Tải bản đầy đủ (.pdf) (151 trang)

Xây dựng tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.16 MB, 151 trang )

1

Đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn


NGUYN TH HNG





XY DNG TUYN IM DU LCH
VN HểA TM LINH TNH HI DNG




luận văn thạc sĩ du lịch






Hà Nội, 2014


2



Đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn



NGUYN TH HNG


XY DNG TUYN IM DU LCH
VN HểA TM LINH TNH HI DNG


Chuyên ngành: Du lịch
(Ch-ơng trình đào tạo thí điểm)


luận văn thạc sĩ du lịch


ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. TRIU TH VIT



Hà Nội, 2014


3

LỜI CẢM ƠN




Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã nhận đƣợc sự hƣớng dẫn,
chỉ bảo quý báu, nhiệt tình và trách nhiệm của TS. Triệu Thế Việt. Với tất cả
tình cảm của mình tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy.
Đồng thời tác giả còn nhận đƣợc sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa
Du lịch học, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc
gia Hà Nội, các Sở, ban, ngành của tỉnh Hải Dƣơng. Tác giả xin chân thành
cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Tác giả cũng xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ nhiệt tình của gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp trong thời gian học tập và nghiên cứu.


Hà Nội, tháng 02 năm 2014
Học viên



Nguyễn Thị Hường

4

DANH MỤC CÁC BẢNG, BẢN ĐỒ

Bảng 2.1. Tốc độ tăng trƣởng khách du lịch giai đoạn 2006 – 2012
Bảng 2.2. Số liệu khách tham quan khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc (2006 –
2012)
Bảng 2.3. Số lƣợt khách tham quan đền thờ Chu Văn An (2007 –2012)
Bảng 2.4. Số lƣợt khách tham quan Văn Miếu Mao Điền (2007 – 2012)
Bảng 3.1. Chỉ tiêu phát triển du lịch đến năm 2020

Bảng 3.2. Dự báo khách du lịch đến năm 2020
Bản đồ hành chính của tỉnh Hải Dƣơng
Bản đồ tài nguyên du lịch tỉnh Hải Dƣơng
Bản đồ tuyến điểm du lịch văn hóa tỉnh Hải Dƣơng











5

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 7
1.Lý do chọn đề tài 7
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
2.1. Mục đích 8
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 8
3. Lƣợc sử vấn đề nghiên cứu 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 10
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu 10
4.2. Phạm vi nghiên cứu 10
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 10
5.1. Phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin 10

5.2. Phƣơng pháp khảo sát, điều tra thực địa 11
5.3. Phƣơng pháp bản đồ - GIS 12
5.4. Phƣơng pháp chuyên gia 12
6. Những đóng góp của luận văn 13
7. Bố cục của luận văn 13
NỘI DUNG 14
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH VÀ
XÂY DỰNG TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH 14
1.1. Du lịch văn hoá và du lịch văn hoá tâm linh 14
1.1.1. Du lịch văn hoá 14
1.1.2. Du lịch văn hoá tâm linh 15
1.2. Tuyến điểm du lịch và tuyến điểm du lịch văn hoá tâm linh 23
1.2.1 Tuyến điểm du lịch 23
1.2.2. Tuyến, điểm du lịch văn hoá tâm linh 25
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh
26
1.3. Một số vấn đề cơ bản về tuyến điểm du lịch và tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh
ở Việt Nam 30
1.3.1. Một số vấn đề cơ bản về tuyến điểm du lịch ở Việt Nam 31
1.3.2. Một số vấn đề cơ bản về tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh 32
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH VÀ XÂY
DỰNG TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH Ở TỈNH HẢI DƢƠNG 34
2.1. Khái quát về tỉnh Hải Dƣơng 34
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 34
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 35
2.2. Tài nguyên du lịch văn hoá tâm linh tỉnh Hải Dƣơng 37
2.2.1. Khái quát nguồn tài nguyên du lịch văn hoá tâm linh 37
2.2.2.Những giá trị tiêu biểu 41
2.3. Các điểm tài nguyên tiêu biểu 59
2.31. Khu di tích và danh thắng Côn Sơn 59

2.3.2. Đền Kiếp Bạc 60
2.3.3. Đền thờ Tư nghiệp Chu Văn An 63
2.3.4. Đền Sinh – đền Hóa 63
2.3.5. Chùa Thanh Mai 64
2.3.6. Đền Cao – An Lạc 65
6

2.3.7. Đền Tranh 66
2.3.8. Văn miếu Mao Điền 67
2.4. Các lễ hội tiêu biểu 68
2.4.1. Lễ hội cụm di tích đền Cao – An Lạc 68
2.4.2. Lễ hội Côn Sơn 70
2.4.3. Lễ hội Kiếp Bạc 71
2.4.4. Lễ hội đền Sinh - đền Hóa 74
2.5. Thực trạng khai thác du lịch văn hoá tâm linh và xây dựng tuyến điểm du lịch văn
hoá tâm linh ở tỉnh Hải Dƣơng 76
2.5.1. Thực trạng khai thác, phát triển du lịch và du lịch văn hoá tâm linh 76
2.5.2. Thực trạng các tuyến điểm du lịch và tuyến điểm du lịch văn hoá tâm linh trên
địa bàn tỉnh 84
2.5.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng tuyến điểm du lịch văn hoá tâm linh
ở Hải Dương 85
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH VĂN HÓA
TÂM LINH Ở TỈNH HẢI DƢƠNG 89
3.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp xây dựng tuyến điểm du lịch văn hoá tâm linh ở tỉnh
Hải Dƣơng 89
3.1.1. Định hướng phát triển du lịch của tỉnh Hải Dương đến từ năm 2010 đến năm
2020. 89
3.1.2. Những điều kiện cụ thể của Hải Dương trong việc xây dựng các tuyến điểm du
lịch văn hoá tâm linh 95
3.2. Đề xuất xây dựng một số tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh tỉnh Hải Dƣơng 97

3.3. Các giải pháp cụ thể 100
3.3.1. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể và bảo đảm được tính
thiêng của các di tích lịch sử, văn hóa 100
3.3.2.Tuyên truyền quảng bá – giáo dục cộng đồng 101
3.3.3. Vốn đầu tư 102
3.3.4. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách và tăng cường công tác quản lý nhà
nước về du lịch 103
3.3.5. Giải pháp mở rộng thị trường 104
3.3.6. Nguồn nhân lực cho tuyến điểm du lịch 104
3.3.7. Quản lý và quy hoạch du lịch 105
3.4. Một số kiến nghị 106
KẾT LUẬN 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
7

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, khi kinh tế của đất nƣớc đã phát triển, sự nhận thức
và trình độ dân trí của con ngƣời đã đƣợc nâng cao, việc đi du lịch là nhu cầu không
thể thiếu, nó dƣờng nhƣ đã trở thành một tiêu chí trong cuộc sống. Chính vì vậy du
lịch ngày càng phát triển và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn mang lại nhiều lợi ích
cho mỗi con ngƣời và mỗi quốc gia với nhiều loại hình du lịch khác nhau nhƣ du
lịch biển, du lịch nghỉ dƣỡng, du lịch văn hóa… gần đây ngƣời ta hay nhắc tới một
loại hình mới đó là loại hình du lịch văn hóa tâm linh. Trên thế giới, từ lâu du lịch
văn hóa tâm linh là một loại hình du lịch khá phát triển đặc biệt ở những quốc gia
châu Á theo đạo Phật nhƣ Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan… Ở Việt Nam
loại hình du lịch văn hóa tâm linh này vẫn còn khá mới lạ tuy nhiên nó đã có sức
thu hút mạnh. Trong những năm gần đây văn hóa tâm linh đang là một vấn đề đƣợc
nhiều ngƣời quan tâm và đƣợc nhắc đến nhiều hơn. Văn hóa tâm linh đƣợc coi là
một mặt của hoạt động văn hóa xã hội trong đời sống con ngƣời, nó đƣợc biểu hiện

