Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Phát triển du lịch gắn với bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng tỉnh Kiên Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 120 trang )

1

Đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn



NGUYN TH NGC BNG




PHT TRIN DU LCH GN VI BO TN
CC DI TCH LCH S VN HểA V
DANH THNG TNH KIấN GIANG




luận văn thạc sĩ du lịch








Hà Nội, 2013
2


Đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn



NGUYN TH NGC BNG



PHT TRIN DU LCH GN VI BO TN
CC DI TCH LCH S VN HểA V
DANH THNG TNH KIấN GIANG



Chuyên ngành: Du lịch
(Ch-ơng trình đào tạo thí điểm)


luận văn thạc sĩ du lịch



ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYN PHM HNG



Hà Nội, 2013

3


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Bố cục luận văn 8
7. Đóng góp của luận văn 8
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA
TRONG DU LỊCH 10
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch 10
1.1.1. Khái niệm di tích 10
1.1.2. Quan niệm về văn hóa 10
1.1.3. Quan niệm về di sản văn hóa 11
1.1.4. Vấn đề bảo tồn di sản văn hóa 13
1.1.5. Các nguyên tắc bảo tồn văn hóa 14
1.1.6. Bảo tồn văn hóa trong du lịch 15
1.2. Tác động của du lịch tới các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng trong du lịch 23
1.2.1. Những tác động tích cực của du lịch đối với các di tích lịch sử văn hóa và
danh thắng trong du lịch 23
1.2.2. Những tác động tiêu cực của du lịch đối với các di tích lịch sử văn hóa và
danh thắng trong du lịch 24
1.2.3. Những yêu cầu cấp bách của việc bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa và danh
thắng 25
1.3. Những bài học kinh nghiệm trong và ngoài nước 26
1.3.1. Những bài học kinh nghiệm trong nước 26
1.3.2. Những bài học kinh nghiệm ngoài nước 27

4

Tiểu kết chương 1 28
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN
DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ DANH THẮNG Ở KIÊN GIANG 29
2.1. Các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng tiêu biểu của Kiên Giang …29
2.1.1. Giới thiệu chung về tỉnh Kiên Giang 29
2.1.2. Điều kiện tự nhiên 29
2.1.3. Điều kiện xã hội 32
2.1.4. Các di tích lịch sử văn hóa 34
2.1.5. Các danh lam thắng cảnh 37
2.2. Thực trạng du lịch tại các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng Kiên Giang
…… 40
2.2.1. Nhu cầu khách du lịch đối với các di tích lịch sử và danh thắng Kiên Giang
…….40
2.2.2. Sản phẩm du lịch tại các di tích lịch sử và danh thắng Kiên Giang …41
2.2.3. Cơ sở vật chất tại các di tích lịch sử và danh thắng Kiên Giang …48
2.2.4. Nhân lực du lịch tại các di tích lịch sử và danh thắng Kiên Giang …51
2.2.5. Công tác tổ chức quản lý du lịch tại các di tích lịch sử và danh thắng Kiên
Giang …52
2.2.6. Hoạt động xúc tiến, tuyên truyền quảng bá du lịch đối với các di tích lịch sử và
danh thắng Kiên Giang …53
2.3. Thực trạng công tác bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng Kiên
Giang …54
2.3.1. Thực trạng tổ chức quy hoạch các di tích LSVH và danh thắng tại Kiên Giang
…54
2.3.2. Thực trạng trùng tu, tôn tạo các di tích LSVH và danh thắng tại Kiên Giang
…59
2.3.3. Thực trạng bảo vệ cảnh quan môi trường tại các di tích LSVH và danh thắng
Kiên Giang: …60

5

2.3.4. Hoạt động bảo tồn, tôn tạo di sản văn hóa của các cơ quan quản lý nhà nước
…61
2.3.5. Hoạt động bảo tồn, tôn tạo di sản văn hóa của chính quyền địa phương và cộng
đồng cư dân …62
2.3.6. Kết quả của hoạt động bảo tồn di tích danh thắng …65
2.4. Vai trò của du lịch trong bảo tồn di tích LSVH và danh thắng Kiên Giang …66
2.4.1. Vai trò của cơ quan quản lý về du lịch 67
2.4.2. Vai trò của công ty, doanh nghiệp du lịch …68
2.4.3. Vai trò của du khách …69
Tiểu kết chương 2 …70
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN DI
TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA VÀ DANH THẮNG …72
3.1. Chính sách nhà nước trong tổ chức quản lý gắn với bảo tồn ….72
3.2. Đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật gắn với bảo tồn 73
3.3. Vấn đề xây dựng và khai thác sản phẩm du lịch gắn với bảo tồn 74
3.4. Vấn đề đào tạo nhân lực du lịch gắn với bảo tồn …75
3.5. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp gắn với bảo tồn …. …….76
3.6. Vấn đề xúc tiến, tuyên truyền quảng bá du lịch gắn với bảo tồn 77
3.7. Vai trò của chính quyền địa phương và cộng đồng cư dân trong bảo tồn…… 78
Tiểu kết chương 3 79
KẾT LUẬN ………………… 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ….84








