Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Thực trạng bảo hiểm an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.59 KB, 59 trang )

Nhóm 3 - Bảo hiểm
MỤC LỤC
1
Nhóm 3 - Bảo hiểm
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ BẢO HIỂM AN SINH XÃ HỘI
1.1. Tổng quan về bảo hiểm
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm
Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít.
Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo
hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc
để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất
được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn
bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.
Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định nghĩa: Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này,
một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công
ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia
giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm.
Ngoài ra ,Bảo Hiểm còn được Định nghĩa: là một phương sách hạ giảm rủi ro bằng cách
kết hợp một số lượng đầy đủ các đơn vị đối tượng để biến tổn thất cá thể thành tổn thất cộng
đồng và có thể dự tính được.
Các Định nghĩa trên thường thiên vể một góc độ nghiên cứu nào đó (hoặc thiên về Xã hội,
hoặc thiên về Kinh tế Luật pháp hoặc thiên về Kỹ thuật tính). Theo các Chuyên gia Pháp một
Định nghĩa vừa đáp ứng được khía cạnh Xã Hội vừa đáp ứng được khía cạnh Kinh Tế và đầy đủ
về khía cạnh Kỹ Thuật và pháp lý có thể phát biểu như sau:
Bảo Hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp nhờ vào một
khoản đóng góp cho mình hoặc cho Người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro .Khoản trợ cấp
này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt
hại theo các phương pháp của Thống Kê.
Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (2000): Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của
doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro
của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo


2
Nhóm 3 - Bảo hiểm
hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm.
Bản chất của bảo hiểm: Là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả
những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Bảo hiểm hoạt động dựa trên Quy luật số đông.
1.1.2. Vai trò bảo hiểm
a. Bù đắp thiệt hại khắc phục tổn thất:
Nói đến Bảo hiểm là nói đến khả năng bồi thường khi có tồn thất xảy ra, và vai trò của các Công
ty Bảo hiểm là cung cấp các loại hình dịch vụ đặc biệt nhằm khôi phục khả năng vật chất, tài
chính như trước khi xảy ra rủi ro, hoặc bồi thường cho người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm
con người. Khi có tổn thất xảy đến với đối tượng được Bảo hiểm thì nhiệm vụ cơ bản của Bảo
hiểm là khắc phục những hậu quả đó,ổn định đời sống và quá trình sản xuất-kinh doanh.
Việc mua Bảo hiểm của các cá nhân, tổ chức cho phép họ chuyển rủi ro sang các Công ty Bảo
hiểm. Các cá nhân khắc phục được khó khăn về tài chính, dễ dàng ổn định cuộc sống hơn, các tổ
chức kinh doanh bảo toàn vốn, tài sàn, giữ cho chu trình sản xuất – kinh doanh không bị gián
đoạn dẫn đến phá sản khi gặp thiệt hại quá nặng nề.
b. Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất :
Bên cạnh khả năng giải quyết các hậu quả của rủi ro, Bảo hiểm còn góp phần thực hiện một
nội dung trong các biện pháp kiểm soát rủi ro. Đó là đề phòng và hạn chế tới mức thấp nhất
những tổn thất có thể xảy ra. Nhờ đó, những thiệt hại đáng tiếc về người và tài sản được giảm
thiểu và những hậu quả về Kinh tế-Xã hội cũng được chủ động phòng tránh. Dựa trên cơ sở các
rủi ro xảy ra hằng năm, các tổ chức kinh doanh Bảo hiểm tiến hành nghiên cứu các rủi ro, thống
kê các tai nạn, tổn thất, từ đó xác định các nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thiệt
hại. Những nghiên cứu này giúp các Công ty Bảo hiểm có thể đề ra được các biện pháp kiểm soát
ngăn ngừa rủi ro hữu hiệu nhất nhằm giảm đến mức thấp nhất tổn thất có thể xảy ra.
Việc các Công ty Bảo hiểm tích cực thực hiện các biện pháp phòng tránh rủi ro không chỉ để
giảm bớt chi phí bồi thường nhằm nâng cao lợi nhuận cho mình, mà quan trọng hơn, nó góp phần
giảm bớt những hậu quả đáng tiếc về vật chất cũng như tinh thần khi xảy ra tổn thất. Khi xây
dựng các quy tắc, điều khoản,biểu phí,…cũng như trong quá trình triển khai nghiệp vụ, kể từ khi