ra những khía cạnh vật chất hoặc tinh thần, mang lại những giá trị thiêng liêng trong
cuộc sống thƣờng ngày và trong cuộc sống tín ngƣỡng tôn giáo, thể hiện nhận thức,
thái độ của con ngƣời. Loại hình du lịch văn hóa tâm linh mới đang dần thực sự
đƣợc quan tâm đúng mực tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi trong vấn đề tâm
linh này. Thông thƣờng du lịch văn hóa tâm linh gắn với lịch sử dân tộc, gắn với
đức tin và hƣớng thiện. Việc phát triển đúng hƣớng loại hình du lịch văn hóa tâm
linh ngoài mục đích thúc đẩy nền kinh tế phát triển còn mang lại nhiều giá trị truyền
thống, những giá trị tinh thần, những giá trị lịch sử xã hội.
Hải Dƣơng là một tỉnh nằm ở trung tâm của khu vực đồng bằng Bắc bộ, nơi
đƣợc coi là cái nôi của nền văn minh châu thổ sông Hồng, nằm trong tam giác tăng
trƣởng kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Hải Dƣơng chứa đựng chiều sâu
văn hóa lịch sử của một vùng đất thành Đông. Là một tỉnh có nguồn tài nguyên du
lịch tƣơng đối đa dạng, giàu bản sắc văn hóa có thể khai thác, phát triển đƣợc nhiều
loại hình du lịch nhƣ du lịch văn hóa, du lịch văn hóa nghỉ dƣỡng, du lịch tham
quan, du lịch cuối tuần… Đặc biệt Hải Dƣơng có tiềm năng khai thác một loại hình
du mới đó là du lịch văn hóa tâm linh bởi hiện nay trên địa bàn tỉnh có số lƣợng di
tích lịch sử, văn hóa tƣơng đối lớn với hơn 1089 di tích lớn nhỏ, trong đó có hơn
175 di tích đƣợc xếp hạng quốc gia bao gồm: đền, chùa, đình, miếu, các văn chỉ, các
di tích cách mạng… cùng với các lễ hội phong phú, đặc sắc mang đậm đà bản sắc
dân tộc tiêu biểu là Côn Sơn – Kiếp Bạc, Văn miếu Mao Điền, khu di tích và danh
8

thắng An Phụ- Kinh Môn, đền Tranh – Ninh Giang Gắn liền với các di tích và
danh thắng ấy là tên tuổi của các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới của
Việt Nam từ xa xƣa nhƣ Trần Hƣng Đạo, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Mạc Đĩnh
Chi, cùng với những nét đặc biệt trong tín ngƣỡng, tôn giáo nơi đây.
Thực tế các điểm du lịch văn hóa tâm linh của Hải Dƣơng phát triển một
cách đơn lẻ chƣa có sự quy hoạch gắn kết với nhau tạo thành các tuyến điểm du lịch
có giá trị hoạt động du lịch của Hải Dƣơng lại chƣa thực sự phát triển tƣơng xứng
với tiềm năng vốn có của tỉnh.Nói đến du lịch Hải Dƣơng du khách mới chỉ thực sự

biết đến hai di tích đƣợc xếp hạng đặc biệt quan trọng cấp quốc gia là Côn Sơn và
Kiếp Bạc còn rất nhiều những di tích khác của tỉnh mới chỉ có số lƣợng ít du khách
biết đến. Hình ảnh du lịch Hải Dƣơng nhìn chung còn mờ nhạt, chƣa thực sự tạo
đƣợc dấu ấn và sự quan tâm trong lòng du khách bởi một số lí do nhƣ sau:
- Sản phẩm du lịch của Hải Dƣơng chƣa đặc sắc, còn đơn điệu.
- Chất lƣợng nguồn khách chƣa cao, thời gian lƣu trú tại Hải Dƣơng còn
ngắn dẫn đến hiệu quả kinh doanh chƣa cao.
- Hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch còn hạn chế về quy mô, hình thức và
nội dung.
- Phát triển du lịch chƣa thực sự gắn với công tác bảo tồn các giá trị văn hóa,
môi trƣờng tự nhiên và chƣa thực sự đem lại nhiều lợi ích cho cộng đồng…
Vấn đề đặt ra cho ngành du lịch Hải Dƣơng nói riêng và toàn tỉnh nói chung
là làm thế nào để khách du lịch biết đến Hải Dƣơng nhiều hơn, để hoạt động du lịch
đƣợc phát triển nhiều hơn cũng nhƣ khai thác đƣợc tối đa các giá trị sinh thái, giá trị
văn hóa, lịch sử, giá trị tâm linh của các công trình kiến trúc, các di tích lịch sử, văn
hóa? Chính vì vậy tác giả lựa chọn đề tài:“Xây dựng tuyến điểm du lịch văn hóa
tâm linh tỉnh Hải Dương” làm luận văn của mình, góp phần nhỏ bé vào trong việc
phát triển du lịch tỉnh nhà trong tƣơng lai.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở vận dụng lý luận và thực tiễn về xây dựng tuyến điểm du lịch, du
lịch văn hóa và du lịch văn hóa tâm linh, mục đích chính của đề tài là nghiên cứu
xây dựng tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh, thực trạng hoạt động du lịch văn hóa
tâm linh của Hải Dƣơng; Các giá trị của một số di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu và
ý nghĩa tâm linh của các di tích để từ đó đề xuất một số tuyến điểm du lịch văn hóa
tâm linh nhằm phát triển loại hình du lịch mới của tỉnh Hải Dƣơng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
9

- Tác giả tập trung đi vào nghiên cứu tổng quan các vấn đề lí luận và thực

tiễn về xây dựng tuyến điểm du lịch và du lịch văn hóa tâm linh
- Tập trung phân tích, đánh giá các giá trị và ý nghĩa một số di tích tiêu biểu
của tỉnh Hải Dƣơng; hiện trạng hoạt động du lịch văn hóa tâm linh và tuyến điểm
du lịch văn hóa tâm linh.
- Đề xuất một số tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh và một số giải pháp
xây dựng các tuyến, điểm du lịch văn hóa tâm linh.
3. Lƣợc sử vấn đề nghiên cứu
Về vấn đề văn hóa tâm linh gần đây cũng đƣợc nhiều tác giả chú ý quan tâm
và nghiên cứu, trong đó nổi bật là cuốn sách “Văn hóa tâm linh” của tác giả
Nguyễn Đăng Duy (2011), Nhà xuất bản văn hóa thông tin. Trong cuốn sách này tác
giả cũng đã đƣa ra khái niệm về tâm linh, văn hóa tâm linh đồng thời tác giả cũng
trình bày rõ về tâm linh trong mọi mặt của đời sống của cá nhân, gia đình, cộng
đồng làng xã, với tổ quốc giang sơn đất nƣớc, trong văn hóa nghệ thuật, tâm linh
với tín ngƣỡng, tôn giáo và với mê tín dị đoan.
GS - TS Cao Ngọc Lân – tác giả cuốn “Tìm hiểu văn hóa tâm linh của người
Việt”, trong cuốn sách này tác giả chủ yếu đề cập đến văn hóa tâm linh trong đời
sống hàng ngày nhƣ nghi lễ thờ cúng trong gia đình; Phong tục lễ tết; Nghi lễ của
cuộc đời; Nghi lễ ma chay cúng giỗ, cƣới hỏi. Ngoài ra cuốn sách đã trình bày hơn
100 bài văn cúng để ngƣời đọc có thể tìm hiểu thêm về nghi lễ thờ cúng.
Trong luận văn tốt nghiệp năm 2012 “Tìm hiểu hoạt động du lịch văn hóa
tâm linh của người Hà Nội (Khảo sát trên địa bàn quận Đống Đa)” của tác giả
Đoàn Thị Thùy Trang cũng đã đƣa ra một số vấn đề lý luận về văn hóa tâm linh và
du lịch văn hóa tâm linh nói chung. Ngoài ra tác giả cũng nêu ra đƣợc thực trạng du
lịch văn hóa tâm linh của ngƣời Hà Nội và một số giải pháp đối với hoạt động văn
hóa tâm linh của ngƣời Hà Nội. Tuy nhiên tác giả cũng chƣa đƣa ra đƣợc các tuyến
điểm du lịch văn hóa tâm linh của Hà Nội.
Về tuyến điểm du lịch, Th.s Bùi Thị Hải Yến có cuốn sách “Tuyến điểm du
lịch Việt Nam”. Nội dung của cuốn sách giới thiệu khái quát về điều kiện tự nhiên,
tài nguyên du lịch và kết cấu hạ tầng của Việt Nam, đồng thời tác giả cũng đi sâu
vào việc khai thác các tuyến điểm của các vùng du lịch trong cả nƣớc.

