Tải bản đầy đủ (.doc) (167 trang)

nghiên cứu hoạt động du lịch văn hóa tâm linh của người hà nội (khảo sát trên địa bàn quận đống đa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 167 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐOÀN THỊ THÙY TRANG
NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN
HÓA TÂM LINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI
(Khảo sát trên địa bàn quận Đống Đa)
LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH
Hà nội - 2010
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐOÀN THỊ THÙY TRANG
NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN
HÓA TÂM LINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI
(Khảo sát trên địa bàn quận Đống Đa)
Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)
LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN PHẠM HÙNG
Hà nội - 2010
2
MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 5
DANH MỤC CÁC BẢNG 6
MỞ ĐẦU 7
1. Lí do chọn đề tài 7
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài 9
3. Mục đích nghiên cứu 11
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài 11


5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 12
6. Phương pháp nghiên cứu 12
7. Bố cục của Luận văn 13
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA TÂM LINH
VÀ DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH 14
1.1 Những vấn đề về văn hóa tâm linh 14
1.1.1 Văn hóa 14
1.1.2 Tâm linh 17
1.1.2.1 Khái niệm 17
1.1.2.2 Đặc điểm của tâm linh 21
1.1.2.3 Hình thức của tâm linh 22
1.1.2.4 Phân biệt tâm linh với mê tín dị đoan 24
1.1.3 Văn hóa tâm linh 25
1.1.3.1 Khái niệm 25
1.1.3.2 Thành tố của văn hóa tâm linh 26
1.2 Những vấn đề về du lịch văn hóa tâm linh 27
1.2.1 Quan niệm về du lịch và du lịch văn hóa 27
1.2.1.1 Du lịch 27
1.2.1.2 Du lịch văn hóa 28
3
1.2.2 Du lịch văn hóa tâm linh 31
1.2.2.1 Quan niệm 31
1.2.2.2 Mục đích du lịch 33
1.2.2.3 Hình thức du lịch 35
1.2.2.4 Điểm đến của du lịch văn hóa tâm linh 36
1.2.2.5 Khách du lịch của du lịch văn hóa tâm linh 41
1.2.2.6 Hiệu quả của du lịch văn hóa tâm linh 42
Tiểu kết chương 1 42
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH CỦA
NGƯỜI HÀ NỘI (QUA KHẢO SÁT Ở QUẬN ĐỐNG ĐA) 44

2.1 Khái quát về Hà Nội 44
2.1.1 Hà Nội 44
2.1.2 Người Hà Nội

46
2.1.2.1 Dân số 46
2.1.2.2 Mật độ dân cư 46
2.1.2.3 Nguồn gốc dân cư 46
2.1.2.4 Một số đặc điểm văn hóa của người Hà Nội 51
2.2 Khái quát về quận Đống Đa 59
2.2.1 Vị trí địa lý

59
2.2.2 Lịch sử hình thành

60
2.2.3 Đặc điểm dân cư

61
4
2.2.4 Đặc điểm kinh tế

62
2.2.5 Đặc điểm văn hóa xã hội

63
2.3. Các hình thức tổ chức hoạt động du lịch văn hoá tâm linh ở quận Đống
Đa 64
2.3.1. Hình thức cá nhân


64
2.3.2. Hình thức tập thể

64
2.4 Các điểm đến tiêu biểu của du lịch văn hóa tâm linh ở quận Đống Đa 65
2.4.1.Di tích tôn giáo

65
2.4.1.1. Văn Miếu 65
2.4.1.2. Chùa 71
2.4.1.3. Nhà thờ Kitô giáo 83
2.4.2. Di tích tín ngưỡng

84
2.4.2.1. Đình 84
2.4.2.2. Đền 90
2.4.2.3. Miếu 93
2.5 Các hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tiếu biểu ở quận Đống Đa
96
2.5.1 Du lịch tham quan các di tích tôn giáo, tín ngưỡng
5

96
2.5.2 Du lịch tham gia vào các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng

97
2.5.3 Du lịch lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng

97
2.6 Đặc điểm về khách du lịch văn hóa tâm linh ở quận Đống Đa 99

2.6.1 Độ tuổi

99
2.6.2 Giới tính

100
2.6.3 Trình độ học vấn

101
2.6.4 Mục đích đi du lịch

102
2.6.5 Thời điểm đi du lịch

102
2.6.6 Độ dài chuyến đi

102
2.7 Đánh giá về hoạt động du lịch văn hóa tâm linh ở quận Đống Đa 103
2.7.1 Mặt mạnh

103
6
2.7.2 Mặt yếu

104
Tiểu kết chương 2 106
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
VĂN HÓA TÂM LINH CỦA NGƯỜI HÀ NỘI (QUA KHẢO SÁT Ở
QUẬN ĐỐNG ĐA) 108

3.1 Cơ sở đề xuất 108
3.1.1 Cơ sở lý thuyết

108
3.1.1.1 Định hướng phát triển du lịch Hà Nội 108
3.1.1.2 Định hướng phát triển du lịch văn hóa Hà Nội 112
3.1.1.3 Các văn bản pháp quy về tín ngưỡng tôn giáo và việc bảo tồn, phát
huy DSVH 115
3.1.2 Cơ sở thực tiễn