đánh giá rủi ro, kí kết hợp đồng, quản lý hợp đồng cho đến lúc giám định tổn thất, giải quyết bồi
thường, các tổ chức Bảo hiểm luôn chú ý đến việc tăng cường áp dụng các biện pháp phòng tránh
3
Nhóm 3 - Bảo hiểm
cần thiết. Việc đó không chỉ nhằm bảo vệ đối tượng bảo hiềm mà còn góp phần bảo đảm an toàn
cho tính mạng. sức khoẻ con người, của cải vật chất của toàn xã hội.
Các Công ty Bảo hiểm cũng luôn đôn dốc các cá nhân, tổ chức tham gia mua Bảo hiểm tăng
cường các biện pháp bảo vệ tài sản của chính mình. Đồng thời, họ cũng tuyên truyền, giáo dục
mọi tầng lớp nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ An toàn giao thông, An toàn lao động,…
Do Bảo hiểm không có nghĩa là đổ hết trách nhiệm cho người Bảo hiểm nên các cơ quan, xí
nghiệp thường có các quy tắc, quy định cho An toàn lao động, các quy định về phòng cháy chữa
cháy, các thiết bị chống trộm, báo cháy,…
c. Sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn lớn để đẩu tư vào
những lĩnh vực khác :
Trong cuộc sống cũng như trong kinh doanh, người ta luôn phải tính đến những rủ ro có thể
gặp phải, và luôn muốn chủ động trong các tình huống xấu nhất. Việc tự khắc phục rủi ro đòi hỏi
các cá nhân, tổ chức phải bỏ ra một khoản tiền lớn lập quỹ Dự phòng. Xét trên toàn xã hội, tổng
các quỹ Dự phòng sẽ là một khoản tiền không nhỏ, có khả năng sinh lời lớn nếu đem đầu tư. Do
vậy, người ta có thể đóng cho các Công ty Bảo hiểm một khoản nhỏ hơn thay vì bỏ một khoản
tiền lớn lập quỹ, và có thể dùng tiền đó nâng cao đời sống hoặc đầu tư kinh doanh. Bảo hiểm đã
trở thành lựa chọn tối ưu trong môi trường đầy rủi ro hiện nay, đảm bảo mức độ an toàn tương
đối về khả năng tài chính khi xảy ra rủi ro mà vẫn không gây đọng vốn.
Vốn là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.Một
nền kinh tế muốn tăng trưởng thì phải có một thị trường vốn phát triển mạnh, các kênh thu hút
vốn đa dạng để có thể đáp ứng tối đa nhu cẩu về vốn. Ngày nay, các Công ty Bảo hiểm là một
kênh huy động vốn không thể thiếu của nền kinh tế và đang ngày càng được khai thác một cách
hiệu quả, do phạm vi hoạt động rộng, các loại hình Bảo hiểm phong phú. Thông qua các Hợp
đồng Bảo hiểm, các công ty Bảo hiểm đã tập trung lượng tiền phân tán rải rác thành những quỹ
tiền tệ khá lớn. Quỹ Bảo hiểm đã trở thành một định chế tài chính trung gian quan trọng trên thị
trường vốn. Đặc biệt, thông qua loại hình Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm đã khuyến khích các tầng

lớp nhân dân tăng cường tiết kiệm và qua đó đã thu hút được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi để
đầu tư.
d. Tăng thu cho Ngân sách Nhà nước:
4
Nhóm 3 - Bảo hiểm
Qua quá trình phát triển lâu dài, bảo hiểm tự thân nó đã trở thành một ngành kinh doanh độc
lập, có hạch toán Thu –Chi lỗ lãi rõ ràng. Vì vậy, các công ty Bảo hiểm phải thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ đối với Nhà nước như mọi Doanh nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế. Hằng năm,
thông qua việc nộp thuế, bảo hiểm đã đóng góp một phần không nhỏ vào Ngân sách Nhà nước.
Bên cạnh đó, bảo hiểm cũng góp phần tiết kiệm cho Ngân sách thông qua việc thực hiện tốt khâu
phòng ngừa và hạn chế tổn thất, giúp bảo vệ tối đa tài sản công cộng, giảm đến mức thấp nhất
những thiệt hại đáng tiếc. Điều này giúp Nhà nước giảm bớt chi tiêu những khoản lớn để bù đắp
cho những tổn thất như phải xây dựng lại đường xá, cầu cống, nhà xưởng, công trình,…Ngoài ra,
một thị trường Bảo hiểm phát triển mạnh mẽ và ổn định sẽ thu hút các cá nhân và tổ chức mua
Bảo hiểm của các Công ty Bảo hiểm trong nước, góp phần tiết kiệm một lượng ngoại tệ lớn cho
Ngân sách Nhà nước.
e. Tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống :
Khi kinh doanh ngày càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao thì người ta
càng có nhu cầu được đảm bảo an toàn trong tương lai. Môi trường kinh doanh cũng như môi
trường xã hội đang dần xuất hiện những rủi ro mới. Những rủi ro do thiên nhiên như bão lũ, hạn
hán, sóng thần, cháy rừng tự nhiên,…đang trở nên hết sức phức tạp, khó dự đoán do môi trường
thế giới đang thay đổi theo chiều hướng xấu. Chiến tranh, xung đột, khủng bố, đình công,…
không những không giảm bớt mà lại ngày càng diễn biến phức tạp ở nhiều nơi trên thế giới.
Trong tình hình như vậy, Bào hiểm chính là một giải pháp hữu hiệu, góp phần tích cực tạo ra tâm
lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống cho con người.
1.1.3. Phân loại bảo hiểm
a. Căn cứ vào cơ chế hoạt động của Bảo hiểm:
*Bảo hiểm Xã hội: là chế độ bảo hiểm của Nhà nước, của đoàn thể xã hội hoặc của các công ty
nhằm trợ cấp cho các viên chức Nhà nước, người làm công, trong trường hợp ốm đau, bệnh tật,
bị chết, hoặc tai nạn trong khi làm việc, về hưu.

