Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Vận dụng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề trong dạy học tác phẩm tự sự ở Trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.05 KB, 19 trang )

www.sangkienkinhnghiem.com
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lí do chọn đề tài:
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006- BGDĐT ngày 5/6/2006 của bộ trưởng bộ GD&ĐT đã nêu: “Phải phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn
học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho
học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và
trách nhiệm học tập cho học sinh”. Thực hiện mục tiêu này, đổi mới phương
pháp dạy học được đẩy mạnh ở tất cả các môn học trong nhà trường THPT. Đổi
mới phương pháp dạy học văn cũng không nằm ngoài mục tiêu ấy.
Là một giáo viên ngữ văn cấp trung học phổ thông tôi cũng trăn trở rất
nhiều, gắng tìm tòi và thử nghiệm để lựa chọn những phương pháp dạy học phù
hợp với lớp học và môn học của mình. Trong quá trình đó, tôi nhận thấy phương
pháp dạy học nêu vấn đề rất phù hợp với bộ môn Ngữ văn. Tôi đã áp dụng
phương pháp dạy học tích cực này vào dạy học các tác phẩm văn học và nhận
thấy rất hiệu quả. Thực sự phương pháp dạy học này đã đáp ứng được yêu cầu
của việc đổi mới phương pháp dạy học văn, phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh, và tạo ra nhiều hứng thú cho người dạy. Tuy nhiên,
việc vận dụng phương pháp nên ở mức độ nào, cách vận dụng sao cho đạt hiệu
quả cao nhất… là vấn đề mà bản thân tôi còn không ít trăn trở.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tôi chọn đề tài này vừa để trao đổi kinh nghiệm, vừa để có điều kiện
nghiên cứu kĩ lưỡng, sâu sắc hơn về phương pháp dạy học mà mình tâm đắc.
Đồng thời, qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo thêm hứng thú, niềm say mê cho các
em khi học các tác phẩm văn học trong chương trình ngữ văn ở trường THPT.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Trong phạm vi của một đề tài nhỏ này tôi chỉ tập trung vào một số tác
phẩm văn học Việt Nam( gồm cả văn học dân gian và văn học viết) ở chương


trình ngữ văn cấp trung học phổ thông.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở đọc, tìm hiểu các tài liệu tin cậy, thực dạy, kiểm tra đánh
giá học sinh và dự giờ đồng nghiệp.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Trong đề tài nhỏ này, tôi chỉ dừng lại ở cách thức tạo ra tình huống có
vấn đề và cách tổ chức cho học sinh giải quyết các tình huống đó.
6. Những đóng góp của đề tài.
- Góp phần khẳng định ưu điểm của phương pháp dạy học nêu vấn đề -
một phương pháp có phả năng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong giờ học nói chung, giờ học tác phẩm văn học nói riêng.
- Giúp giáo viên có cơ sở khoa học để vận dụng tình huống có vấn đề vào
giảng dạy tác phẩm văn học, thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
1
www.sangkienkinhnghiem.com
Phần II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Chương 1: Cơ sở lí luận
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh
gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lí những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành đạt trong cuộc sống. Vì vậy, tập dượt cho
học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập,
cuộc sống cá nhân, gia đình và cộng đồng là rất có ý nghĩa. Và việc tập dượt đó
sẽ thực sự hiệu quả khi người thầy thường xuyên sử dụng phương pháp dạy học
nêu vấn đề.
1.1.Khái niệm dạy học nêu vấn đề:
Thuật ngữ “dạy học nêu vấn đề” xuất phát từ thuật ngữ “Orixtic” hay còn
gọi là phương pháp phát kiến hay tìm tòi.
Theo V. Ôkôn: “Dạy học nêu vấn đề là tập hợp những hoạt động như tổ
chức các tình huống có vấn đề, phát biểu vấn đề, giúp đỡ cần thiết cho học sinh
trong việc giải quyết vấn đề, kiểm tra phép giải đó và cuối cùng điều khiển quá

trình hệ thống hóa, củng cố kiến thức tiếp thu được”.
V. Ôkôn cho rằng: “Nét bản chất nhất của dạy học nêu vấn đề không phải
là sự đặt ra những câu hỏi mà là tạo ra những tình huống có vấn đề”.
T.V. Kudriaxep cũng phát biểu ý tương tự: “Khái niệm về tình huống có
vấn đề và các biện pháp giải quyết nó tạo nên cơ sở của dạy học nêu vấn đề”.
Như vậy, hạt nhân của phương pháp dạy học nêu vấn đề là tạo ra các tình
huống có vấn đề.
Vậy thế nào là “tình huống có vấn đề”?
1.2. Khái niệm tình huống có vấn đề
Hiện nay chưa có một định nghĩa hoàn toàn thống nhất, sau đay là một số
định nghĩa đáng chú ý:
Theo M.I Mackmutov: Tình huống có vấn đề là trở ngại về trí tuệ của
con người xuất hiện khi người đó chưa biết cách giải quyết hiện tượng, sự kiện,
quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động
quen thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm tòi cách giải thích hay
hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng
tạo có hiệu quả. Nó qui định sự khởi đầu của tu duy, hành động tư duy tích cực
sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết các vấn đề.
Một tác giả khác lại viết: Tình huống có vấn đề là trạng thái tâm lí độc
đáo của người gặp chướng ngại nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu
cầu giải quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước mà, bằng
tìm tòi, sáng tạo tích cực đầy hưng phấn, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến
thức, phương pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của phát hiện.
Như vậy, có thể coi tình huống có vấn đề trong dạy học là trạng thái tâm lí
đặc biệt của học sinh khi họ gặp mâu thuẫn khách quan của bài toán nhận thức
giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu cầu, có khả năng giải
2
www.sangkienkinhnghiem.com
quyết mâu thuẫn đó bằng tìm tòi tích cực, sáng tạo, kết quả là họ nắm được cả
kiến thức và phương pháp giành kiến thức.

