Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn. Nghiên cứu trường hợp các khách sạn thuê thương hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 123 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ HỒNG NGỌC




TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
TRONG KINH DOANH KHÁCH SẠN.
NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÁC KHÁCH SẠN
THUÊ THƢƠNG HIỆU SOFITEL CỦA
TẬP ĐOÀN ACCOR TẠI HÀ NỘI

Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)


LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH


Hà Nội, 2014

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ HỒNG NGỌC




TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
TRONG KINH DOANH KHÁCH SẠN.
NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÁC KHÁCH SẠN
THUÊ THƢƠNG HIỆU SOFITEL CỦA
TẬP ĐOÀN ACCOR TẠI HÀ NỘI

Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)

LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRẦN THỊ MINH HÒA

Hà Nội, 2014
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
DANH MỤC BẢNG BIỂU 5
PHẦN MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 8
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 13
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG

KINH DOANH KHÁCH SẠN 15
1.1 Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 15
1.1.1 Khái niệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 15
1.1.2 Sự hình thành và phát triển trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 16
1.1.3 Lợi ích từ việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 20
1.1.4 Các lĩnh vực cần quan tâm trong trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp 22
1.2 Những vấn đề về khách sạn và kinh doanh khách sạn 29
1.2.1 Khái niệm về khách sạn và kinh doanh khách sạn 29
1.2.2 Sản phẩm của khách sạn 31
1.2.3 Đặc điểm của kinh doanh khách sạn 35
1.2.4 Vai trò của kinh doanh khách sạn trong nền kinh tế quốc dân 38
1.3 Trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn 39
1.3.1 Bản chất của trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn 39
1.3.2 Nội dung trách nhiệm xã hội trong khách sạn 40
1.3.3 Lợi ích của khách sạn từ việc thực hiện CSR 43
CHƢƠNG 2. TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC KHÁCH SẠN THUÊ
THƢƠNG HIỆU SOFITEL CỦA TẬP ĐOÀN ACCOR TẠI HÀ NỘI 46
2.1 Khái quát về các khách sạn thuê thƣơng hiệu Sofitel của tập đoàn
Accor tại Hà Nội 46
2.1.1 Tập đoàn Accor và thƣơng hiệu Sofitel 46
2.1.2 Giới thiệu chung về khách sạn thuê thƣơng hiệu Sofitel của tập
đoàn Accor tại Hà Nội 50
2.2 Thực trạng về thực hiện trách nhiệm xã hội của các khách sạn thuê
thƣơng hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội 58
2.2.1 Trách nhiệm đối với ngƣời lao động 58
2.2.2 Trách nhiệm đối với môi trƣờng 67
2.2.3 Trách nhiệm đối với cộng đồng 78
CHƢƠNG 3. KINH NGHIỆM VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT NÂNG CAO
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG KINH DOANH KHÁCH SẠN TẠI

VIỆT NAM 83
3.1 Mục tiêu và định hƣớng phát triển của ngành du lịch,khách sạn Việt
Nam trong thời gian tới 83
3.1.1 Bối cảnh chung của ngành khách sạn Việt Nam 83
3.1.2 Mục tiêu và định hƣớng phát triển của ngành du lịch, khách sạn
Việt Nam trong thời gian tới 84
3.2 Kinh nghiệm từ công tác thực hiện trách nhiệm xã hội của các khách
sạn thuê thƣơng hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội 86
3.2.1 Kinh nghiệm từ việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với ngƣời
lao động 87
3.2.2 Kinh nghiệm thực hiện trách nhiệm xã hội đối với môi trƣờng 90
3.2.3 Kinh nghiệm từ việc thực hiện trách nhiệm với cộng đồng 95
3.3 Đề xuất nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội trong kinh doanh
khách sạn 95
3.3.1 Nâng cao nhận thức về lợi ích của việc thực hiện trách nhiệm xã
hội cho các doanh nghiệp khách sạn 96
3.3.2 Thực hiện tốt trách nhiệm đối với ngƣời lao động 97
3.3.3 Thực hiện trách nhiệm đối với việc bảo vệ môi trƣờng 99
3.3.4 Nâng cao trách nhiệm xã hội của khách sạn với cộng đồng 104
KẾT LUẬN 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
PHỤ LỤC 112




DANH MỤC BẢNG BIỂU
Nội dung
Trang
Bảng 1.1: Mô hình “Kim tự tháp” CSR (Nguồn: Carroll Archie - 1999) 22

Bảng 2.1 Cơ cấu loại buồng tại khách sạn Sofitel Legend Metropole Hanoi . 51
Bảng 2.2: Cơ cấu loại buồng tại khách sạn Sofitel Plaza Hanoi 52
Bảng 2.4: Cơ cấu lao động theo trình độ tại khách sạn Sofitel Legend
Metropole Hanoi 53
Bảng 2.5: Cơ cấu lao động tại khách sạn Sofitel Plaza Hanoi 54
Bảng 2.6: Cơ cấu lao động theo trình độ tại khách sạn Sofitel Plaza Hanoi 55
Bảng 2.9: Bảng lƣơng theo cấp bậc của khách sạn Sofitel Legend
Metropole Hanoi 63
Bảng 2.10: Phát sinh khí thải từ hoạt động của các khách sạn thuê thƣơng
thƣơng hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội 77
Bảng 3.1 Hệ thống cơ sở lƣu trú trên phạm vị cả nƣớc theo từng loại hạng
(tính đến tháng 5 năm 2013) 83




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thƣơng mại
Thế giới (WTO) từcuối năm 2006, chính vì vậy, việc thực hiện trách nhiệm xã
hội là một công việc không thể bỏ qua trên con đƣờng hội nhập của các doanh
nghiệp Việt Nam, bởi nó vừa mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, vừa mang lại
lợi ích cho xã hội, cho quốc gia, đặc biệt là nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Công việc này đối với các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ bắt
đầu, song sẽ là vấn đề mang tính chất lâu dài và trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp đang trở thành một nội dung đƣợc quan tâm, nó sẽ đem lại cho các
doanh nghiệp những lợi ích và cơ hội.
Mặc dù là ngành kinh tế non trẻ, chỉ thực sự phát triển trong vài thập kỷ
trở lại đây, du lịch Việt Nam đã nhanh chóng hòa chung vào xu thế phát triển
của các ngành kinh tế khác và ngày càng khẳng định vai trò cũng nhƣ sự đóng