Bảo hiểm Xã hội: là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay đã được
thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình bảo hiểm khác, đối tượng, chức
năng và tính chất của BHXH có những điểm khác biệt. BHXH có một số đặc điểm: có tính
chất bắt buộc, hoạt động theo những luật lệ quy định chung; không tính đến những rủi ro cụ
thể; không nhằm mục đích kinh doanh…Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm
ngoài Ngân sách nhà nước, hình thành chủ yếu từ các nguồn đóng góp hay ủng hộ của người
5
Nhóm 3 - Bảo hiểm
lao động,người sử dụng lao động, nhà nước, các tổ chức, cá nhân, từ thiện…Theo khuyến nghị
của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) trong công ước 102 tháng6/1952 tại Giơnevơ, quỹ BHXH
được sử dụng để trợ cấp cho:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp sinh đẻ
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống
Còn theo Điều 2 Điều lệ BHXH Viẹt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao gồm 5 chế độ:
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp hưu trí
- Trợ cấp tử tuất
*Bảo hiểm Thương mại: là loại hình bảo hiểm mang tính chất kinh doanh, kiếm lời. Khác với
BHXH, loại hình bảo hiểm này có những đặc điểm: không bắt buộc, có tính đến từng đối tượng,
từng rủi ro cụ thể, nhằm mục đích kinh doanh.
Bảo hiểm Thương mại hiện nay cũng có rất nhiều loại nhiệm vụ :

- Bảo hiểm hàng hóa Xuất nhập khẩu
- Bảo hiểm thân tàu
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu
- Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
- Bảo hiểm hàng không
- Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
- Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
- Bảo hiểm rủi ro xây dựng và lắp đặt
6
Nhóm 3 - Bảo hiểm
- Bảo hiểm thiệt hại máy móc
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
- Bảo hiểm tai nạn con người
- Bảo hiểm sinh mạng cá nhân
- Bảo hiểm cây trồng
- Bảo hiểm chăn nuôi
- Bảo hiểm sắc đẹp…
b. Căn cứ vào tính chất của Bảo hiểm:
• Bảo hiểm Nhân thọ: là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống
hoặc chết. Thực chất đây là bảo hiểm tính mạng hoặc tuổi thọ của con người nhằm bù đắp
cho người được bảo hiểm một khoản tiền khi hết thời hạn bảo hiểm hoặc khi người được
bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Nói cách khác, bảo hiểm nhân thọ là
việc bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Đối tượng tham gia Bảo hiểm Nhân thọ rất rộng,bao gồm nhiều người ở các lứa tuổi khác
nhau.
Bảo hiểm Nhân thọ ngày nay phát triển với tốc độ ngày càng nhanh, với doanh thu phí bảo
hiểm ngày càng lớn, có lẽ bởi vai trò to lớn của nó. Đối với mỗi cá nhân, mỗi gia đình, bảo
hiểm Nhân thọ giảm bớt khó khăn về tài chính khi gặp rủi ro góp phần ổn định cuộc sống. Trên
phạm vi rộng, nó góp phần huy động vốn đầu tư từ các nguồn nhàn rỗi, góp phần thực hành tiết
kiệm , chống lạm phát và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.