Một tình huống được coi là có vấn đề khi thỏa mãn ba điều kiện sau:
- Tồn tại một vấn đề.
- Gợi nhu cầu nhận thức.
- Gợi niềm tin vào khả năng của bản thân.
Vấn đề trong tác phẩm văn chương là mâu thuẫn giữa tri thức văn học,
phương thức phân tích, cắt nghĩa, bình giá tác phẩm ở học sinh với các giá trị
nội dung tư tưởng và giá trị thẩm mĩ cần tìm của tác phẩm. Mâu thuẫn này chỉ
được giải quyết bằng những nỗ lực hoạt động sáng tạo và cảm xúc thẩm mĩ của
học sinh. Nhưng điều quan trọng là làm thế nào để vấn đề trong tác phẩm trở
thành tình huống có vấn đề với học sinh. Giáo sư Phan Trọng Luận trong cuốn
giáo trình “Phương pháp dạy học văn” xuất bản năm 1998 có nêu: “Tác phẩm
nào cũng có vấn đề cả nhưng không phải bất cứ vấn đề nào trong tác phẩm cũng
tự nhiên trở thành tình huống có vấn đề đối với chủ thể người học”
Chương 2: Cơ sở thực tiễn( thực trạng của vấn đề)
2.1. Về phía học sinh:
Trong quá trình công tác nhiều năm qua, tôi nhận thấy học sinh trung học
phổ thông Bá Thước nói riêng và các trường trung học phổ thông khác nói
chung ngày càng ít đam mê, hứng thú với môn ngữ văn mặc dù nó vẫn được coi
là môn học chính. Biểu hiện rõ nhất của thực trạng này là rất nhiều học sinh
không đọc tác phẩm ở nhà không soạn bài theo yêu cầu và rất ít khi làm bài tập
môn văn. Trong giờ học các em hầu như chỉ quen nghe và ghi chép. Vì vậy, các
em hoàn toàn thụ động trong việc chiếm lĩnh tri thức. Có những tác phẩm dài
không có thời gian đọc trên lớp, giáo viên chỉ yêu cầu tóm tắt chi tiết thì những
học sinh này không đáp ứng được yêu cầu và cũng không có cơ sở vững chắc để
đánh giá đúng tác phẩm. Lâu dần thành thói quen, các em sẽ mất đi kiến thức cơ
bản cũng nhu niềm say mê, hứng thú với môn học. Thực trạng này đặt ra nhiều
vấn đề phải suy nghĩ trong đó có vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn. Vì
vậy, sử dụng phương pháp nêu vấn đề cũng là một trong những lựa chọn của
nhiều giáo viên để kích thích tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh, để học sinh
chủ động tiếp thu tri thức từ đó tăng thêm cảm hứng say mê với tác phẩm.

2. 2. Về phía giáo viên:
Đối với bộ môn ngữ văn ở trường THPT Bá Thước, phương pháp dạy
học nêu vấn đề mới chỉ được sử dụng thường xuyên trong các giờ thao giảng.
Trong các giờ dạy ấy, nó cũng chỉ phát huy được tính chủ động, tích cực của
một bộ phận học sinh có ý thức xây dựng bài tốt. Nguyên nhân là do trong giáo
viên còn có những cách nhìn nhận chưa thỏa đáng về dạy học nêu vấn đề. Một
số người cho rằng phương pháp này hay nhưng khó, nó đòi hỏi người giáo viên
phải có khả năng phát hiện tình huống có vấn đề và nghệ thuật nêu tình huống
có vấn đề nên còn ngại. Có người lại băn khoăn rằng phương pháp này không
phù hợp với đối tượng học sinh miền núi (năng lực rất hạn chế, phần lớn các em
rất yếu về kỹ năng nói trước tập thể)… Bên cạnh đó, một tồn tại lớn nữa là nhiều
3
www.sangkienkinhnghiem.com
giáo viên còn lúng túng trong việc tạo ra các tình huống có vấn đề và nhiều khi
vấn đề được đưa ra chưa được giải quyết thỏa đáng nên không gây được hứng
thú với học sinh. Cho nên: Làm thế nào để sử dụng hiệu quả phương phap dạy
học này? Vận dụng nó ra sao cho phù hợp với bài học, đối tượng học? là
những câu hỏi đặt ra với tất cả các giáo viên văn ở nhà trường chúng tôi. Bản
thân tôi đã mạnh dạn sử dụng phương pháp này một cách thường xuyên. Và với
các giải pháp của mình bước đầu tôi thu được kết quả khả quan.
Chương 3: Các giải pháp thực hiện
Từ ý thức về tầm quan trọng của dạy học nêu vấn đề, từ thực trạng của
việc dạy và học môn ngữ văn ở THPT Bá Thước, những năm qua tôi đã cố gắng
tìm tòi, vận dụng phương pháp này vào việc dạy học các tác phẩm văn học và
bước đầu đã thấy hiệu quả. Khi dạy mỗi tác phẩm văn học, tôi chú ý phát hiện ra
tình huống có vấn đề và tổ chức, hướng dẫn cho học sinh giải quyết tình huống
được nêu ra.
Theo kinh nghiệm của mình, tôi đã tạo ra các tình huống có vấn đề và tổ
chức cho học sinh giải quyết tình huống theo các cách thức sau đây:
3.1. Xây dựng tình huống lựa chọn:

Tình huống lựa chọn là tình huống giáo viên đặt học sinh trước một sự lựa
chọn rất khó khăn. Học sinh được chọn một giải pháp trước hai hay nhiều
phương án giải quyết mà cái nào cũng có vẻ như có lí, có sức hấp dẫn. Tình
huống này đòi hỏi học sinh phải bộc lộ quan điểm, thái độ của bản thân với mỗi
vấn đề được nêu ra. Qua đây, phát huy được tính tích cực chủ động của mỗi học
sinh và tăng hứng thú của các em trong mỗi giờ học.
Với tình huống này, tôi để học sinh phát biểu ý kiến cá nhân sau đó nhận
xét và nêu định hướng chung cho việc giải quyết tình huống.
Sau đây là một số ví dụ cụ thể mà tôi đã tiến hành trong các giờ dạy và
kết quả thu được khi giải quyết xong một tình huống có vấn đề( kết quả về kiến
thức, kĩ năng và thái độ)
Ví dụ 1: Bài “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy”
Tình huống: Một truyền thuyết ở vùng Cổ Loa kể lại: Trọng Thủy không
tự vẫn, khi ngó xuống giếng bị oan hồn Mị Châu kéo xuống giếng và dìm chết.
Theo anh(chị), kết cục này có hợp lí không? Anh (chị) thích kết thúc Trọng Thủy
tự vẫn hay là bị dìm chết?.
Định hướng giải quyết tình huống
của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết
tình huống
- Kết cục này là hợp lí, Trọng Thủy
phải trả giá bằng sinh mạng cho tội lỗi
của mình.
- Cả hai cách kết thúc đều có cái hay
riêng. Để Trọng Thủy bị dìm chết, tác
giả dân gian đã chứng tỏ nỗi căm hận
của Mị Châu nói riêng và của nhân dân
- Học sinh được tự bộc lộ suy nghĩ,
quan điểm riêng của bản thân, không
khí giờ học sôi nổi hơn.