Luận văn tốt nghiệp của Phùng Thị Hằng năm 2008 là “Xây dựng một số
điểm, tuyến du lịch ở khu vực phía tây Hà Nội trong tiến trình hội nhập”, với đề tài
này tác giả nghiên cứu chuyên sâu về khoa học địa lý với các phƣơng pháp nghiên
10

cứu thế mạnh nhƣ phƣơng pháp bản đồ, phƣơng pháp thang điểm tổng hợp, đề tài
đã khoanh vùng nghiên cứu xây dựng tuyến điểm du lịch của tỉnh Hà Tây cũ.
Ngoài ra phải kể đến luận văn tốt nghiệp năm 2012 “Xây dựng một số tuyến
điểm du lịch của thành phố Hà Nội sau khi mở rộng địa giới” của Đinh Nhật Lê, với
đề tài này tác giả cũng đã đƣa ra đƣợc cơ sở lí luận và thực tiễn về xây dựng tuyến
điểm du lịch của thành phố Hà Nội sau khi mở rộng địa giới. Đồng thời tác giả cũng
đã nghiên cứu việc xây dựng một số tuyến điểm du lịch của thành phố Hà Nội và
đƣa ra một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả các tuyến điểm đó.
Đề tài cấp nhà nƣớc về tuyến điểm du lịch phải kể đến đề tài khoa học cấp bộ
của PGS.TS Phạm Trung Lƣơng và nhóm nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu phát
triển du lịch “Cơ sở khoa học xây dựng các tuyến điểm du lịch”. Có thể nói đây là
một đề tài nghiên cứu đạt đƣợc nhiều thành công, có tính ứng dụng cao, là cơ sở
quan trong cho các đề tài nghiên cứu ứng dụng về xây dựng các tuyến điểm du lịch.
Nhìn chung đã có nhiều tác giả với nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề
văn hóa tâm linh và xây dựng tuyến điểm du lịch với những nội dung phong phú,
đa dạng. Tuy nhiên về xây dựng tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh còn là vấn đề
khá mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu chính của luận văn là thực trạng phát triển du lịch và
tuyến điểm du lịch tỉnh Hải Dƣơng, một số di tích tiêu biểu cùng với các giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể của tỉnh Hải Dƣơng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về không gian:
Nghiên cứu việc xây dựng tuyến điểm du lịch và hoạt động du lịch văn hóa

tâm linh tỉnh Hải Dƣơng. Nghiên cứu các giá trị văn hóa tâm linh của các di tích
lịch sử, văn hóa của tỉnh Hải Dƣơng, chủ yếu là các di tích lịch sử văn hóa tập trung
tại thị xã Chí Linh.
* Về thời gian:
- Đề tài tập trung điều tra, thu thập số liệu, phân tích và nghiên cứu chủ yếu
trong giai đoạn từ năm 2006 – đến hết năm 2012.
- Với các di tích: Nghiên cứu từ khi đƣợc hình thành đến nay
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin
11

Trong luận văn tác giả đã sử dụng phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin
nhằm thu thập các tài liệu liên quan đến các vấn đề về du lịch văn hóa tâm linh nói
chung, các nghi lễ, lễ hội liên quan đến tín ngƣỡng, tôn giáo của ngƣời Việt Nam…
thực trạng của các di tích trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng (chủ yếu là các huyện, thị xã
nhƣ Chí Linh, Kinh Môn, Cẩm Giàng và Ninh Giang), các tài liệu phục vụ cho việc
xác định cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn, các vấn đề về chủ trƣơng chính
sách liên quan đến nội dung nghiên cứu các vấn đề về khai thác tuyến, điểm văn
hóa tâm linh trong hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng; các tài liệu có
tính chất nghiên cứu khác nhƣ Quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Hải Dƣơng giai
đoạn 2011 – 2020.
Dựa vào các nguồn tài liệu thu thập đƣợc, tiến hành phân tích, so sánh, tổng
hợp nhằm mục đích khái quát đƣợc cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch văn hóa
tâm linh, đánh giá đúng tiềm năng và hiện trạng phát huy các giá trị của di tích lịch
sử, văn hóa và danh thắng của tỉnh Hải Dƣơng, từ đó đề xuất đƣa ra một số tuyến,
điểm du lịch phù hợp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa tâm linh của tỉnh
Hải Dƣơng.
5.2. Phƣơng pháp khảo sát, điều tra thực địa
Khảo sát và điều tra thực địa là một phƣơng pháp quan sát để thu thập các
thông tin phục vụ cho vấn đề nghiên cứu, đây là một trong những phƣơng pháp

truyền thống, đặc trƣng quan trọng nhất của ngành Địa lí học và Du lịch học. Để
hoàn thành luận văn tác giả đã tiến hành khảo sát, điều tra thực địa tại các di tích
trọng điểm có khả năng khai thác phục vụ mục đích du lịch văn hóa tâm linh trên
địa bàn tỉnh Hải Dƣơng cụ thể là khu danh thắng Côn Sơn – Kiếp Bạc, đền thờ Chu
Văn An, đền Sinh – đền Hóa, chùa Thanh Mai, cụm di tích đền Cao, Văn miếu Mao
Điền, đền Tranh, đền Cao – An Phụ
Thời gian khảo sát, thực địa vào mùa lễ hội của các di tích và tháng 7 dƣơng
lịch (tháng nghỉ hè và cũng là thời điểm các di tích thƣờng vắng khách). Các hoạt
động tác giả tiến hành khi đi khảo sát, điều tra thực địa là quan sát, mô tả, điều tra,
ghi chép, chụp ảnh, ghi âm tại các điểm cần nghiên cứu; Đồng thời tác giả đã tiến
hành gặp gỡ, trao đổi với các nhà quản lý các khu di tích và danh thắng, chính
quyền địa phƣơng, cơ quan quản lý tài nguyên (ban quản lí các di tích, phòng quản
lí di sản - Sở Văn hoá- Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dƣơng), cơ quan quản lý
chuyên ngành ở địa phƣơng và cộng đồng sở tại (Phòng Nghiệp vụ du lịch- Sở Văn
hoá- Thể thao và Du lịch Hải Dƣơng).
12

Việc khảo sát, điều tra thực địa giúp tác giả tránh đƣợc những kết luận, quyết
định chủ quan, vội vàng, thiếu cơ sở thực tiễn. Ngoài ra còn giúp cho việc so sánh,
đánh giá và kiểm tra độ chính xác của những tƣ liệu đã có, khắc phục hiệu quả
những hạn chế của phƣơng pháp thu thập, xử lý số liệu trong phòng.
5.3. Phƣơng pháp bản đồ - GIS
Phƣơng pháp này có mặt ngay từ khi Địa lý du lịch ra đời với tƣ cách nhƣ
một khoa học. Bản đồ là một phƣơng tiện không những phản ánh những đặc điểm
về không gian, về nguồn tài nguyên, các luồng khách, các cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ du lịch hoặc thuộc tính riêng của hệ thống lãnh thổ nghỉ ngơi du lịch.
Phƣơng pháp sử dụng hệ thống thông tin địa lý cho phép kết hợp các thông
tin với các đối tƣợng của bản đồ và tạo ra các mối quan hệ mới có thể đƣợc sử dụng
cho nhiều mục đích ứng dụng nhƣ: đánh giá tài nguyên, xác định vị trí thuận lợi cho
phát triển các tuyến du lịch, đánh giá các tác động đến môi trƣờng.