góp to lớn cho nền kinh tế đất nƣớc. Cùng với tốc độ phát triển của ngành du
lịch, hệ thống các khách sạn đã phát triển nhanh chóng cả về số lƣợng lẫn chất
lƣợng. Không nằm ngoài quy luật kinh doanh chung, một doanh nghiệp muốn
tồn tại và phát triển bền vững, bên cạnh những yếu tố tự thân của doanh
nghiệp, doanh nghiệp phải gắn với cộng đồng, quan tâm đến môi trƣờng và có
trách nhiệm với xã hội. Đây là vấn đề rất quan trọng, nhất là trong giai đoạn
hội nhập hiện nay mà từ trƣớc đến giờ có rất ít các doanh nghiệp Việt Nam
quan tâm và nhìn nhận đúng cách, đặc biệt là trong kinh doanh khách sạn.
Một câu hỏi đặt ra là một khách sạn cần phải làm gì để khách hàng quan tâm
ủng hộ, làm gì để xã hội đánh giá là một khách sạn tốt và phát triển bền vững?
Tất cả các vấn đề trên chính là TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG KINH
DOANH KHÁCH SẠN. Các khách sạn tại Việt Nam hiện nay, đặc biệt là các
khách sạn 5 sao cũng đã dần xây dựng và triển khai kế hoạch, chính sách thực
hiện các hoạt động trách nhiệm xã hội để đảm bảo phát triển một cách bền
vững. Hoạt động này đã đƣợc thực hiện và đã có những thành công, song
cũng tồn tại một số hạn chế nhất định. Trên thực tế, việc nghiên cứu trách
nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn cả về lý luận và thực tiễn là một vấn
đề cần thiết và có ý nghĩa.
Từ thực tế đó đã thôi thúc tác giả lựa chọn vấn đề “Trách nhiệm xã hội
trong kinh doanh khách sạn. Nghiên cứu trường hợp các khách sạn thuê
thương hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc
sỹ với mong muốn góp phần hoàn thiện hoạt động thực hiện trách nhiệm xã
hội trong kinh doanh khách sạn nói chung, nhằm đƣa ngành du lịch Việt Nam
phát triển một cách bền vững.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá các hoạt động thực hiện trách nhiệm xã hội trong
các khách sạn thuê thƣơng hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội, từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm.Mục đích của đề tài làđề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn tại Việt Nam

hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và
trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn.
- Đánh giá thực trạng hoạt động thực hiện trách nhiệm xã hội của các
khách sạn thuê thƣơng hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội.
- Rút ra các bài học kinh nghiệm từ hoạt động thực hiện trách nhiệm
xã hội trong các khách sạn thuê thƣơng hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại
Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội trong các
khách sạn thuê thƣơng hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội nói riêng
và vận dụng trong doanh nghiệp kinh doanh khách sạn tại Việt Nam nói
chung.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là trách nhiệm xã hội trong kinh
doanh khách sạn.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Trong khuôn khổ bài luận văn này, tác giả xin đề
cập đến trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn và các hoạt động thực
hiện trách nhiệm xã hội tại các khách sạn thuê thƣơng hiệu Sofitel của tập
đoàn Accor tại Hà Nội. Đây là vấn đề tƣơng đối rộng, do thời gian không cho
phép, việc thu thập số liệu còn gặp nhiều khó khăn cũng nhƣ khả năng còn
hạn chế, tác giả chỉ đi sâu vào nghiên cứu 3 nội dung cơ bản của CSR: trách
nhiệm đối với ngƣời lao động, trách nhiệm đối với môi trƣờng và trách nhiệm
đối với cộng đồng.
- Phạm vi về không gian: Tác giả lựa chọn các khách sạn thuê thƣơng
hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội làm nghiên cứu trƣờng hợp.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu tình hình, số liệu hiện tại và xu

hƣớng phát triển của những năm tiếp theo.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
* Trên thế giới
Khái niệmtrách nhiệm xã hội của doanh nghiệpxuất phát từtiếng Anh
là corporate social responsibility (viết tắt là CSR). Mặc dù gốc gác của khái
niệm CSR đã có từ xa xƣa, từ trƣớc thế chiến thứ hai, xuất phát từ khuynh
hƣớng dân chủ - xã hội, cho rằng sự thúc đẩy một sự “kiểm toán xã hội” đối
với ứng xử của các doanh nghiệp trong việc đáp ứng các nhu cầu xã hội,
Nhƣng thuật ngữcorporate social responsibility, trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp mới thực sựxuất hiện vào năm 1953 bởi mục sƣ Bowen. Bowen
muốn xây dựng một học thuyết xã hội cho Giáo hội Tin lành có cùng tầm cỡ
với học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo. Do đó, quan niệm của ông đã
tạo ra một ảnh hƣởng sâu sắc đến quan niệm về trách nhiệm xã hội ở
Mỹ.Trong các cuộc tranh luận quốc tế về trách nhiệm xã hội còn tồn tại tình
trạng mập mờ bắt nguồn từ hai cách hiểu về trách nhiệm: trách nhiệm có thể
xem nhƣ là kết quả của một nghĩa vụ (obligation), nhƣng cũng có thể là kết
quả của một sự cam kết (engagement). Giới Anh - Mỹ thiên về khuynh hƣớng
hiểu CSR nhƣ một sự cam kết (mang tính tự nguyện), trong khi giới Âu châu
lục địa lại thiên về cách giải thích CSR nhƣ một nghĩa vụ (mang tính bắt
buộc).[1, Tr 46]
Thực tế là từ lâu, một bộ phận lớn giới kinh doanh (có thể nói là đa
số), do chịu ảnh hƣởng bởi trƣờng phái kinh tế Chicago (Friedman), nên đã
có quan điểm đối lập gần nhƣ hoàn toàn với trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp, thậm chí là trƣớc khi thuật ngữ này ra đời. Năm 1958, Levitt đã cảnh
báo những nguy cơ của trách nhiệm xã hội: các doanh nghiệp không thể chịu
trách nhiệm nhƣ các cơ quan công cộng đƣợc, bởi các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp không đƣợc bầu ra theo nguyên tắc phổ thông bầu phiếu. Chính vì
theo dòng tƣ tƣởng này mà Friedman (1962-1971) đã viết rằng các nhà lãnh
đạo doanh nghiệp không có trách nhiệm nào khác ngoài trách nhiệm tạo ra
càng nhiều tiền càng tốt cho cổ đông của mình. Tuy nhiên, ông cũng nói