- Học sinh nắm được ý tưởng nghệ
thuật cũng như tình cảm nhân đạo của
tác giả dân gian.
- Một số học sinh rút ra được bài học
4
www.sangkienkinhnghiem.com
ta nói chung với Trọng Thủy. Để
Trọng Thủy tự vẫn thì kẻ thù của dân
tộc bị trừng phạt nhưng lại cho thấy
tình cảm bao dung, độ lượng và sự cảm
thông của nhân dân ta đối với Trọng
Thủy và đó cũng là cơ sở cho sự sáng
tạo hình ảnh hoàn mĩ “ ngọc trai –
giếng nước”.
ứng xử trong cuộc sống: cần phải có
một tấm lòng độ lượng, bao dung và
tha thứ cho những lỗi lầm của con
người.
Ví dụ 2: Bài “Tràng giang” (Huy Cận)
Tình huống: Có người cho rằng “Tràng giang” là một bài thơ nói về
những rung cảm của con người trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Người khác lại
cho rằng bài thơ hàm chứa tình yêu đất nước. Anh (chị) đồng ý với ý kiến nào?
Vì sao?
Định hướng giải quyết tình huống
của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết
tình huống
Chấp nhận cả hai cách hiểu: bài thơ là
cảm xúc của con người trước thiên
nhiên đồng thời tâm trạng trong bài thơ

cũng “dọn đường cho lòng yêu giang
san đất nước” (Xuân Diệu)
- Học sinh được rèn luyện khả năng
nhận xét, đánh giá và bộc lộ quan điểm
riêng.
- Qua việc trả lời câu hỏi học sinh rút ra
được chủ đề tư tưởng của tác phẩm: Bài
thơ là nỗi sầu của một cái tôi cô đơn
trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó
thấm đượm tình người, tình đời, lòng
yêu nước thầm kín mà thiết tha.

3. 2. Xây dựng tình huống nghịch lí:
Tình huống nghịch lí là những tình huống trái khoáy, ngược đời, trái với
lẽ thường được mọi người công nhận. Tình huống này đòi hỏi học sinh phải huy
động những kiến thức tổng hợp để lí giải những vấn đề khó khăn mà tác phẩm
đặt ra. Giải quyết được vấn đề có nghĩa là học sinh đã tự nhiên chiếm lĩnh được
tri thức. Bởi vậy, trong khi dạy học tác phẩm văn học giáo viên cần chú ý phát
hiện tình huống nghịch lí từ những điều trái với tự nhiên, trái với lẽ thường trong
cuộc sống và nêu ra để học sinh tham gia giải quyết. Tình huống này sẽ giúp các
em ngộ ra được nhiều điều bổ ích, mới mẻ trong bài học và trong cuộc sống.
Với tình huống này, tôi thường tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm
nhỏ (5 học sinh/nhóm), các em trong nhóm sẽ trình bày ý kiến và nhóm trưởng
tổng hợp, đại diện trình bày trước lớp. Giáo viên tổ chức, chỉ đạo chung và hỗ
trợ các nhóm khi cần thiết bằng câu hỏi gợi dẫn. Kết thúc hoạt động này, giáo
viên đánh giá, nhận xét và nêu định hướng chung cho việc trả lời câu hỏi.
Ví dụ 1: Bài “Tấm Cám”
5
www.sangkienkinhnghiem.com
Tình huống: Về hành động trả thù của Tấm, có bạn học sinh cho rằng:

Cô Tấm thực ra không hiền như lâu nay chúng ta vẫn nghĩ( Quả thị thơm cô
Tấm rất hiền) mà trái lại rất ghê gớm, thậm chí có phần độc ác vì hành động
giết người trả thù của Tấm cũng độc ác không kém hành động giết hại Tấm của
mẹ con Cám. Suy nghĩ của anh (chị ) thế nào?
Định hướng giải quyết tình huống
của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết
tình huống
- Tấm là nhân vật văn học đại diện cho
cái thiện mà nhân dân lao động sáng
tạo ra để thể hiện quan niệm, thái độ
của mình về cuộc sống. Cái tư tưởng
cốt lõi mà dân gian muốn gửi gắm đến
người đọc, người nghe là: “thiện luôn
thắng ác”, “ở hiền gặp lành, ở ác gặp
ác”. Với suy nghĩ như thế, dân gian
không cho rằng hành động của Tấm là
độc ác thậm chí là cần thiết đối với
Cám tức là kẻ ác cần bị trừng trị đích
đáng.
- Hiền không đồng nghĩa với nhút nhát,
sợ hãi, nhường nhịn hay là chịu khuất
phục trước cái ác, cái xấu. Trong quan
niệm của dân gian là “ đi với bụt mặc
áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”.
- Học sinh có cơ hội củng cố và tích
hợp kiến thức vì cần phải huy động
những kiến thức về tác phẩm, về thể
loại truyện cổ tích, về tư tưởng của dân
gian mới có thể lí giải được vấn đề.

- Các em được tự bộc lộ suy nghĩ riêng
của bản thân, được đặt mình vào vị trí
của Tấm, của tác giả dân gian để lí giải
hành động của Tấm. Từ đó, hiểu được
nội dung tư tưởng của tác phẩm mà tác
giả dân gian muốn gửi gắm qua nhân
vật.
- Học sinh hiểu sâu hơn những triết lí
sống của dân gian và rút ra cho mình
những bài học bổ ích về cách ứng xử
trong cuộc sống “gieo gió gặt bão”,
“nhân nào quả ấy”, “ác giả ác báo”, “đi
với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
giấy”
Ví dụ 2: Bài “Câu cá mùa thu” (Nguyễn Khuyến)
Tình huống: Nguyễn Khuyến là nhà thơ yêu nước. Thế nhưng trong hoàn
cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, ông quan to nhà Nguyễn này đã
không đứng ra giúp dân giúp nước mà lại về ở ẩn và tìm thú vui với cảnh “ tựa
gối ôm cần” nơi thôn dã. Điều này có gì mâu thuẫn? Anh (chị ) thử lí giải?
Định hướng giải quyết tình huống
của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết
tình huống
Nguyễn Khuyến là một vị quan to triều
Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng
bất lực trước thời cuộc, không cam tâm
làm tay sai cho thực dân Pháp nên đã
cáo bệnh từ quan. “Tựa gối ôm cần” là
tư thế của một người câu cá, cũng là
một tâm thế nhàn thoát vòng danh lợi