Từ quá trình nghiên cứu, tích luỹ thêm kiến thức về thực tế về các di tích ở
Hải Dƣơng tác giả dự kiến trong luận văn tác giả sẽ xây dựng 2 bản đồ tài nguyên
nhân văn, tỉnh Hải Dƣơng và bản đồ tuyến, điểm du lịch văn hóa tâm linh tỉnh Hải
Dƣơng thể hiện kết quả nghiên cứu.
5.4. Phƣơng pháp chuyên gia
Phƣơng pháp chuyên gia đóng vai trò quan trọng trong việc định hƣớng đƣa
ra các kết luận, kiến nghị và lựa chọn các phƣơng án phát triển với những thông tin
lƣợng hoá chính xác.Việc tranh thủ trao đổi ý kiến với lãnh đạo các cấp của địa
phƣơng nghiên cứu, các ngành - lĩnh vực có liên quan, cùng với đội ngũ cán bộ
khoa học, cán bộ nghiên cứu trong các lĩnh vực nhƣ văn hóa, du lịch, kinh doanh
dịch vụ du lịch, địa lí…
Ngoài việc sử dụng các phƣơng pháp trên vào quá trình nghiên cứu tác giả
còn sử dụng một số phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng pháp giải mã văn hóa (khi tiếp
cận các công trình kiến trúc văn hóa, lịch sử), phƣơng pháp miêu thuật để miêu tả,
lại các công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngƣỡng và thuật lại diễn trình các lễ hội tiêu
biểu.
13

6. Những đóng góp của luận văn
- Xây dựng đƣợc cơ sở lí luận và thực tiễn về tuyến điểm du lịch, du lịch văn
hóa và du lịch văn hóa tâm linh.
- Tìm hiểu thực trạng khai thác du lịch văn hóa tâm linh và việc xây dựng
tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh ở Hải Dƣơng.
- Khẳng định vai trò, vị trí của các di tích trong đời sống cộng đồng cƣ dân
Hải Dƣơng.
- Đề xuất một số tuyến điểm và một số giải pháp xây dựng, khai thác một
cách có hiệu quả tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh ở tỉnh Hải Dƣơng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung của luận văn đƣợc bố cục
thành ba chƣơng:

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về du lịch văn hóa tâm linh và xây dựng
tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh
Chƣơng 2: Thực trạng khai thác du lịch văn hóa tâm linh và xây dựng tuyến
điểm du lịch văn hóa tâm linh ở tỉnh Hải Dƣơng
Chƣơng 3: Một số giải pháp xây dựng tuyến điểm du lịch văn hóa tâm linh ở
tỉnh Hải Dƣơng
14

NỘI DUNG
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HÓA TÂM
LINH VÀ XÂY DỰNG TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH
1.1. Du lịch văn hoá và du lịch văn hoá tâm linh
1.1.1. Du lịch văn hoá
Ngày nay du lịch văn hóa đang là một xu hƣớng của các nƣớc đang phát
triển, đem lại lợi ích lớn lao cho cộng đồng xã hội. Bên cạnh những loại hình du
lịch truyền thống nhƣ du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo
hiểm… gần đây du lịch văn hóa đƣợc xem là loại sản phẩm đặc thù của các nƣớc
đang phát triển, thu hút nhiều du khách quốc tế. Du lịch văn hóa là loại hình du lịch
chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả
những phong tục tập quán, những tín ngƣỡng, tôn giáo… để tạo sức hút đối với
khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch thích
nghiên cứu khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa thì du lịch văn hóa là
cơ hội tốt để phát triển nhu cầu của họ. Loại hình du lịch văn hóa này rất phù hợp
với bối cảnh của Việt Nam bởi Việt Nam là quốc gia giàu truyền thống văn hóa, có
nét đặc sắc trong phong tục, tập quán, tín ngƣỡng, tôn giáo.
Du lịch văn hóa là một trong những loại hình du lịch bền vững, hấp dẫn du
khách, có nhiều điều kiện, nguồn lực để phát triển, đƣợc quan tâm đầu tƣ phát triển
ở nhiều nƣớc trong đó có Việt Nam.
Theo luật du lịch Việt Nam năm 2007 có định nghĩa: “Du lịch văn hóa là
hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng

nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống”.
Theo PGS.TS Trần Đức Thanh trong cuốn Nhập môn khoa học du lịch: “Du
lịch văn hóa là hoạt động diễn ra chủ yếu trong môi trường nhân văn hay hoạt động
du lịch đó tập trung khai thác tài nguyên du lịch văn hóa”.
Nhƣ vậy tài nguyên du lịch văn hóa cũng chính là tài nguyên du lịch nhân
văn, tài nguyên du lịch văn hóa là tất cả những gì do xã hội cộng đồng tạo ra, có sức
hấp dẫn du khách cùng các thành tố khác đƣa vào phục vụ du lịch, đó là những giá
trị văn hóa vật thể và phi vật thể mang đậm bản sắc của địa phƣơng thông qua các
đối tƣợng hoặc phƣơng thức biểu đạt, làm cho du khách cơ hội để chiêm ngƣỡng,
thử nghiệm và cảm thụ các giá trị văn hóa của địa phƣơng nhƣ các công trình kiến
trúc mỹ thuật, các di tích lịch sử, hoạt động tôn giáo, nghi thức xã hội đặc thù…
Cộng đồng địa phƣơng chính là ngƣời sản sinh, bảo tồn và sở hữu các giá trị văn
hóa của địa phƣơng vì vậy cũng nhƣ tổ chức phát triển du lịch khác, tổ chức phát
15

triển du lịch văn hóa phải dựa vào cộng đồng địa phƣơng để bảo tồn, nuôi dƣỡng
những giá trị văn hóa, tôn trọng những yếu tố thuộc về phong tục tập quán của cộng
đồng địa phƣơng và chia sẻ lợi nhuận, việc làm từ hoạt động du lịch với cộng đồng
cƣ dân địa phƣơng.
Du lịch văn hóa mang những nét đặc trƣng rất riêng biệt và đặc sắc. Điều đó
đƣợc thể hiện trƣớc hết ở những đặc trƣng về tài nguyên, yếu tố quyết định đến việc
xây dựng một chƣơng trình du lịch, tài nguyên của du lịch văn hóa phải là những
đặc điểm văn hóa đặc trƣng của một vùng, một quốc gia mà đã là văn hóa đặc trƣng
thì đƣơng nhiên mỗi nơi một khác. Du lịch là phƣơng tiện, là cơ hội để văn hóa
khẳng định tính độc lập của nó. Nhƣ vậy chúng ta có thể thấy rằng du lịch và văn
hóa là hai khía cạnh hoàn toàn độc lập, xong chúng ta có thể kết hợp du lịch và văn
hóa để khai thác hoạt động du lịch văn hóa nhằm phục vụ cho sự phát triển của một
vùng, một quốc gia.
1.1.2. Du lịch văn hoá tâm linh
* Tín ngưỡng: Hiện nay có khá nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề

tín ngƣỡng ở Việt Nam dƣới nhiều góc độ khác nhau nhƣ văn hóa, xã hội, lịch sử…
Dƣới mỗi góc nhìn của mỗi nhà nghiên cứu, họ lại đƣa ra những quan điểm, khái
niệm khác nhau về vấn đề tín ngƣỡng.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy cho rằng: “Tín ngưỡng là niềm tin và sự
ngưỡng mộ của con người vào lực lượng siêu nhiên, thần bí, hoặc do con người
tưởng tượng ra những vị thần linh đến mức họ cho rằng những lực lượng ấy có ảnh
hưởng, chi phối đời sống, số phận của con người và gây thành một nếp sống xã hội
theo niềm tin thiêng liêng ấy”. [19; tr. 351]
Trong khi đó, nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Đức Thịnh lại đƣa ra quan điểm
khác cụ thể hơn, rõ ràng hơn: “Tín ngưỡng được hiểu là niềm tin của con người vào
cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng
vào “cái thiêng”, đối lập với cái “trần tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát
được. Có nhiều loại niềm tin, nhưng ở đây niềm tin của tín ngưỡng là niềm tin vào
“cái thiêng”. Do vậy, niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con người, nó
là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng như giống đời
sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm ”. [43; tr. 16]
16

Nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn sau một thời gian nghiên cứu ông đã
khẳng định: “Trong tín ngưỡng phải có yếu tố thiêng liêng liên quan đến một thế
giới vô hình, đến những siêu linh, mà chính con người tưởng tượng và sáng tạo ra
nó”. [47; tr. 67].
Ngoài ra, nhà tâm lí học nổi tiếng ngƣời Mỹ - M. Scott đƣa ra quan điểm của
mình về vấn đề tín ngƣỡng nhƣ sau: “Chúng ta dường như có xu hướng định nghĩa
hai chữ tín ngưỡng một cách quá hạn hẹp. Ta thường chỉ coi rằng tín ngưỡng phải
gắn liền với một niềm tin nào đó vào Thượng đế, hoặc phải gắn liền với một số thực
hành nghi lễ, hoặc phải là thành viên trong một cộng đồng phụng sự. Theo tôi, tín
ngưỡng chính là sự cảm nhận của con người về thế giới mà họ đang sống, về cuộc
sống xung quanh họ và về vị trí của bản thân họ trong thế giới đó”.
Trong đời sống thƣờng ngày hiện nay, khi nói đến tín ngƣỡng ngƣời ta

thƣờng liên tƣởng đến những hiện tƣợng xã hội có tính chất linh thiêng, thần bí, thể
hiện niềm tin về một thế giới vô hình, về cuộc sống sau khi chết, về sự tồn tại của
linh hồn ngƣời chết và sự tác động của lực lƣợng này đối với cuộc sống hiện tại của
con ngƣời. Và chính hiện tƣợng này đã gắn liền với các phong tục, tập quán, truyền
thống của một cộng đồng ngƣời hay một dân tộc, phản ánh nếp sống, cung cách ứng
xử của con ngƣời cũng nhƣ phản ánh lịch sử phát triển văn hoá của toàn cộng đồng
dân tộc đó.
Nhìn chung lại, chúng ta có thể hiểu: Tín ngưỡng là một hiện tượng tâm lý -
xã hội biểu hiện niềm tin của một cộng đồng người nhất định về thế giới vô hình, về
lực lượng siêu nhiên và năng lực chi phối của lực lượng này đối với cuộc sống của
con người thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng; quá trình hình thành và phát triển
tín ngưỡng gắn liền với lịch sử phát triển của cộng đồng nên nó phản ánh cuộc
sống thực tế của cộng đồng người đó.
* Tôn giáo: Tôn giáo là một hiện tƣợng hấp dẫn song cũng là vấn đề bí ẩn
nhất trong đời sống con ngƣời và xã hội từ xƣa đến nay. Tôn giáo không chỉ có một
sức sống kỳ lạ trong kỷ nguyên khoa học mà nó còn có sức ảnh hƣởng rất sâu rộng
đến tất cả nhân loại. Tôn giáo là một thuật ngữ đƣợc du nhập từ nƣớc ngoài vào
Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ XIX vì vậy đây là một thuật ngữ không thuần Việt. Từ
17

cổ đến kim, từ Đông sang Tây, xét về mặt nội dung, thuật ngữ Tôn giáo khó có thể
hàm chứa đƣợc tất cả nội dung của nó. Bản thân thuật ngữ “Tôn giáo” có nguồn gốc
từ phƣơng Tây, “Tôn giáo” trong tiếng Anh có nghĩa là “religion” và từ “religion”
lại xuất phát từ tiếng La Tinh “legere” có nghĩa là thu lƣợm thêm sức mạnh siêu
nhiên. Đến thế kỷ thứ XVI thuật ngữ “religion” mới đƣợc dùng nhằm chỉ các hình
thức tôn giáo khác nhau trên thế giới. Thuật ngữ “Tôn giáo” cũng có một quá trình
biến đổi về mặt nội dung và khi khái niệm này trở thành phổ biến trên toàn thế giới
thì lại gặp phải những khái niệm truyền thống không tƣơng ứng của những cƣ dân
thuộc các nền văn minh khác nhau, chính vì vậy trên thực tế trong lịch sử đã xuất
hiện và tồn tại rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về tôn giáo của nhiều dân

tộc và nhiều tác giả trên thế giới. Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên
hệ giữa thần thánh và con người”. Một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là
sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu
anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn giáo cả”. Bên cạnh đó C.Mác lại
đƣa ra một khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội: “Tôn giáo là tiếng thở dài
của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó là tinh thần
của trật tự không có tinh thần” hay “… tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác
của con ngƣời khi chƣa tìm đƣợc bản thân mình một lần nữa. Con ngƣời chính là
thế giới con người, là nhà nƣớc, là xã hội. Nhà nƣớc ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn
giáo, tức thế giới quan lộn ngược. Tôn giáo là lý luận chung của thế giới ấy, là
cƣơng yếu bách khoa của nó, là lôgic dƣới hình thức phổ cập của nó, là vấn đề danh
dự duy linh luận của nó, là sự nhiệt tình của nó, là sự chuẩn y về mặt đạo đức của
nó, là sự bổ sung trang nghiêm của nó, là căn cứ phổ biến mà nó dựa vào để an ủi
và biện hộ” [24; tr. 33]. Còn Ph.Ăngghen lại có khái niệm mang khía cạnh nguồn
gốc của tôn giáo: “Tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con
người những lực lượng bên ngoài, cái mà thống trị học trong đời sống hàng
ngày…”
Có thể nói tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của con ngƣời trong cuộc
đấu tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất
mình do đó phải dựa vào thánh thần mà còn hƣớng con ngƣời đến một hy vọng
18

tuyệt đối, một cuộc đời thánh thiện, mang tính “Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc
đời mà quá khứ, hiện tại, tƣơng lai cùng chung sống. Nó gieo niềm hi vọng vào con
ngƣời, dù có phần ảo tƣởng để yên tâm, tin tƣởng để sống và phải sống trong một
thế giới trần gian có nhiều bất công và khổ ải.
Trong cuốn Lý luận tôn giáo và vấn đề tôn giáo ở Việt Nam của giáo sƣ
Đặng Nghiêm Vạn viết: Tôn giáo là niềm tin vào các lực lƣợng siêu nhiên, vô hình,
mang tính thiêng liêng, đƣợc chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một
cách hƣ ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng nhƣ ở thế giới bên kia.

Niềm tin đó đƣợc biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn
cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, đƣợc vận
hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã
hội tôn giáo khác nhau.

* Tâm linh:
Nói đến tâm linh ai ai cũng nghĩ ngay đến tín ngƣỡng và tôn giáo, thƣờng
đồng nhất tâm linh với tín ngƣỡng và tôn giáo. Tuy nhiên điều đó không hoàn toàn
đúng vì trong cái tâm linh chứa đứng tín ngƣỡng, tôn giáo. Tâm linh luôn gắn liền
với những khái niệm về cái thiêng liêng, cao cả, siêu việt… tồn tại trong đời sống
tinh thần, đời sống xã hội cũng nhƣ đời sống tôn giáo của mỗi con ngƣời.
Trong từ điển Tiếng Việt, tâm linh đƣợc lý giải theo hai nghĩa cơ bản, nghĩa
thứ nhất theo quan niệm duy tâm, là “khả năng biết trƣớc một biến cố nào đó sẽ xảy
ra đối với mình”. Theo nghĩa thứ hai tâm linh là “tâm hồn, tinh thần, thế giới tâm
linh”. Còn trong tiếng Anh có hai từ tƣơng đƣơng với tâm linh là Spiritualism và
psychic. Spirituarism có hai nghĩa, một là niềm tin tôn giáo – triết học về sự tồn tại
sau cái chết, thứ hai là tâm trí, tâm hồn, tinh thần. Còn Psychic lại đƣợc hiểu theo
nghĩa hiện tƣợng dị thƣờng, huyền bí…
Trong thời đại ngày nay, trên các sách báo, các phƣơng tiện thông tin đại
chúng thƣờng hay đề cập đến vấn đề tâm linh, văn hóa tâm linh… trong đời sống
của con ngƣời. Trong cuốn sách Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển của tác
giả Lê Minh (Chủ biên) ở trang thứ 36 có viết: “Trong đời sống con ngƣời, ngoài
mặt hiện hữu còn có mặt tâm linh. Về mặt cá nhân đã nhƣ vậy, mà mặt cộng đồng
(gia đình, làng xã, dân tộc) cũng nhƣ vậy. Nếu mặt hiện hữu của đời sống con ngƣời
có thể nhận thức qua những tiêu chuẩn cụ thể nhất định, thì về mặt tâm linh bao giờ
cũng gắn với cái gì đó rất trừu tƣợng, rất mông lung, nhƣng lại không thể thiếu
19