thêm là việc thực hiện trách nhiệm xã hội giúp cho doanh nghiệp tối đa hóa
đƣợc lợi nhuận thì doanh nghiệp nhất định phải đi theo con đƣờng này. Mối
quan tâm đối với trách nhiệm xã hội chủ yếu chỉ diễn ra ở các doanh nghiệp
lớn đa quốc gia; các doanh nghiệp vừa và nhỏ phần lớn đều nằm ngoài trào
lƣu này, do họ có những nguồn lực tài chính và nhân sự hạn chế cũng nhƣ
thƣờng xuyên phải tập trung các mục tiêu kinh tế mang tính sống còn và
ngắn hạn. Các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ thƣờng tìm cách hội nhập
tối đa vào cộng động địa phƣơng thông qua các hoạt động bảo trợ, mặc dù
đôi khi cũng tham gia vào những hành động mang tính chiến lƣợc hơn nhƣ
quản lý rác thải hoặc tiết kiệm năng lƣợng. Áp lực của các doanh nghiệp đối
tác lớn cũng có thể là động lực tạo nên những ứng xử mang tính trách nhiệm
xã hội nơi các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tuy nhiên những áp lực này mang
tính hình thức và đƣợc nhìn nhận nhƣ là một sự cƣỡng ép hơn là một sự
khuyến khích.[1, Tr37]
Perrow (1997), một trong những lý thuyết gia lớn nhất hiện nay trong
lĩnh vực khoa học tổ chức, đã nhận diện trách nhiệm xã hội nhƣ là một cơ chế
có hiệu ứng rõ ràng nhất, đó là giúp định vị tổ chức của doanh nghiệp nhằm
khai thác một cách tối ƣu môi trƣờng xung quanh. Nhƣng ông nhấn mạnh
rằng việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ có lợi cho doanh nghiệp. [1,Tr 38]
Ngoài giới kinh doanh, cách nhìn và thái độ của các chủ thể hành động
khác cũng khác biệt nhau rất nhiều: từ việc lên án trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp nhƣ là một hiện thân mới của chủ nghĩa tƣ bản nhằm dự báo
trƣớc những điều mang tính chất cƣỡng chế (Plihon, 2003), cho đến việc tin
tƣởng vào một đòn bẩy mới có khả năng làm biến đổi các doanh nghiệp cũng
nhƣ giới kinh doanh (Duval, 2003). [1,Tr 39]
Theo Matten và Moon (2004): “CSR là một khái niệm chùm bao gồm
nhiều khái niệm khác nhƣ đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp làm từ thiện,
công dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi trƣờng. Đó là khái
niệm động và luôn đƣợc thử thách trong từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã
hội đặc thù”. Nhƣ vậy, bản chất của CSR là quan điểm về vai trò của nhà

nƣớc khiến khái niệm CSR luôn biến đổi, luôn mới tùy thuộckhông những
phạm vị không gian mà còn thời gian nơi diễn ra cuộc tranh luận CSR [21].
Trong điều kiện hiện nay, với những thách thức của toàn cầu hóa, các
công ty ý thức đƣợc rằng các hoạt động “CSR không chỉ là chi phí còn là một
hoạt động đầu tƣ, nó nhƣ một chiến lƣợc đầu tƣ dài hạn nhằm giảm thiểu rủi
ro và hƣớng tới sự phát triển bền vững bởi nó đã gián tiếp tạo ra những lợi ích
kinh tế” (Kirti Dutta, M. Durgamohan, 2008) [4, Tr 79].
* Ở Việt Nam
Trên các diễn đàn khác nhau, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng có
một số bài viết trao đổi về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. TS. Nguyễn
Hữu Dũng, Viện Khoa học và Lao động Xã hội, cho rằng, hội nhập kinh tế
quốc tế mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội cũng nhƣ thách
thức mới cùng với những “luật chơi mới”. Một trong luật chơi mớiđó là thực
hiện “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” liên quan đến một số nội dung
chủ yếu thuộc lĩnh vực lao động và môi trƣờng, thông qua những “Bộ nguyên
tác ứng xử”. Ông viết: “Vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp thông qua việc thực hiện tốt “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”
kết hợp hài hòa giữa việc thực hiện các quy định của luật pháp lao động Việt
Nam và các yêu cầu của bạn hàng, giữa lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích
của xã hội, giữa quyền lợi của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động, đáp
ứng yêu cầu chung của bộ quy tắc ứng xử (CoC) thì chắc chắn khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệpsẽ đƣợc cải thiện, luật pháp lao động quốc gia đƣợc
thực hiện tốt hơn và quyền lợi của các bên liên quan cũng đƣợc đảm bảo. Đó
cũng chính là một trong những nội dung quan trọng của “xây dựng văn hóa
doanh nghiệp Việt Nam” trong thời đại mới.[4,Tr 113]
TS. Nguyễn Sĩ Dũng quan niệm,kinh doanh thực chất là khai thác nhu
cầu của con ngƣời. Vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đƣợc đặt ra
là trên cơ sở các mối quan hệ của doanh nghiệp và khách hàng. Thực ra, trong
cuộc sống chúng ta đều là những nhà cung ứng và những khách hàng của
nhau. Nhƣ vậy, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng là trách nhiệm xã

hội của bản thân. Theo tác giả, xây dựng và củng cố một xã hội nhƣ vậy là
trách nhiệm của tất cả mọi ngƣời và của cả doanh nghiệp. Đó cũng là một
khía cạnh về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp có thể biểu hiện dƣới nhiều hình thức và nội dung khác nhau.
Trước hết, đó là trách nhiệm xã hội về môi trƣờng. Thứ hai là trách nhiệm đạo
lý. Và cuối cùng, trách nhiệm xã hội thể hiện trƣớc hết thông qua việc đóng
thuế.[4, Tr 114]
Với cách tiếp cận trên góc độ triết học, GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn,
Viện Triết học thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam quan niệm: “Ý thức về
trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trƣờng hiện đại giúp cho ngƣời
ta thấy rằng, thị trƣờng thế giới rộng lớn, đầy tiềm năng trên phạm vi toàn cầu
là môi trƣờng thuận lợi để tìm kiếm lợi nhuận không chỉ cho riêng mình, mà
còn cho quê hƣơng, đất nƣớc và cho sự tiến bộ chung của xã hội Bởi vậy ai
biết tôn trọng khách hàng, biết tôn trọng đạo lý và biết lấy chữ tín làm đầu
mới có hy vọng thành đạt trên thƣơng trƣờng trong nƣớc và quốc tế. Ý thức
trách nhiệm xã hội sẽ giúp ngƣời sản xuất, kinh doanh tự điều chỉnh các hoạt
động của mình sao cho phù hợp với những đòi hỏi của chuẩn mực pháp lý,
chuẩn mực đạo đức để hƣớng tới cái lợi, cái thiện, cái đẹp ”[4, Tr 114]
Bài viết về “Trách nhiệm xã hội của các khách sạn Việt Nam” trên tạp
chí Du lịch Việt Nam của tác giả Trần Thị Thu Thảo có nhận định rằng: “Vấn
đề nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của các khách
sạn thông qua việc thực hiện tốt CSR là sự kết hợp hài hòa giữa việc thực
hiện các quy định của luật pháp Việt Nam về lao động, bảo vệ môi trƣờng,
bảo vệ ngƣời tiêu dùng với yêu cầu của đối tác, của khách hàng; giữa lợi ích
của khách sạn với lợi ích của xã hội; giữa quyền lợi của ngƣời lao động với
quyền lợi của ngƣời sử dung lao động Khi đáp ứng tốt các yêu cầu này, năng
lực cạnh tranh trong nƣớc và quốc tế của các khách sạn sẽ đƣợc cải thiện; luật
pháp của quốc gia đƣợc thực hiện tốt hơn và quyền lợi của các bên tham gia
cũng đƣợc bảo đảm”.[14, Tr 31]
Tuy nhiên các công trình đã công bố tại Việt Nam mới chỉ quan tâm