- Học sinh huy động được kiến thức
tổng hợp về hoàn cảnh lịch sử triều
đình nhà Nguyễn, cùng cảm nhận, miêu
tả của tác giả về bức tranh mùa thu để
hiểu tình cảnh, tâm sự của nhà thơ. Từ
đó, các em thấy được tâm trạng rất
đáng cảm thông, rất đáng trân trọng ở
6
www.sangkienkinhnghiem.com
tầm thường của bậc ẩn sĩ. nhà thơ Nguyễn Khuyến.
- Không chỉ hiểu tâm sự của Nguyễn
Khuyến trong bài thơ, học sinh còn có
cơ sở để hiểu rộng hơn về tâm trạng và
quan điểm xử thế của những nhà nho
yêu nước thời phong kiến: “lánh đục về
trong” để giữ gìn tiết tháo (ví dụ như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…)
3.3. Xây dựng tình huống nhân quả:
Tình huống nhân quả là tình huống giáo viên yêu cầu học sinh đi tìm
nguyên nhân của một kết quả, bản chất của một hiện tượng, nguồn gốc quy luật
của một sự kiện, động cơ sâu xa của một hành vi nào đó. Tình huống này đòi hỏi
học sinh phải trả lời câu hỏi “tại sao” và để trả lời thấu đáo các em cần phải thảo
luận, tranh luận để đi đến câu trả lời thuyết phục nhất. Các em được thể hiện khả
năng phán đoán, suy luận của mình trước những tình huống đặt ra. Từ đó, mỗi
học sinh sẽ nắm được nội dung kiến thức cần đạt.
Với tình huống này, tôi thường tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm
nhỏ (5 học sinh/nhóm), các em trong nhóm sẽ trình bày ý kiến và nhóm trưởng
tổng hợp, đại diện trình bày trước lớp. Giáo viên tổ chức, chỉ đạo chung và hỗ
trợ các nhóm khi cần thiết bằng câu hỏi gợi dẫn. Kết thúc hoạt động này, giáo
viên đánh giá, nhận xét và nêu định hướng chung cho việc trả lời câu hỏi.

Ví dụ 1: Bài “Chí Phèo” ( Nam Cao)
Tình huống: Khi bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo đã nghĩ “hắn tự phải đến
nhà con đĩ Nở kia. Đến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà
nó”. Nhưng sau đó, Chí Phèo lại đến nhà Bá Kiến và đâm chết lão ta. Anh (chị)
hãy giải thích tại sao?
Định hướng giải quyết tình huống
của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết
tình huống
Đọc kĩ văn bản ta thấy rằng Chí Phèo
đã uống rất nhiều rượu nhưng không
say mà càng uống càng tỉnh, “ tỉnh ra,
chao ôi buồn! Hơi rượu không sặc sụa,
hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo
hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Có
lẽ, lúc ấy hắn đã đủ nhận thức rõ kẻ thù
của mình chính là Bá Kiến chứ không
phải bà cô Thị Nở, kẻ đã đẩy hắn vào
mọi bi kịch không ai khác mà chỉ có
Bá Kiến. Lời nói cuối cùng đầy chua
xót của Chí “ai cho tao lương thiện?
Tao không thể là người lương thiện
- Học sinh tranh luận rất sôi nổi và đi
đến thống nhất cách hiểu hành vi của
Chí Phèo: Giết Bá Kiến là hành động
“lấy máu rửa thù” của người nông dân.
Vì đến phút cuối Chí Phèo đã tỉnh táo
nhận ra kẻ thù của đời mình chính là
Bá Kiến.
- Học sinh hiểu được sự đa dạng, phức

tạp trong diễn biến tâm lí của nhân vật.
Qua đó, hiểu sâu một nét phong cách
nghệ thuật rất độc đáo của Nam Cao là
7
www.sangkienkinhnghiem.com
nữa” đã chứng tỏ Chí hoàn toàn tỉnh
táo. Câu nói đó là biểu hiện cao nhất
của sự tuyệt vọng và của niềm khát
vọng trong Chí: Khát vọng trở lại làm
người lương thiện nhưng không bao
giờ thực hiện được nữa. Từ đây bản
tính lương thiện đẹp đẽ trong con
người Chí Phèo được khẳng định.
khả năng khám phá “con người bên
trong con người”.

Ví dụ 2: Bài “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu)
Tình huống: Hành động đánh vợ của người đàn ông là do thói quen khó
sửa, do sở thích kì quặc, hay là một lí do nào khác? Tại sao mỗi khi đánh vợ
người đàn ông lại “rên rỉ đau đớn”?
Định hướng giải quyết tình huống
của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết
tình huống
Hành động đánh vợ của ông ta không
phải do thói quen, cũng không phải do
sở thích kì quặc mà là một hành động
giải tỏa nỗi ẩn ức, bế tắc trong lòng
ông ta. Nghèo khổ, túng quẫn vì trốn
lính, quá nhiều con…là những lí do

biến người chồng “hiền lành” thành
một kẻ vũ phu, thô bạo. Mỗi khi đánh
vợ người đàn ông ấy lại “rên rỉ đau
đớn” vì chính lúc đó vết đau trong lòng
ông ta đang rỉ máu, quằn quại. Vậy xét
đến cùng, ông ta cũng chỉ là một nạn
nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt
nên cũng đáng được cảm thông, chia
sẻ.
- Học sinh hiểu thấu đáo nguyên nhân
của hành động đánh vợ ở người đàn
ông và thông cảm cho ông ta. Tuy vậy,
trong cuộc sống mọi người cần tránh
cách hành xử như người đàn ông ấy để
không gây tổn thương đến những người
xung quanh.
- Các em cũng hiểu rõ thông điệp từ tác
phẩm mà nhà văn muốn nhắn gửi là:
phải nhìn nhận cuộc sống và con người
một cách đa diện, nhiều chiều, phát
hiện ra bản chất sự thật sau vẻ ngoài
của hiện tượng.
3.4. Xây dựng tình huống giả định.
Tình huống giả định là tình huống giáo viên nêu ra một số giả thiết nào đó
khi phân tích tác phẩm văn học để làm rõ vấn đề hay sự việc cần tìm hiểu. Tình
huống này giúp học sinh được biểu lộ năng lực thích ứng trong tình huống của
cuộc sống, học sinh được nhập vai để phát huy trí tưởng tượng và năng lực sáng
tạo.
Với tình huống này, tôi đã tổ chức cho học sinh giải quyết bằng cách phát
biểu ý kiến cá nhân, sau đó nhận xét, đánh giá và nêu định hướng chung để làm

