phẩm của kinh doanh lữ hành
Kinh doanh lữ hành có nhiều loại dịch vụ hàng hoá khác nhau nhằm
đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách du lịch, bao gồm:
- Dịch vụ trung gian (các dịch vụ đơn lẻ)


13
Dịch vụ trung gian là loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh lữ hành
làm trung gian giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm cho các nhà cung cấp sản phẩm
du lịch để hưởng hoa hồng. Hầu hết các sản phẩm này được tiêu thụ một cách
đơn lẻ bao gồm:

+ Dịch vụ vận chuyển hàng không (đăng ký đặt chỗ, bán vé máy bay)
+ Dịch vụ vận chuyển đường sắt (đăng ký đặt chỗ, bán vé tàu hoả)
+ Dịch vụ vận chuyển tàu thuỷ (đăng ký đặt chỗ, bán vé tàu thuỷ)
+ Dịch vụ vận chuyển ô tô (đăng ký đặt chỗ bán vé, cho thuê ô tô)
+ Dịch vụ vận chuyển bằng các phương tiện khác (đăng ký đặt chỗ, bán
vé, cho thuê)
+ Dịch vụ lưu trú và ăn uống (đăng ký đặt chỗ các dịch vụ trong khách
sạn, nhà hàng)
+ Dịch vụ tiêu thụ chương trình du lịch (đăng ký đặt chỗ, bán vé
chuyến du lịch)
+ Dịch vụ bảo hiểm (bán vé bảo hiểm)
+ Dịch vụ tư vấn thiết kế lộ trình
+ Dịch vụ bán vé xem biểu diễn nghệ thuật, tham quan, thi đấu thể thao
và các sự kiện khác.
Các nhà cung cấp sản phẩm du lịch tiêu thụ sản phẩm chủ yếu thông
qua các hãng lữ hành, chỉ có tỷ lệ rất nhỏ là bán trực tiếp cho khách. Do nhu
cầu ở cách xa cung du lịch và tính chất tổng hợp đồng bộ của cầu phần lớn
các sản phẩm du lịch được bán một cách gián tiếp thông qua các đại lý lữ
hành.
- Chƣơng trình du lịch:
Chương trình du lịch là sản phẩm chủ yếu và đặt trưng của các doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành. Có khá nhiều định nghĩa về chương trình du lịch.
Trong đó có thể nêu ra các định nghĩa sau đây:
Trong cuốn “Phát triển nghề lữ hành”, tác giả Gagnon và Ociepka định
nghĩa: “Chương trình du lịch là một sản phẩm lữ hành được xác định mức
giá trước, khách có thể mua riêng lẻ hoặc mua theo nhóm và có thể tiêu dùng


14
riêng lẻ và tiêu dùng chung với nhau. Một chương trình du lịch có thể bao

gồm và theo mức độ chất lượng khác nhau của bất kỳ hoặc tất cả các dịch vụ
vận chuyển, hàng không, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, nơi ăn ở, thăm
quan và vui chơi giải trí”.
Trong các văn bản pháp luật về du lịch ở Việt Nam định nghĩa:
“Chương trình du lịch là chương trình được định trước của chuyến đi du lịch
do các doanh nghiệp lữ hành tổ chức, trong đó xác định thời gian chuyến đi,
nơi đến du lịch các điểm dừng chân, dịch vụ lưư trú, vận chuyển, các dịch vụ
khác và giá bán chương trình”.
Từ các định nghĩa này có thể rút ra chương trình du lịch có các đặc
trưng sau:
+ Chương trình du lịch là tài liệu hướng dẫn việc thực hiện các dịch vụ
nhằm thỏa mãn nhu cầu khi đi du lịch của con người theo một thời gian và
không gian đã được xác định trước.
+ Giá cả đưa ra phải là giá tổng hợp của các dịch vụ có trong chương
trình trước khi chuyến đi được thực hiện và phải chỉ rõ bao gồm hoặc không
bao gồm các dịch vụ nào. Chương trình du lịch phải được bán trước.
+ Các thành phần cấu thành một chương trình du lịch trọn gói thường
bao gồm: dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu tú, dịch vụ ăn uống, các điểm đến,
dịch vụ thăm quan giải trí, mua sắm hàng hoá lưu niệm, công tác quản lý và
hướng dẫn…
Như vậy, chương trình du lịch là một sản phẩm dịch vụ hoàn chỉnh
được tạo nên từ các dịch vụ đơn lẻ của các nhà cung cấp khác nhau.
Các loại chương trình du lịch thường được phân loại như sau:
+ Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh thường bao gồm: chương trình du
lịch chủ động, chương trình du lịch bị động, chương trình du lịch kết hợp.
+ Căn cứ vào mục đích của chuyến du lịch và loại hình du lịch bao
gồm: Chương trình du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, chữa bệnh; chương trình du
lịch theo chuyên đề (văn hoá, lịch sử, phong tục tập quán), chương trình du
lịch công vụ MICE (hội họp, khuyến thưởng, hội nghị, triển lãm); Chương



