Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Pháp luật và thực thi pháp luật trong họat động lữ hành, hướng dẫn du lịch ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 96 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM CAO THÁI






PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG LỮ HÀNH, HƯỚNG DẪN DU LỊCH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY




Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)



LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN ĐỨC THANH







Hà Nội, 2010

1

MỤC LỤC Trang

Danh mục các chữ viết tắt
Mở đầu
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
1.1. Pháp luật
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Văn bản luật
1.1.3. Văn bản dưới luật
1.1.4. Văn bản pháp luật về du lịch
1.2. Thực thi pháp luật
1.3. Quan niệm pháp luật về du lịch
1.4. Thực thi pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch
Chương 2: TỔNG QUAN VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ LỮ HÀNH,
HƯỚNG DẪN DU LỊCH VÀ VIỆC THỰC THI HIỆN NAY
2.1. Văn bản pháp luật về du lịch

2.1.1. Luật Du lịch 2005
2.1.2. Nghị định 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007
2.1.3. Nghị định 149/2007/NĐ-CP ngày 09/10/2007
2.1.4. Thông tư 89/2008/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2008
2.1.5. Một số quy định pháp luật khác có nội dung liên quan
2.2. Quy định pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch
2.2.1. Quy định pháp luật về lữ hành
2.2.2. Quy định pháp luật về hướng dẫn du lịch
2.3. Quy định pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch
của một số quốc gia
3
4

9
9
9
11
13
13
13
17
19
21
21
21
31
32
33
35
38

38
41

44

2
2.4. Thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành
2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành
2.4.2. Điều kiện kinh doanh lữ hành
2.4.3. Thủ tục cấp phép kinh doanh lữ hành quốc tế
2.4.4. Bảo hiểm du lịch
2.4.5. Đại lý lữ hành
2.4.6. Doanh nghiệp lữ hành quốc tế có vốn đầu tư nước ngoài
2.4.7. Một số vấn đề khác liên quan đến hoạt động lữ hành
2.5. Thực thi pháp luật trong hướng dẫn du lịch
2.5.1. Đối với người Việt Nam
2.5.2. Đối với người nước ngoài
2.6. Sự tham gia của khách du lịch
2.7. Đánh giá chung
Chương 3: NHỮNG ĐỀ XUẤT TĂNG CƯỜNG THỰC THI
PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG LỮ HÀNH,
HƯỚNG DẪN DU LỊCH Ở VIỆT NAM
3.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về pháp luật và
thực thi pháp luật
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về lữ hành,
hướng dẫn du lịch
3.3. Đề xuất
3.3.1. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về lữ hành,
hướng dẫn du lịch
3.3.2. Một số đề xuất đảm bảo việc thực thi có hiệu quả

pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
50
52
53
56
57
59
59
61
68
69
70
71
72

75

75

78
82

82
86

91




3


DANH MỤC VIẾT TẮT


ASEAN
Hiêp hội các nước Đông Nam Á
BVHTTDL
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
CLB
Câu lạc bộ
DN
Doanh nghiệp
GPKDLHQT
Giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế
HDV
Hướng dẫn viên
KDLH
Kinh doanh lữ hành
KDLHQT
Kinh doanh lữ hành quốc tế

Nghị định
LHQT
Lữ hành quốc tế
T.A.T
Cơ quan Quốc gia về Du lịch Thái Lan
TCDL

Tổng cục Du lịch
WTO
Tổ chức Thương mại thế giới









4


MỞ ĐẦU




1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt
động du lịch ở nước ta đã và đang diễn ra với quy mô lớn, tăng trưởng với tốc
độ cao. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách phát triển Du
lịch khá mạnh mẽ. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu: “Phát
triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn…”. Luật Du lịch 2005
ra đời trở thành công cụ hữu ích góp phần tăng cường công tác quản lý nhà
nước trong lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên, sau khi Luật Du lịch có hiệu lực, việc
chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật đã có ảnh hưởng không
nhỏ đến việc thực thi luật. Qua thực tiễn áp dụng đã có một số những quy

định bộc lộ những hạn chế, bất cập, đồng thời có những vấn đề phát sinh
trong thực tiễn nhưng chưa có những quy định bổ sung điều chỉnh. Đó là
những nguyên nhân gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp phát triển du
lịch, đòi hỏi cần nghiên cứu nhằm tăng cường việc thực thi pháp luật về du
lịch, đồng thời tìm ra những bất cập giữa những quy định pháp luật với thực
tiễn thi hành, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện
pháp luật về du lịch để đáp ứng tình hình mới trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng.
Cho đến nay cũng có một vài nghiên cứu về vấn đề liên quan đến pháp
luật về du lịch như công trình nghiên cứu khoa học của Vụ Pháp chế, Tổng
cục Du lịch với đề tài "Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu lực quản
lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực du lịch" (năm 2001) do Tiến sĩ
Nguyễn Thị Bích Vân làm Chủ nhiệm đề tài, chủ yếu nghiên cứu về thực