117
3.1.2.1 Thực trạng về tài nguyên du lịch tín ngưỡng của Hà Nội 117
3.1.2.2 Thực trạng về sản phẩm du lịch tín ngưỡng của Hà Nội 123
3.1.2.3 Thực trạng về các hình thức du lịch tín ngưỡng của người Hà Nội 124
3.1.2.4 Thực trạng về nhu cầu du lịch tín ngưỡng, tâm linh của người Hà Nội 124
3.2 Một số giải pháp đối với hoạt động du lịch văn hóa tâm linh của
người Hà Nội 126
3.2.1 Giải pháp về tổ chức, quản lý

126
3.2.2 Giải pháp về cơ sở vật chất
7

128
3.2.3 Giải pháp về các hoạt động và sản phẩm du lịch

129
3.2.4 Giải pháp về bảo tồn phát triển di sản văn hóa

131

3.2.5 Giải pháp về an ninh, an toàn du lịch

132
Tiểu kết chương 3 133
KẾT LUẬN 134
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 137
PHỤ LỤC
8
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2. GS.TS: Giáo sư. Tiến sĩ
3. PGS.TS: Phó giáo sư. Tiến sĩ
4. UBND: Ủy ban nhân dân
5. UNESCO: Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc
(United Nations Educational Scientific and Culural Oganization)
6. WTO: Tổ chức Thương mại thế giới (World Trade Oganization)
9
DANH MỤC CÁC BẢNG
1. Bảng 2.1: Danh mục chùa tại quận Đống Đa
2. Bảng 2.2: Danh mục đình tại quận Đống Đa
3. Bảng 2.3: Danh mục đền tại quận Đống Đa
4. Bảng 2.4: Danh mục miếu tại quận Đống Đa
5. Bảng 3.1: Tương quan về số lượng di tích xếp hạng ở Hà Nội - Huế -
Tp. Hồ Chí Minh
6. Bảng 3.2: Mật độ di tích được xếp hạng phân theo quận, huyện
7. Bảng 3.3: Số lượng và tỷ lệ các loại hình di tích Hà Nội
8. Bảng 3.4: Các di tích có giá trị đặc biệt về mặt du lịch ở Hà Nội
10
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, du lịch đã trở thành nhu cầu xã hội phổ biến trên thế giới. Do
nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, phong phú nên các loại hình du
lịch cũng phát triển theo. Ngoài những loại hình du lịch truyền thống như du
lịch văn hóa, du lịch sinh thái, các loại hình mới cũng được ra đời như du lịch
mice, du lịch chữa bệnh, Trong đó, du lịch văn hóa lại được chia thành rất
nhiều loại hình khác nhau như du lịch lễ hội, du lịch làng nghề, đặc biệt là du
lịch văn hóa tâm linh
Du lịch văn hóa tâm linh gần đây đã hình thành và đang phát triển ở các
nước trên thế giới đặc biệt là ở châu Á như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc,
Thái Lan. Hàng năm, các cơ quan tôn giáo của các quốc gia này kết hợp với
các công ty lữ hành tổ chức các chuyến du lịch văn hóa tâm linh cho du khách
đến các thánh tích của nhau. Ở châu Âu đặc biệt là nước Ý cũng tổ chức nhiều
đoàn khách tham gia các lễ hội tôn giáo, các khóa tìm hiểu và nghiên cứu tôn
giáo, các khóa tu thiền tại các quốc gia cùng châu lục và sang các quốc gia
châu Á.
Ở Việt Nam, trong vài năm gần đây bên cạnh nhu cầu tham quan, nghỉ
dưỡng, du khách còn có xu hướng nghiêng về nhu cầu du lịch văn hóa tâm
linh. Đối với ngành du lịch loại hình này cũng đang ngày càng phát triển trở
thành một sản phẩm du lịch quan trọng. Về tài nguyên, nước ta vốn là đất
nước của nhiều lễ hội tôn giáo, văn hóa đa dạng và phong phú kéo dài suốt cả
năm trên khắp 3 miền. Hơn nữa, Việt Nam còn có hệ thống các di tích tôn
giáo, tín ngưỡng dải khắp cả nước đặc biệt là các trung tâm văn hóa lớn như
Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh Vì vậy, hoạt động du lịch văn hóa
tâm linh sẽ ngày càng phát triển.
11
Hà Nội mảnh đất ngàn năm văn hiến, nay là trung tâm chính trị, kinh tế
- văn hóa của cả nước. Nói đến Hà Nội, người ta sẽ nghĩ ngay đến cái tên
Tràng An, đại diện cho nhiều vẻ đẹp của mảnh đất này. Hà Nội đẹp với con
người thanh lịch, thông minh, đẹp với phong cảnh hữu tình, đẹp với cuộc
sống năng động thời kinh tế mở cửa, đẹp với cuộc sống thanh lịch, ung dung