đến hoạt động thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp nói chung
mà chƣa đề cập sâu đến trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn hiện
nay ở Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu về lý thuyết trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp nói chung, trong kinh doanh khách sạn nói riêng và kế thừa kết
quả nghiên cứu của các tài liệu, các công trình đã công bố, tác giả lựa chọn đề
tài “Trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn. Nghiên cứu trƣờng hợp
các khách sạn thuê thƣơng hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội”, với
mong muốn đƣa ra những bài học kinh nghiệm của các khách sạn trên, từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội trong kinh doanh
khách sạn tại Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát thực tế: Đây là phƣơng pháp không thể thiếu
trongngành du lịch. Kết hợp với việc nghiên cứu thông qua các tài liệu liên quan,
phƣơng pháp thực địa đƣợc coi là phƣơng pháp chủ đạo của đề tài. Phƣơng pháp
này đƣợc kết hợp với phƣơng pháp phỏng vấn sâu với các đối tƣợng là nhân viên
khách sạn và ngƣời quản lý môi trƣờng. Do đó, thông tin thu đƣợc từ phƣơng
pháp này khá phong phú và cho kết quả nghiên cứu chân thực.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Là phƣơng pháp thu thập thông tin dựa
trên cơ sở giao tiếp bằng lời có tính đến mục đích đặt ra. Trong cuộc phỏng
vấn, ngƣời phỏng vấn nêu những câu hỏi theo một chƣơng trình đƣợc định
sẵn dựa trên những cơ sở luật lớn của toán học. Đối tƣợng thực hiện phỏng
vấn: lao động trong khách sạn và nhà quản lý.Nội dung phỏng vấn đề cập các
khía cạnh về chính sách đối với ngƣời lao động, hoạt động bảo vệ môi trƣờng.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Là phƣơng pháp phỏng vấn
viết, đƣợc thực hiện cùng một lúc với nhiều ngƣời theo một bảng hỏi in sẵn.
Ngƣời đƣợc hỏi trả lời ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào các ô tƣơng
ứng theo một quy ƣớc mặc định với các câu hỏi đƣợc xếp đặt trên cơ sở các
nguyên tắc: tâm lý, logic và theo nội dung nhất định. Trên cơ sở khảo sát, xác
định đối tƣợng và nội dung cần điều tra để thực hiện mục tiêu đề tài, việc điều

tra đƣợc tiến hành đối với các lao động làm việc tại các khách sạn thuê
thƣơng hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội. Sau đó thiết kế bảng hỏi
với hệ thống câu hỏi phù hợp về cả cấu trúc, thời gian với các đối tƣợng là
ngƣời lao động. Nội dung các câu hỏi đề cập là các mối quan tâm của họ về
các chế độ lƣơng, thƣởng và đãi ngộ khác của khách sạn đối với ngƣời lao
động nhằm đáp ứng cho yêu cầu và mục tiêu của luận văn.
- Phương pháp thống kê, thu thập và xử lý số liệu: Phƣơng pháp này
đƣợc thực hiện trong luận văn thông qua việc tổng hợp các nguồn tƣ liệu, số
liệu, các kết quả đánh giá, điều tra xã hội cũng nhƣ các khảo sát thực tế. Phân
tích để thấy đƣợc mức độ, chiều sâu của vấn đề đƣợc đề cập.
6. Những đóng góp của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần hệ thống, phát triển lý thuyết về
trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Đề tài đã làm rõ thực trạng hoạt động thực hiện trách nhiệm xã hội tại
các khách sạn thuê thƣơng hiệu Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội.
+ Việc nghiên cứu về thực trạng và rút ra các bài học kinh nghiệm từ
việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong các khách sạn Sofitel tại Hà Nội là
căn cứ cơ bản để đề xuất các giải pháp nâng cao trách nhiệm xã hội trong các
khách sạn tại Việt Nam. Nó giúp cho các doanh nghiệp khách sạnnhận thức
đúng đắn về trách nhiệm xã hội của mình, lợi ích từ việc thực hiện tốt trách
nhiệm xã hội.
+ Giúp cho các nhà quản lý, các doanh nghiệp khách sạn Việt Nam có
những định hƣớng trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình nhằm đảm
bảo phát triển một cách bền vững.
+ Đề tài còn là nguồn tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp khách
sạn Việt Nam trong việc thực hiện các trách nhiệm xã hội của mình.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn đƣợc kết cấu làm 3 chƣơng cụ thể nhƣ sau:

- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm xã hội trong kinh
doanh khách sạn
- Chương 2: Trách nhiệm xã hội của các khách sạn thuê thương hiệu
Sofitel của tập đoàn Accor tại Hà Nội
- Chương 3: Kinh nghiệm và những đề xuất nâng cao trách nhiệm xã
hội trong kinh doanh khách sạn tại Việt Nam

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
TRONG KINH DOANH KHÁCH SẠN

1.1 Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social
Responsibility) gọi tắt là CSR. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về CSR.
Mỗi tổ chức, công ty, chính phủ nhìn nhận CSR dƣới những góc độ riêng và
quan điểm riêng, phụ thuộc vào điều kiện, đặc điểm và trình độ phát triển của
mình. Keith Davis (1973) đƣa ra một khái niệm khá rộng: “CSR là sự quan
tâm và phản ứng của doanh nghiệp với các vấn đề vượt ra ngoài việc thỏa
mãn những yêu cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ”[21] Trong khi đó, Caroll
(1999) cho rằng CSR còn có phạm vi lớn hơn “là tất cả các vấn đề kinh tế,
pháp lý, đạo đức và những lĩnh vực khác mà xã hội trông đợi trong mỗi thời
điểm nhất định”[16]
Theo nhƣ Matten và Moon (2004): “CSR là một khái niệm chùm bao
gồm nhiều khái niệm khác như đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp làm từ
thiện, công dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi trường. Đó
là khái niệm động và luôn được thử thách trong từng bối cảnh kinh tế, chính
trị, xã hội đặc thù”[21]. Ngoài ra, có một số quan điểm chính thức của CSR
nhƣ sau:
+ Theo nhƣ chính phủ Anh: “CSR là hành động do doanh nghiệp tự
nguyện thực hiện, ngoài việc tuân thủ các quy định pháp lí tối thiểu nhằm thỏa