5
trạng công tác quản lý nhà nước qua việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực
du lịch; Luận án Tiến sĩ của tác giả Trịnh Đăng Thanh với đề tài "Quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay" (năm
2004) thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng là đề tài nghiên
cứu sâu về góc độ quản lý nhà nước. Cả hai công trình nghiên cứu này đều
thực hiện trước khi Luật Du lịch 2005 ra đời. Một công trình nghiên cứu khác
là Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Nga với đề tài "Quản lý nhà nước
về du lịch trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam bằng pháp luật" (năm 2008)
nhưng cũng chỉ đi sâu nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về du lịch
bằng pháp luật và những phương hưóng, giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước về du lịch. Những công trình nghiên cứu nêu trên đều tập trung đi
vào nghiên cứu dưới góc độ quản lý nhà nước bằng pháp luật, nhà nước là chủ
thể quản lý với đối tượng quản lý là hoạt động du lịch nói chung chứ không
nghiên cứu chính những quy định pháp luật về du lịch và việc thực thi pháp
luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch mà trong đó chính những cơ

quan nhà nước cũng là đối tượng chấp hành pháp luật trong quá trình thực
hiện quản lý hoạt động du lịch. Trong khi đó, chưa có công trình nghiên cứu
nào đề cập cụ thể đến những tồn tại, bất cập giữa các văn bản pháp luật với
thực tiễn thi hành. Mặt khác, những nội dung nghiên cứu trên là nghiên cứu
hoạt động quản lý nhà nước trong phạm vi những quy định pháp luật về du
lịch (Pháp lệnh Du lịch 1999 hoặc Luật Du lịch 2005 và các văn bản hướng
dẫn) chứ không nghiên cứu về vấn đề thực thi pháp luật trong hoạt động lữ
hành, hướng dẫn du lịch.
Vì vậy, nội dung nghiên cứu đề tài này tập trung vào những quy định
pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch và một số quy định pháp luật liên
quan có nội dung điều chỉnh hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch; thực trạng
việc thi hành pháp luật trong hoạt động lữ hành và hướng dẫn du lịch ở Việt

6
Nam hiện nay, từ việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, những tồn tại,
bất cập giữa những quy định so với thực tiễn đến những vấn đề mới nảy sinh
trong quá trình diễn ra hoạt động lữ hành và hướng dẫn du lịch đòi hỏi có sự
điều chỉnh của pháp luật; những đề xuất nhằm tăng cường thực thi pháp luật
trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch và điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện
những quy định pháp luật về du lịch.
Như vậy, việc nghiên cứu "Pháp luật và thực thi pháp luật trong
hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch ở Việt Nam hiện nay" là một việc
làm vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn, là một đòi hỏi cấp
bách hiện nay.
Bên cạnh ý nghĩa khoa học nêu trên, đề tài đặc biệt có ý nghĩa thực
tiễn. Là một đề tài ứng dụng, góp phần cùng ngành Du lịch vận dụng lý luận
khoa học nhà nước - pháp luật vào thực tiễn, thực hiện công cuộc cải cách
hoàn thiện hệ thống pháp luật, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước trong lĩnh vực du lịch.


2. Mục tiêu - nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về pháp luật và thực thi pháp luật và thực tiễn thi
hành pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch, nghiên cứu những quy định
pháp luật hiện hành và thực trạng thi hành; đề xuất một số giải pháp sửa đổi,
bổ sung hoàn thiện pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch góp phần tăng
cường thực thi pháp luật trong hoạt động du lịch.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục tiêu trên, nhiệm vụ
nghiên cứu là phải hệ thống được những quy định pháp luật hiện hành về lữ
hành, hướng dẫn du lịch, có nghiên cứu một số quy định liên quan, những
cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO. Đồng thời tổng hợp, khảo sát đánh giá
những hoạt động lữ hành, hướng dẫn du lịch đã phát sinh trong thực tiễn
nhưng chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc có điều chỉnh nhưng còn bất cập.