15
trình du lịch tàu thuỷ; Chương trình du lịch tôn giáo tín ngưỡng; chương trình
du lịch sinh thái; Chương trình du lịch thể thao, khám phá và mạo hiểm (leo
núi, lặn biển, đến các bản dân tộc); Chương trình du lịch thăm quan chiến
trường xưa, chương trình du lịch tổng hợp…
+ Căn cứ vào sự có mặt của hướng dẫn viên có chương trình du lịch có
hướng dẫn và chương trình du lịch không có hướng dẫn
+ Căn cứ vào số lượng khách có chương trình du lịch cho khách lẻ và
chương trình du lịch cho khách đoàn.
+ Căn cứ vào thời gian của chuyến đi có chương trình du lịch ngắn
ngày và dài ngày
+ Căn cứ vào phạm vi du lịch có các chương trình du lịch quốc tế và du
lịch nội địa.
- Các sản phẩm khác:
Theo xu hướng hiện nay, các doanh nghiệp lữ hành có thể kinh doanh
rất nhiều các dịch vụ bổ trợ khác: như dịch vụ Visa, hộ chiếu, dịch vụ tư vấn
thương mại, chương trình du học, tổ chức các sự kiện văn hoá, xã hội, kinh tế,
thể thao lớn. Các loại sản phẩm và dịch vụ khác nhằm phục vụ khách du lịch
trong một chu trình khép kín để có điều kiện chủ động kiểm soát và bảo đảm
được chất lượng của chương trình du lịch.
1.1.2.2 Các loại hình doanh nghiệp lữ hành
* Theo cách phân chia Quốc tế, người ta phân các doanh nghiệp lữ
hành thành 2 loại, đó là
- Doanh nghiệp lữ hành nhận khách: bao gồm cả lĩnh vực nội địa và inbound.
- Doanh nghiệp lữ hành gửi khách: bao gồm cả lĩnh vực nội địa và outbound.
* Theo cách phân chia Việt Nam thì các doanh nghiệp lữ hành bao gồm:
- Doanh nghiệp lữ hành nội địa (vừa có chức năng nhận khách và vừa
có chức năng gửi khách).
- Doanh nghiệp lữ hành quốc tế(vừa có chức năng nhận khách -

inbound, vừa có chức năng gửi khách - outbonud).
* Hệ thống các doanh nghiệp lữ hành gửi khách