Bảo hiểm Nhân thọ bao gồm các nghiệp vụ:
- Bảo hiểm trọn đời
- Bảo hiểm sinh kỳ
- Bảo hiểm tử kỳ
- Bảo hiểm hỗn hợp
- Bảo hiểm trả tiền định kỳ
• Bảo hiểm Phi nhân thọ: là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các
nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc Bảo hiểm Nhân thọ.
7
Nhóm 3 - Bảo hiểm
Bảo hiểm Phi nhân thọ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống cũng như trong
kinh doanh. Các nghiệp vụ của Bảo hiểm Phi nhân thọ cũng hết sức phong phú. Theo Luật
kinh doanh Bảo hiểm Việt Nam (Ban hành ngày 09/12/2000) thì Bảo hiểm Phi nhân thọ
bao gồm:
- Bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người.
- Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại
- Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và
đường không.
- Bảo hiểm hàng không
- Bảo hiểm xe cơ giới
- Bảo hiểm cháy, nổ
- Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu
- Bảo hiểm trách nhiệm chung
- Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính
- Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh
- Bảo hiểm nông nghiệp
Ngoài ra, Bảo hiểm Phi nhân thọ cũng còn một số loại nghiệp vụ khác như: Bảo hiểm xây
dựng và lắp đặt, bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm du lịch, bảo hiểm trách nhiệm củ người sử dụng lao
động.
c. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm:

• Bảo hiểm con người: là loại bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, sức
khoẻ, tai nạn của con người. Bảo hiểm con người bao gồm các loại sản phẩm bảo
hiểmnhân thọ, bảo hiểm sức khoẻ và tai nạn con người bao gồm các loại như bảo hiểm an
sinh giáo dục, bảo hiểm trả tiền định kỳ, bảo hiểm tiết kiệm và đầu tư, bảo hiểm chi phí
khám chữa bệnh và chắm sóc sức khoẻ, bảo hiểm tai nạn học sinh, lao động…Bên mua bảo
hiểm có thể mua bảo hiểm cho chính bản thân mình hoặc vợ, chồng, con, cha, mẹ, anh, chị,
em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng; và người khác nếu bên mua bảo hiểm
có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Trong bảo hiểm tai nạn con người, người thụ hưởng nhận được số tiền trong phạm vi số tiền
bảo hiểm, căn cứ vào thương tật thực tế của người được bảo hiểm và thoả thuận trong hợp đồng
bảo hiểm. Còn trong bảo hiểm sức khoẻ con người, người được bảo hiểm được nhận số tiền trong
8
Nhóm 3 - Bảo hiểm
phạm vi số tiền bảo hiểm, căn cứ vào chi phí khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi sức khoẻ, của
người đó do bệnh tật, hoặc tai nạn gây ra và thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
• Bảo hiểm Tài sản: là loại bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là tài sản (cố định hay lưu
động) của người được bảo hiểm (tập thể hay cá nhân) bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị
giá, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Nhóm các loại sản phẩm bảo hiểm
tài sản bao gồm bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng hoá, bảo hiểm nhà,
bảo hiểm công trình,…Có 3 loại hợp đồng tài sản là:Hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị,
Hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị, Hợp đồng bảo hiểm trùng.
c. Căn cứ vào quy định của Pháp luật:
Nếu xét trên cơ sở quy định của Pháp luật, các loại hình bải hiểm lại có thể được phân chia
thành :
• Bảo hiểm Bắt buộc: là loại bảo hiểm do Pháp luật quy định về điều kiệm bảo hiểm, số tiền
bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và Doanh nghiệp bảo hiểm có
nghĩa vụ thực hiện. Loại bảo hiểm này chỉ áp dụng với một số loại bảo hiểm nhằm mục
đích bảo vệ lợi ích cộng đồng và an toàn xã hội.
Các nước có những quy định khác nhau về các loại hình bảo hiểm bắt buộc . Theo Luật
kinh doanh bảo hiểm Việt Nam được ban hành ngày : 09/12/2000 các loại hình bảo hiểm sau là

bắt buộc:
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
người bảo hiểm hàng không đối với hành khách.
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt đọng tư vấn Pháp luật
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của Doanh nghiệp môi giới Bảo hiểm
- Bảo hiểm cháy nổ
Tuy nhiên, căn cứ vào nhu cầu phát triển Kinh tế- Xã hội của từng thời kỳ, Chính Phủ trình Uỷ
ban thường vụ Quốc hội quy định loại bảo hiểm bắt buộc khác.
• Bảo hiểm không bắt buộc: là những loại bảo hiểm khác, không thuộc Bảo hiểm bắt buộc.
1.2. Tổng quan về bảo hiểm an sinh xã hội.
1.2.1. Bảo hiểm xã hội
1.2.1.1. Bản chất và đặc điểm*
a) Bản chất của BHXH.
9
Nhóm 3 - Bảo hiểm
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế được bù đắp một phần thu nhập cho người lao động
khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp,
tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho
người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
BHXH là nhu cầu khách quan,đa dạng và phức tạp của xã hội.Các bên tham gia quan hệ
BHXH
+Bên tham gia BHXH
+Bên BHXH
+Bên được BHXH
- Biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động,mất việc làm trong BHXH.
+Những rủi ro ngẫu nhiên.
+Những rủi ro không hoàn toàn ngẫu nhiên.
- Nguồn quỹ BHXH:
+Do các bên tham gia BHXH đóng góp.