đƣợc ở con ngƣời. Con ngƣời sở dĩ đã trở thành con ngƣời, một phần căn bản là do
nó có đời sống tâm linh. Nghĩa là tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng

liêng, cái bí ẩn, những giá trị tạo thành đời sống tâm linh của nó.
Những giá trị tâm linh ấy hết sức bền vững và có thể nói nó là hằng số của
văn hóa gia đình. Không một sự thay đổi nào về trạng thái xã hội, về giá trị cấu trúc
và giá trị chức năng của gia đình có thể làm cho những giá trị tâm linh ấy mất đi.
Giá trị văn hóa tâm linh của văn hóa gia đình vẫn tồn tại vĩnh cửu chừng nào con
ngƣời còn tồn tại”.
Qua đây cho chúng ta nhận thấy đƣợc rằng đời sống tâm linh chính là nền
tảng vững chắc nhất trong mối quan hệ cộng đồng, làng xã từ xƣa tới nay.
Trong cuốn sách Văn hóa tâm linh của tác giả Nguyễn Đăng Duy có viết:
“Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng
liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Những cái thiêng liêng cao cả, niềm tin
thiêng liêng đọng lại ở những không gian, biểu tượng, hình ảnh, ý niệm thiêng
liêng.
Tâm linh thể hiện ở nhiều mặt trong đời sống tinh thần của con người, trong
đó tín ngưỡng tôn giáo chiếm một mảng quan trọng…” [18; tr. 11]
Chính vì vậy mà trong đời sống của ngƣời dân Việt Nam yếu tố tâm linh
luôn đƣợc đề cao và nó tồn tại trong đời sống của các cá nhân (niềm tin thiêng liêng
vào đền, chùa, phật…); trong đời sống gia đình (thờ cúng tổ tiên); trong đời sống
cộng đồng làng xã (thờ thành hoàng làng, anh hùng có công dựng và giữ nƣớc);
ngoài ra còn có tâm linh với tổ quốc giang sơn đất nƣớc, với văn học nghệ thuật và
trong tín ngƣỡng, tôn giáo…
* Văn hoá tâm linh:
Từ xa xƣa, trong các hoạt động văn hóa truyền thống dân tộc, ngƣời Việt
Nam đều tổ chức hoạt động văn hóa tâm linh, hoặc do nhà nƣớc Trung ƣơng tổ
chức, hoặc do làng xã tổ chức theo những lễ nghi trang trọng, uy linh, với sự tham
gia một cách thành kính, tự nguyện của nhân dân nhƣ lễ giỗ tổ Hùng Vƣơng, lễ tế
Trời, Đất, tế Thần, Thánh, tế Tổ tiên nhằm mục đích cầu cho quốc thái dân an,
mong cho con cháu đƣợc mạnh khỏe, hạnh phúc… Thông qua những hoạt động văn
hóa tâm linh đó, bản thân con ngƣời ta tự tu tâm tích đức để trở lên tốt đẹp hơn,
đoàn kết hơn, hƣớng thiện hơn, bớt đi cái ác, cái xấu trong lòng.Ý nghĩa tích cực

của các hoạt động văn hóa tâm linh đƣợc ngƣời Việt khai thác rất có hiệu quả vào
việc giáo dục các thế hệ con cháu, cố kết cộng đồng, giữ gìn bản sắc truyền thống.
20

Hoạt động văn hóa tâm linh đã trở thành một nhu cầu văn hóa lành mạnh, đầy tính
nhân văn của ngƣời Việt Nam.
Có thể nói văn hóa tâm linh là một thuật ngữ đƣợc dùng để chỉ một loại hình
văn hóa tinh thần đặc thù của con ngƣời Việt Nam. Đó chính là việc họ đã lấy đối
tƣợng là sự bày tỏ tình cảm thiêng liêng, những niềm tin thiêng liêng, sự tri ân của
những ngƣời đang sống đối với những ngƣời thân đã mất, hoặc đối với những vị
anh hùng đƣợc tôn làm thần, làm thánh, làm thành hoàng làng… những việc đó đều
đƣợc diễn ra trong một thời gian thiêng và không gian thiêng nhất định.
Nhƣ vậy khi đề cập đến văn hóa tâm linh, nội dung cốt lõi của nó phải là
niềm tin, là cái thiêng liêng cao cả. Cũng trong cuốn “Văn hóa tâm linh” của tác giả
Nguyễn Đăng Duy có viết: “Văn hóa tâm linh là văn hóa biểu hiện những giá trị
thiêng liêng trong cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong
cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo”.[18; tr. 25]
Văn hóa tâm linh bao gồm cả văn hóa hữu hình nhƣ các không gian thiêng
liêng (đình, đền, chùa, phủ, nhà thờ ), hay các biểu tƣợng thiêng nhƣ tƣợng Phật,
tƣợng Chúa và văn hóa vô hình (văn hóa tinh thần) đó chính là những ý niệm
thiêng liêng trong tâm trí con ngƣời, những ý niệm đó phải đƣợc thể hiện qua chính
hành động của con ngƣời.
* Du lịch văn hoá tâm linh:
Văn hóa tâm linh đƣợc coi là một nguồn tài nguyên vô giá để phát triển hoạt
động du lịch. Du lịch văn hóa tâm linh trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói
riêng đều có những quan niệm khác nhau và cho đến nay chƣa có một khái niệm
chung, thống nhất. Đối với Việt Nam, khái niệm về loại hình du lịch văn hóa tâm
linh còn tƣơng đối mới mẻ, nhƣng trên thực tế loại hình du lịch này đã đƣợc manh
nha hình thành từ lâu thể hiện ở chỗ con ngƣời thƣờng xuyên đi chùa lễ Phật, đi
tham quan các công trình kiến trúc gắn với tín ngƣỡng, tôn giáo, những chuyến

hành hƣơng
Theo Thƣợng tọa Thích Đạo Đạo trong tham luận Hoằng pháp với vấn đề
du lịch tâm linh ông cho rằng: “Du lịch tâm linh tìm hiểu văn hóa, giá trị truyền
thống. Thăm viếng bằng tâm trí, trái tim. Nuôi dưỡng và mở rộng sự hiểu biết
hướng về cái thiện, hòa hợp với thiên nhiên, đồng loại, chúng sinh. Nâng cao được
giá trị tâm hồn, hiểu rõ hơn về tâm linh, cụ thể đối với Phật giáo chúng ta là hiểu
hơn về chân lý giải thoát, giá trị chân thực của cuộc sống hiện tại”.
21