16
Các doanh nghiệp lữ hành gửi khách có vai trò quyết định trong việc
thu hút khách đi du lịch tại các thị trường gửi khách. Sản phẩm du lịch trọn
gói được bán trên thị trường mang thương hiệu của các công ty lữ hành này.
Sản phẩm của các doanh nghiệp lữ hành gửi khách được bán qua cả hệ thống
đại lý. Do vậy, chúng phải thực sự tạo ra sức hấp dẫn đối với khách du lịch
trên phạm vi một vùng, một quốc gia, thậm chí cả quốc tế.
* Hệ thống các doanh nghiệp lữ hành nhận khách
Hệ thống các doanh nghiệp lữ hành nhận khách đóng vai trò quan trọng
trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện sản phẩm. Các doanh nghiệp lữ
hành nhận khách cung cấp thông tin, ý tưởng và những sản phẩm cho các
doanh nghiệp lữ hành gửi khách, tổ chức giám sát và thực hiện chương trình
du lịch.
1.2. Tính thời vụ trong kinh doanh lữ hành
1.2.1. Thời vụ và đặc điểm của thời vụ
1.2.1.1. Khái niệm
Theo cuốn “Đại từ điển tiếng Việt” thì : “Thời vụ là khoảng thời gian
thích hợp cho việc tiến hành một công việc gì đó”.
Dưới con mắt của các nhà kinh tế thì thời vụ được định nghĩa như sau:
“Thời vụ là những biến động lặp đi lặp lại hàng năm của cung và cầu xẩy ra
dưới tác động của một số nhân tố xác định”.
Từ các định nghĩa có thể thấy rằng:
- Thời vụ là khoảng thời gian thích hợp cho một công việc nào đó và
nó có tính chất lặp đi lặp lại hàng năm. Ví dụ như thời vụ gieo trồng, thời vụ
đánh bắt, thời vụ du lịch.
- Tính thời vụ được tạo ra bởi một số nhân tố xác định bao gồm: các

nhân tố tự nhiên, nhân tố kinh tế - xã hội, nhân tố tổ chức kỹ thuật, nhân tố
tâm lý, phong tục tập quán…Nhân tố tự nhiên bao gồm điều kiện khí hậu, thời
tiết. Nhân tố này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động du lịch. Ở những điều kiện
khí hậu không thuận lợi thì hoạt động du lịch không thể thực hiện được. Điều
kiện kinh tế - xã hội bao gồm mức thu nhập, điều kiện sống, thời gian nhàn


17
rỗi,…Nhân tố này góp phần không nhỏ tạo ra cung - cầu du lịch. Các nhân tố
tổ chức kỹ thuật bao gồm cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch (hệ thống
cơ sở lưu trú, ăn uống, phuơng tiện vận chuyển, đường xá, điện nước, phương
tiện liên lạc, giải trí…). Các nhân tố tâm lý, phong tục tập quán tác động đến
nhu cầu đi du lịch và việc lựa chọn điểm đến.
1.2.1.1. Đặc điểm của thời vụ
- Thời vụ là một quy luật có tính phổ biến ở tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Từ nông nghiệp, ngư nghiệp, khai thác, chế biến, sản xuất và
kinh doanh dù ở bất cứ lĩnh vực nào, sản xuất hay kinh doanh cũng không
nằm ngoài sự chi phối của quy luật này. Tính thời vụ tác động và gây ra
những hậu quả nhất định đối với từng lĩnh vực. Bởi thế, ở mỗi lĩnh vực cụ thể
người ta đã tìm mọi cách để hạn chế tối đa những tác động bất lợi của quy
luật này đến hoạt động sản xuất hay kinh doanh của mình.
- Mỗi một lĩnh vực, một ngành nghề lại có một thời vụ riêng. Ngành
nông nghiệp có thời vụ gieo trồng và gặt hái riêng, ngành khai thác khoáng
sản cũng có thời vụ riêng, ngành đánh bắt cũng có thời vụ riêng, mỗi lĩnh vực
sản xuất và kinh doanh cũng có thời vụ riêng. Do mỗi lĩnh vực, ngành nghề
lại có những đặc điểm riêng. Mức độ tác động của quy luật thời vụ cũng khác
nhau với từng lĩnh vực.
- Mỗi một lĩnh vực, một ngành nghề có thể có một hoặc nhiều thời vụ
trong năm. Điều này phụ thuộc vào đặc điểm của từng ngành, các yếu tố tạo
ra tính thời vụ của từng ngành mà người ta vận dụng để khai thác một hay