+Sự hỗ trợ phía nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH:Nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của NLĐ trong
trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm như:
+Đền bù những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của NLĐ.
+Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của đặc biệt người già,người tàn tật và trẻ
em.
b) Đặc điểm của BHXH
- BHXH là hoạt động chia sẻ rủi ro của cộng đồng theo nguyên tắc “số đông bù số ít” và “tiết
kiệm chi tiêu”;
10
Nhóm 3 - Bảo hiểm
- BHXH thực thi chính sách xã hội,không nhằm mục đích kinh doanh;
- BHXH là một bộ phận của hệ thống an sinh xã hội được thực hiện theo nguyên tắc đóng góp;
- BHXH thực hiện phân phối trên cơ sở mức đóng góp và quỹ BHXH.
1.2.1.2. Đối tượng, chức năng, vai trò
a) Đối tượng BHXH và đối tượng tham gia BHXH
- Đối tượng BHXH
Là thu nhập bị giảm hoặc mất của người lao động tham gia BHXH do họ bị giảm hoặc mất khả
năng lao động,mất việc làm
- Đối tượng tham gia BHXH
+Người lao động.
+Người sử dụng lao động.
b) Chức năng của BHXH.
- Thứ nhất, BHXH bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người lao động.
- Thứ hai, BHXH phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH.
- Thứ ba, BHXH góp phần kích thích nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao
động xã hội. Giúp người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, tích cực trong lao
động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Giúp các nhà đầu tư yên tâm tính
toán để phát triển sản xuất, không bị phá sản kể cả khi có rủi ro lớn sảy ra. Kích thích người lao

động nâng cao năng suất lao động cá nhân, thu hút đầu tư và qua đó, nâng cao năng suất lao động
xã hội.
- Thứ tư, BHXH góp phần thu hút lao động, hình thành và phát triển thị trường lao động, gắn
bó các lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động và các lợi ích xã hội
+ Thu hút lao động tốt trong xã hội vào khu vực thuộc phạm vi bảo hiểm. Ở Việt Nam, trong
thời kỳ nền kinh tế kế hoạch tập trung, khu vực Nhà nước luôn hấp dẫn người lao động.
+ Muốn khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, dịch chuyển quan hệ lao động để
phân phối lao động theo yêu cầu của thị trường thì phải mở rộng BHXH, kết hợp hình thức bắt
buộc và hình thức tự nguyện trong BHXH.
+ Điều hòa mâu thuẫn về tiền lương tền công, thời gian lao động giữa chủ và thợ, làm cho
các bên có trách nhiệm với nhau hơn, gắn bó lợi ích được với nhau, hợp tác, phát triển cùng có
lợi
c) Vai trò của bảo hiểm xã hội
11
Nhóm 3 - Bảo hiểm
- Đối với người lao động: giúp khắc phục khó khan thông qua trợ cấp BHXH
- Đối với xã hội:
+ Góp phần phục hồi năng lực làm việc,khả năng sang tạo của sức lao động:nâng cao
năng suất lao động xã hội.
+ Gian tiếp làm tang sự tiêu dung cho xã hội;đồng thời đảm bảo an ninh quốc gia.
+ Tác động tới hệ thống tài chính thông qua hoạt động đầu tư,bảo tồn và phát triển quỹ
BHXH.
+ Góp phần thực hiện công bằng xã hội.
1.2.1.3. Hệ thống chế độ
a) Khái niệm
-Là một hệ thống các quy định được pháp luật hóa về đối tượng hưởng nghĩa vụ và mức
độ đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể.
-Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật,các
thông tư điều lệ.
b) Hệ thống các chế độ BHXH

-Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) hệ thống các chế độ BHXH bao
gồm:
+Chăm sóc y tế
+Trợ cấp ốm đau
+Trợ cấp thất nghiệp
+Trợ cấp tuổi già
+Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
+Trợ cấp gia đình
+Trợ cấp sinh đẻ
12
Nhóm 3 - Bảo hiểm
+Trợ cấp khi tàn phế
+Trợ cấp cho người còn sống
1.2.1.4. Quỹ BHXH
a) Khái niệm
Qũy BHXH là quỹ tài chính độc lập,tập trung nằm ngoài danh sách nhà nước.Qũy có mục
đích và chủ thể riêng.Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dung để chi trả cho người lao động,giúp họ
ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố và rủi ro.Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người
tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ,do đó có thể bao gồm cả người lao động,người sử dụng
lao động và nhà nước.
b) Nguồn hình thành quỹ BHXH
-Qũy BHXH được hình thành từ những nguồn sau:
+NSDLD đóng góp
+NLD đóng góp
+Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
+Các nguồn khác
-Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH.Khi xác định mức phí BHXH phải đảm
bảo các nguyên tắc:
+Cân bằng thu chi
+Lấy số đông bù số ít