7
Trên cơ sở đó đề xuất những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật hiện hành về du lịch.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Là những văn bản pháp luật về lữ hành, hướng
dẫn du lịch ở Việt Nam hiện nay. Việc thực thi pháp luật trong hoạt động lữ
hành, hướng dẫn du lịch đang diễn ra trong thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung sẽ đi sâu nghiên cứu những quy định pháp luật về lữ hành,
hướng dẫn du lịch trong Luật Du lịch 2005, các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Du lịch; nghiên cứu việc chấp hành quy định pháp luật của các tổ chức,
cá nhân hoạt động kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch và việc thực hiện
pháp luật của các cơ quan quản lý trong quá trình thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về du lịch.
Về không gian: Thực trạng việc thi hành pháp luật trong hoạt động lữ
hành, hướng dẫn du lịch tại Việt Nam hiện nay.

Về thời gian: Những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn từ khi Luật Du lịch
2005 ra đời và có hiệu lực thi hành cho đến nay.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước pháp luật, luận văn sử dụng những phương pháp sau:
Phương pháp chuyên gia; Phương pháp tổng hợp; Phương pháp so sánh;
Phương pháp hệ thống.

5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết luận,
kết cấu của Luận văn gồm 3 chương, cụ thể là:
Chương 1: Pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch ở Việt Nam

8
Chương 2: Thực thi pháp luật trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn du
lịch ở Việt Nam
Chương 3: Những đề xuất tăng cường thực thi pháp luật trong hoạt
động lữ hành, hướng dẫn du lịch ở Việt Nam




































9

Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT


1.1. Pháp luật
1.1.1. Khái niệm
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị trong xã hội, được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm mục đích
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là công cụ để thực hiện quyền lực
nhà nước và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà nước.
Như vậy pháp luật được hình thành bằng hai con đường: Thứ nhất nhà
nước thừa nhận các quy phạm xã hội - phong tục, tập quán chuyển chúng
thành pháp luật, thứ hai, bằng hoạt động xây dựng pháp luật định ra những
quy phạm mới.
Pháp luật cũng giống như mọi hiện tượng xã hội, có các hình thức thể
hiện và hình thức tồn tại riêng. Hình thức pháp luật gồm: hình thức bên ngoài
(nguồn của pháp luật) và hình thức bên trong của pháp luật (cấu trúc của pháp
luật).
Khi nói đến hình thức bên ngoài của pháp luật là nói đến sự biểu hiện
ra bên ngoài của pháp luật. Đó là văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quy
phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được nhà
nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và được áp dụng nhiều lần trong thực tế đời sống. Văn bản
quy phạm pháp luật chia làm 2 loại: văn bản luật và văn bản dưới luật.

10
Hình thức bên trong của pháp luật là hình thức cấu trúc của pháp luật.
Pháp luật có các bộ phận cơ cấu, bao gồm: quy phạm pháp luật, chế định pháp
luật, ngành luật.
Từ định nghĩa trên rút ra những nhận xét sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Nghĩa là chỉ có những văn bản nào được cơ quan nhà nước

có thẩm quyền (theo luật định) ban hành mới có thể là văn bản quy phạm
pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự
chung (các quy phạm pháp luật). Điều này để phân biệt với những văn bản
mặc dù có ý nghĩa pháp lý nhưng không chứa đựng các quy tắc xử sự chung
thì cùng không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ: Lời kêu gọi, lời
hiệu triệu, thông báo, tuyên bố của nhà nước xã hội chủ nghĩa mặc dù có ý
nghĩa pháp lý nhưng không phải là văn bản quy phạm pháp luật.
- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong đời sống,
trong mọi trường hợp. Khi có sự kiện pháp lý xảy ra văn bản quy phạm pháp
luật lại được áp dụng.
- Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành các loại văn bản quy phạm
pháp luật được quy định cụ thể trong pháp luật.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam theo Hiến Pháp
1992 và Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật bao gồm:
- Văn bản do Quốc Hội ban hành: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết.
- Văn bản do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh, Nghị
quyết.
- Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam ban
hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc Hội, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội.

11
Căn cứ vào trình tự ban hành và giá trị pháp lý, các văn bản quy phạm
pháp luật được chia ra thành 2 loại là các văn bản luật và văn bản dưới luật.
1.1.2. Văn bản luật
Văn bản luật là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, cơ quan cao
nhất của quyền lực nhà nước ban hành. Văn bản Luật có các hình thức là Hiến
pháp và luật.
- Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp và các Đạo luật về bổ sung hay sửa