nhiều thời vụ trong một năm.
- Độ dài và cường độ của thời vụ là khác nhau với các lĩnh vực sản
xuất và kinh doanh. Tuỳ từng lĩnh vực mà có những thời vụ kéo dài một
tháng, có những thời vụ kéo dài tới vài tháng. Thời gian bắt đầu vào thời vụ ở
mỗi lĩnh vực cũng khác nhau với các lĩnh vực.
- Tính thời vụ được tạo ra bởi sự tác động của một số nhân tố xác định. Đó
có thể là các nhân tố của tự nhiên (như khí hậu, thời tiết, địa hình, nguồn tài
nguyên…), cũng có thể là các nhân của xã hội (phong tục tập quán, nhu cầu,


18
tâm lý…). Có những nhân tố thuộc về phía chủ quan của con người nhưng
cũng có những nhân tố mang tính khách quan.
1.2.2. Tính thời vụ trong hoạt động lữ hành
1.2.2.1. Khái niệm
Do nhiều tác động của các nhân tố khác nhau mà hoạt động du lịch
mang tính thời vụ. Việc nghiên cứu tính thời vụ trong du lịch tập trung chủ
yếu vào nguồn gốc, bản chất, đặc điểm của thời vụ du lịch và nhân tố quyết
định độ dài của thời vụ du lịch.
Các nhà khoa học và các tổ chức nghiên cứu du lịch đã nghiên cứu và
tìm cách làm giảm bớt những tác động bất lợi của một vài nhân tố và tăng
cường biện pháp hạn chế tính thời vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch. Tại
hội nghị quốc tế ở Rôma (Italia) về du lịch năm 1963 do Liên hợp quốc chủ
trì cũng thảo luận một số vấn đề về tính thời vụ trong du lịch.
Theo sáng kiến của các nước trong uỷ ban Châu Âu về du lịch thì các
nước này đã xây dựng và đưa vào thực nghiệm thành công 3 dự án về kéo dài
thời vụ du lịch tại 3 nước của vùng Địa Trung Hải là Malta, Rodos và Sip
(năm 1982).
Vậy, thế nào là tính thời vụ du lịch? Tính thời vụ du lịch là sự dao
động lặp đi lặp lại đối với cung và cầu của các dịch vụ và hàng hoá du lịch,

xẩy ra dưới tác động của các nhân tố xác định. Thời vụ du lịch là khoảng
thời gian của một chu kỳ kinh doanh, mà tại đó có sự tập trung cao nhất
của cung và cầu du lịch.
Trong cuốn “Từ điển kinh tế thị trường” đinh nghĩa: “Thời vụ du lịch
hay mùa du lịch là xu thế thay đổi có quy luật mang tính chất chu kỳ giữa
các mùa trong một năm mà những người du lịch đến một khu du lịch nào
đó thăm quan du lịch. Căn cứ vào cảnh sắc thiên nhiên đặc biệt của môi
trường, khí hậu tại các khu du lịch trong một thời gian nào đó trong năm
mà khách du lịch tới thăm khu du lịch rất đông đúc. Mùa này gọi là mùa
du lịch thịnh vượng. Trong những mùa khác, người đến thăm quan du lịch


19
rất ít thường được gọi là mùa vắng khách. Mùa du lịch phản ánh sự phân
bố đối với nhu cầu du lịch”.
Việc xác định thời vụ của từng loại hình du lịch được thực hiện dễ hơn,
bởi các dao động ở mỗi loại hình du lịch thường chỉ diễn ra một lần trong năm
như: du lịch nghỉ núi, du lịch nghỉ biển, du lịch chữa bệnh, du lịch MICE
Thời vụ du lịch của một trung tâm, một đất nước nào đó là tập hợp và
sự tác động tương hỗ giữa các dao động theo mùa của cung và cầu của các
loại hình du lịch được kinh doanh tại đó. Sự chênh lệch về thời gian giữa các
thể loại du lịch và cường độ biểu hiện của từng thể loại du lịch, chính là
nguyên nhân tạo ra đường cong thể hiện các dao động thời vụ của toàn bộ
hoạt động du lịch.
Thời gian của mùa du lịch chính là đại lượng thay đổi, chứ không phải
là bất biến. Nó phụ thuộc vào tính chất và xu hướng phát triển của hoạt động
du lịch. Có thể ví dụ và phân tích tình hình phát triển của tính thời vụ du lịch
tại Châu Âu. Vào thời kỳ cách đây 200 năm đối với giới quý tộc Châu Âu
mùa đông kéo dài ở Riviera là thời gian để giải trí, còn mùa hè ngắn ngủi là
mùa chữa bệnh. Sau đó, với sự quần chúng hoá trong du lịch thì các trung tâm