6

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AHDT: Anh hùng dân tộc
ÂL: Âm lịch
CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
DTLS: Di tích lịch sử
ĐBSCL: Đồng bằng Sông Cửu Long
HĐND: Hội đồng nhân dân
LSVH: Lịch sử văn hóa
NCPT: Nghiên cứu phát triển
QHTT: Quy hoạch tổng thể
QHTTPTKTXH: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
UBND: Ủy ban nhân dân
VH: Văn hóa
VHTT&DL: Văn hóa, Thể thao và Du lịch
VHTT: Văn hóa thông tin
VQG: Vườn quốc gia












7

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển thì đời sống của con người ngày càng được nâng
cao. Khi đó, du lịch không còn là “nhu cầu cao cấp” [45] nữa mà trở thành một nhu
cầu thiết yếu trong cuộc sống của con người. Và xu hướng hiện nay, du khách
thường tìm đến những tour gắn liền với tự nhiên, lịch sử, tìm hiểu về văn hóa, cội
nguồn dân tộc.
Kiên Giang là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Sông Cửu Long; có nhiều cảnh
đẹp và địa hình phong phú, đa dạng bao gồm: đồng bằng, núi rừng và biển đảo. Bên
cạnh đó, Kiên Giang còn là tỉnh có bề dày truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời với
hàng trăm di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh; trong đó có 43 di tích đã được xếp
hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh, đây còn là điều kiện và tiềm năng để Kiên Giang phát
triển loại hình du lịch văn hóa.
Trong những năm qua, du lịch Kiên Giang phát triển chủ yếu dựa vào tài
nguyên và sản phẩm du lịch văn hóa, các điểm du lịch như Lăng Mạc Cửu, Chùa
hang, Thạch Động, hay biển Mũi Nai, thu hút rất nhiều du khách đến tham quan.
Vì thế, các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh của địa phương là nguồn
tài nguyên du lịch có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển du lịch của
quốc gia nói chung và của tỉnh Kiên Giang nói riêng.
Tuy nhiên, du lịch Kiên Giang vẫn chưa phát triển xứng với tiềm năng vốn có
của nó; ngành du lịch có phát triển nhưng còn nhiều hạn chế: tài nguyên du lịch
cũng như các sản phẩm du lịch văn hóa chưa được đầu tư thích đáng, chưa thu hút
được vốn đầu tư của nước ngoài cho các sản phẩm du lịch có chất lượng cao đủ tiêu
chuẩn quốc tế, cũng như vốn đầu tư cho các dịch vụ phục vụ khách du lịch chưa
nhiều nên chưa thu hút được du khách lưu lại dài ngày trên địa bàn. Bên cạnh đó,

công tác bảo tồn văn hóa còn hạn chế, nhiều dự án trùng tu, tôn tạo các di tích lịch
sử văn hóa đến nay chưa có kinh phí để thực hiện. Đồng thời hoạt động du lịch chưa
gắn với bảo tồn văn hóa, các cơ quan chức năng và doanh nghiệp du lịch chưa có sự
8

gắn kết trong việc khai thác và bảo tồn tài nguyên du lịch. Và cho đến nay, chưa có
nghiên cứu nào về phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa.
Từ những lý do trên, đề tài: “Phát triển du lịch gắn với bảo tồn các di tích lịch
sử văn hóa và danh thắng tỉnh Kiên Giang” được chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp
cao học chuyên ngành Du lịch.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vấn đề bảo tồn di tích lịch sử văn hóa là vấn đề cấp thiết, được đề cập và
nghiên cứu nhiều trong những năm gần đây với nhiều khía cạnh và mục đích khác
nhau.
Các tỉnh thành trong cả nước đã tổ chức Hội nghị, hội thảo bàn luận, đưa ra
chiến lược, mục tiêu bảo tồn, trùng tu các di tích có sự tham gia của cộng đồng được
chính quyền địa phương và người dân đặc biệt quan tâm:
Ở Đồng Tháp với chuyên đề: “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên
địa bàn tỉnh Đồng Tháp”, xác định di sản văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong việc
giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống lịch sử văn hóa của dân tộc và tạo tiền đề cho
chiến lược phát triển du lịch, góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Hội thảo do Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Sở VHTT&DL tổ chức ngày
20/10/2012 tại Bảo tàng Không gian văn hóa Mường với tên gọi: “Phát triển du lịch
gắn với bảo tồn di sản văn hóa tỉnh Hòa Bình”, cũng đã xác định di sản văn hóa là
nguồn tài nguyên vô giá, cần đẩy mạnh thu hút đầu tư, tăng tỷ trọng du lịch trong cơ
cấu kinh tế, gắn phát triển du lịch với gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc.
Tại Kiên Giang, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản đồng ý về chủ trương tiếp
tục thực hiện việc bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử U Minh Thượng (huyện U Minh
Thượng, tỉnh Kiên Giang); cũng như việc tiếp tục bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa

ở Phú Quốc.
Ngoài ra còn có các bài viết, đề tài nghiên cứu:
“Bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa – thiên nhiên thế giới phục vụ
phát triển ở nước ta” của tác giả Nguyễn Quốc Hùng, nhấn mạnh: tăng cường hợp
9

tác giữa các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương, trước hết là giữa ngành du
lịch và bảo tồn di sản văn hóa để tạo ra sự phát triển du lịch thực sự bền vững.
Bài viết “Tu bổ và tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa là hoạt động có tính đặc
thù chuyên ngành” của tác giả Đặng văn Bài, cho rằng công tác quản lý việc xây
dựng và thi công các dự án tu bổ, tôn tạo di tích là một hoạt động có tính chất
chuyên ngành có nhiều đặc điểm khác biệt so với việc quản lý các dự án xây dựng
các công trình mới. Do đó, tất yếu phải có cơ chế quản lý mang tính chuyên biệt trên
cơ sở tuân thủ nghiêm túc các quy định của Luật di sản văn hóa và Luật xây dựng.
Bài viết: “Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước”, tác giả Nguyễn Thế Hùng khẳng định: di tích có vai trò to lớn đối
với sự phát triển lành mạnh và bền vững của cuộc sống đương đại, bảo vệ và phát
huy giá trị của di tích là nền tảng, là nguồn động lực cho sự nghiệp bảo vệ, xây dựng
và phát triển đất nước, là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người và của cả cộng
đồng.
Đề tài: “Bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa phục vụ phát triển
du lịch Thủ đô” của tác giả Bùi Thanh Thủy, đã đưa ra những giải pháp cụ thể cũng
như những yêu cầu để thực hiện giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử
văn hóa để phục vụ cho phát triển du lịch.
Nhìn chung các tác giả đã làm rõ đặc điểm, thực trạng phát triển du lịch cũng
như vấn đề bảo tồn di tích lịch sử văn hóa ở các địa phương. Tuy nhiên, nói đến phát
triển du lịch gắn với bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng của Kiên
Giang thì đến nay vẫn chưa có một tài liệu chuyên khảo nào được công bố. Các Hội
thảo chuyên đề, các bài viết chỉ nêu lên được khái quát tình hình, thực trạng chung
trên cả nước, chưa đưa ra được thực trạng cụ thể vấn đề bảo tồn các di tích lịch sử

văn hóa, cũng như các giải pháp để phát triển du lịch tại Kiên Giang. Vì thế, vấn đề
được đề cập trong đề tài không trùng lặp với tài liệu nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phát triển du lịch gắn với việc bảo tồn các di
tích lịch sử văn hóa và danh thắng tỉnh Kiên Giang.
10

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của đề tài: Tìm hiểu thực
trạng phát triển du lịch tại các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng, thực trạng bảo
tồn các di tích lịch sử văn hóa của Kiên Giang. Từ đó, đưa ra các giải pháp phát
triển du lịch gắn với bảo tồn di tích lịch sử và danh thắng Kiên Giang.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch; vấn đề bảo tồn các di
tích lịch sử văn hóa và danh thắng để phát triển du lịch Kiên Giang.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Nghiên cứu hoạt động du lịch tại các di tích lịch sử văn hóa
và danh thắng tiêu biểu của tỉnh Kiên Giang.
- Về thời gian: Các số liệu được sử dụng nghiên cứu từ năm 2008 đến năm
2012.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập tài liệu: Tài liệu sơ cấp, tham vấn khách du lịch và cộng
đồng địa phương, khảo sát thực tế. Tài liệu thứ cấp, các đề tài nghiên cứu, sách báo
xuất bản.
Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp: Tổng hợp các tài liệu của Ngành
du lịch và tài liệu lưu trữ của cơ quan Tỉnh.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch.
Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch gắn với bảo tồn di tích lịch sử và danh

thắng ở Kiên Giang.
Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch gắn với bảo tồn di tích lịch sử văn hóa
và danh thắng.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn trình bày tổng quan những vấn đề lý luận về phát triển du lịch gắn
với bảo tồn văn hóa. Đồng thời, phân tích thực trạng phát triển du lịch gắn với bảo
11

tồn các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng của tỉnh Kiên Giang; khẳng định vai
trò, tầm quan trọng của di tích lịch sử văn hóa trong đời sống và phát triển du lịch.
Bên cạnh đó, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần triển du lịch gắn với
bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng của Kiên Giang.


