mãn nhu cầu cạnh tranh của doanh nghiệp và lợi ích của toàn xã hội”[21]
+ Còn theo Hội đồng doanh nghiệp thế giới vì sự phát triển bền
vững: “CSR là sự cam kết liên tục của doanh nghiệp đối với đạo đức kinh
doanh và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế trong khi cải thiện chất lượng
cuộc sống của người lao động và gia đình họ cũng như cộng đồng và xã
hội”[21]
+ Theo HSBC: “CSR là quản lý công việc kinh doanh của chúng ta một
cách có trách nhiệm và nhạy cảm, vì mục tiêu thành công dài hạn. Chúng ta
không bao giờ theo đuổi lợi nhuận bằng mọi giá, vì biết rằng thành công
ngày mai phụ thuộc vào uy tín được chúng ta xây dựng từ hôm nay”[21]
Về phƣơng diện quản lý nhà nƣớc, nhiều nƣớc đã thể chế hóa nội dung
CSR vào các văn bản và quy định khác dƣới nhiều hình thức khác nhau. Trên
bình diện rộng lớn hơn, nỗ lực đƣa CSR trở thành một thông lệ quốc tế phổ
biến đã trở thành hiện thực.
Tóm lại, có thể đƣa ra khái niệm của Ủy ban Kinh tế Thế giới về phát
triển bền vững để thấy rõ hơn bản chất của CSR: “CSR- Trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp là sự cam kết của doanh nghiệp nhằm đóng góp cho phát
triển kinh tế bền vững thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng
đời sống của người lao động và các thành viên gia đình họ, cho cồng đồngvà
cho toàn xã hội theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như sự phát triển
chung của xã hội”[15]
1.1.2 Sự hình thành và phát triển trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Khái niệm “Trách nhiệm xã hội” của doanh nghiệp xuất hiện lần đầu
tiên vào năm 1953. Đại diện nổi bật nhất của thuyết quản trị “Đại diện” là
Milton Friedman. Ông đã cho rằng doanh nghiệp chỉ có một trách nhiệm duy
nhất là tối đa hóa lợi nhuận, gia tăng giá trị cổ đông, trong khuôn khổ luật
chơi của thị trƣờng là cạnh tranh trung thực và công bằng. Theo ông: Ngƣời
quản lý doanh nghiệp (thành viên của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc) là
những ngƣời đại diện cho chủ sở hữu/ cổ đông đứng ra quản lý công ty. Họ
đƣợc bầu hoặc thuê để dẫn dắt công ty theo cách mà các cổ đông muốn, đa

phần là làm ra lợi nhuận càng nhiều càng tốt, đồng thời tuân thủ các quy tắc
xã hội cơ bản vốn đã đƣợc thể hiện trong luật và các nguyên tắc đạo đức phổ
biến. Đó chính là bản chất vìlợi nhuận (for-profit) của doanh nghiệp và ngƣời
quản lý doanh nghiệp chỉ có trách nhiệm đối với cổ đông là chủ sở hữu của
công ty đã lựa chọn họ làm đại diện. Do đó, nếu ngƣời quản lý công ty muốn,
anh ta có quyền thực hiện các trách nhiệm xã hội dựa trên nhận thức và tình
cảm của riêng mình, bằng thời gian và tiền bạc của cá nhân nhƣng không
đƣợc sử dụng nguồn lực của công ty và nhân danh công ty nếu không đƣợc cổ
đông ủy thác để làm việc đó. Công ty vốn là chủ thể “vô tri vô giác” do con
ngƣời tạo ra, do đó công ty không thể tự nhận thức và gánh vác nghĩa vụ đạo
đức vốn có chỉ có con ngƣời mới có. Bởi vì chỉ có từng cá nhân con ngƣời
mới có lƣơng tâm để nhận thức sự việc đúng- sai. Hơn nữa, các trách nhiệm
xã hội thuộc lĩnh vực của nhà nƣớc, là chủ thể cung cấp các dịch vụ công, vì
lợi ích cộng đồng và phi lợi nhuận. Chỉ có nhà nƣớc mới có đủ thông tin để
quyết định đúng đắn trong việc phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả. Cấu
trúc tam quyền phân lập đã đảm bảo sự phân bổ đó đƣợc công bằng và có
kiểm soát. Trách nhiệm của doanh nghiệp là tạo ra giá trị gia tăng, phát triển
công nghệ đem lại lợi nhuận tạo ra việc làm có thu nhập cho ngƣời lao động.
Trách nhiệm chính của doanh nghiệp đối với nhà nƣớc là đóng thuế. Trách
nhiệm của nhà nƣớc là làm sao sử dụng tiền thuế đó có hiệu quả nhất vì lợi
ích công cộng. Nhƣ vậy, nếu doanh nghiệp cũng thực hiện các trách nhiệm xã
hội thì sẽ có sự trùng lặp và doanh nghiệp sẽ trở thành ngƣời vừa đóng thuế,
vừa quyết định việc chi tiêu khoản thuế đó ra sao. Ngƣời quản lí doanh
nghiệp khi ấy sẽ trở thành một nhân viên công vụ hơn là một ngƣời đại diện
cho lợi ích của cổ đông. Mặt khác, kể cả khi một ngƣời quản lí doanh nghiệp
đƣợc sử dụng nguồn lực của công ty để thực hiện trách nhiệm xã hội dựa trên
phán đoán chủ quan của mình, thì không có gì đảm bảo rằng đó là quyết định
sáng suốt cho mục tiêu xã hội cuối cùng vì anh ta không phải là chuyên gia xã
hội mà là một chuyên gia quản lý và kinh doanh. Đó cũng là lý do mà các cổ
đông cử anh ta làm đại diện và gửi gắm niềm tin trong việc quản lý doanh

nghiệp. Do đó nếu muốn thực hiện trách nhiệm xã hội, các cổ đông có thể làm
với tƣ cách cá nhân, tự nguyện và tách biệt với công ty mà không nên thông
qua công ty và những ngƣời quản lý công ty. Từ quan điểm này, trƣờng phái
phản đối CSR cho rằng các chƣơng trình của doanh nghiệp lấy tên là “Trách
nhiệm xã hội” chỉ là những chƣơng trình PR đạo đức giả mà thực chất mục
tiêu cuối cùng vẫn vì lợi nhuận của doanh nghiệp mà thôi
Những ngƣời ủng hộ CSR thì không bác bỏ hoàn toàn những lập luận
trên nhƣng họ cũng đƣa ra một lập luận khác hết sức thuyết phục là bản thân
công ty khi đi vào hoạt động đã là chủ thể của xã hội, sử dụng nguồn lực xã
hội và môi trƣờng. Vì vậy, doanh nghiệp phải có ý thức về những tác động
của hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và có trách nhiệm với chính
hành vi của mình trƣớc xã hội. Henry Mintberg đã lấy ví dụ công ty Dow
Chemicals quyết định bán chất napal cho quân đội Mỹ để sử dụng trong chiến
tranh Việt Nam, để lại hậu quả nặng nề cho hàng triệu nạn nhân chất độc màu
da cam. Có thể nói bản chất của doanh nghiệp không thể chỉ vì lợi nhuận mà
ngay từ đầu doanh nghiệp đã đóng vai trò là công dân trong xã hội với tất cả
nghĩa vụ và quyền lợi thích hợp của mình trong nó. Thật vậy, nếu chỉ nhìn
nhận đơn giản khi cho rằng doanh nghiệp hoạt động duy nhất vì lợi nhuận và
bù đắp lại chi phí xã hội, cũng nhƣ trả tiền cho các dịch vụ công mà doanh
nghiệp hƣởng lợi thông qua việc đóng thuế, chúng ta sẽ thấy những ô nhiễm
môi trƣờng và chi phí xã hội mà doanh nghiệp gây ra có thể lớn hơn rất nhiều
lần lợi ích mà công ty này mang lại từ tiền thuế hay tạo việc làm (nhƣ trƣờng
hợp công ty Vedan). Doanh nghiệp không thể kêu gọi sự trung tính của mình.
Tất cả sự kiện của doanh nghiệp nhƣ khai trƣơng dòng sản phẩm mới, đặt một
nhà máy, đóng cửa một chi nhánh đều kéo theo những hệ quả xã hội nhất
định. Do vậy, không thể tách rời hoàn toàn giữa tính chất xã hội và kinh tế khi
nhìn nhận bản chất và hoạt động của doanh nghiệp. Và ngƣời quản lý với tƣ
cách là ngƣời quản lý doanh nghiệp phải thực hiện trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp mình vì chính doanh nghiệp. Trách nhiệm của họ không phải
việc quyết định điều gì tốt hay xấu cho xã hội mà là đáp ứng những điều mà