tự tại của truyền thống, Đó là những vẻ đẹp rất đỗi kinh kỳ, rất đỗi Thăng
Long, rất đỗi Đông Đô và rất đỗi Hà Nội. Hà Nội còn được biết đến với cái
tên là mảnh đất ngàn năm văn vật. Nơi đây hội tụ rất nhiều di tích lịch sử, di
tích tôn giáo, tín ngưỡng có giá trị cao như Văn Miếu Quốc Tử Giám, chùa
Một Cột, Đền Ngọc Sơn. Ngoài ra, thủ đô cũng có hàng ngàn các lễ hội
truyền thống diễn ra quanh năm. Với những điều kiện đó du lịch văn hóa tâm
linh cũng trở thành loại hình du lịch quan trọng của Hà Nội.
Hà Nội hiện đang cùng cả nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Hà Nội không ngừng phát triển kinh tê, văn hóa – xã hội để luôn
xứng tầm với vị thế thủ đô của cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển,
Hà Nội cũng không thể tránh khỏi việc đối mặt với những khó khăn thách
thức: sự gia tăng dân số, suy đồi về lối sống, thất nghiệp, tệ nạn xã hội, dịch
bệnh, ô nhiễm môi trường, Vì vậy, người dân Hà Nội đặc biệt người dân các
quận nội thành đang hàng ngày phải chịu nhiều áp lực của cuộc sống đô thị.
Do đó, để có thể cân bằng cuộc sống cũng như thỏa mãn nhu cầu tinh thần thì
họ đã dành thời gian cho các chuyến du lịch để nghỉ ngơi, giải trí, Bên cạnh,
những chuyến du lịch thuần túy, họ còn thực hiện các cuộc hành trình kết hợp
cả hai yếu tố du lịch và tâm linh. Trong các chuyến du lịch này, họ không chỉ
được thỏa mãn các nhu cầu vật chất (các dịch vụ ăn uống, ngủ nghỉ, ) mà
quan trọng hơn là được thỏa mãn các nhu cầu tinh thần về mặt tâm linh
(chiêm bái, cầu khấn, thực hành các nghi lễ truyền thống). Những chuyến
hành trình đó còn được gọi là du lịch văn hóa tâm linh.
12
Hà Nội có nguồn tài nguyên du lịch tín ngưỡng, tâm linh phong phú
bậc nhất của cả nước, nhưng hiện nay chưa được nghiên cứu thật đầy đủ. Hà
Nội cũng là nơi có sản phẩm du lịch tín ngưỡng tâm linh đa dạng, nhiều vẻ,
và có sức hấp dẫn bậc nhất trong cả nước, nhưng chưa được khai thác có hiệu
quả và đầy đủ. Nhu cầu du lịch tín ngưỡng, tâm linh của người Hà Nội cũng
rất cao, nhưng hầu như chưa có công trình nào đề cập đến một cách toàn diện
và kỹ lưỡng… Với những lý do trên, đề tài "Nghiên cứu hoạt động du lịch

văn hóa tâm linh của người Hà Nội" (khảo sát trên địa bàn quận Đống Đa) là
cần thiết.
Do phạm vi tư liệu rất rộng, địa bàn khảo sát rất lớn, vấn đề khảo sát rất
nhiều, nên chúng tôi giới hạn phạm vi khảo sát nghiên cứu vấn đề du lịch văn
hóa tâm linh của người Hà Nội tại một quận nội thành tiêu biểu, nơi tập trung
nhiều di tích tín ngưỡng tâm linh, nhiều sinh hoạt tín ngưỡng, và đông dân cư
tham gia vào các hoạt động tín ngưỡng, tâm linh. Chúng tôi chọn địa bàn
được khảo sát tại Quận Đống Đa - Hà Nội, nhằm nghiên cứu chi tiết hơn về
hoạt động này và đề xuất các giải pháp tương ứng.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay, đề tài du lịch văn hóa tâm linh của người Hà Nội còn mới
mẻ. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài như về văn hóa tâm linh
và du lịch văn hóa, du lịch Hà Nội tuy phong phú nhưng chưa có tài liệu nào
đề cập đến du lịch văn hóa tâm linh. Tuy nhiên, đây lại là nguồn tư liệu rất bổ
ích để chúng tôi kế thừa phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này.
Về vấn đề văn hóa và văn hóa tâm linh, các công trình nghiên cứu rất
phong phú như Đào Duy Anh với Việt Nam văn hóa sử cương; Trần Quốc
Vượng với Cơ sở văn hóa Việt Nam;Toan Ánh với Nếp cũ – tín ngưỡng Việt
Nam; Phan Kế Bính với Việt Nam phong tục; Nguyễn Đăng Duy với Văn hóa
tâm linh; Văn hóa tâm linh Nam Bộ; Các hình thái tín ngưỡng, tôn giáo ở
13
Việt Nam; Mai Thanh Hải với Tôn giáo thế giới và Việt Nam; Nguyễn Duy
Hinh với Người Việt Nam với Đạo giáo; Hồ Văn Khánh với Tâm hồn – khởi
nguồn cuộc sống văn hóa tâm linh, Phan Ngọc với Bản sắc văn hóa Việt
Nam. Các công trình đã nghiên cứu chủ yếu về các vấn đề như lý luận văn
hóa; đặc trưng chức năng của văn hóa; các thành tố văn hóa Việt Nam; tôn
giáo, tín ngưỡng trong văn hóa Việt Nam; quan niệm về văn hóa tâm linh
Các nghiên cứu về Hà Nội, người Hà Nội, văn hóa Hà Nội cũng rất
nhiều tiêu biểu như: Nguyễn Viết Chức với Nếp sống người Hà Nội từ truyền
thống của thủ đô Hà Nội, Lý Khắc Cung với Hà Nội văn hóa và phong tục,