Còn cựu tổng thống Ấn Độ, tiến sĩ Abdul Kalam thì cho rằng: “Du lịch tâm
linh có nghĩa là thăm viếng bằng trái tim”.
Việt Nam coi du lịch văn hóa tâm linh là loại hình du lịch văn hóa chuyên
đề, một trong những nhân tố phát huy giá trị tinh thần, lòng yêu nƣớc, niềm tin, tăng
cƣờng khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nƣớc. Tín
ngƣỡng, văn hóa vừa đƣợc coi là giá trị cốt lõi của sản phẩm du lịch tâm linh, vừa là
sợi dây kết nối tâm hồn ngƣời Việt Nam với bạn bè quốc tế. Theo Tổng cục trƣởng
Tổng cục Du lịch Nguyễn Văn Tuấn, xét về chất, du lịch văn hóa tâm linh thực chất
là loại hình du lịch văn hóa trong đó, lấy yếu tố văn hóa tâm linh làm cơ sở và mục
tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu của con ngƣời trong đời sống tinh thần.
Du lịch văn hóa tâm linh chính là khai thác những yếu tố văn hóa tâm linh
trong quá trình diễn ra các hoạt động du lịch, dựa vào các giá trị văn hóa vật thể, phi
vật thể gắn với lịch sử hình thành nhận thức của con ngƣời về thế giới, những giá trị
về đức tin, tôn giáo, tính ngƣỡng và những giá trị tinh thần đặc biệt khác.
Hoạt động chủ yếu của du lịch văn hóa tâm linh đó là: Hành hƣơng đến
những điểm tâm linh nhƣ những ngôi chùa, các tòa thánh, đền, đài, lăng, tẩm, phủ,
khu tƣởng niệm…; tại đó tiến hành các hoạt động thờ cúng: thờ cúng thành hoàng,
thờ mẫu, thờ cúng tổ nghề, thờ tam phủ, tứ phủ, thờ tứ pháp, thờ bốn vị tứ bất tử,
thờ danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc, thờ táo quân, thổ địa… Bên cạnh đó là
các hoạt động chiêm bái, cầu nguyện, tụng kinh, thiền, yoga, pháp đàm; thiền trà;
tham vấn; pháp thoại; thiền ca… Ngoài ra trong hoạt động của du lịch văn hóa tâm

linh còn có hoạt động tham quan, vãn cảnh, thƣởng ngoạn không gian cảnh quan và
không gian kiến trúc, điêu khắc gắn với điểm tâm linh; tìm hiểu văn hóa gắn với
lịch sử tôn giáo và lối sống bản địa, những giá trị di sản văn hóa gắn với điểm tâm
linh, tham gia vào lễ hội tín ngƣỡng, dân gian: Quốc giỗ ở lễ hội Đền Hùng, lễ Vu
Lan, lễ hội Thánh Gióng (Hà Nội), lễ hội vía Bà Tây Ninh, lễ hội Tế Cá Ông (Bình
Thuận), lễ hội vía Bà núi Sam (Châu Đốc)…
Từ quá trình nghiên cứu về du lịch văn hóa cũng nhƣ văn hóa tâm linh tác
giả mạnh dạn đƣa ra quan điểm của mình về loại hình du lịch văn hóa tâm linh mới
mẻ này nhƣ sau: Du lịch văn hóa tâm linh là hình thức du lịch kết hợp với tín
ngƣỡng và tôn giáo của cƣ dân địa phƣơng cùng với niềm tin mãnh liệt, thiêng liêng
của con ngƣời vào tín ngƣỡng, tôn giáo nhằm thỏa mãn nhu cầu của du khách về
vấn đề tín ngƣỡng, tôn giáo.
* Điểm đến của du lịch văn hóa tâm linh:
22

Đối với loại hình du lịch văn hóa tâm linh điểm đến chủ yếu là các di tích
gắn với tôn giáo và tín ngƣỡng nhƣ đền, chùa, đình, phủ
- Các di tích tôn giáo, tín ngƣỡng:
+ Chùa: Chùa là một tập hợp kiến trúc thờ Phật – chốn linh thiêng, thanh
tịnh, là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo tiêu biểu ở Việt Nam. Đó là
tài sản chung của một cụm ngƣời cƣ trú trên địa bàn nhất định. Chùa là tên gọi
thuần Việt chất phác, còn từ gốc Hán chùa có nghĩa là Tự, Già lam. Ngoài ra trong
tiếng Việt cổ chùa còn có từ khác để gọi đó là chiền. Ngày nay từ này chỉ còn trong
từ chùa chiền là chỉ chung cho các công trình kiến trúc Phật giáo. Kiến trúc chùa đa
dạng, phong phú, mang đặc trƣng riêng của mỗi thời đại. Kiến trúc chùa là sự hòa
quện giữa các tòa nhà, tòa tháp và cảnh quan xung quanh. Tùy theo cách bố trí các
tòa nhà này mà ngƣời ta chia thành những kiểu chùa khác nhau và thƣờng đƣợc đặt
theo các chữ Hán nhƣ chữ Đinh, chữ Công, chữ Tam, chữ Quốc Xung quanh chùa
thƣờng có vƣờn cây, vƣờn hoa đƣợc chăm chút cẩn thận, có hồ nƣớc, hồ sen để
tạo ra một thế giới quan gần gũi với thiên nhiên. Chùa là nơi tập trung các tăng ni,

phật tử sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật. Chùa từ lâu cũng đã trờ thành
yếu tố cốt lõi trong sản phẩm du lịch văn hóa của ngành du lịch. Du khách có thể đi
du lịch đến các di tích Phật giáo để thực hiện những ý niệm thiêng liêng cũng nhƣ
nâng cao sự hiểu biết về tôn giáo thông qua các đối tƣợng cụ thể nhƣ kiến trúc,
tƣợng thờ, điêu khắc, các di vật
+ Nhà thờ: hay còn đƣợc gọi là thánh đƣờng, nhà thờ có nhiều cấp độ khác
nhau tùy theo tính chất, điều kiện và đặc thù của từng địa phƣơng. Bình đồ của nhà
thờ phải phục vụ cho các nghi lễ và cả tín đồ tụng niệm. Kiến trúc nhà thờ thƣờng
đƣợc chia thành ba khu chính là buồng áo, gian thánh và khu hội chứng.
+ Văn miếu: là công trình kiến trúc công cộng thƣờng để thờ Khổng Tử và
các bậc tiên triết, tiên nho, ngoài ra còn bao gồm cả hệ thống trƣờng học, trƣờng thi
mà chính ở đó diễn ra quá trình đào tạo và tuyển chọn nhân tài dƣới các triều đại
phong kiến Việt Nam nhƣ văn miếu Quốc Tử Giám, văn miếu Mao Điền, văn miếu
Xích Đằng
+ Đình: Là công trình kiến trúc công cộng của làng quê Việt Nam, đó là nơi
sinh hoạt văn hóa của cƣ dân nơi đây. Đình là công trình kiến trúc đƣợc dựng lên
làm nơi thờ thành hoàng làng và là nơi diễn ra lễ hội làng, là nơi họp bàn các công
việc của làng.
+ Đền: là công trình kiến trúc đƣợc xây dựng để thờ cúng một vị thần hoặc
để ghi nhớ công ơn của anh hùng dân tộc, ngƣời có công với đất nƣớc.
23

+ Miếu: Miếu thƣờng có miếu thờ thần tự nhiên nhƣ thần cây, thần đá, thần
núi, sông , miếu thờ tổ ngành nghề
+ Phủ: là nơi thờ Mẫu. Mẫu đƣợc tôn là các bà Chúa. Phủ xuất hiện muộn
hơn so với các công trình kiến trúc đền, chùa.
1.2. Tuyến điểm du lịch và tuyến điểm du lịch văn hoá tâm linh
1.2.1 Tuyến điểm du lịch
* Điểm du lịch:
Theo Luật Du lịch Việt Nam năm 2007 đã đƣa ra định nghĩa về điểm du lịch