xã hội mong muốn và trông đợi ở doanh nghiệp nhƣ một thành viên đầy đủ
trong đó. CSR chính là lực cản cuối cùng giúp giữ doanh nghiệp không đi quá
đà vì lợi ích kinh tế mà vi phạm các chuẩn mực đạo đức, bỏ quên các tác động
tiêu cực của mình đến các thành phần khác trong xã hội. Doanh nghiệp thực
hiện trách nhiệm xã hội còn vì lợi ích tăng trƣởng và phát triển bền vững của
chính mình. Điều tra của Bowman và Haire từ năm 1973 đã cho thấy nhóm
công ty cam kết với CSR có tỉ lệ lợi nhuận trên vốn cao hơn các công ty khác
(14,7% so với 10%). Khác mô hình công ty gia đình trƣớc kia, doanh nghiệp
hiện đại thƣờng là các công ty cổ phần đại chúng. Hoạt động đa ngành nghề,
đa quốc gia. Do đó, ngày nay doanh nghiệp không chỉ hoạt động trong môi
trƣờng đơn nhất đƣợc giám sát bởi các cơ chế thị trƣờng thuần túy kinh tế (giá
cả, cạnh tranh, thị trƣờng ) mà còn chịu tác động của các cơ chế xã hội -
chính trị - môi trƣờng. Hai hệ thống này có sự tác động qua lại lẫn nhau. Thực
tế cho thấy ngƣời tiêu dùng và nhà đầu tƣ ngày càng tính đến các tiêu chí
thành tích của công ty về đạo đức, lao động, môi trƣờng, xã hội trong các
quyết định tiêu dùng hay đầu tƣ của mình. Hơn thế nữa, không chỉ liên quan
đến tính cạnh tranh, CSR còn liên quan trực tiếp đến tính bền vững của công
ty. Nếu thiếu CSR, doanh nghiệp sẽ tự loại mình ra khỏi thị trƣờng và cộng
đồng doanh nghiệp. [21]
CSR trở thành một phong trào thực thụ và trƣởng thành, phát triển
rộng khắp thế giới. Nếu chúng ta tra cứu các cụm từ này trên Google chúng
ta sẽ thấy khoảng 169.000.000 kết quả. Có hàng vạn bài báo, nghiên cứu,
tạp chí, diễn đàn, trang web của các tổ chức phi chính phủ, giới khoa học,
doanh nghiệp, truyền thông, cơ quan chính phủ bàn về vấn đề này. Ngƣời
tiêu dùng tại các nƣớc phát triển ở châu Âu, Mỹ, Nhật hiện nay không chỉ
quan tâm đến chất lƣợng sản phẩm mà còn coi trọng cách thức các công ty
làm ra sản phẩm đó, có thân thiện với môi trƣờng sinh thái, cộng đồng,
nhân đạo và lành mạnh. Nhiều phong trào bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
và môi trƣờng phát triển rất mạnh. Trƣớc áp lực xã hội nhiều công ty lớn
đã chủ động đƣa CSR vào chƣơng trình hoạt động của mình một cách

nghiêm túc. Hàng nghìn chƣơng trình đã đƣợc thực hiện nhƣ tiết kiệm năng
lƣợng, giảm khí thải các-bon, sử dụng vật liệu tái sinh, năng lƣợng mặt
trời, cứu trợ, ủng hộ thiên tai. Theo tổ chức Giving USA Foundation, số
tiền các doanh nghiệp đóng góp cho các hoạt động xã hội trên toàn thế giới
lên đến 14,55 tỷ USD (báo cáo năm 2012). Hiện nay, hầu hết các công ty
đa quốc gia đều xây dựng bộ quy tắc ứng xử có tính chất chuẩn mực áp
dụng đối với nhân viên của mình trên toàn thế giới. Lợi ích đạt đƣợc qua
những cam kết CSR đã đƣợc ghi nhận. Không những hình ảnh công ty
đƣợc cải thiện trƣớc mắt công chúng và ngƣời dân địa phƣơng giúp công ty
tăng doanh số bán hàng hay thực hiện các thủ tục đầu tƣ đƣợc thuận lợi
hơn, mà ngay trong nội bộ công ty, sự hài lòng và gắn bó của nhân viên với
công ty cũng tăng lên, cũng nhƣ các chƣơng trình tiết kiệm năng lƣợng
giúp giảm chi phí hoạt động cho công ty không nhỏ.
Nói tóm lại, CSR xuất hiện từ những năm 70 của thế kỷ trƣớc và theo
sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu, CSR ngày càng phát triển và hoàn thiện
mang lại những ý nghĩa tích cực cho doanh nghiệp và xã hội, gắn kết doanh
nghiệp và xã hội hơn.
1.1.3 Lợi ích từ việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Nhữngdoanh nghiệp thực hiện CSR đã đạt đƣợc những lợi ích đáng kể
bao gồm giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị thƣơng hiệu, giảm tỷ lệ nhân
viên thôi việc, tăng năng suất và thêm cơ hội tiếp cận những thị trƣờng mới:
- Giảm chi phí và tăng năng suất: Doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi
phí bằng cách sản xuất sạch hơn. Ví dụ, một doanh nghiệp sản xuất bao bì lớn
của Ba Lan đã tiết kiệm đƣợc 12 triệu Đô la Mỹ trongvòng 5 năm nhờ việc
lắp đặt thiết bị mới, do đó làm giảm 7% lƣợng nƣớc sử dụng, 70% lƣợng chất
thải nƣớc và 87% chất thải khí. Một hệ thống quản lý nhân sự hiệu quả cũng
giúp cắt giảm chi phí và tăng năng suất lao động đáng kể. Lƣơng thƣởng hợp
lý, môi trƣờng lao động sạch sẽ và an toàn, các cơ hội đào tạo và chế độ bảo
hiểm y tế và giáo dục đều góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp bằng
cách tăng năng suất lao động, giảm tỷ lệ nhân viên nghỉ, bỏ việc, giảm chi phí