đổi Hiến pháp). Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất của Nhà nước
như: Hình thức và bản chất của Nhà nước, chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
văn hoá, xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, hệ thống tổ chức,
nguyên tắc hoạt động và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Trong hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật, Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước, có
hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác đều phải phù hợp với
các quy định của Hiến pháp.
- Luật (bộ luật, luật), nghị quyết của Quốc hội có chứa đựng các quy
phạm pháp luật là những văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất ban hành để cụ thể hoá Hiến pháp, nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước.
Trong lĩnh vực du lịch, Luật Du lịch 2005 là văn bản luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội trong các hoạt động du lịch. Luật Du lịch có giá trị pháp lý
cao chỉ sau Hiến pháp, vì vậy khi xây dựng các văn bản dưới luật quy định về
du lịch phải dựa trên cơ sở các quy định thể hiện trong Luật Du lịch 2005,
không được trái với các quy định đó.
1.1.3. Văn bản dưới luật
Văn bản dưới luật là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan
nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức được pháp luật quy
định.

12
Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, hiện nay ở nước ta có những loại văn bản dưới luật sau:
- Pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ quốc hội ban hành quy định những
vấn đề được Quốc hội giao. Thẩm quyền ban hành Pháp lệnh của Uỷ ban
thường vụ quốc hội được quy định trong Điều 91 và Điều 93 của Hiến pháp
năm 1992.
- Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ quốc hội được ban hành để giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, giám sát việc thi hành Hiến pháp, văn bản

quy phạm pháp luật của Quốc hội và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nước khác.
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được ban hành để thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, Luật quy định.
- Nghị định, nghị quyết của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ.
- Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng.
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; quyết
định, chỉ thị, thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Thông tư liên tịch.
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp.
- Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp.
Nhà nước trong quá trình thực hiện quyền quản lý xã hội đều ban hành
một số lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật làm chuẩn mực chung để
điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia. Toàn
bộ các quy phạm trong các văn bản đó không tồn tại một cách rời rạc mà có
quan hệ gắn bó hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành một chỉnh thể
thống nhất- một hệ thống.

13
Như vậy, hệ thống pháp luật là cơ cấu bên trong của pháp luật được
quy định một cách khách quan bởi các điều kiện kinh tế - xã hội, biểu hiện ở
sự phân chia hệ thống ấy thành các bộ phận cấu thành khác nhau, phù hợp với
những đặc điểm, tính chất của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, nhưng
các bộ phận khác nhau ấy có mối quan hệ qua lại chặt chẽ và thống nhất với
nhau. Cấu thành của hệ thống pháp luật gồm có: quy phạm pháp luật, chế
định pháp luật và ngành luật.
1.1.4. Pháp luật về du lịch
Cho đến nay tuy chưa có một định nghĩa chính thức pháp luật về du

lịch là gì, tuy nhiên trên cơ sở lý luận về pháp luật và hệ thống pháp luật, với
cách tiếp cận nhìn từ hình thức bên ngoài của pháp luật thì đó chính là những
văn bản quy phạm pháp luật quy định về du lịch. Pháp luật về du lịch là một
bộ phận cấu thành không thể tách rời trong một chỉnh thể thống nhất hệ thống
pháp luật Việt Nam. Trong đó, khi nói đến pháp luật về lữ hành, hướng dẫn
du lịch tức là chỉ nói đến những quy định cụ thể trong những văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh những mối quan hệ nảy sinh trong hoạt động lữ
hành, hướng dẫn du lịch
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, về mặt nội dung
không đi sâu nghiên cứu toàn bộ pháp luật về du lịch mà đi sâu nghiên cứu
những quy định pháp luật về du lịch được quy định trong Luật Du lịch 2005,
các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật Du lịch. Trong đó tập trung
vào những nội dung quy định về lữ hành, hướng dẫn du lịch.
1.2. Thực thi pháp luật
Thực thi pháp luật, theo quan niệm chung nó là một quá trình làm cho
những quy định pháp luật được áp dụng trong thực tiễn mà biểu hiện của nó là
việc thực hiện pháp luật của các tổ chức, cá nhân trong cuộc sống xã hội và
việc áp dụng pháp luật (hay còn gọi là thi hành pháp luật) của các cơ quan,