+Có dự phòng
Công thức biểu diễn cân đối quỹ BH
13
Nhóm 3 - Bảo hiểm
Tổng
thu
+
Tổng
tiền
Sinh lời

=
Tổng chi
trả chế độ
BHXH

+
Tổng chi
phí quản lý
và các
khoản chi
khác
+
Qũy dự
phòng
-Phí BHXH được xác định theo công thức
P = f1 + f2 + f3
Trong đó : P:Phí BHXH
f1: phí thuần túy trợ cấp BHXH
f2: phí dự phòng

f3: phí quản lý
*Qũy BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây:
+Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH
+Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
+Chi đầu tư tang trưởng quỹ BHXH
1.2.2. Bảo hiểm y tế
1.2.2.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi áp dụng
a) Khái niệm
BHYT là một chính sách xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng
góp của các cá nhân , tập thể để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm.
b) Đối tượng BH và đối tượng tham gia bảo hiểm
- Đối tượng BH : là sức khỏe của người được bảo hiểm.
- Đối tượng tham gia : l mọi ngàười dân có nhu cầu về BHYT cho mình hay đại diện cho
tập thể.
- Có 2 nhóm đối tượng tham gia BHYT chính: nhóm đối tượng bắt buộc và nhóm đối
tượng tự nguyện.
14
Nhóm 3 - Bảo hiểm
c) Phạm vi bảo hiểm
Những rủi ro về sức khỏe vủa những người tham gia bảo hiểm(với nhiều mức độ khác
nhau)
- Phạm vi loại trừ BHYT:
+ Khám chữa bệnh trong các trường hợp cố tình hủy hoại bản thân, trong tình trạng say ,
vi phạm pháp luật
+ Những người mắc bệnh nan y.
+ Những người được BHYT khám chữa những bệnh nhưng những bệnh này lại nằm trong
chương trình NSNN đài thọ chi phí.
1.2.2.2. Phương thức BHYT
*Căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT ,BHYT được
phân ra :

+BHYT trọn gói;
+BHYT trọn gói ,trừ các đại phẫu thuật;
+BHYT thông thường.
-Việc áp dụng phương thức BHYT nào phụ thuộc vào điều kiện kinh tế và mức sống của cư dân
từng nước.
*Thực tế có một bộ phận BHYT mang đặc trưng của BHXH , còn số khác cũng liên quan đến
hoạt độngchăm sóc sức khỏe nhưng mang tính chất kinh doanh.
 So sánh BHYT thuộc BHXH và BHYT kinh doanh :
Tiêu thức BHYT thuộc BHXH BHYT kinh doanh
1-Đối tượng tham
gia
NLĐ làm công hưởng lương Những người có nhu cầu
15
Nhóm 3 - Bảo hiểm
2-Hình thức được
thực hiện
Bắt buộc Tự nguyện
3-Cơ quan quản lý Cơ quan BHYT do nhà nước tổ chức
và quản lý
Các công ty BH kinh doanh
của nhà nước,tư nhân,công ty
cổ phần
4-Tính chất bảo
hiểm
Tính nhân đạo,Tính cộng đồng…. Hoạch toán kinh tế,cân đối
thu chi và làm nghĩa vụ đối
với nhà nước
5-Nguồn quỹ BHYT NSDLD,NLĐ đóng góp theo tỷ lệ %
quỹ lương và tiền lương có sự hỗ trợ
của ngân sách

Người tham gia bảo hiểm nộp
phí bảo hiểm theo các mức
thỏa thuận
6-Phương thức và
mức thanh toán tiền
BHYT
Chủ yếu chuyển thẳng cho cơ sở y tế
đảm nhận khám và chữa bệnh theo quy
định của cơ quan BHYT.Mức thanh
toán theo quy định của những bệnh
thông thường
Trả cho người được bảo hiểm
hoặc bệnh viện đã ký hợp
đồng với công ty bảo
hiểm.Mức chi trả theo mức
đã ký trong hợp đồng
1.2.2.3. Quỹ BHYT
a) Nguồn hình thành quỹ BHYT
- Qũy BHYT được hình thành từ các nguồn sau:
+Nếu là BHYT tự nguyện:chủ yếu từ người tham gia đóng góp qua phí
+Nếu là BHYT bắt buộc:từ cả 2 bên tham gia đóng góp.
- Ngoài ra được bổ xung từ NSNN,tổ chức từ thiện,lãi do đầu tư vốn nhàn rỗi
b) Phí BHYT
- Phí BHYT thường được tính trên cơ sở các số liệu thống kê về chi phí y tế và số người tham gia
BHYT thực tế trong thời gian liền ngay trước đó.
- Công thức tính: P=f + d
Trong đó :
P :Phí BHYT/người/năm
f : phí thuần
d: phụ phí