tuyển dụng và đào tạo nhân viên mới.
- Tăng doanh thu: Đầu tƣ hỗ trợ phát triển kinh tế địa phƣơng có thể
tạo ra một nguồn lao động tốt hơn, nguồn cung ứng rẻ và đáng tin cậy hơn, và
nhờ đó tăng doanh thu. Ví dụ: Hindustan Lever, một chi nhánh của tập đoàn
Unilever tại Ấn Độ, vào đầu những năm 1970 chỉ hoạt động đƣợc với 50%
công suất do thiếu nguồn cung ứng sữa bò từ địa phƣơng, và do vậy đã lỗ
trầm trọng. Để giải quyết vấn đề này, công ty đã thiết lập một chƣơng trình
tổng thể giúp nông dân tăng sản lƣợng sữa bò. Chƣơng trình này bao gồm đào
tạo nông dân cách chăn nuôi, cải thiện cơ sở hạ tầng cơ bản và thành lập một
ủy ban điều phối những nhà cung cấp địa phƣơng. Nhờ chƣơng trình này, số
lƣợng làng cung cấp sữa bò đã tăng từ 6 tới hơn 400, giúp cho công ty hoạt
động hết công suất và đã trở thành một trong những chi nhánh kinh doanh lãi
nhất tập đoàn. Rất nhiều công ty sau khi có đƣợc chứng chỉ về CSR đã tăng
đƣợc doanh thu đáng kể. Ví dụ, Aserradero San Martin, một công ty sản xuất
đồ gỗ ở Bolivia, sau khi có chứng chỉ bảo vệ rừng bền vững (FSC) đã tiếp cận
đƣợc thị trƣờng Bắc Mỹ và bán sản phẩm vớigiá cao hơn từ 10-15%.
- Nâng cao giá trị thƣơng hiệu và uy tín của công ty: CSR có thể
giúp doanh nghiệp tăng giá trị thƣơng hiệu và uy tín đáng kể. Uy tín giúp
doanh nghiệp tăng doanh thu, hấp dẫn các đối tác, nhà đầu tƣ, và ngƣời lao
động. Những tập đoàn đa quốc gia nhƣ The Body Shop (tập đoàn của Anh
chuyên sản xuất các sản phẩm dƣỡng da và tóc) và IKEA (tập đoàn kinh
doanh đồ dùng nội thất của ThụyĐiển) là những ví dụ điển hình. Cả hai công
ty này đều nổi tiếng không chỉ vì các sản phẩm có chất lƣợng và giá cả hợp lý
của mình mà còn nổi tiếng là các doanh nghiệp có trách nhiệm đối với môi
trƣờng và xã hội.
- Thu hút nguồn lao động giỏi: Nguồn lao động có năng lực là yếu tố
quyết định năng suất và chất lƣợng sản phẩm. Ở các nƣớc đang phát triển, số
lƣợng lao động lớn nhƣng đội ngũ lao động đạt chất lƣợng cao lại không
nhiều; do vậy việc thu hút và giữ đƣợc nhân viên có chuyên môn tốt và có sự
cam kết cao là một thách thức đối với các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp

trả lƣơng thỏa đáng và công bằng, tạo cho nhân viên cơ hội đào tạo, bảo hiểm
y tế và môi trƣờng làm việc sạch sẽ có khả năng thu hút và giữ đƣợc nhân
viên tốt. Grupo M, một công ty dệt cỡ lớn ở Cộng hoà Đô-mi-ních, đã tổ chức
đƣa đón công nhân, có trung tâm y tế chăm sóc sức khoẻ cho công nhân và
gia đình họ, tổ chức đào tạo công nhân và trả lƣơng gấp đôi mức lƣơng tối
thiểu do quốc gia này qui định. Tổng Giám đốc, đồng thời là sáng lập viên
của công ty, không lo lắng nhiều về những chi phí này mà cho rằng đó là
khoản đầu tƣ sáng suốt. Ông nói "tất cả những gì chúng tôi dành cho ngƣời
lao động đều đem lại lợi ích cho công ty - đó là hiệu quả công việc, chất
lƣợng sản phẩm, lòng trung thành và sự sáng tạo." [4, Tr 27]
1.1.4 Các lĩnh vực cần quan tâm trong trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp
Trách nhiệm xã hội hiện nay là một vấn đề đƣợc đề cập tƣơng đốiphổ
biến. Trên thực tế, còn cónhiềuquan điểm khác nhau về khái niệm, nội dung
và phạm vi của CSR. Trong luận văn này, tác giả xin đƣợc đề cập đến hai
khía cạnh phổ biến và mang tính toàn diện về nội dung của trách nhiệm xã
hội, cụ thể:
*Tiếp cận theo mô hình “kim tự tháp” của A. Carroll (1999)
Mô hình này có tính toàn diện và đƣợc sử dụng rộng rãi nhất. Mô hình
“Kim tự tháp” của A. Carrollthể hiện rõ nhất và bao quát nhất các lĩnh vực
quan tâm của CSR.
ĐẠO ĐỨC
PHÁP LÝ
KINH TẾ
TỪ THIỆN

Bảng 1.1: Mô hình “Kim tự tháp” CSR (Nguồn: Carroll Archie - 1999)
Theo mô hình, CSR bao gồm trách nhiệm kinh tế, pháp lý, đạo đức và
từ thiện:
- Trách nhiệm kinh tế: Tối đa hóa lợi nhuận, cạnh tranh, hiệu quả và