14
người có thẩm quyền, nhằm thực hiện trong thực tế các quy phạm pháp luật
trong mọi tình huống cụ thể của cuộc sống.
Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm xác định
những khả năng xử sự của mọi cá nhân, tổ chức. Khả năng đó chỉ trở thành
hiện thực trong đời sống khi các chủ thể pháp luật thực hiện nghiêm chỉnh
pháp luật. Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu
khách quan của quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật. Pháp luật được
ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ công tác quản
lý nhà nước kém hiệu quả. Chính vì vậy, xây dựng pháp luật và thực hiện
pháp luật là hai hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nước sử dụng

pháp luật như là phương tiện để thực hiện sự quản lý đối với xã hôị, và đây là
nguyên tắc hiến định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Nói cách khác, việc thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật, đó là
bằng hành vi cụ thể của mình, các chủ thể pháp luật khi tham gia vào các
quan hệ pháp luật, đã bằng các hành vi của mình thực hiện các quy phạm
pháp luật phù hợp với các quy định đã được đưa ra.
Các quy phạm pháp luật hết sức phong phú cho nên hình thức thực hiện
chúng cũng rất phong phú. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp
luật, khoa học pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
Tuân thủ pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
cấm. Ở hình thức thực hiện này đòi hỏi chủ thể thực hiện nghĩa vụ một cách
thụ động, thực hiện các quy phạm pháp luật dưới dạng không hành động, ví

15
dụ như Hướng dẫn viên du lịch không tiến hành những hành vi trục lợi từ
khách du lịch chính là đã tuân thủ pháp luật.
Thi hành pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích
cực.
Khác với tuân thủ pháp luật, trong hình thức thi hành pháp luật đòi hỏi
chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý dưới dạng hành động tích cực, chẳng
hạn như Hướng dẫn viên thực hiện việc đeo thẻ khi hoạt động hướng dẫn,
hoặc doanh nghiệp lữ hành thực hiện chế độ báo cáo tình hình kết quả kinh
doanh lữ hành cho cơ quan quản lý chính là đã thi hành pháp luật.
Sử dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các

chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi
mà pháp luật cho phép).
Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có
thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí
của mình chứ không bị bắt buộc phải thực hiện, chẳng hạn như khách du lịch
thực hiện quyền kiến nghị, khiếu nại.
Áp dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ
chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc
tự mình căn cứ vào những quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm
phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.
Nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật là những
hình thức thực hiện pháp luật mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện
thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn đòi hỏi phải có sự tham gia của
các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật

16
là một hình thức rất quan trọng của thực hiện pháp luật liên quan đến hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước vì thế cần thiết phải đi sâu nghiên cứu.
Thi hành pháp luật - việc áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước: Áp
dụng pháp luật là một hoạt động có tổ chức mang tính quyền lực nhà nước
của các cơ quan, người có thẩm quyền, nhằm thực hiện trong thực tế các quy
phạm pháp luật trong mọi tình huống cụ thể của cuộc sống.
Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:
- Khi những quan hệ pháp luật với những quyền và nghĩa vụ cụ thể
không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước;
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia vào quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được;
- Khi cần áp dụng các biện pháp chế tài được nhà nước quy định trong
các quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm

minh;
- Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham
gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó, hoặc
nhà nước xác nhận tồn tại hay không tồn tại một số vụ việc, sự kiện thực tế.
Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà
nước. Nó vừa là một hình thức thực hiện pháp luật, vừa là cách thức nhà nước
tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật.
Áp dụng pháp luật có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, quyền lực nhà nước,
cụ thể, hoạt động này chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người
có thẩm quyền tiến hành. Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành chủ
yếu theo ý chí đơn phương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không bị
phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng pháp luật. Văn bản áp dụng pháp

17
luật mang tính bắt buộc phải thực hiện đối với những cá nhân, tổ chức có liên
quan.
Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động được thực hiện theo thủ tục do
pháp luật quy định chặt chẽ. Trong quá trình áp dụng pháp luật các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan phải tuân thủ nghiêm ngặt
các quy định có tính thủ tục.
Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối
với các quan hệ xã hội. Đối tượng của áp dụng pháp luật là những quan hệ xã
hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên những mệnh lệnh chung trong
quy phạm pháp luật. Bằng hoạt động áp dụng pháp luật, những quy phạm
pháp luật nhất định được cá biệt hoá, cụ thể hoá đối với những trường hợp cụ
thể.
Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động có tính sáng tạo. Khi áp dụng
pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách phải nghiên
cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn

quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành.
Như vậy, thi hành pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện
quyền lực nhà nước, được thực hiện thông quan những cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, nhà chức trách, hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao
quyền, nhằm cá biệt hoá những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể
đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
1.3. Quan niệm pháp luật về du lịch
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động du lịch với tính chất là
một hoạt động kinh tế - xã hội là cơ sở thực tiễn cho sự ra đời và phát triển
của pháp luật về du lịch. Về cơ sở lý luận, cho đến nay chưa có một định
nghĩa thống nhất pháp luật về du lịch. Tuy nhiên, từ góc độ lý luận, xuất phát