12

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA
TRONG DU LỊCH

1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch
1.1.1. Khái niệm di tích
Di tích được hiểu là những dấu vết vật chất của quá khứ còn tồn tại đến nay.
Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam (2006) thì: Di tích là dấu
vết của quá khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc trên mặt đất có ý nghĩa về mặt văn
hóa và lịch sử. [58, tr.161]
1.1.2. Quan niệm về văn hóa
Các chuyên gia nghiên cứu trong các lĩnh vực, cũng như các tổ chức đã đưa ra
khoảng trên 200 khái niệm khác nhau về văn hóa; mỗi khái niệm thể hiện cách nhìn
nhận và góc độ đánh giá khác nhau. Có thể khái quát một số khái niệm như sau:
Edward Burnett Tylor (1832-1917) đưa ra khái niệm: “Văn hóa hay văn minh
hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến trúc, đức
tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ những khả năng, tập quán
nào mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội”.
Theo các tác giả của bộ Từ điển Triết học thì: “Văn hóa là toàn bộ những giá
trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Văn hóa là
một hiện tượng xã hội tiêu biểu cho trình độ mà xã hội đã đạt được: tiến bộ kỹ thuật,

kinh nghiệm sản xuất và lao động, học vấn, giáo dục, khoa học, nghệ thuật và những
tổ chức thích ứng với những cái đó”.
Tại Hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mêhicô (1982), UNESCO đã đưa ra khái
niệm về văn hóa như sau: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng
biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay
của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương,
những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị,
những tập tục và những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy
13

xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt
nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa
mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án
chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết
mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”.
Trong nước, các nhà nghiên cứu về văn hóa cũng có những nhìn nhận khác
nhau về văn hóa:
Theo Nguyễn Từ Chi thì văn hóa là “cái tự nhiên được biến đổi bởi con người”
hay “tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hóa”.
Theo PGS.TS Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [48, tr10].
Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về ăn mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa” [30].
Nhìn chung, các khái niệm trên đều có cùng đặc điểm: văn hóa là những gì do
con người sáng tạo và thuộc về con người. Những gì không do con người làm nên
không phải là văn hóa. Vì vậy, văn hóa là đặc trưng căn bản phân biệt con người với

động vật, đồng thời cũng là tiêu chí phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự
nhiên.
1.1.3. Quan niệm về di sản văn hóa
Di sản được hiểu là những tài sản chúng ta kế thừa từ các thế hệ trước, bao
gồm toàn bộ môi trường thiên nhiên và văn hóa: cảnh quan, các di tích lịch sử, tập
tục truyền thống, tri thức và kinh nghiệm sống v.v Chúng ta phải có trách nhiệm
giữ gìn và phát huy, bởi đó là những tài sản quý báu, là nền tảng quan trọng cho sự
phát triển xã hội hiện tại và tương lai. Điều này được khẳng định trong Luật di sản
văn hóa năm 2001(Được sửa đổi, bổ sung năm 2009) của nước CHXHCN Việt Nam:
14

“Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và
là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của nhân dân ta”.
Theo quan niệm của UNESCO có 2 loại di sản văn hóa:
Một là, những di sản văn hóa hữu thể (Tangible) như đình, đền, chùa, miếu,
lăng, mộ. nhà sàn…
Hai là, những di sản văn hóa vô hình (Intangible) bao gồm các biểu hiện tượng
trưng và “không sờ thấy được” của văn hóa được lưu truyền và biến đổi qua thời
gian, với một số quá trình tái tạo, “trùng tu” của cộng đồng rộng rãi… Những di sản
văn hóa tạm gọi là vô hình này theo UNESCO bao gồm cả âm nhạc, múa, truyền
thống, văn chương truyền miệng, ngôn ngữ, huyền thoại, tư thế (thư thái), nghi thức,
phong tục, tập quán, y dược cổ truyền, việc nấu ăn và các món ăn, lễ hội, bí quyết và
quy trình công nghệ của các nghề truyền thống. Cái hữu thể và cái vô hình gắn bó
hữu cơ với nhau, lồng vào nhau như thân xác và tâm trí con người.
Luật di sản văn hóa năm 2001 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2009) của nước
CHXHCN Việt Nam, điều 4.1và 4.2:
- Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan; có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
thể hiện bản sắc của cộng đống; không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế

hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức
khác.
- Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia.
Vì thế, Luật di sản văn hóa năm 2001 đã định nghĩa: “Di sản văn hóa bao gồm
di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất
có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

15

1.1.4. Vấn đề bảo tồn di sản văn hóa
Hiện nay, vấn đề bảo tồn di sản văn hóa được xác định là nhiệm vụ quan trọng
của toàn xã hội bởi chúng ta đã nhận thức được vai trò và giá trị vô cùng to lớn của
nguồn tài nguyên này. Ngoài ra, bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa còn
góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Trong những năm qua, với sự quan tâm, nổ lực của xã hội, nhiều di tích đã
được xếp hạng và trùng tu, sửa chữa, đảm bảo sự tồn tại lâu dài, phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiều di tích tiêu biểu đã phát huy
giá trị một cách tích cực, thu hút nhiều khách tham quan và mang lại nguồn thu lớn
cho đất nước.
Nhìn chung, vấn đề bảo tồn di sản văn hóa đã có nhiều chuyển biến tích cực,
tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại không ít những di tích đang bị xuống cấp trầm
trọng, nhiều di tích tu bổ chưa hoàn chỉnh, cũng như nhiều di tích tôn tạo chưa đạt
yêu cầu về chuyên môn. Thực tế tồn tại những hạn chế này là do:
- Tuy xã hội có quan tâm đến vấn đề bảo tồn di sản văn hóa nhưng nhận thức
chưa được sâu sắc và toàn diện nên chưa được cụ thể hóa bằng các biện pháp, các kế
hoạch và chương trình hành động cụ thể; dẫn đến sự lúng túng trong việc làm hài
hòa mối quan hệ giữa bảo tồn di tích và phát triển kinh tế. Có nơi còn thương mại