tăng trƣởng, là điều kiện tiên quyết bởi doanh nghiệp đƣợc thành lập trƣớc hết
từ động cơ tìm kiếm lợi nhuận của doanh nhân. Hơn thế, doanh nghiệp là các
tế bào kinh tế căn bản của xã hội. Vì vậy, chức năng kinh doanh luôn phải
đƣợc đặt lên hàng đầu. Các trách nhiệm còn lại đều phải dựa trên ý thức trách
nhiệm kinh tế của doanh nghiệp. Trong khi thực hiện các công việc này, các
doanh nghiệp thực sự góp phần tăng thêm phúc lợi cho xã hội, đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Đối với ngƣời lao động, khía cạnh kinh tế
của doanh nghiệp là tạo công ăn việc làm với mức thù lao xứng đáng cơ hội
việc làm nhƣ nhau, cơ hội phát triển nghề và chuyên môn, hƣởng môi trƣờng
lao động an toàn, vệ sinh và bảo đảm quyền riêng tƣ cá nhân ở nơi làm việc.
Đối với ngƣời tiêu dùng, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp còn liên quan
đến vấn đề chất lƣợng an toàn thực phẩm, định giá, thông tin về sản phẩm,
phân phối bán hàng và cạnh tranh. Đối với chủ sở hữu doanh nghiệp, trách
nhiệm kinh tế của doanh nghiệp là bảo tồn sự phát triển các giá trị và tài sản
đƣợc ủy thác. Những giá trị và tài sản này có thể là của xã hội hoặc cá nhân
đƣợc họ tự nguyện giao phó cho tổ chức, doanh nghiệp - mà đại diện là ngƣời
quản lí điều hành với những điều kiện ràng buộc chính thức. Đối với các bên
liên đới khác, nghĩa vụ kinh tế của doanh nghiệp là mang lại lợi ích tối đa và
công bằng cho họ. Nghĩa vụ này đƣợc thực hiện bằng việc cung cấp trực tiếp
những lợi ích cho họ qua hàng hóa, việc làm, giá cả chất lƣợng, lợi nhuận đầu
tƣ Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là cơ
sở cho các hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các nghĩa vụ kinh tế trong
kinh doanh đều đƣợc thể chế hóa thành các nghĩa vụ pháp lý
- Trách nhiệm tuân thủ pháp luật: Chính là một phần của bản “khế
ƣớc” giữa doanh nghiệp và xã hội. Nhà nƣớc có trách nhiệm “mã hóa” các
quy tắc xã hội, đạo đức vào văn bản luật, để doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu
kinh tế trong khuôn khổ đó một cách công bằng và đáp ứng đƣợc các chuẩn
mực và giá trị cơ bản mà xã hội mong đợi ở họ. Trách nhiệm kinh tế và pháp
lý là hai bộ phận cơ bản, không thể thiếu của CSR.
- Trách nhiệm đạo đức: Là những quy tắc, giá trị đƣợc xã hội chấp

nhận nhƣng chƣa đƣợc “mã hóa” vào văn bản luật. Thông thƣờng, luật pháp
chỉ có thể đi sau để phản ánh các thay đổi trong các quy tắc ứng xử xã hội vốn
luôn mới. Hơn nữa, trong đạo đức xã hội luôn tồn tại những khoảng “xám”,
đúng - sai không rõ ràng; mà khi các cuộc tranh luận trong xã hội chƣa ngã
ngũ, chúng chƣa thể đƣợc cụ thể hóa vào luật. Cho nên, tuân thủ pháp luật chỉ
đƣợc coi là sự đáp ứng những đòi hỏi, chuẩn mực tối thiểu mà xã hội đặt ra.
Doanh nghiệp còn cần phải thực hiện cả các cam kết ngoài luật. Trách nhiệm
đạo đức là tự nguyện, nhƣng lại chính là trung tâm của CSR. Ví dụ: ngày nghỉ
thứ 7, tiền làm thêm giờ, điều kiện lao động, thông tin cho ngƣời tiêu dùng,
giá bán thuốc chữa HIV/AIDs, dữ liệu khách hàng, sử dụng nguyên liệu sạch,
thực phẩm biến đổi gen, uy tín với đối tác, quan hệ với cộng đồng, cổ đông
thiểu số, đối thủ cạnh tranh đều là các vấn đề mở và mức độ cam kết nhƣ thế
nào phụ thuộc vào trách nhiệm đạo đức của doanh nghiệp.
- Trách nhiệm từ thiện: (nhân văn) Là những hành vi của doanh
nghiệp vƣợt ra ngoài sự trông đợi của xã hội, nhƣ quyên góp ủng hộ cho
ngƣời yếu thế, tài trợ học bổng, đóng góp cho các dự án cộng đồng Điểm
khác biệt giữa trách nhiệm từ thiện và đạo đức là doanh nghiệp hoàn toàn tự
nguyện. Nếu họ không thực hiện CSR đến mức độ này, họ vẫn đƣợc coi là
đáp ứng đủ các chuẩn mực mà xã hội trông đợi. Những đóng góp có thể trên
bốn phƣơng diện: nâng cao chất lƣợng cuộc sống, san sẻ bớt gánh nặng cho
chính phủ, nâng cao năng lực lãnh đạo cho nhân viên và phát triển nhân cách
của ngƣời lao động. Đây là thứ trách nhiệm đƣợc điều chỉnh bởi lƣơng tâm.
Chẳng ai có thể bắt buộc các doanh nghiệp phải bỏ tiền ra để xây nhà tình
nghĩa hoặc những lớp học tình thƣơng, ngoài những thôi thúc của lƣơng tâm.
Tuy nhiên, thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân là đạo lí ở đời. Nếu đạo lí đó
ràng buộc mọi thành viên trong xã hội thì nó không thể không ràng buộc các
doanh nhân. Ngoài ra, một xã hội nhân bản và bác ái là rất quan trọng cho
hoạt động kinh doanh.
Mô hình trên có tính toàn diện và khả thi cao, có thể đƣợc sử dụng làm
khuôn khổ cho tƣ duy chính sách của nhà nƣớc về CSR.

Việc đặt trách nhiệm kinh tế làm nền tảng không những thỏa mãn cả
nhu cầu về lý thuyết “Đại diện” trong quản trị công ty, mà còn giải quyết
đƣợc những hoài nghi về tính trung thực trong các chƣơng trình CSR của
doanh nghiệp. Từ đó, vấn đề “vì mình” hay “vì ngƣời” không còn đƣợc đặt ra
nữa, bởi hai mục đích đó là không thể tách rời.
Ranh giới giữa các tầng trong “kim tự tháp” là luôn chồng lấn, tác động
bành trƣớng lẫn nhau. Việc tuân thủ quy định pháp luật chắc chắn đƣa đến các
chi phí kinh tế cho doanh nghiệp. Và quy tắc đạo đức xã hội ngoài luật luôn
mở rộng (theo trình độ phát triển của xã hội), tạo áp lực lên hệ thống pháp
luật, bắt buộc các nhà làm luật phải luôn bám sát thực tiễn xã hội.
Chi phí tuân thủ pháp luật cao sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến chi phí sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Trong môi trƣờng có tính cạnh tranh cao,
doanh nghiệp sẽ không thể tăng giá thành mà thu hẹp lợi nhuận của doanh
nghiệp để tồn tại. Lợi nhuận bị thu hẹp sẽ làm doanh nghiệp mất đi khoản tái
đầu tƣ, cũng có nghĩa giảm năng lực cạnh tranh ngành, đồng thời làm mất tính
hấp dẫn của thị trƣờng đó đối với các doanh nghiệp mới. Trong môi trƣờng
tính cạnh tranh còn thấp, doanh nghiệp nắm thế độc quyền sẽ chuyển toàn bộ
chi phí sản xuất tăng thêm vào giá thành. Do đó, có thể nói chính khách hàng
là ngƣời trả tiền cho các chi phí tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, để bảo
vệ lợi ích xã hội của chính mình. Giá tăng lên sẽ làm giảm lƣợng tiêu dùng.
Trong một môi trƣờng mà doanh số bị thu hẹp, doanh nghiệp độc quyền sẽ
càng cố níu giữ trạng thái của thị trƣờng bằng nhiều cách để ngăn cản các
doanh nghiệp mới. Vì vậy, chi phí tuân thủ luật pháp cần đƣợc các nhà làm
luật tính toán cẩn thận.

×