-Phụ phí:thường được quy định bằng một tỷ lệ %( thường 20-30%)
-Phí thuần được xác định như sau
16
Nhóm 3 - Bảo hiểm
/
Trong đó
+ fi : Chi phí y tế thuộc trách nhiệm BHYT của toàn bộ người được BHYT trong năm i
+ ni :Số người được BHYT trong năm i
+ i: Số năm thống kê để tính toán,thường từ 3 năm
c) Các khoản chi
Qũy BHYT được sử dụng như sau:
- Chi thanh toán chi phí y tế cho người BHYT
- Chi dự trữ,dự phòng giao động lớn
- Chi phí đề phòng,hạn chế tổn thất
- Chi quản lý
1.2.3. Bảo hiểm thất nghiệp
1.2.3.1. Khái niệm
• Người thất nghiệp :
Thất nghiệp là hiện tượng tất yếu của nền Kinh tế thị trường , là đối tượng điều chỉnh của
chế độ Bảo hiểm Thất nghiệp. Có thể hiểu thất nghiệp là tình trạng phát sinh khi tổng cung về lao
động của những người lao động muốn làm việc với mức tiền lương danh nghĩa tại một thời điểm
lớn hơn khối lượng việc làm hiện có.
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng không có
việc làm. Họ có thể là người chưa có việc làm hoặc có việc làm nhưng đã thôi việc và đang cần
tìm thêm việc làm có thu nhập.
Tại Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu mô hình chính sách thực hiện Bảo Hiểm thất
nghiệp,các ý kiến cho rằng:
Người thất nghiệp :là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, trong khoảng thời gian
xác định không có việc làm, đang tìm việc làm, đã đăng ký thất nghiệp theo quy định.
17

Nhóm 3 - Bảo hiểm
• Bảo Hiểm Thất nghiệp:
Nhiều biện pháo được thực hiện nhằm trợ giúp kịp thời cho những người thất nghiệp trong
thời gian chưa tìm được việc làm và tạo cơ hội cho họ học nghề, tìm kiếm công việc mới. Một
trong số các biện pháp đó là xây dựng và thực hiện chế độ Bảo hiểm Thất nghiệp.
Dưới góc độ kinh tế - xã hội, Bảo hiểm Thất nghiệp được hiểu là giải pháp nhằm khắc phục
hậu quả của tình trạng thất nghiệp, giúp người thất nghiệp tạm thời đảm bảo được cuộc sống và
tìm kiếm việc làm thông qua việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung.
Dưới góc độ pháp lý, Chế độ Bảo hiểm thất nghiệp là tổng thể các quy phạm Pháp luật quy
định việc đóng góp và sử dụng Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, chi trả cho trợ cấp thất nghiệp để bù
đắp thu nhập cho người lao động bị mất việc làm và thực hiện các biện pháp đưa người thất
nghiệp trở lại làm việc. Bảo hiểm thất nghiệp vì thế thường được hiểu là một chế độ trong hệ
thống các Chế độ Bảo hiểm Xã hội, có mục đích hỗ trợ thu nhập cao cho người lao động bị mất
thu nhập do thất nghiệp.
Như vậy, có thể hiểu Bảo hiểm thất nghiệp là quá trình tổ chức và sử dụng Quỹ tiền tệ tập
trung (Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp) được hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia (Người
lao động, người sử dụng lao động và Sự hỗ trợ của Nhà nước) nhằm hỗ trợ tài chính tạm thời
dành cho những người bị mất việc làm mà đáp ứng yêu cầu luật định.
Bảo hiểm Thất nghiệp là bảo hiểm bồi thường cho người lao động bị thiệt hại về thu
nhập do bị mất việc làm để họ ổn định cuộc sống và có điều kiện tham gia vào thị trường lao
động.
1.2.3.2. Đối tượng, phạm vi, điều kiện hưởng BHTN
a) Đối tượng:
• Những người trong độ tuổi lao động, có sức lao động nhưng bị mất việc làm, tạm
thời không có thu nhập và sẵn sàng trở lại làm việc .Bao gồm:
- Những người làm công ăn lương trong các Doanh nghiệp có sử dụng một số lượng lao
động nhất định.
- Những người làm việc theo hợp đồng lao động với một thời gian nhất định (thường là 1
năm trở lên) trong các Doanh nghiệp, các cơ quan đoàn thể, các đơn vị Hành chính Sự
nghiệp( nhưng không phải là công chức và viên chức).