Nguyễn Trọng Đàn với Thăng Long Hà Nội, Nguyễn Thế Long với Chùa Hà
Nội, Nguyễn Thế Long với Đình, đền Hà Nội….Nội dung chủ yếu mà các
công trình này nghiên cứu là về đặc điểm văn hóa của người Hà Nội, thành
tựu văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của Hà Nội qua hàng ngàn năm lịch
sử.
Bên cạnh đó, các công trình về du lịch Hà Nội tiêu biểu như: Nguyễn
Vinh Phúc với Hà Nội - thành phố ngàn năm, Hà Nội – cõi đất, con người,
Hà Nội qua những tháng năm, Thần tích Hà Nội và tín ngưỡng thị dân,
Nguyễn Hữu Quỳnh với Bách khoa thư Hà Nội, Giang Quân với Hà Nội xưa
và nay, Thăng Long Hà Nội 1000 năm truyền thống và thanh lịch, Mai Thục
với Tinh hoa Hà Nội, Hoàng Đạo Thúy với Hà Nội thanh lịch, Người và cảnh
Hà Nội, Phố phường Hà Nội xưa, Trần Quốc Vượng với Hà Nội nghìn xưa…
đã nghiên cứu rất đầy đủ về tài nguyên cũng như sản phẩm du lịch Hà Nội
Về đề tài du lịch văn hóa, tâm linh, nói chung và trên địa bàn Hà Nội
nói riêng cũng có một số công trình như: Nguyễn Vinh Phúc với Du lịch Hà
Nội hướng tới 1000 năm Thăng Long, Nguyễn Phạm Hùng với Tượng đài Hà
Nội và du lịch văn hoá, Du lịch tôn giáo và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc, Khai thác món ăn dân tộc trong các khách sạn ở Hà Nội, Tiềm năng
14
du lịch phố cũ Hà Nội, Du lịch đêm Hà Nộ; Đa dạng văn hóa và sự phát triển
du lịch ở Việt nam… Các nghiên cứu này đã đề cập đến du lịch văn hóa và
việc khai thác các di sản văn hóa Hà Nội vào hoạt động du lịch văn hóa.
Như vậy, tất cả những công trình nghiên cứu nói trên đã đưa ra nội
dung rất phong phú về văn hóa, văn hóa tâm linh, du lịch văn hóa, du lịch Hà
Nội nhưng chưa đề cập đến du lịch văn hóa tâm linh. Tuy nhiên, chúng tôi
nhận thấy, các tài liệu nghiên cứu trên đã giúp chúng tôi rất nhiều trong khi
thực hiện đề tài. Chúng tôi đã kế thừa nhiều kết quả nghiên cứu trước đây.
Đồng thời, chúng tôi cũng nhận thấy, vấn đề du lịch tín ngưỡng, tâm linh của
người Hà Nội hiện là một nội dung nghiên cứu còn rất nhiều vấn đề cần tiếp
tục tìm hiểu, đánh giá, nghiên cứu để có thể có được những kết luận thỏa đáng

cho việc phát triển du lịch văn hóa tâm linh nói riêng, phát triển du lịch văn
hóa ở Hà Nội nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung vào các mục đích nghiên cứu sau đây:
- Hệ thống hóa một số quan điểm lý luận liên quan đến du lịch văn hóa
tâm linh
- Nghiên cứu thực trạng du lịch văn hóa tâm linh của người Hà Nội
trên địa bàn quận Đống Đa
- Đưa ra một số giải pháp để hoạt động du lịch văn hóa tâm linh diễn
ra phù hợp với lợi ích của du khách và xã hội.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn tập hợp và xây dựng hệ thống lý luận
về du lịch văn hóa tâm linh và đưa ra phương pháp nghiên cứu các dạng thức
hoạt động du lịch văn hóa tâm linh. Đề tài là một nghiên cứu mới đóng góp
cho ngành khoa học du lịch ở Việt Nam. Đây cũng có thể là cơ sở tham khảo
cho các đề tài khác có liên quan.
15
- Ý nghĩa thực tiễn: các kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp
làm tài liệu khảo cho các nhà nghiên cứu, các cơ quan Nhà nước về du lịch,
các doanh nghiệp du lịch khai thác loại hình du lịch văn hóa tâm linh.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Với đề tài này, luận văn tập trung vào nghiên cứu các đối tượng cụ thể sau:
Các hoạt động du lịch tín ngưỡng, tâm linh
Các nghiên cứu, giới thiệu về du lịch tín ngưỡng, tâm linh
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi thời gian: nghiên cứu các hoạt động du lịch tín ngưỡng, tâm
linh hiện nay (từ năm 2008 đến năm 2010)
+ Phạm vi về không gian: thuộc địa bàn quận Đống Đa – Hà Nội
+ Phạm vi vấn đề nghiên cứu: nghiên cứu thực tiễn, thực trạng hoạt động du