18
từ đối tượng điều chỉnh của pháp luật về du lịch để tiếp cận khái niệm này
theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về du lịch là các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình diễn ra các hoạt động du lịch. Hoạt
động du lịch có thể làm nảy sinh nhiều quan hệ xã hội thuộc các lĩnh vực khác
nhau, trên thực tế khó có thể liệt kê đầy đủ. Như việc quy hoạch phát triển du
lịch, quản lý tài nguyên du lịch liên quan đến lĩnh vực đầu tư xây dựng, nông
nghiệp Việc tổ chức, thành lập các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du
lịch làm phát sinh quan hệ quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, các cá
nhân hành nghề hướng dẫn, đội ngũ nhân viên phục vụ cho hoạt động du lịch.
Đây chính là cơ sở làm phát sinh nhiều nhóm quan hệ xã hội khác nhau về du
lịch, trong đó có thể kể đến: quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp kinh
doanh du lịch, quan hệ giữa người chịu trách nhiệm trước pháp luật của doanh
nghiệp lữ hành với người điều hành du lịch, quan hệ giữa người điều hành với
đội ngũ hướng dẫn viên, quan hệ giữa doanh nghiệp với khách du lịch, giữa
hướng dẫn viên với khách. Các quan hệ này rất khác nhau về cả tính chất nội
dung và thành phần chủ thể. Với đối tượng điều chỉnh như vậy, pháp luật về

du lịch có thể được định nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động
du lịch. Từ quan điểm truyền thống của lý luận pháp luật ở Việt Nam thì pháp
luật về du lịch là một lĩnh vực pháp luật, bao gồm các quy phạm, các chế định
được quy định trong các văn bản pháp luật từ Hiến pháp đến các Luật (như
Luật Du lịch, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ môi trường, Luật giao thông
đường bộ, đường sắt, đường biển, Luật lao động ) đến Pháp lệnh và các văn
bản dưới luật như Nghị định, Thông tư điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình diễn ra hoạt động du lịch.

19
Theo nghĩa hẹp, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về du lịch là các
quan hệ pháp luật về du lịch. Trong đó ở một phạm vi nghiên cứu hẹp đó là
nghiên cứu các quan hệ pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch. Có thể thấy,
các quan hệ pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch phát sinh trực tiếp từ quá
trình tạo lập, duy trì tư cách chủ thể pháp luật của doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành (bao gồm việc thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, việc sử
dụng người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành, việc đảm bảo có 3
hướng dẫn viên và sử dụng hướng dẫn viên để hướng dẫn cho khách, việc ký
quỹ kinh doanh lữ hành ), và vai trò, tư cách, trách nhiệm của người hướng
dẫn viên du lịch tham gia trong quá trình phục vụ khách du lịch.
Như vậy, khái niệm pháp luật về du lịch được tiếp cận trong khoa học
pháp lý nhìn chung có thể được hiểu là các quy định về hoạt động du lịch.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chỉ tiếp cận nghiên cứu theo
nghĩa hẹp, với nội dung là những quy định pháp luật về lữ hành, hướng dẫn
du lịch trong những văn bản pháp luật về du lịch, bao gồm từ Luật Du lịch
cho đến các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, việc phân biệt nội hàm của khái niệm
pháp luật về du lịch theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp chỉ có tính chất tương đối.
Hệ thống pháp luật là một chỉnh thể thống nhất, các bộ phận cấu thành pháp

luật về du lịch nói chung hay pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch nói
riêng dù được xác định trên nguyên tắc nào đi chăng nữa thì cũng luôn có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau về mặt nội dung.
1.4. Thực thi pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch
Thực thi pháp luật về lữ hành, hướng dẫn du lịch được đề cập đến ở
đây bao gồm:
- Là quá trình các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh lữ hành, bao
gồm các doanh nghiệp trong nước, các văn phòng đại diện doanh nghiệp du

20
lịch nước ngoài tại Việt Nam và các tổ chức, cá nhân liên quan thực hiện,
chấp hành những quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam trong hoạt động
lữ hành; là quá trình các doanh nghiệp lữ hành, các cá nhân tham gia vào hoạt
động hướng dẫn du lịch chấp hành những quy định pháp luật về hướng dẫn du
lịch;
- Là quá trình các cơ quan nhà nước về du lịch, từ Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch đến Tổng cục Du lịch, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
cho đến các cơ quan liên quan áp dụng những quy định pháp luật về lữ hành,
hướng dẫn du lịch trong thực tiễn cuộc sống như: Việc cấp phép kinh doanh
lữ hành quốc tế của Tổng cục Du lịch; việc cấp thẻ hướng dẫn viên của Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch; việc thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh
lữ hành, hướng dẫn du lịch và áp dụng các quy định pháp luật xử phạt hành
chính đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm
