rõ vấn đề cần tìm hiểu.
Ví dụ 1: Bài “Chí Phèo” (Nam Cao).
8
www.sangkienkinhnghiem.com
Tình huống: Thử hình dung sau khi giết Bá Kiến, Chí Phèo không tự sát
thì cuộc sống của hắn tiếp đó sẽ ra sao? Từ đó, anh (chị) có nhận xét gì về sự
lựa chọn của Chí Phèo?
Định hướng giải quyết tình huống
của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết
tình huống
Sau cái chết của Bá Kiến, dân làng Vũ
Đại ( kể cả Thị Nở) càng ghê sợ và xa
lánh Chí; Lí Cường sẽ cho người đánh
đập, hành hạ Chí Phèo để Chí sống
không bằng chết cũng có thể hăn sẽ
bỏ tù Chí Phèo để trả thù cho bố…. Và
dù có khát khao lương thiện đến cháy
bỏng, Chí vẫn phải sống nốt phần đời
còn lại trong cô độc và tuyệt vọng,
trong men say và tội lỗi. Qua đó, ta
hiểu rằng chỉ có cái chết mới giúp Chí
Phèo thoát khỏi bi kịch đau đớn ấy và
tự sát là cách duy nhất để Chí Phèo
được chết như một con người.
- Học sinh được phát huy trí tưởng
tượng phong phú và năng lực sáng tạo
dồi dào khiến giờ học thêm sôi nổi, hấp
dẫn .
- Học sinh thấm thía hơn bi kịch bị cự

tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
Qua đó, hiểu đầy đủ về tội ác của cái xã
hội tàn bạo đương thời.
Ví dụ 2: Bài “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu)
Tình huống: Giả sử nhà văn để cho người nghệ sĩ chứng kiến bi kịch của
gia đình hàng chài hôm trước rồi sáng hôm sau mới phát hiện vẻ đẹp của cảnh
biển mờ sương thì có được không? Vì sao? Từ đó, anh (chị) hãy đọc ra ý tưởng
nghệ thuật của nhà văn về cách nhìn nhận và đánh giá con người và mọi sự vật,
hiện tượng trong đời sống?
Định hướng giải quyết tình huống
của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết
tình huống
Không thể đảo như thế, vì nhà văn đã
có dụng ý khi để cảnh tượng “trời cho”
hiện ra trước như một vỏ bọc bên ngoài
hòng che giấu cái bản chất thực sự của
đời sống bên trong. Nhà văn khẳng
định: Đừng nhầm lẫn hiện tượng với
bản chất, giữa hình thức bên ngoài với
nội dung bên trong không phải bao giờ
cũng có sự thống nhất; đừng vội đánh
giá con người, sự vật ở dáng vẻ bên
ngoài, phải phát hiện ra bản chất thực
sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng.
- Học sinh nắm chắc được ý đồ nghệ
thuật của nhà văn khi sắp xếp các chi
tiết theo trình tự của nó. Từ đây, các em
rút ra bài học về lựa chọn chi tiết, sự
việc tiêu biểu trong tác phẩm tự sự.

- Học sinh rút ra được bài học trong
cuộc sống: không nên đánh giá con
người, sự vật ở dáng vẻ bên ngoài mà
phải phát hiện ra bản chất thực sau vẻ
bề ngoài ấy vì giữa nội dung bên trong
và hình thức bên ngoài không phải bao
giờ cũng có sự thống nhất.
9
www.sangkienkinhnghiem.com
Ví dụ 3: Truyện “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy”
Tình huống: Sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống thủy cung, Trọng
Thủy đã tìm gặp lại Mị Châu. Hãy tưởng tượng và kể lại câu chuyện đó.
( Đề bài làm văn số 2)
Định hướng giải quyết tình huống
của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết
tình huống
Có thể kể và kết thúc theo nhiều cách
khác nhau miễn là bài viết có tính
thuyết phục và phù hợp với ý đồ nghệ
thuật của tác giả dân gian:
- Gặp lại Trọng Thủy dưới thủy cung ,
Mị Châu nặng lời phê phán rồi quay đi,
bỏ mặc Trọng Thủy đầu tóc bơ phờ,
nét mặt đau khổ, dáng hình mờ dần và
tan trong dòng nước xanh.
- Mị Châu bình tĩnh phân tích mọi lẽ
đúng, sai lúc hai người còn sống. Hiểu
lời Mị Châu, Trọng Thủy rất ân hận,
muốn nối lại duyên xưa. Tuy cảm động

trước thái độ ấy của Trọng Thủy nhưng
Mị Châu không chấp nhận. Nàng tỏ ý
muốn “đem tình cầm sắt đổi ra cầm kì”
- Học sinh được rèn luyện kĩ năng làm
văn tự sự, được nhập vai đồng sáng tạo
với tác giả.
- Học sinh hiểu sâu sắc hơn giá trị tư
tưởng và giá trị nghệ thuật của tác
phẩm đặc biệt là đặc điểm của thể loại
truyền thuyết.
- Qua bài văn tự sự của mình các em
cũng đã bày tỏ nhiều quan niệm sống
hay như: phải biết khát vọng nhưng
không nên tham vọng, phải biết thông
cảm và tha thứ…
Riêng đối với tình huống giả định viết tiếp cốt truyện của các tác phẩm tự
sự này tôi thường nêu ra dưới dạng bài tập về nhà hoặc bài viết trên lớp( từ 1 tiết
trở lên). Sau đó, tôi nhận xét, đánh giá bài làm của học sinh và định hướng giải
quyết tình huống cho các em thông qua các giờ trả bài kiểm tra.
3.5. Xây dựng tình huống phản bác
Tình huống phản bác là tình huống giáo viên cố tình đưa ra ý kiến sai
lệch, thiếu chính xác để học sinh dùng lập luận bác bỏ ý kiến này và đưa ra ý
kiến đúng đắn trên cơ sở đó nắm vững nội dung bài học. Tình huống này đòi hỏi
học sinh phải biết dùng lí lẽ và dẫn chứng để bác bỏ ý kiến sai lệch và thuyết
phục mọi người bằng ý kiến đúng. Giải quyết được tình huống học sinh sẽ tránh
được cách hiểu vấn đề thiên lệch, thiếu chính xác.
Với tình huống này, tôi thường tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm
nhỏ (5 học sinh/nhóm), các em trong nhóm sẽ trình bày ý kiến và nhóm trưởng
tổng hợp, đại diện trình bày trước lớp. Giáo viên tổ chức, chỉ đạo chung và hỗ
trợ các nhóm khi cần thiết bằng câu hỏi gợi dẫn. Kết thúc hoạt động này, giáo