lịch tín ngưỡng, tâm linh, và một số đề xuất, giải pháp cho hoạt động du lịch
này.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Thu thập và xử lý tài liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn: sách, giáo trình; báo, tạp
chí chuyên ngành và báo, tạp chí có nội dung liên quan; công trình khoa học;
văn bản pháp quy về du lịch và liên quan đến du lịch, các văn bản pháp quy
về tín ngưỡng tôn giáo và việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa; các báo cáo
của quận Đống Đa; hồ sơ di tích, các trang web.
6.2 Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp phân tích và tổng hợp là việc lựa chọn, sắp xếp các nguồn
tài liệu thứ cấp và sơ cấp nhằm định lượng chính xác và đầy đủ phục vụ cho
mục đích điều tra và nghiên cứu, từ đó tổng hợp thành các quan điểm, nhận
xét để đưa cái nhìn khái quát về đối tượng nghiên cứu.
16
6.3 Phương pháp khảo sát
Khảo sát là phương pháp nghiên cứu hiệu quả để thu thập được những
thông tin mong muốn. Phương pháp này cho cái nhìn khách quan về đối
tượng và mang tính trung thực. Phương pháp này được áp dụng tại các điểm
du lịch tín ngưỡng, tâm linh trên địa bàn quận Đống Đa, nhằm tìm hiểu về
điểm đến, các sản phẩm của du lịch văn hóa tâm linh và đặc điểm của khách
du lịch.
7. Bố cục của Luận văn
Luận văn bao gồm 3 chương với nội dung chính như sau:
Chương 1: Một số quan điểm lý luận liên quan đến đề tài, trình bày
quan điểm lý luận về du lịch văn hóa tâm linh và đưa ra hiệu quả của du lịch
văn hóa tâm linh.
Chương 2: Thực trạng du lịch văn hóa tâm linh của người Hà Nội
(qua khảo sát ở quận Đống Đa), trình bày các hình thức tổ chức hoạt động
du lịch văn hóa tâm linh của người dân quận Đống Đa; các sản phẩm du lịch

tương ứng, các điểm đến du lịch văn hóa tâm linh, đặc điểm khách du lịch
tham gia loại hình du lịch này.
Chương 3: Một số giải pháp đối với hoạt động du lịch văn hóa tâm
linh của người Hà Nội (qua khảo sát ở quận Đống Đa), trình bày cơ sở đề
xuất để đưa ra giải pháp nhằm phát triển hợp lý hoạt động du lịch văn hóa tâm
linh để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân Hà Nội.
17
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VÂN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ VĂN HÓA TÂM LINH VÀ DU LỊCH VĂN HÓA
TÂM LINH
1.1 Những vấn đề về văn hóa tâm linh
Khái niệm văn hóa tâm linh mới chỉ xuất hiện trong vài thập kỷ gần
đây. Nó ra đời khi mà con người có bao vấn đề xoay quanh tín ngưỡng, tôn
giáo chưa có câu trả lời. Họ phân vân liệu tâm linh có phải là tín ngưỡng tôn
giáo hay không và nên phải ứng xử như thế nào khi xã hội bước vào văn minh
hiện đại xã hội chủ nghĩa. Một nhiệm vụ đặt ra cho các nhà nghiên cứu là phải
tìm ra bản chất của văn hóa tâm linh. Văn hoá tâm linh là một khái niệm hợp
nhất bởi hai yếu tố văn hoá và tâm linh. Để hiểu được khái niệm này cần phải
phân tích ý nghĩa của hai thuật ngữ văn hóa và tâm linh.
1.1.1 Văn hóa
Văn hoá là hiện tượng xã hội xuất hiện từ thuở bình minh của xã hội
loài người. Mặc dù văn hoá rất gần gũi, và thậm chí gắn bó máu thịt của sự
phát triển con người – xã hội, nhưng việc nhận thức sâu sắc và đầy đủ về nó
là cả một quá trình rất lâu dài. Ngay khi đứng trên góc nhìn của một khoa học
thì các nhà nghiên cứu cũng có những quan niệm rất khác nhau về văn hoá.
Do vậy, sự bùng nổ các định nghĩa về văn hoá là tất yếu, khiến cho người ta
chỉ có thể tập hợp theo nhóm chứ không thể liệt kê đây đủ, chi tiết từng định
nghĩa. Theo sự thống kê của nhà nghiên cứu người Nga A.X Ca-rơ-min, đến
nay con số định nghĩa văn hoá có thể lên tới 500 định nghĩa và ông đã phân
chia số định nghĩa ấy thành 14 nhóm. Còn theo hai nhà nhân loại học Hoa Kỳ