hóa các di tích, xem mục tiêu phát triển kinh tế quan trọng hơn mục tiêu bảo vệ di
tích.
- Công tác bảo tồn di tích còn thiếu định hướng, chưa có biện pháp chế tài,
chính sách khuyến khích kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân… chưa tập
trung dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước cũng như biện pháp sử dụng có hiệu
quả từ các nguồn đóng góp này.
- Nhiều di tích được tu bổ, sửa chữa không theo quy hoạch nên thiếu sự đầu tư
đồng bộ cho di tích; kiến trúc di tích không hài hòa với môi trường xung quanh.
- Thiếu sự quan tâm, chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp
trong việc khai thác và bảo tồn di tích.
16

- Thông tin về di tích còn hạn chế; công tác tuyên truyền, giáo dục đào tạo
chưa được coi trọng.
Do đó, tăng cường công tác quản lý nhà nước và chăm lo đào tạo, xây dựng
đội ngũ kiến trúc sư, kỹ sư, nghệ nhân, công nhân… để phục vụ cho việc bảo tồn,
trùng tu di tích là vấn đề quan trọng và cấp thiết hiện nay.
1.1.5. Các nguyên tắc bảo tồn văn hóa
Căn cứ Luật Di sản Văn hóa năm 2001 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), tại
Điều 34, khoản 1: Việc bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích phải bảo đảm các yêu cầu
sau đây:
- Giữ gìn tối đa các yếu tố gốc cấu thành di tích;
- Lập quy hoạch, dự án trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, trừ
trường hợp sửa chữa nhỏ không ảnh hưởng đến yếu tố gốc cấu thành di tích. Đối với
di tích cấp tỉnh, phải được sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền về
văn hóa, thể thao và du lịch cấp tỉnh; đối với di tích quốc gia và di tích quốc gia đặc
biệt, phải được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch;
- Công bố công khai quy hoạch, dự án đã được phê duyệt tại địa phương nơi có
di tích.

Do đó, công tác bảo tồn văn hóa (theo tác giả Đặng Văn Bài, trong Báo cáo
Hội thảo khoa học“Bảo tồn di tích và cuộc sống đương đại”) chỉ đạt hiệu quả cao
khi chúng ta tuân thủ theo các nguyên tắc khoa học sau:
- Thứ nhất, đảm bảo tính nguyên gốc, chỉ can thiệp tối thiểu tới di tích nhưng
cần thiết lập một cơ chế duy tu, bảo dưỡng thường xuyên và định kỳ để đảm bảo cho
di tích được ổn định lâu dài.
- Thứ hai, di tích có thể sử dụng và phát huy phục vụ nhu cầu xã hội theo
những chuẩn mực khoa học đã được xác định. Sử dụng và phát huy các mặt giá trị
của di tích cũng chính là biện pháp bảo tồn có hiệu quả nhất.
17

- Thứ ba, bảo tồn di sản văn hóa phải triển khai song song và phục vụ cho sự
phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại, phát triển phải kết hợp với bảo tồn di sản văn
hóa.
Tính nguyên gốc của di tích được thể hiện qua kiểu dáng, phong cách, nguyên
gốc về vật liệu xây dựng, về địa điểm xây dựng cũng như về cảnh quan môi trường.
Tính nguyên gốc của di tích cũng là nội dung cơ bản tạo nên sự khác biệt giữa thiết
kế xây dựng một công trình mới với thiết kế tu bổ di tích [69].
1.1.6. Bảo tồn văn hóa trong du lịch
Bảo tồn văn hóa trong du lịch là hoạt động mang tính cấp thiết hiện nay, bởi du
lịch và di sản văn hóa luôn có sự gắn kết chặt chẽ với nhau; nếu di sản văn hóa được
bảo tồn tốt thì tính hấp dẫn và giá trị của nó sẽ là cơ sở để phát triển du lịch, góp
phần phát triển kinh tế của quốc gia. Vì thế, công tác bảo tồn di sản văn hóa được
xác định là trách nhiệm của toàn xã hội.
1.1.6.1. Nội dung bảo tồn
Bảo tồn di sản văn hóa là hoạt động đặc trưng của con người để nhằm đảm bảo
sự tồn tại lâu dài, ổn định duy trì tính xác thực của các quá trình phát triển và đa
dạng của di sản văn hóa nhằm phát triển bền vững cho thế hệ hiện tại và tương lai.
[58, tr.84]
Từ khái niệm trên, ta thấy hoạt động bảo tồn bao gồm:

* Bảo vệ là hoạt động đảm bảo cho di sản không bị xâm phạm hoặc hư hỏng,
là việc áp dụng các biện pháp để gìn giữ di sản không bị hư hỏng, không bị phá hoại
(do cháy, ngập nước…) hoặc bị xâm phạm trái phép. Bảo vệ là sự gìn giữ di sản
bằng pháp luật.
- Tu bổ là hoạt động nhằm chống sự biến dạng di sản, khắc phục hư hỏng di
sản bằng các biện pháp sửa chữa (tu sửa) về kỹ thuật (chắp, vá, nối, gia cố, định
hình… gia cố, tôn tạo di tích bằng các biện pháp).
- Tu sửa cấp thiết di tích là hoạt động sửa chữa nhỏ nhằm gia cố, gia cường các
bộ phận di tích để kịp thời ngăn chặn di tích khỏi bị sập đổ trước khi tiến hành công
tác tu bổ toàn diện.
18

* Bảo tồn là những nổ lực nhằm tìm hiểu và nhận rõ được giá trị và ý nghĩa
của di sản, đảm bảo gìn giữ các vật liệu gốc, có thể cải tạo và nâng cấp cần thiết.
* Phục chế - Trùng tu là sự tái lập lại hình thức của di sản (với chi tiết về
nguyên liệu tạo tác, kỹ thuật chế tác cũng như những đặc điểm di sản) một cách
chuẩn xác như đã sẵn có trong một thời điểm xác định, bằng cách loại bỏ những chỗ
thay đổi không phù hợp hoặc bổ sung những bộ phận bị mất, tùy theo mức độ cần có
sự phân biệt giữa bộ phận và phục chế toàn phần.
* Tôn tạo trong nghĩa thông thường là đổi mới, sự cách tân, sự canh tân, sự
làm mới. Đối với di sản là việc bổ sung các thành phần mới nhằm phát huy giá trị di
sản và đáp ứng nhu cầu đổi mới của thời đại, các thành phần tôn tạo là biểu hiện của
thời hiện tại, nhưng nó phải phù hợp một cách hữu cơ với các thành phần cũ và cấu
trúc chung của di tích. Khái niệm này giúp cho việc diễn giải các di sản một cách
hoàn chỉnh nhất là khi những di sản ấy chỉ còn sót lại một phần hay một bộ phận. Cụ
thể là đưa những công trình lịch sử, văn hóa và những công trình phụ cận trở lại với
đời sống.
* Tái thiết là việc dựng lại di sản bằng các vật liệu, chất liệu cũ, theo hình thể
nguyên gốc, thường được áp dụng để có thông tin cụ thể về sự toàn vẹn của tổng thể
di sản và phải được tuân thủ theo nguyên tắc xác thực.

Để công tác bảo tồn đạt hiệu quả và đúng quy chế, chúng ta cần đảm bảo các
nội dung sau:
- Xây dựng dự án bảo tồn di tích, đây là bước quan trọng cần được thực hiện
bởi cơ quan chuyên môn có uy tín và kinh nghiệm thực tế làm tư vấn.
- Khảo sát thực tế nhằm thu thập các tư liệu, giá trị và hiện trạng của di tích;
đây là công việc có ý nghĩa quan trọng để thiết kế và thi công tu bổ di tích.
- Căn cứ vào hiện trạng di tích, tư liệu lịch sử thu thập được; tiến hành xây
dựng bản vẽ tu bổ, phục hồi đảm bảo trung thực các yếu tố nguyên gốc ban đầu theo
nguyên tắc bảo tồn và quy chế tu bổ di tích.[58]
1.1.6.2. Đối tượng bảo tồn
Đối tượng được bảo tồn là di sản văn hóa, bao gồm:
19

- Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, bao gồm di tích LSVH, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
- Di tích LSVH là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp
giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa
học.
1.1.6.3. Trách nhiệm của cơ quan quản lý
Căn cứ Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính
phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa, tại chương VII
đã quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý như sau:
* Trách nhiệm của Bộ Văn hóa - Thông tin
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa theo thẩm quyền hoặc trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt;
- Soạn thảo và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành
theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di

sản văn hóa;
- Xây dựng, ban hành tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ về bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa;
- Phê duyệt, thẩm định dự án bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa theo
thẩm quyền;
- Xếp hạng và cấp bằng xếp hạng di tích, hướng dẫn Chủ tịch ủy ban nhân dân
cấp tỉnh xếp hạng và cấp bằng xếp hạng di tích theo thẩm quyền;
- Xếp hạng bảo tàng, hướng dẫn người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ quản và
Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh xếp hạng bảo tàng theo thẩm quyền;
- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ, công chức và nhân viên làm công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa;
20

- Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học và
công nghệ tiên tiến trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
- Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa;
- Tổ chức công tác thi đua, khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về di sản văn hóa; giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật về di sản văn hóa;
- Thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật có liên
quan về di sản văn hóa.
* Trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ VHTT và các bộ, ngành có liên
quan xây dựng quy hoạch, kế hoạch, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
- Tổng hợp và cân đối vốn đầu tư hàng năm cho các dự án bảo vệ và phát huy
giá trị di tích quốc gia đặc biệt, bảo tàng quốc gia, di tích lịch sử cách mạng và di
sản văn hóa phi vật thể có giá trị tiêu biểu.