viên đánh giá, nhận xét và nêu định hướng chung cho việc trả lời câu hỏi.
Ví dụ 1: Bài “ Vội vàng ( Xuân Diệu)
10
www.sangkienkinhnghiem.com
Tình huống: Học xong bài “Vội vàng” có bạn học sinh cho rằng cuộc
đời là hữu hạn và tuổi trẻ thật ngắn ngủi. Vì vậy, từ khi còn trẻ phải biết tìm
cách tận hưởng mọi thú vui của cuộc sống kẻo sau này hối tiếc. Anh( chị) có
đồng tình với suy nghĩ này không? Vì sao?
Định hướng giải quyết tình huống
của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết
tình huống
Đây là cách hiểu chưa đúng về lẽ
sống vội vàng của Xuân Diệu. Ta nên
hiểu bài thơ là lời giục giã thanh niên
hãy sống mê say, mãnh liệt, hết mình,
hãy nâng niu từng phút, từng giây của
cuộc đời và tuổi trẻ để tận hiến và tận
hưởng, hãy sống sao cho mỗi giây phút
trôi qua tràn đầy ý nghĩa.
- Học sinh hiểu đúng đắn về triết lí
sống vội vàng của Xuân Diệu.
- Các em rút ra được bài học bổ ích cho
bản thân: sống không phải chỉ để tận
hưởng mà còn phải tận hiến, phải làm
sao để hài hòa giữa cá nhân và tập thể,
riêng và chung, sống hết mình và sống
có ích cho mọi người
Ví dụ 1: Bài “ Thương vợ”( Trần Tế Xương)
Tình huống: Có ý kiến cho rằng hai câu thơ:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”
Là tiếng chửi đầy căm phẫn của Bà Tú khi bất lực trước hoàn cảnh . Theo anh
(chị) ý kiến này có đúng không? Ý nghĩa của tiếng chửi đó là gì?
Định hướng giải quyết tình huống
của giáo viên
Kết quả đạt được sau khi giải quyết
tình huống
- Đây không phải là lời của bà Tú, vì từ
đầu đến cuối bài thơ hình ảnh bà Tú chỉ
hiện lên gián tiếp qua nỗi lòng tác giả.
- Tiếng chửi đó trực tiếp thể hiện
những suy nghĩ, trăn trở của Tú
Xương. Nhà thơ tự rủa mình vô tích sự,
khiến vợ phải khổ nhưng rộng hơn ý
nghĩa rủa mình là tác giả chửi “thói
đời” bạc bẽo khiến cho người phụ nữ
phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công.
Qua tiếng chửi người đọc thấy được
hình ảnh một Tú Xương đầy tâm sự,
suy tư, một Tú Xương có nhân cách
cao đẹp giàu lòng yêu thương, cảm
thông và tự trọng.
- Học sinh hiểu rõ nỗi niềm tâm sự và
nhân cách cao đẹp của Tú Xương.
- Các em cũng hiểu được những bất
công, thiệt thòi mà người phụ nữ trong
xã hội phong kiến phải chịu đựng từ đó
thông cảm sâu sắc với họ.
3.6.Thiết kế một giáo án cụ thể có sử dụng tình huống có vấn đề

11
www.sangkienkinhnghiem.com
Sau đây là phần câu hỏi và định hướng trả lời trong một giáo án có sử
dụng các câu hỏi nêu vấn đề để đặt học sinh vào các tình huống có vấn đề. Tôi
chỉ thực hiện cho phần đọc – hiểu văn bản và phần tổng kết, củng cố bài học.
Bài: “Đây thôn Vĩ Dạ” ( Hàn Mặc Tử)
12
www.sangkienkinhnghiem.com
Câu hỏi cho hoạt động học Định hướng trả lời cho hoạt động học
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi, Em
hãy cho biết: Ai hỏi? Giọng điệu
hỏi? Ý nghĩa lời hỏi?

Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong
tưởng tượng của nhà thơ hiện lên
với những màu sắc và hình ảnh như
thế nào?
+ Em hiểu như thế nào về cụm từ
“nắng hàng cau” và “nắng mới
lên”?
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi cho em
suy nghĩ gì?
+ Em có cảm nhận gì về cách dùng
từ “mướt” của tác giả? Nếu thay từ
“mướt”bằng từ “biếc” hoặc từ
“thắm” thì có ảnh hưởng gì đến ý
nghĩa và sắc thái biểu cảm của câu
thơ không?
( Tình huống giả định)
+ Theo em cách so sánh “vườn

xanh như ngọc” có gì độc đáo?
Theo em ở câu thơ thứ 4 con người
thôn Vĩ hiện lên qua chi tiết nào?
Có người cho rằng “mặt chữ điền”
là mặt người đàn ông, người khác
lại nói đó là mặt người con gái . Suy
nghĩ của em như thế nào?
( Tình huống lựa chọn)

Em có nhận xét gì về thiên nhiên và
con người xứ Huế và tâm trạng của
nhà thơ ở khổ thơ này?
I. GIỚI THIỆU CHUNG
1. Tác giả
2.Tác phẩm:
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
1. Khổ 1:
*Câu hỏi mở đầu
+ Câu hỏi tu từ mang nhiều sắc thái. Đó
lời trách móc nhẹ nhàng của người con gái
thôn Vĩ, lời mời gọi tha thiết về thôn Vĩ.
Đây cũng là lời tự vấn, lời nhắc nhở sao
không về thôn Vĩ .
+ Nhiều thanh bằng gợi nỗi buồn chơi
vơi,1 thanh trắc cuối câu gợi cảm giác đau
nhói trong tâm hồn thi nhân.
+ Với âm điệu nhẹ nhàng, lời thơ mượt
mà dung dị, nhà thơ muốn bày tỏ nỗi niềm
muốn trở về thôn Vĩ
*Thiên nhiên Vĩ Dạ buổi sớm mai:

+ “ Nắng hàng cau”: là cái nắng tinh khôi,
trong trẻo.
+ “Nắng mới lên” là nắng buổi ban mai
còn tinh khôi, thanh khiết. Đó là ánh nắng
ấm áp, nguyên lành.
+ “vườn ai”: đại từ phiếm chỉ “ai” gợi
cảm giác mơ hồ, bất định gây ấn tượng về
một vẻ đẹp bí ẩn không thể chiếm lĩnh,
không thể sở hữu.
+ Từ “mướt diễn tả màu xanh mỡ màng,
mượt mà của lá cây còn ướt sương đêm.
Từ biếc hoặc từ thắm chỉ diễn tả được
mức độ xanh.