là A.Croeber và C.Kluckholn thì trong giới nghiên cứu phương Tây có 6
nhóm định nghĩa về văn hoá. Sự phong phú của quan niệm văn hóa giúp ta có
cái nhìn đa chiều về nó.
18
Ở nước ta, từ xa xưa đã phổ biến khái niệm "văn hiến". Từ đời Lý
(1010) người Việt đã tự hào nước mình là một "văn hiến chi bang". Đến đời
Lê (thế kỷ XV), Nguyễn Trãi đã viết "Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn
hiến chi bang" – Duy nước Đại Việt ta thực sự là nước văn hiến. Từ văn hiến
mà Nguyễn Trãi dùng ý muốn chỉ một nền văn hóa cao trong đó nếp sống tinh
thần, đạo đức được chú trọng. Cũng trong tác phẩm "Bình Ngô đại cáo",
Nguyễn Trãi viết:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Theo một số nhà nghiên cứu, từ "văn hiến" mà Nguyễn Trãi dùng ở
đây, về một khía cạnh nào đó, đồng nghĩa với từ "văn hoá". Tuy nhiên, phải
đến đầu thế kỷ XX thì khái niệm văn hoá mới xuất hiện với tư cách là khái
niệm khoa học.
Từ khi UNESCO phát động "Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá"
(1988-1997), nhiều nhà nghiên cứu trong nước đã chú trọng nghiên cứu lý
luận về văn hoá. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xem xét các vấn đề văn hoá.
Tuy nhiên, do văn hoá là hiện tượng vô cùng phức tạp, các nhà nghiên cứu lại
nghiên cứu văn hoá từ những phương diện, góc nhìn khác nhau, nên các quan
niệm về văn hoá cũng khác nhau. Vì vậy, để tránh lạc lối trong nghiên cứu về
bản chất của văn hoá, trước hết, chúng ta có thể phân thành hai loại quan
niệm về văn hoá: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Từ góc độ tiếp cận Triết
học Mác – xít, các nhà nghiên cứu ở nước ta đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về
bản chất và vai trò của văn hoá. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, nói
văn hoá là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực bản chất
của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Đặc trưng cơ

bản nhất của văn hoá là tính sáng tạo và tính nhân văn, văn hoá đóng vai trò là
19
mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, xung quanh
vấn đề phạm vi thực tồn của văn hoá lại có những quan niệm khác nhau.
Quan niệm cho rằng, văn hoá là một loại quan hệ đặc thù riêng có của
con người. Đó là quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong ý thức con người với
thế giới hiện thực. Từ quan niệm này, nhà nghiên cứu Phan Ngọc khẳng định:
Văn hoá là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân
hay một tộc người với thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc
người này mô hình hoá theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu
hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hoá dưới hình thức dễ thấy
nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác
các kiểu lựa chọn của cá nhân hay tộc người khác. [23, tr.16]
Xem xét văn hoá trong mối quan hệ với con người, với nhu cầu và mục
đích sống của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn ở và phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hoá."[56,tr21]
Trong định nghĩa này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến "sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt" và "biểu hiện của nó", tức đã đề cập đến
cả hoạt động sống của con người và những thành tựu do hoạt động đó tạo ra.
Nhưng dù là "hoạt động" hay "thành tựu" thì đều phải đáp ứng "những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" mới được gọi là văn hoá. Hơn nữa,
khi nhìn nhận văn hoá theo nghĩa rộng, Người đã xem văn hoá là thế giới giá
trị, tức là tất cả những gì của con người, do con người và vì con người.
Dựa trên quan niệm giá trị, GS. Trần Ngọc Thêm cho rằng: " Văn hoá
là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
20
và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con

người với môi trường tự nhiên và xã hội."[42,tr10]
Tất nhiên, ở đây giá trị cần được hiểu không chỉ là một loại "thước đo"
hoàn toàn mang tính chủ quan. Giá trị được nhận thức là thuộc tính của sự vật
có ích cho con người khi quan hệ với con người. Giá trị được quyết định bởi
cấu trúc, tính chất và công năng của bản thân sự vật nhưng chỉ phát lộ trong
quan hệ với con người. Do đó, giá trị không hoàn toàn mang tính chủ quan mà
có cả mặt khách quan và mặt chủ quan. Giáo sư Nguyễn Văn Huyên còn nhấn
mạnh: "Tất nhiên, toàn bộ giá trị ở đây là những sản phẩm có ích, thoả mãn
nhu cầu nhân sinh, đáp ứng sự phát triển - tiến bộ của xã hội. Bởi những sản
phẩm do con người sáng tạo ra không những không đáp ứng nhu cầu tiến bộ,
mà còn phản tiến bộ, đó là sản phẩm phản văn hoá." [15, tr.52] Như vậy, việc
xem văn hoá là giá trị vật chất và tinh thần kết tinh năng lực bản chất của con
người khắc phục được quan niệm đối lập tuyệt đối giữa xã hội với tự nhiên và
quan niệm đồng nhất giữa văn hoá với xã hội. Đồng thời, nó bao hàm ý nghĩa
rằng, văn hoá không phải là cái tồn tại một cách cô lập với con người mà luôn
trong mối quan hệ hữu cơ với con người, do con người sáng tạo ra và đến lượt
nó lại có tác dụng hoàn thiện, hoàn mỹ con người – xã hội.
Như vậy, văn hóa hiểu theo nghĩa rộng, tức tất cả những gì phi tự nhiên
là văn hóa, thì nó vừa giá trị, vừa lại phản giá trị. Nhưng văn hóa hiểu theo
nghĩa hẹp thì chỉ là giá trị mà thôi. Thuật ngữ văn hóa tâm linh được dùng là
theo nghĩa hẹp.
1.1.2 Tâm linh
1.1.2.1 Khái niệm
Theo nhà tâm lý học Sigmund Freud, con người là thực thể đa chiều.
Trong đó có 3 kích thước cơ bản: bản chất sinh học, bản chất xã hội và bản
chất tâm linh. Ba bản chất này được tạo thành chiều sâu, chiều rộng và chiều
21
cao của con người. Bản chất sinh học và bản chất xã hội thì đã được nghiên
cứu rất nhiều, nên tuy không còn phải vấn đề nữa nhưng việc nhận định nó thì
đã khá xác định. Còn bản chất tâm linh thì ít được các nhà khoa học quan tâm