21

Chương 2.
TỔNG QUAN VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ LỮ HÀNH,
HƯỚNG DẪN DU LỊCH VÀ VIỆC THỰC THI HIỆN NAY

2.1. Văn bản pháp luật về du lịch
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về du lịch cần được xem xét theo
hai góc độ: Theo chiều dọc và theo chiều ngang. Về mặt lý luận chung, “xét
theo chiều ngang, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với hệ thống
cấu trúc của pháp luật, Xét theo chiều dọc, hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật mang tính thứ bậc” [5, tr.59]. Như vậy, ta có thể xác định được hệ thống
pháp luật về du lịch hiện hành theo chiều dọc là tính thứ bậc từ Luật Du lịch
2005 đến Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Du lịch, các Thông tư hướng
dẫn thực hiện Nghị định, Chỉ thị và những quy định pháp luật khác có nội
dung liên quan điều chỉnh những vấn đề thuộc lĩnh vực du lịch.
2.1.1. Luật Du lịch
Luật Du lịch được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 và ngày 27
tháng 6 năm 2005, Chủ tịch nước ký Lệnh số 14/2005/L/CTN công bố Luật
Du lịch. Luật Du lịch gồm có 11 chương, 88 điều, quy định chi tiết nhiều vấn
đề mà trước đó Pháp lệnh du lịch 1999 chưa đề cập đến.

Điều đặc biệt của Luật Du lịch là đã quán triệt ngay quan điểm của
Đảng và Nhà nước về định hướng phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi
nhọn của đất nước, đó là những quy định về chính sách phát triển du lịch
trong đó Nhà nước có cơ chế, chính sách huy động mọi nguồn lực và tăng đầu
tư để phát triển du lịch, và có chính sách khuyến khích, ưu đãi về đất đai, tài
chính, tín dụng đối với tổ chức, cá nhân đầu tư vào một số lĩnh vực trong du
lịch. Ở đây có sự phân biệt rõ giữa các lĩnh vực nhà nước thực hiện và những

22
lĩnh vực Nhà nước hỗ trợ để phát triển du lịch, trong đó Nhà nước chú trọng
công tác quy hoạch, đồng thời chú trọng hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch,
công tác xúc tiến, quảng bá quốc gia, bảo vệ tài nguyên du lịch và môi trường
du lịch, nghiên cứu ứng dụng công nghệ vào hoạt động du lịch và công tác
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch. Luật Du lịch cho phép thành lập
quỹ hỗ trợ phát triển du lịch, và quy định Chính phủ trên cơ sở những chính
sách cơ bản này sẽ ban hành những chính sách cụ thể, đặc thù, áp dụng trong
từng giai đoạn nhất định để phát triển du lịch. Đó có thể là những quy định về
ưu đãi thuế đối với việc nhập khẩu phương tiện cao cấp phục vụ cho vận
chuyển khách du lịch, các trang thiết bị chuyên dùng hiện đại cho cơ sở lưu
trú du lịch hạng cao cấp. Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch để hỗ trợ cho việc phát
triển du lịch trên cơ sở huy động các nguồn đóng góp của tổ chức, cá nhân
khác nhau. Quỹ được hình thành từ nguồn đóng góp của các chủ thể hưởng
lợi từ hoạt động du lịch (các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng
dân cư, các cơ quan nhà nước ), nguồn đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá
nhân trong nước và nước ngoài.
Các nội dung về quản lý nhà nước đối với du lịch có nhiều điểm mới,
đã thể hiện các yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về du lịch, đó là yêu
cầu quản lý đối với một ngành kinh tế độc lập trong nền kinh tế quốc dân, từ
việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về du lịch đến quy
hoạch, kế hoạch, chiến lược, chính sách phát triển du lịch, vấn đề về tổ chức

thực hiện, thanh tra du lịch. Luật Du lịch cũng để một hướng mở trong bối
cảnh chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh cải cách nền hành chính khi quy
định trách nhiệm quản lý nhà nước về du lịch là “Cơ quan quản lý nhà nước
về du lịch ở Trung ương” chịu trách nhiệm trước Chính phủ. Những quy định
này của Luật không nêu tên cụ thể cơ quan nhưng khi đó đã xác định địa vị
pháp lý của Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Chính phủ. Tuy rằng tại thời