nghỉ núi mùa hè cũng phát triển mạnh và mùa du lịch chính chuyển sang mùa
hè. Muộn hơn (sau năm 1910) mùa hè ở Địa Trung Hải đã hình thành và củng
cố thành mùa du lịch chính. Địa Trung Hải đã nhanh chóng trở thành các đích
chính cho luồng khách du lịch và cũng là nơi đại diện lớn nhất cho sự phát
triển của du lịch mùa hè. Muộn hơn nữa, môn du lịch thể thao mùa Đông phát
triển và cùng với mùa hè, mùa đông lại được phục hồi thành mùa du lịch,
nhưng địa điểm du lịch đã chuyến đến vùng núi.
Sự bành trướng của du lịch từ sau chiến tranh Thế giới thứ II chẳng
những không hạn chế bớt, mà ngược lại còn làm tăng thêm cường độ của thời
vụ. Số khách du lịch là các tầng lớp giữa trong nhân dân tăng lên rõ rệt và họ
tập trung đến những khu nghỉ biển ở miền nam Châu Âu (thuộc địa phận của
Ý, Tây Ban Nha, Pháp). Nhiều thể loại du lịch mới được hình thành như du
lịch hội nghị, du lịch tìm hiểu theo tuyến…Những thể loại đó chủ yếu hoạt


20
động vào mùa xuân và mùa thu. Nhưng số người tham gia vào các thể loại du
lịch đó lại rất ít so với số người thích nghỉ biển.
Tính thời vụ trong kinh doanh du lịch quốc tế chủ động (inbound) của
Việt Nam, được thể hiện qua bảng tính chỉ số của thời vụ đối với tổng số ngày
khách của khách du lịch quốc tế tại Việt Nam trên toàn lãnh thổ và tại một số
trung tâm du lịch chính.
Có thể minh hoạ tính thời vụ của du lịch qua bảng 1.1 chỉ số của tính
thời vụ đối với tổng số ngày khách cuả khách du lịch quốc tế tại các cơ sở lưu
trú chính của Việt Nam và một số trung tâm du lịch chính năm 2003.


21
Bảng 1.1. Ngày khách Quốc tế đến Việt Nam và các địa phương theo tháng
của năm 2003

Tháng
Việt
Nam

Nội
Hải
Phòng
Quảng
Ninh
Huế
Nha
Trang
Vũng
Tàu
Tp.
HCM
Tháng 1
252.5
263.4
104.1
115.6
289.8
115.4
115.3
259.3
Tháng 2
258.8
257.1
102.5
139.1

284.7
128.2
123.9
316.4
Tháng 3
226.2
239.6
98.6
113.4
242.8
174.7
102.6
283.2
Tháng 4
90.4
72.9
119.9
65.2
65.1
125.0
70.0
53.4
Tháng 5
44.4
9.7
125.5
38.5
4.9
85.2
57.3

2.2
Tháng 6
22.6
7.4
129.6
116.8
2.1
63.2
95.3
5.5
Tháng 7
31.5
7.2
90.7
167.5
1.2
60.7
152.4
1.0
Tháng 8
31.8
10.2
82.0
161.8
1.0
75.9
149.7
1.2
Tháng 9
51.9

13.9
61.1
158.0
3.7
92.4
146.7
1.3
Tháng 10
51.8
23.3
13.7
51.6
6.6
93.9
80.0
1.5
Tháng 11
112.9
115.3
11.9
39.0
92.7
127.3
76.6
74.1
Tháng 12
222.9
211.0
12.0
96.4