nghiên cứu, bởi có thời người ta coi nó không phải là đối tượng của khoa học,
mà là đối tượng của huyền môn. Vì thế, tâm linh đã phải chịu không ít hiểu
lầm và ngộ nhận.
Trước đây, nói đến tâm linh là người ta nghĩ ngay đến tín ngưỡng và
tôn giáo, và đồng nhất nó với tín ngưỡng và tôn giáo. Thực ra, khái niệm tâm
linh vừa hẹp hơn nhưng lại vừa rộng hơn khái niệm tín ngưỡng tôn giáo. Hẹp
hơn vì ở tín ngưỡng tôn giáo ngoài phần tâm linh ra còn có phần mê tín dị
đoan và sự cuồng tín tôn giáo. Bởi đó vừa là một lĩnh vực của đời sống tinh
thần vừa là một thiết chế xã hội, mà đã là thiết chế xã hội thì không tránh khỏi
sự thế tục hóa, sự tha hóa do việc lợi dụng của giai cấp thống trị. Rộng hơn vì
tâm linh gắn liều với những khái niệm cái thiêng liêng, cái cao cả, cái siêu
việt không chỉ có ở đời sống tôn giáo, mà còn có cả ở đời sống tinh thần,
đời sống xã hội. Không chỉ có ở Thượng đế, có Chúa trời, Thần, Phật mới
thiêng liêng mà cả Tổ quốc, lòng yêu thương con người, sự thật, công lý cũng
thiêng liêng không kém. Có như vậy, con người mới đạt đến chiều cao của
con người. Vì nếu những cái đó bị giải thiêng thì con người không biết lấy cái
gì để khu biệt mình với động vật.
Mặc dù không được nhận biết, không được nghiên cứu và bị hiểu lầm,
nhưng tâm linh vẫn tồn tại trong và cùng với con người như là một chiều kích,
thậm chí là chiều kích quan trọng nhất của con người. Đó là một giá trị cơ bản
bao trùm và vĩnh cửu của đời sống con người. Tuy nhiên, trong xã hội cổ
truyền trước đây việc nghiên cứu tâm linh không được đặt ra một cách cấp
thiết. Chỉ khi con người bước vào thời đại công nghiệp cơ khí đại quy mô,
duy lý cực đoan và duy khoa học thực nghiệm, nhất là từ thế kỷ XX thì vấn đề
22
tâm linh mới trở thành một tiếng gọi. Bởi lẽ, con người càng chiếm lĩnh mạnh
mẽ và có hiệu quả thế giới bên ngoài, thiết lập nên một nền văn minh vật chất
phong phú bao nhiêu, thì đời sống bên trong, đời sống nội tâm của nó càng
nghèo đi bấy nhiêu. Con người đang tự đánh mất mình. Không coi nhẹ ý
nghĩa của những hoạt dộng "bên ngoài", nhưng việc giảm sút hoặc mất đi

những hoạt động "bên trong", nhất là những hoạt động của đời sống tâm linh,
là điều tệ hại nhất đối với sự tồn tại người. Vấn đề đặt ra là phải lập lại sự cân
bằng của hai hoạt động ấy, hai "đời sống" ấy.
Như vậy, cái tâm linh không nằm ngoài phạm vi nghiên cứu khoa học
mà còn là đối tượng của khoa học. Và không chỉ có nghiên cứu về nó, người
ta còn có thể đề ra những phương pháp phát triển tâm linh của con người bằng
những thể nghiệm, những thực nghiệm về nó. Từ đây chí ít ở lĩnh vực đời
sống tâm linh, tôn giáo và khoa học không còn loại trừ nhau như nước với lửa
nữa, mà có thể gần gụi nhau, thúc đẩy nhau làm phong phú lẫn nhau nhằm
đưa con người đến một sự phát triển hài hòa ở tất cả các mặt sinh học – xã hội
– tâm lý – tâm linh.
Trong Từ điển Tiếng Việt, tâm linh được giải thích theo hai nghĩa: "1.
Khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan
niệm duy tâm. 2.Tâm hồn, tinh thần, thế giới tâm linh."
Thuật ngữ tâm linh có hai từ tiếng Anh tương đương là spiritualism và
psychic. Spiritualism mang hai nghĩa: thứ nhất là niềm tin tôn giáo – triết học
về sự tồn tại sau cái chết; thứ hai là tâm trí, tâm hồn, tinh thần (nghĩa này ít
dùng). Còn psychic lại được hiểu theo nghĩa hiện tượng dị thường, huyền bí.
Trong cuốn "Tâm linh Việt Nam", Nguyễn Duy Hinh quan niệm: Tâm
linh là thể nghiệm của con người (Tâm) về cái Thiêng (linh) trong Tự nhiên
và Xã hội thông qua sống trải, thuộc dạng ý thức tiền logíc không phân biệt
thiện ác.[13,tr52]
23
Tác giả giải thích tâm linh là một khát vọng trí tuệ của con người.
Trong quá trình tồn tại, con người không bằng lòng khai thác tự nhiên hái quả
săn mồi sinh con đẻ cái như mọi động vật khác. Con người luôn có khát
vọng tìm hiểu và lý giải tự nhiên (trời, đất, nước, muôn loài ) và bản thân
con người để cải thiện cuộc sống của họ. Đó là khác biệt cơ bản giữa con
người và động vật. Qua trải nghiệm cụ thể, lâu dài mỗi dân tộc có một tâm
linh riêng biệt đặc sắc song cũng đều qui vào giải thích về trời đất và con