+ “Xanh như ngọc”: nghệ thuật so sánh,
diễn tả được sự xanh mướt, xanh trong,
màu xanh ấy đổ đầy sắc ngọc. → gợi lên
vẻ đẹp tươi tốt, màu mỡ, lung linh làm
bừng sáng cả khu vườn thôn Vĩ.
* Người thôn Vĩ
+ “Mặt chữ điền”: là biểu tượng của nét
đẹp phúc hậu, hiền lành.
+ “lá trúc che ngang”: lá trúc mảnh mai,
gợi nét đẹp kín đáo, dịu dàng của con
người xứ Huế.
Hình ảnh thơ được miêu tả theo
hướng cách điệu hóa, tức là chỉ gợi lên vẻ
đẹp của con người, không chỉ rõ cụ thể là
ai
ð Bằng hệ thống ngôn ngữ chọn lọc, bút

pháp lãng mạn, tượng trưng, hình ảnh giàu
sức gợi cảm, khổ thơ thứ nhất đã vẽ nên
13
www.sangkienkinhnghiem.com
Chương 4: Kết quả kiểm nghiệm
4.1. Nhận xét chung
Thực ra, dạy học nêu vấn đề đã được sử dụng từ những năm 60 của thế kỉ
XX ở nước ta. Bản thân tôi cũng đã sử dụng phương pháp này trong dạy học từ
khi mới chập chững bước vào nghề. Nhưng khoảng ba năm trở lại đây, chủ
trương sử dụng phương pháp dạy học tích cực được đẩy mạnh tôi mới mạnh dạn
sử dụng thường xuyên phương pháp này. Áp dụng trong dạy học tác phẩm văn
học tôi nhận thấy hiệu quả khá tốt. Hầu hết các em học sinh đều rất hứng thú học
tập, không khí giờ học sôi nổi hẳn lên. Phần lớn học sinh có ý thức đọc trước tác
phẩm, nắm được cốt truyện, nhân vật để có thể trình bày ý kiến riêng của mình
trước những tình huống có vấn đề. Học xong tác phẩm, ấn tượng về cốt truyện,
nhân vật lưu lại khá sâu đậm trong tâm trí các em. Nhiều hình tượng nhân vật đã
bước ra ngoài trang sách đi vào đời sống tâm hồn của các em, trở thành những
người gần gũi, thân quen như cô Tấm, Chí Phèo, Thị Nở, Tràng, Mỵ… Mỗi tác
phẩm dường như đã giúp các em trưởng thành hơn về nhận thức, nâng cao được
năng lực phát hiện và giải quyết hợp lí những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.
Kết quả này không phải lúc nào cũng đo, đếm được bằng điểm số, bằng tỉ lệ học
sinh xếp loại giỏi, khá. Song tôi thấy chắc chắn hiệu quả của phương pháp này
trong mỗi suy nghĩ và hành động của các em. Tôi thấy thật thú vị khi một học
sinh của mình đã tưởng tượng về cuộc gặp gỡ giữa Mị Châu và Trọng Thủy ở
dưới thủy cung rất có hậu. Nhờ liều thuốc kì diệu của vua Thủy Tề, Mị Châu đã
quên hết quá khứ buồn đau mà vui vẻ tha thứ, đoàn tụ với Trọng Thủy. Từ đó,
em rút ra được bài học bổ ích trong cuộc sống là phải biết tha thứ, độ lượng với
những người đã hối lỗi ăn năn, không nên lãng phí cuộc sống bằng việc chôn
giữ hận thù. Hoặc, về cái kết của truyện “Tấm Cám”, có em đã không muốn
Tấm giết Cám mà để cho hai mẹ con Cám xuống tóc đi tu nơi của phật từ bi. Tại

đó, họ sẽ nghe tòa án lương tâm phán xét, sẽ ăn năn hối cải. Như vậy, họ đã
nhận sự trừng phạt mà vẫn còn cơ hội sám hối, và cô Tấm sẽ hoàn toàn thanh
thản sống hạnh phúc bên nhà vua đến trọn đời. Lại có học sinh thích một cái kết
thúc như kiểu truyện “ Thạch Sanh”. Tấm sẽ tha chết cho hai mẹ con Cám
nhưng đuổi họ khỏi hoàng cung. Ra đường, cả hai mẹ con Cám đều bị sét đánh
chết.
Như vậy, có thể nói các em đã không còn thơ ơ với tác phẩm, không học
một cách hời hợt, đối phó nữa. Đọc kĩ tác phẩm, tranh luận để hiểu sâu sắc tác
phẩm đã trở thành nhu cầu rất tự nhiên của mỗi học sinh. Đây là điều đáng
mừng mà bất cứ người giáo viên ngữ văn nào cũng mong đợi.
4.2. Kết quả cụ thể
4.2.1. Kết quả theo dõi tinh thần xây dựng bài trên lớp của học sinh:
Trong năm học vừa qua, tất cả các giờ đọc - hiểu tác phẩm văn học ở lớp
11A1(sĩ số: 41 học sinh) tôi đều có sử dụng câu hỏi nêu vấn đề để đặt học sinh
vào tình huống có vấn đề. Tuy nhiên, căn cứ vào từng tác phẩm mà tôi đưa ra
mức độ và số lượng câu hỏi khác nhau. Qua theo dõi tinh thần, và thái độ học
tập của học sinh tôi thấy có nhiều chuyển biến tích cực. Hầu hết các em tỏ ra hào
14
www.sangkienkinhnghiem.com
hứng phát biểu suy nghĩ của mình trước mỗi tình huống được đưa ra. Số lượng
học sinh chủ động tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài tăng lên đáng kể,
nhiều em học sinh đã mạnh dạn, tự tin hơn khi nói trước tập thể, không còn tình
trạng học sinh bị “bắt cóc” phát biểu không trả lời được. Kết quả theo dõi cụ thể
như sau :
Thường xuyên
phát biểu
Phát biểu không
thường xuyên
Rất ít khi phát biểu
SL % SL % SL %

Đầu năm học 5 12 24 59 12 29
Cuối HK I 10 24 28 69 3 7
Cuối HK II 15 37 26 63 0 0
4.2.2. Kết quả kiểm tra bài viết trên lớp
Các năm học vừa qua để tiện cho việc theo dõi hiệu quả của việc vận
dụng tình huống có vấn đề trong giảng dạy tôi đã tiến hành một vài thử nghiệm
nhỏ và có kết quả sau:
- Năm học 2011- 2012: Tôi đã dạy bài “ Chiếc thuyền ngoài xa” ( Nguyễn
Minh Châu) ở hai lớp 12A2 và 12A3 (đều là các lớp cơ bản A) theo hai cách
khác nhau. Ở lớp 12A2 tôi sử dụng kết hợp các phương pháp khác nhau trong đó
đặc biệt chú trọng đến việc đặt học sinh vào tình huống có vấn đề và tổ chức cho
các em giải quyết vấn đề. Còn ở lớp 12A3, tôi không sử dụng câu hỏi nêu vấn
đề, không đặt học sinh trước một tình huống có vấn đề nào. Kết quả là giờ học ở
lớp 12A2 sôi nổi hơn rất nhiều, các em rất hứng thú trước những vấn đề được
đưa ra và kết quả ở bài kiểm tra cũng cao hơn rõ rệt. Sau đây là kết quả bài kiểm
tra 15 phút ở hai lớp 12A2 và 12A3.
Đề bài: Trong truyện ngắn“ Chiếc thuyền ngoài xa” ( Nguyễn Minh
Châu) nhân vật nào để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho anh( chị) ? Vì sao?
- Năm học 2012- 2013: Tôi đã dạy bài “Truyện An Dương Vương và Mị
Châu- Trọng Thủy” ở hai lớp 10A3 và 10A4 (đều là các lớp cơ bản B) theo hai
cách khác nhau. Ở lớp 10A4 tôi sử dụng kết hợp các phương pháp khác nhau
trong đó đặc biệt chú trọng đến việc đặt học sinh vào tình huống có vấn đề và tổ
chức cho các em giải quyết vấn đề. Còn ở lớp 10A3, tôi không sử dụng câu hỏi
nêu vấn đề, không đặt học sinh trước một tình huống có vấn đề nào. Kết quả là
giờ học ở lớp 10A4 sôi nổi hơn rất nhiều, các em rất hứng thú trước những vấn
Điểm
Lớp(s.số)
Giỏi Khá Trung bình Yếu, kém
SL % SL % SL % SL %
12A2 (48 hs) 14 29 15 31 17 36 2 4