nhƣ sau: “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút
khách du lịch” [15]
Theo PGS.TS Nguyễn Minh Tuệ: “Điểm du lịch là nơi tập trung một loại tài
nguyên du lịch nào đó (tự nhiên, văn hóa – lịch sử, kinh tế - xã hội) hay một loại
công trình riêng biệt phục vụ cho du lịch hoặc kết hợp cả hai trong quy mô nhỏ”.
Chính vì vậy mà điểm du lịch đƣợc chia thành hai loại là điểm du lịch tài nguyên và
điểm du lịch chức năng (chữa bệnh, nghỉ dƣỡng,…) [53; tr. 25]. Điểm du lịch là nơi
tổ chức phục vụ du khách, còn ở điểm tài nguyên là nơi mà ở đó có một hay nhiều
nguồn tài nguyên có sức hấp dẫn với du khách song chƣa đƣợc khai thác. Điểm tài
nguyên có thể trở thành điểm du lịch khi có việc tổ chức khai thác. Ngƣợc lại điểm
du lịch có thể trở thành điểm tài nguyên khi sản phẩm du lịch vào giai đoạn thoái
trào
Điểm du lịch là cấp thấp nhất trong hệ thống phân vị. Về mặt lãnh thổ, điểm
du lịch có quy mô nhỏ. Trên bản đồ các vùng du lịch ngƣời ta thể hiện điểm du lịch
là những điểm riêng biệt. Với mỗi điểm du lịch, thời gian lƣu lại của khách tƣơng
đối ngắn thƣờng là không quá 1 đến 2 ngày vì sự hạn chế của đối tƣợng du lịch. Ở
các điểm du lịch cơ sở hạ tầng có thể chƣa hình thành.
Các điểm du lịch còn có thể phân chia thành 4 nhóm: điểm du lịch tự nhiên,
điểm du lịch văn hoá, điểm du lịch đô thị và điểm du lịch đầu mối giao thông
Điểm du lịch tự nhiên bao gồm những điểm du lịch mà hoạt động của nó chủ
yếu dựa vào việc khai thác giá trị các tài nguyên du lịch tự nhiên. Đối với những
vùng có nguồn tài nguyên này, ngƣời ta thƣờng xây dựng các trung tâm nghỉ dƣỡng
và thể thao.
Điểm du lịch văn hoá thƣờng phát triển các loại hình du lịch dựa trên những
sinh hoạt văn hoá địa phƣơng có lối sống, phong tục tập quán đặc sắc; các trung tâm
lịch sử, các trung tâm khoa học nổi tiếng nhƣ các trƣờng đại học, các viện nghiên
cứu khoa học, thƣ viện, bảo tàng. Ngoài ra, còn các trung tâm nghệ thuật, trung tâm
24

tôn giáo, tín ngƣỡng…

Điểm du lịch đô thị gồm các điểm du lịch mà ở đó chủ yếu phát triển các loại
hình du lịch liên quan đến các nhân tố kinh tế - chính trị. Đó là các đô thị, trung tâm
kinh tế và chính trị của thế giới, quốc gia hay khu vực.
Điểm du lịch đầu mối, mạng lƣới giao thông nơi có: ga xe lửa, bến cảng, sân
bay, nơi giao cắt các trục đƣờng lớn thƣờng cũng trở thành điểm có nhiều cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch phục vụ du khách nhƣ khách sạn ga, nhà trọ, nhà hàng ăn
uống, nơi vui chơi giải trí, cửa hàng lƣu niệm, tạp hoá
Thông thƣờng trên thực tế, các yếu tố tạo nên các điểm du lịch nói trên
thƣờng không tách rời và ảnh hƣởng đồng thời lẫn nhau. Bởi vậy, việc sắp xếp các
điểm du lịch chủ yếu theo ý nghĩa của chúng. Đó là hệ thống các điểm du lịch có ý
nghĩa địa phƣơng, vùng, quốc gia và quốc tế. Mỗi đối tƣợng không gian của hoạt
động kinh tế đều có đặc trƣng, đặc trƣng riêng của điểm du lịch nhƣ : Điểm du lịch
mang tính xen ghép. Tại các điểm du lịch luôn tồn tại nhiều ngành nghề, đối tƣợng
đa dạng khác nhau và có nhiều hoạt động có thể có mục đích hỗ trợ hoặc trái ngƣợc.
Vì vậy, điểm đến du lịch mang tính phức tạp, khó kiểm soát và định hƣớng chặt
chẽ. Điểm du lịch giống nhƣ một sản phẩm cụ thể có chu kì vòng đời phát triển, bão
hoà và suy thoái. Các điểm du lịch Việt Nam chủ yếu nằm trong giai đoạn phát
triển, một số nơi mới chỉ là điểm tiềm năng; do đó các sản phẩm du lịch ra đời ồ ạt,
lƣợng khách đến ngày càng nhiều kéo theo sự đa dạng hoá các hoạt động xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề chúng ta đang gặp phải là sự không đồng đều giữa các điểm du
lịch dẫn đến sự quá tải ở một số điểm du lịch truyền thống và khai thác không hiệu
quả tại các điểm du lịch mới. Khả năng sức chứa của điểm đến du lịch, tức là sự đàn
hồi tối đa của điểm du lịch trƣớc áp lực của hoạt động du lịch đến môi trƣờng sinh
thái, môi trƣờng kinh tế - xã hội. Lý thuyết sức chứa của điểm đến du lịch giúp
chúng ta xác định đƣợc mức độ ảnh hƣởng hiện tại của hoạt động du lịch lên nguồn
tài nguyên, tính toán đƣợc sự suy thoái của chúng và xây dựng đƣợc hƣớng đi bền
vững cho tƣơng lai điểm du lịch. Nhƣ vậy, điểm du lịch có thể là một địa phƣơng,
một đất nƣớc hay một vùng đất mà ở đó có nguồn tài nguyên du lịch phong phú dựa
trên một số tiêu chuẩn quy định của mỗi quốc gia về mức độ hấp dẫn của tài
nguyên; cơ sở vật chất kỹ thuật; khả năng phục vụ du khách và những đóng góp

tích cực cho nền kinh tế - xã hội, môi trƣờng từ hoạt động du lịch.
* Tuyến du lịch:
Tuyến du lịch là một đơn vị tổ chức không gian du lịch, đƣợc tạo bởi nhiểu
điểm du lịch khác nhau về quy mô, chức năng, sự đa dạng của các đối tƣợng du lịch
25

với nhau trên lãnh thổ. Cơ sở tiền đề cho việc xây dựng tuyến du lịch là các điểm du
lịch và hệ thống giao thông thuận tiện. Chính vì vậy, tuyến du lịch có thể là tuyến
đƣờng bộ, tuyến đƣờng sắt, tuyến đƣờng thủy, tuyến đƣờng không. Tuyến du lịch là
lộ trình nối các điểm du lịch khác nhau, về mặt không gian lãnh thổ trong từng
trƣờng hợp cụ thể các tuyến du lịch có thể là tuyến nội vùng (á vùng, tiểu vùng,
trung tâm) hoặc là tuyến liên vùng (giữa các vùng).Với cấp tỉnh, có tuyến du lịch
nội tỉnh và ngoại tỉnh (ra các tỉnh khác).
Cơ sở tiền đề cho việc xây dựng tuyến du lịch là các điểm du lịch và hệ
thống giao thông thuận tiện. Do vậy, tuyến du lịch có thể là: tuyến đƣờng bộ, tuyến
đƣờng sắt, tuyến đƣờng thuỷ, tuyến đƣờng không.
Theo Luật Du lịch Việt Nam: “ Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các điểm du
lịch hoặc khu du lịch, các cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao
thông đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng thủy, đƣờng hàng không”. [15]
* Điều kiện để được công nhận là tuyến du lịch:
Trong Luật Du lịch Việt Nam, ở điều 4 và điều 5 có quy định:
- Tuyến du lịch có đủ các điều kiện sau đây đƣợc công nhận là tuyến du lịch
quốc gia:
+ Nối các khu du lịch, điểm du lịch, trong đó có khu du lịch, điểm du lịch
quốc gia, có tính chất liên tỉnh, kết nối với các cửa khẩu quốc tế.
+ Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trƣờng và cơ sở dịch vụ phục vụ
khách du lịch dọc theo tuyến.
- Tuyến du lịch có đủ các điều kiện sau đây đƣợc công nhận là tuyến du lịch
địa phƣơng:
+ Nối các khu du lịch, điểm du lịch trong phạm vi địa phƣơng

+ Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trƣờng và cơ sở dịch vụ phục vụ
khách du lịch dọc theo tuyến.
Về mặt không gian lãnh thổ, tuyến du lịch có thể là tuyến nội vùng (á vùng,
tiểu vùng, trung tâm) hoặc tuyến liên vùng (giữa các vùng)
Đối với cấp tỉnh có tuyến du lịch nội tỉnh và tuyến du lịch ngoại tỉnh (liên
tỉnh)
1.2.2. Tuyến, điểm du lịch văn hoá tâm linh
Điểm du lịch văn hóa tâm linh bao gồm những điểm du lịch phát triển trên
thể loại du lịch văn hóa tâm linh nhƣ: Trung tâm lịch sử (điểm du lịch lịch sử) là nơi
có các công trình xây dựng từ xa xƣa. Đó là các thành phố, đô thị hoặc làng cổ vẫn

×