người. Giải thích về sức mạnh vô hình tác động đến cái Sống của con người.
Mạnh và vô hình nên gọi là Thiêng. Một số hiện tượng tâm linh thành tín
ngưỡng hoặc có thờ cúng hoặc không thờ cúng. Đó là tâm linh tín ngưỡng
như thờ cúng tổ tiên, cúng hồn lúa Còn tâm linh phát triển thành tâm linh
tôn giáo thì người ta tin theo tâm linh của một giáo Chủ nào đó truyền dạy có
trình độ lôgíc nhất định cao hơn tâm linh tín ngưỡng. Nhưng dù vậy mỗi cộng
đồng người tiếp thu tâm linh giáo Chủ nào đó đều ít nhiều thông qua tâm linh
tín ngưỡng của mình.
Từ quan niệm trên cho thấy, tâm linh chỉ tồn tại ở con người và là kết
quả trải nghiệm của họ trong quá trình sống ở mỗi môi trường nhất định. Từ
đó hình thành nên tâm linh riêng biệt của mỗi dân tộc. Tâm linh không phải là
tín ngưỡng tôn giáo mà tâm linh chứa đựng chúng. Tín ngưỡng tôn giáo chỉ
có thể tồn lại trong môi trường tâm linh ở đó con người có niềm tin vào
những đối tượng thiêng như thánh thần, Phật, Chúa.
Một quan niệm khác về tâm linh của tác giả Nguyễn Đăng Duy trong
cuốn "Văn hoá tâm linh": Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống
đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái
thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu
tượng, hình ảnh, ý niệm. [8,tr14]
24
Như vậy, tâm linh là cái tồn tại trong mỗi con người. Nó thể hiện qua
niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng hay tôn giáo của mỗi người.
Và cụ thể hơn chính là sự ngưỡng vọng của họ về những biểu tượng, hình ảnh
thiêng liêng,
1.1.2.2 Đặc điểm của tâm linh
Thứ nhất, tâm linh là một hình thái ý thức, tâm linh gắn liền với ý thức
của con người. Do vậy điều kiện để tồn tại tâm linh là sự có mặt của ý thức
con người. Điều đó đồng nghĩa với việc một người mất trí không còn khả
năng suy nghĩ thì trong đầu người đó sẽ trống rỗng và không có tâm linh.
Thứ hai, tâm linh là phần thiêng liêng trong ý thức của mỗi con người.

Ý thức của con người thì rất đa dạng như ý thức về toán học, ý thức về văn
học, ý thức về cộng đồng Trong đó, ý thức tâm linh là ý thức hướng về cái
thiêng liêng cao cả. Ý thức tâm linh được ngưng tụ theo hai cách:
Cách thứ nhất là ở ý niệm, con người phải hành động thì sự thiêng liêng
mới được bộc lộ. Ví dụ như người ta có ý niệm thiêng liêng âm dương giao
hòa, đực cái phối hợp nên đã tiến hành nhiều nghi lễ trò diễn phồn thực.
Người ta quan niệm có thổ địa linh thiêng nên mỗi khi xây nhà phải làm lễ
động thổ
Cách thứ hai là đọng lại ở các hình ảnh, biểu tượng. Biểu tượng là tiếng
nói chung để biểu thị ước lệ về một tín hiệu. Trong đó, mọi biểu tượng thiêng
liêng đều chứa đựng những giá trị cao cả, giá trị thẩm mỹ. Vì vậy, mọi biểu
tượng thiêng liêng là cơ sở bền vững cho nhiều mối quan hệ của con người.
Mọi người trong làng có mối quan hệ khăng khít với nhau vì họ cùng có
chung biểu tượng thiêng liêng mái đình, cây đa, giếng nước mà đi đâu ai cũng
nhớ. Hay cả dân tộc Việt Nam đoàn kết trong mối quan hệ cùng một tổ tiên
với biểu tượng núi Lĩnh và đền Hùng.
25

×