12A3 (41 hs) 9 22 10 24 18 44 4 10
15
Đối tượng
học sinh
Thời điểm
www.sangkienkinhnghiem.com
đề được đưa ra và kết quả ở bài kiểm tra cũng cao hơn rõ rệt. Sau đây là kết quả
bài kiểm tra số 2 ở hai lớp 10A3 và 10A4.
Đề bài: Sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống thủy cung, Trọng Thủy
đã tìm gặp lại Mị Châu. Hãy tưởng tượng và kể lại câu chuyện đó.
Phần III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:
Qua một thời gian dài tìm tòi, thử nghiệm phương pháp dạy học tích cực
này, tôi có thể kết luận: Việc áp dụng phương pháp nêu vấn đề vào dạy học các
tác phẩm văn học là rất cần thiết và hiệu quả. Nó đã thực sự đáp ứng được yêu
cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung yêu cầu của môn học nói
riêng. Vì vậy, bản thân tôi thấy mình cần phải quan tâm hơn nữa đến viêc áp
dụng phương pháp này trong quá trình dạy học.
2. Đề xuất:
Đối với sách giáo khoa: Hằng năm trong quá trình tái bản sách người biên
soạn nên bổ sung thêm một vài câu hỏi dạng nêu vấn đề ở phần luyện tập để
giáo viên và học sinh có định hướng tìm hiểu bài học.
Đối với tổ chuyên môn nhà trường: Trong các buổi sinh hoạt tổ chuyên
môn cần dành nhiều thời gian quan tâm đặc biệt đến đổi mới phương pháp dạy
học văn nhất là phương pháp dạy học nêu vấn đề.
Đối với giáo viên: Mỗi giáo viên phải không ngừng tự học hỏi, nâng cao
trình độ chuyên môn, và rất cần thiết phải tìm tòi, phát hiện tình huống có vấn
đề trong mỗi tác phẩm văn học để đưa ra được những câu hỏi nêu vấn đề trong
giờ học. Người giáo viên cũng nên tạo điều kiện, khuyến khích học sinh hưởng
ứng câu hỏi nêu vấn đề. Tuy nhiên, mức độ áp dụng phương pháp dạy học nêu

vấn đề cũng cần cân nhắc sao cho phù hợp, tránh lạm dụng sẽ gây tình trạng
nhàm chán hoặc mệt mỏi cho cả người dạy và người học.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 14 tháng 05 năm 2013

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết không sao chép nội
dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT
Điểm
Lớp(s.số)
Giỏi Khá Trung bình Yếu, kém
SL % SL % SL % SL %
10A3 (36 hs) 4 11 14 39 13 36 5 14
10A4 (37 hs) 10 27 15 40 11 30 1 3
16
www.sangkienkinhnghiem.com
PHẠM THỊ THÊU
Phần 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bá Hán( Chủ biên) - Từ điển thuật ngữ văn học - Nxb ĐHQG Hà Nội
2000.
2. SGK Ngữ văn 10- tập 1, 2 NXB Giáo dục 2011
3. SGK Ngữ văn 11, tập 1 NXB Giáo dục 2011
4. SGK Ngữ văn 12, tập 2 NXB Giáo dục 2011
5. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Ngữ văn lớp 11 NXB Giáo dục 2007
6. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Ngữ văn lớp 12 NXB Giáo dục 2008
7. Phan Trọng Luận( Chủ biên)- Phương pháp dạy học văn( tập 1), Nxb
ĐHSP 1998
8. Phan Trọng Luận- Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPT-
Nxb Giáo Dục 1999.

9. Bộ giáo dục và đào tạo, Tài liệu tập huấn giáo viên dạy học, kiểm tra,
đánh giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng trong chương trình giáo dục phổ thông
môn Ngữ văn, Hà Nội tháng 7/2010.
10. Đặng Thị Trinh – Vận dụng phương pháp nêu vấn đề vào dạy học một số
bài thơ trữ tình ở lớp 11 trung học phổ thông - Trường đại học sư phạm thành
phố Hồ Chí Minh.
11. Phương Thảo- Tìm hiểu phương pháp dạy học nêu vấn đề, Trường đại
học văn hóa nghệ thuật quân đội.
12. Nguyễn Xuân Lạc- Chuẩn bị kiến thức và kĩ năng làm bài thi môn Văn-
Nxb ĐHQG Hà Nội 2009
13. Phan Trọng Luận- Thiết kế bài học ngữ văn 11( Tập hai) – Nxb Giáo dục
2008
17
www.sangkienkinhnghiem.com
MỤC LỤC
Phần Nội dung Trang
I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 1
3. Đối tượng nghiên cứu 1
4. Phương pháp nghiên cứu 1
5. Phạm vi nghiên cứu 1
6. Những đóng góp của đề tài 1
II
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2
Chương 1:Cơ sở lí luận 2
1.1. Khái niệm dạy học nêu vấn đề 2

1.2. Khái niệm tình huống có vấn đề 2
Chương 2: Cơ sở thực tiễn (Thực trạng của vấn đề) 3
2.1. Về phía học sinh 3
2.2. Về phía giáo viên 3
Chương 3. Các giải pháp thực hiện 4
3.1. Xây dựng tình huống lựa chọn 4
3.2. Xây dựng tình huống nghịch lí 5
3.3. Xây dựng tình huống nhân quả 7
3.4. Xây dựng tình huống giả định 8
3.5. Xây dựng tình huống phản bác 10
3.6. Thiết kế một giáo án cụ thể có sử dụng tình huống có
vấn đề
12
Chương4. Kết quả kiểm nghiệm 15
4.1. Nhận xét chung 15
4.2. Kết quả cụ thể 17
III
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
18
IV
TÀI LIỆU THAM KHẢO
19
MỤC LỤC 20
18
www.sangkienkinhnghiem.com
19

×