240.3
120.0
98.9
255.8
(Nguồn: Tổng cục Du lịch)
Các số liệu ở bảng chỉ cho chúng ta thấy rằng, chỉ số của thời vụ lớn
nhất vào tháng 2 tại các thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Huế, vào tháng 7
tại Quảng Ninh, Vũng Tàu. Đó là tình hình thực tế kinh doanh du lịch quốc tế
chủ động của Việt Nam trong những năm gần đây.
Ở Việt Nam, những năm trước đây người ta đi du lịch Hạ Long chủ yếu
là tắm biển vào mùa hè nhưng hiện nay không chỉ tắm biển vào mùa hè mà
người ta đến Hạ Long quanh năm để du thuyền trên vịnh, tham quan hang
động…
1.2.2.2. Đặc điểm thời vụ của du lịch
a. Thời vụ trong du lịch mang tính phổ biến ở tất cả các nước và các vùng có
hoạt động du lịch
Về mặt lý thuyết, nếu một vùng du lịch kinh doanh nhiều thể loại du
lịch và đảm bảo được cường độ hoạt động đều đặn trong các tháng của năm


22
(luôn giữ được lượng khách và doanh thu nhất định) thì tại vùng đó tính thời
vụ là không tồn tại. Tuy nhiên, khả năng đó là rất khó thực hiện vì có rất
nhiều yếu tố tác động lên hoạt động kinh doanh du lịch nói chung và kinh
doanh lữ hành nói riêng, làm cho hoạt động đó khó có thể đảm bảo được
cường độ hoạt động đều đặn trong năm và vì vậy tồn tại tính thời vụ trong du
lịch. Ở tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động du lịch cũng như
kinh doanh lữ hành đều chịu tác động và bị chi phối bởi quy luật này. Nó
quyết định đến hoạt động và hiệu quả kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp
lữ hành.

b. Một nước hoặc một vùng du lịch có thể có một hoặc nhiều thời vụ du lịch,
tuỳ thuộc vào các thể loại du lịch phát triển ở đó
Một nước hay một vùng chỉ phát triển một loại hình du lịch là chủ yếu
như nghỉ biển hay nghỉ núi thì ở đó chỉ có một mùa du lịch là vào mùa hè
hoặc mùa đông. Điều này thể hiện rõ ở các vùng biển miền Bắc Việt Nam và
chỉ kinh doanh du lịch nghỉ biển vào mùa hè. Đối với các khu nghỉ biển có
nhiều nguồn nước khoáng giá trị, ở đó phát triển mạnh 2 loại hình du lịch: du
lịch nghỉ biển mùa hè và du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh vào mùa đông dẫn đến
ở đó có 2 mùa du lịch. Còn tại Áo và Pháp có 2 mùa du lịch chính là mùa
đông trượt tuyết, mùa hè leo núi, nghỉ dưỡng và chữa bệnh.
c. Độ dài thời gian và cường độ của thời vụ du lịch không bằng nhau đối với
từng thể loại du lịch và chu kỳ kinh doanh
Du lịch chữa bệnh thường có mùa dài hơn và cường độ vào mùa chính
yếu hơn. Du lịch nghỉ biển (vào mùa hè), nghỉ núi (trượt tuyết vào mùa đông)
có mùa ngắn hơn và cường độ mạnh hơn (do phụ thuộc vào yếu tố thiên nhiên
nhiều hơn).
Thời gian mà ở đó cường độ lớn nhất được quy định là thời vụ chính
(mùa chính), còn thời kỳ có cường độ nhỏ hơn ngay trước mùa chính gọi là
thời vụ trước mùa, ngay sau mùa chính gọi là thời vụ sau mùa. Thời gian còn
lại trong năm được gọi là ngoài mùa. Ở một số nước chỉ kinh doanh du lịch
nghỉ biển là chủ yếu thời gian ngoài mùa người ta gọi là “mùa chết”.

×