23
điểm đó Tổng cục Du lịch đã thực hiện một số nội dung quản lý nhà nước do
Chính phủ giao nhưng cũng không có đầy đủ chức năng của một cơ quan
quản lý nhà nước. Ví dụ như việc Tổng cục Du lịch khi đó không được ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, điều này làm hạn chế rất lớn đến khả năng
phát huy của Tổng cục Du lịch với vai trò là cơ quan có trách nhiệm lớn nhất
trong quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương. Đó là khả năng ban hành kịp
thời những quy định pháp luật mới để điều chỉnh những vấn đề mới nảy sinh
trong thực tiễn, sửa đổi bổ sung những quy định cũ khắc phục những bất cập.
Như vậy, tại thời điểm Luật Du lịch được ban hành và có hiệu lực thì trong
công tác quản lý nhà nước và điều hành hoạt động du lịch đã gặp không ít khó
khăn từ việc áp dụng, thực thi pháp pháp luật về du lịch. Nhưng những quy
định mở của Luật Du lịch cho đến nay vẫn phù hợp, nó đã rõ hơn khi hiện nay
đã xác định “cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương” thực thi
trách nhiệm này là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Về vấn đề quản lý tài nguyên du lịch và bảo vệ môi trường du lịch:
Luật Du lịch đã nêu cụ thể các loại tài nguyên du lịch, bao gồm tài nguyên du
lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đang được khai thác và chưa
được khai thác. Tài nguyên du lịch bao gồm tất cả các yếu tố tài nguyên có
thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch như: các yếu tố địa chất, địa hình,
địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên (tài nguyên du
lịch tự nhiên), truyền thống văn hoá, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di
tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo

của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể (tài nguyên du lịch
nhân văn). Về chế độ quản lý, bảo vệ, tài nguyên du lịch thuộc sự quản lý của
các ngành, các cấp khác nhau, đối với mỗi loại tài nguyên du lịch đã có Luật
riêng điều chỉnh như Luật Di sản văn hóa, Luật Bảo vệ và phát triển rừng,
Luật Thủy sản, Luật Khoáng sản Vì vậy, Luật Du lịch chỉ đưa ra các nguyên

24
tắc chung và quy định trách nhiệm cụ thể của các bộ, ngành, chính quyền các
cấp, nghĩa vụ của các cơ quan chủ quản và chủ sở hữu tài nguyên du lịch
trong việc bảo vệ, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch, tạo điều kiện cho
khách du lịch đến tham quan, thụ hưởng tài nguyên du lịch. Luật Du lịch đã
khẳng định tài nguyên du lịch có thể thuộc sở hữu nhà nước, có thể thuộc tổ
chức, cá nhân. Đây là một nội dung mang tính pháp lý cao ảnh hưởng tích cực
đến việc phát triển du lịch khi đề cập đến một lĩnh vực nhạy cảm là “tài
nguyên du lịch” với việc xác định sở hữu cá nhân, tuy nhiên Luật xác định
cho dù nó thuộc sở hữu nào thì đều phải được bảo vệ, tôn tạo, khai thác hợp
lý để phát huy hiệu quả sử dụng và bảo đảm phát triển du lịch bền vững. Luật
quy định tổ chức, cá nhân sở hữu tài nguyên du lịch có trách nhiệm phối hợp
với cơ quan nhà nước về du lịch có thẩm quyền trong việc sử dụng và khai
thác tài nguyên du lịch cho các mục tiêu kinh tế khác nhưng bảo đảm không
làm giảm độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch. Theo Luật du lịch, quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường du lịch gắn chặt với vai trò của UBND trong
công tác quản lý địa bàn, lãnh thổ. Như việc thành lập Ban quản lý Khu du
lịch do UBND tỉnh quyết định hoặc trong trường hợp khu du lịch được giao
cho một chủ đầu tư thì chủ đầu tư chịu trách nhiệm thành lập ban quản lý. Với
những quy định về việc thành lập ban quản lý khu du lịch thì trách nhiệm
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường du lịch đã có chủ thể và được quan
tâm hơn, việc chỉ đạo của cơ quan quản lý nhà nước và phối hợp với chủ thể
quản lý sẽ hiệu quả hơn. Đặc biệt, khi đã gắn trách nhiệm của Ban quản lý thì
đi đôi với trách nhiệm là việc phát sinh quyền lợi của chủ thể quản lý, đó

chính là động lực cho việc phát triển.
Về vấn đề quy hoạch phát triển du lịch: Do tầm quan trọng của vấn đề
quy hoạch đối với phát triển du lịch và bảo vệ tài nguyên du lịch, Luật Du lịch
đã dành riêng một chương (chương III) với 4 điều quy định cụ thể về quy

×