- Thẩm định các dự án bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa theo thẩm
quyền.
* Trách nhiệm của Bộ Tài chính
- Bộ Tài chính bảo đảm kinh phí thường xuyên cho hoạt động bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hóa.
- Kiểm tra việc cấp phát, quản lý và sử dụng kinh phí theo quy định của pháp
luật.
- Ban hành hoặc phối hợp với Bộ VHTT ban hành các văn bản quy định phí, lệ
phí và việc thu nộp, quản lý, sử dụng phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa theo sự phân cấp của Chính phủ.
- Ngăn chặn, xử lý việc xuất khẩu, nhập khẩu trái phép di sản văn hóa.
* Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Thương mại
21

- Các cơ quan phối hợp với Bộ VHTT và ủy ban nhân dân các cấp giữ gìn an
ninh trật tự trong các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
- Phối hợp với các bộ, ngành có liên quan và ủy ban nhân dân các cấp ngăn
chặn, xử lý việc mua bán, trao đổi, vận chuyển trái phép di sản văn hóa ở trong nước
hoặc đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài.
* Trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ VHTT tổ chức giáo dục về bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đưa việc tham quan học tập, nghiên cứu di sản văn
hóa vào chương trình giáo dục hàng năm của các cấp học, trường học.
- Tạo điều kiện để người học đi tham quan thâm nhập thực tế tại các di sản văn
hóa.
* Trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ
- Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ VHTT trong việc lập
quy hoạch, kế hoạch về các dự án khoa học bảo vệ môi trường tại các di tích; xây
dựng và chỉ đạo thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học trong việc bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hóa.

- Phối hợp với các bộ, ngành có liên quan và ủy ban nhân dân các cấp trong
việc đầu tư khoa học, công nghệ tiên tiến để bảo vệ môi trường bền vững tại những
nơi có di tích.
* Trách nhiệm của Bộ Xây dựng
- Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ VHTT và các bộ, ngành có liên quan
xây dựng quy hoạch, kế hoạch về xây dựng bảo đảm cho việc duy trì và phát huy giá
trị di sản văn hóa; xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, định mức trong bảo quản,
tu bổ, phục hồi di tích.
- Phối hợp với Bộ VHTT ban hành văn bản quy định cụ thể việc thẩm định các
dự án về xây dựng, cải tạo các công trình nằm ngoài các khu vực bảo vệ di tích mà
có khả năng ảnh hưởng xấu tới di tích, hoặc các công trình cải tạo, xây dựng trong
quá trình xây dựng mà phát hiện có di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
22

* Trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên
và Môi trường
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ VHTT và
các bộ, ngành có liên quan xây dựng quy hoạch, kế hoạch trong việc bảo vệ và phát
triển các khu rừng đặc dụng được xếp hạng hoặc sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, hệ thống thủy lợi phù hợp với yêu cầu, duy trì, bảo vệ các di tích theo quy
định của pháp luật.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ VHTTvà các bộ,
ngành có liên quan lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong cả nước bảo đảm yêu
cầu bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; phối hợp với Bộ VHTT soạn thảo
trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định đối với việc
xác định địa giới và cắm mốc giới các khu vực bảo vệ di tích; hướng dẫn việc lập và
xác nhận vào bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích.
* Trách nhiệm của Tổng cục Du lịch
- Tổng cục Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ VHTT, các bộ, ngành có liên quan
và ủy ban nhân dân các cấp trong việc tổ chức khai thác những giá trị của di sản văn

hóa phục vụ cho việc phát triển du lịch bền vững. Hướng dẫn du khách thực hiện
đúng nội quy, quy chế tại các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh.
- Phối hợp với Bộ VHTT và ủy ban nhân dân các cấp đầu tư bảo tồn, tôn tạo di
tích, làng nghề thủ công, lễ hội truyền thống ở các trung tâm và các tuyến du lịch;
giữ gìn, bảo vệ di sản văn hóa trong hoạt động du lịch.
1.1.6.4. Trách nhiệm của doanh nghiệp du lịch
Mục đích của doanh nghiệp du lịch là lợi nhuận, vì thế khi kinh doanh họ chỉ
quan tâm đến việc khai thác di sản thế nào để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất mà
ít (hoặc không) quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản.
Vì thế, để du lịch gắn liền với di sản văn hóa, cũng như đảm bảo các nguyên
tắc phát triển du lịch, nhất thiết cần phải có sự kết hợp của các doanh nghiệp du lịch
với cơ quan quản lý trong vấn đề bảo tồn văn hóa.
23

Để hoạt động bảo tồn văn hóa được diễn ra song song với sự phát triển kinh tế
- xã hội, các doanh nghiệp du lịch phải thực hiện các trách nhiệm:
- Nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa; khai thác phát triển du lịch không làm ảnh hưởng đến di sản văn hóa.
- Kết hợp với chính quyền và các nhà quản lý trong việc bảo tồn và phát huy
giá trị di sản phục vụ phát triển du lịch.
- Đóng góp nguồn vốn để đầu tư cho công tác bảo tồn di sản.
Muốn doanh nghiệp nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình, các nhà quản lý
cần phải đưa ra cơ chế cụ thể bắt buộc khi doanh nghiệp làm du lịch ở di sản nào thì
phải có trách nhiệm bảo tồn và phát huy giá trị của di sản đó.
1.1.6.5. Trách nhiệm của cộng đồng cư dân và chính quyền địa phương
* Trách nhiệm của cộng đồng cư dân
Bên cạnh trách nhiệm quản lý của nhà nước thì cộng đồng dân cư cũng đóng
vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Nếu công tác bảo tồn di tích được thực hiện tốt thì đó là điều kiện để địa
phương phát triển du lịch. Du lịch địa phương phát triển sẽ trực tiếp tạo việc làm

cho người dân địa phương, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống cho họ. Để duy
trì lợi ích đó, đòi hỏi người dân địa phương phải nâng cao hơn nữa vai trò và trách
nhiệm của mình trong việc bảo tồn và phát huy giá trị các di tích. Tuy nhiên, nhận
thức và sự tham gia của cộng đồng vào quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản
chưa thực sự đồng đều. Thực tế cho thấy, người dân địa phương chỉ quan tâm đến
việc khai thác và hưởng lợi từ di sản mà không ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ
của mình đối với việc bảo vệ di sản là gì?
Để cộng đồng dân cư thực sự gắn bó cùng với các cơ quan quản lý nhà nước
tham gia vào việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản, nhất thiết phải đảm bảo lợi
ích về kinh tế cho họ, từng bước tuyên truyền, giáo dục để cộng đồng nhận thức rõ
trách nhiệm quan trọng của mình:
24

- Luôn nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc giữ gìn và phát huy giá trị của
các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh của nhân loại nói chung và của địa
phương nói riêng.
- Nâng cao ý thức tôn trọng Luật di sản văn hóa, đề cao di sản văn hóa dân tộc.
- Phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện tốt công tác bảo tồn di sản.
- Phát triển du lịch không làm xâm hại đến di sản.
- Đóng góp sức người, sức của góp phần bảo tồn di sản văn hóa.
- Tôn trọng, giữ gìn di sản mình có dịp tham quan.
- Tuyên truyền, vận động mọi người cùng tham gia công tác bảo tồn di sản.
* Trách nhiệm của chính quyền địa phương
Căn cứ Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính
phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa, tại chương VII
đã quy định trách nhiệm của chính quyền địa phương như sau:
- Trách nhiệm của ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa
trong phạm vi địa phương có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Xây dựng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vật

thể và di sản văn hoá phi vật thể ở địa phương;
+ Quản lý việc sưu tầm, nghiên cứu di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa
phi vật thể theo quy định của pháp luật;
+ Tổ chức chỉ đạo, cấp giấy phép cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa trong phạm vi địa phương theo thẩm quyền;
+ Quyết định thành lập và xếp hạng bảo tàng theo thẩm quyền;
+ Phê duyệt các dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích theo quy định của
pháp luật;
+ Tổ chức kiểm kê, đăng ký di tích; quyết định xếp hạng và hủy bỏ xếp hạng
di tích cấp tỉnh; lập hồ sơ khoa học trình Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin quyết
định xếp hạng di tích quốc gia; chỉ đạo việc tổ chức lập hồ sơ khoa học di sản văn
hóa phi vật thể ở địa phương;
25

+ Thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về di sản văn hóa;
giải quyết khiếu nại, tố cáo; khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn
hóa;
+ Thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật có liên
quan về di sản văn hóa.
- Trách nhiệm của ủy ban nhân dân cấp huyện
Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể trong phạm vi địa phương; tổ chức
ngăn chặn, bảo vệ, xử lý vi phạm; đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
việc xếp hạng và xây dựng kế hoạch bảo vệ, bảo quản, tu bổ và phát huy giá trị di
tích.
- Trách nhiệm của ủy ban nhân dân cấp xã
+ Tổ chức bảo vệ, bảo quản cấp thiết di sản văn hóa.
+ Tiếp nhận những khai báo về di sản văn hóa để chuyển lên cơ quan cấp trên.
+ Kiến nghị việc xếp hạng di tích.
+ Phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời mọi hành vi làm ảnh hưởng tới sự an

toàn của di sản văn hóa.
+ Ngăn chặn và xử lý các hoạt động mê tín dị đoan theo thẩm quyền.
Trong hoạt động du lịch, các chủ thể tham gia bảo tồn di tích gồm: doanh
nghiệp du lịch, du khách và cư dân địa phương. Do đó, ngoài trách nhiệm của doanh
nghiệp du lịch và cư dân địa phương được nêu trên thì du khách trong thời gian ở
điểm du lịch cũng thực hiện trách nhiệm của mình nhằm góp phần bảo tồn di tích,
duy trì và nâng cao chất lượng du lịch: không vứt rác, các chất thải, không xâm hại
đến tài nguyên du lịch…
1.2. Tác động của du lịch tới các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng trong du
lịch
1.2.1. Những tác động tích cực của du lịch đối với các di tích lịch sử văn hóa và
danh thắng trong du lịch

×