18
Nhóm 3 - Bảo hiểm
- Những công chức, viên chức Nhà nước; những người lao động độc lập không có chủ;
những người làm thuê theo mùa vụ thường không thuộc đối tượng tham gia BHTN. Bởi vì,
hoặc là họ được Nhà nước tuyển dụng, bổ nhiệm lâu dài nên khả năng thất nghiệp thấp,
hoặc là những người khó xác định thu nhập để xác định Phí bảo hiểm, thời gian làm việc
ngắn, công việc không ổn định, thời gian đóng Phí bảo hiểm không đủ.
• Những người sử dụng lao động: Có trách nhiệm tham gia đóng góp BHTN cho
người lao động mà họ sử dụng.
Vì rủi ro việc làm trong một chừng mực nào đó xuất phát từ phía Người sử dụng lao động
nên đối tượng tham gia BHTN hẹp hơn rất nhiều so với BHXH.
b) Phạm vi:
Mục đích của BHTN là trợ giúp về mặt Tài chính cho người thất nghiệp để họ ổn định cuộc
sống cá nhân và gia đình trong một chừng mực nhất định, từ đó tạo điều kiện cho họ tham gia vào
thị trường lao động để có những cơ hội mới về việc làm. Vì thế, một số nhà kinh tế học còn cho
rằng BHTN là hạt nhân của thị trường lao động và nằm trong chính sách kinh tế xã hội của quốc
gia. Chính sách này trước hết vì lợi ích của người lao động sau nữa là vì lợi ích xã hội.
BHTN cũng là một loại hình Bảo hiểm con người, song nó có một số đặc điểm khác như:
không có Hợp đồng trước, người tham gia và người thụ hưởng quyền lợi là một,không có việc
chuyển rủi ro của những người bị thất nghiệp sang những người khác có khả năng thất nghiệp
BHTN không có dự báo chính xác về Số lượng và Phạm vi và có thể bị thiệt hại về kinh tế rất
lớn, đặc biệt là trong những thời kỳ nền kinh tế bị khủng hoảng.
c) Điều kiện hưởng BHTN:
Rủi ro thuộc phạm vi BHTN là rủi ro nghề nghiệp, rủi ro việc làm. Người lao động tham gia
BHTN bị mất việc làm sẽ được hưởng trợ cấp BHTN. Điều kiện để được hưởng trợ cấp BHTN
khá chặt chẽ:
- Người tham gia BHTN phải nộp Phí nảo hiểm trong một thời gian nhất định.
- Thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động.
- Phải đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm kiếm việc làm tại Cơ quan lao động có thẩm quyền
do Nhà nước quy định.

19
Nhóm 3 - Bảo hiểm
- Phải sẵn sàng làm việc.
- Có sổ BHTN để chứng nhận có tham gia đóng Phí BHTN đủ thời hạn quy định.
Những người thất nghiệp mặc dù có đóng BHTN nhưng không được hưởng trợ cấp khi họ đơn
phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái Pháp luật, bị sa thải do vi phạm kỷ luật lao động hoặc
từ chối không đi làm việc do Cơ quan lao động việc làm giới thiệu
Để được hưởng trợ cấp BHTN, người lao động phải có một thời gian nhất định đã tham gia
đóng góp vào Quỹ BHTN-thời gian dự bị. Việc đặt ra thời gian dự bị có nhiều tác dụng. Một mặt
nó đảm bảo rằng, chỉ có những người thường xuyên tham gia hoạt động kinh tế mới được xem
như bị mất thu nhập thực sự do bị thất nghiệp, còn đối với những người chưa từng có việc làm,
chua có thu nhập,không được coi họ là những người họ bị thiệt hại về thu nhập. Mật khác, thông
qua thời gian dự bị, Quỹ BHTN có thể đảm bảo số đóng góp của mỗi người lao động đạt tới một
mức tối thiểu trước khi xảy ra thất nghiệp. Điều này sẽ tích cực góp phần cân đối Quỹ Tài chính
BHTN.
1.2.3.3. Quỹ BHTN
Là một quỹ tài chính độc lập tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Quỹ được hình thành
chủ yếu từ 3 nguồn:
- Nguồn tham gia BHTN đóng góp.
- Nguồn sử dụng lao động đóng góp.
- Nhà nước bù thiếu.
Ngoài ra còn được bổ sung bởi Lãi suất đầu tư đem lại từ phần quỹ nhàn rỗi. Người tham gia
BHTN và người sử dụng lao động đóng góp bằng một tỷ lệ phần trăm nhất đính so với tiền
lương và Tổng quỹ lương. Hầu hết các quốc gia quy định mức đóng góp BHTN trong Luật tài
chính để đảm bảo an toàn và chắc chắn cho quỹ hoạt động.
Quỹ BHTN nhiều hay ít phụ thuộc vào tỷ lệ đóng góp của các bên tham gia và số người tham
gia BHTN .Tỷ lệ đóng góp của người lao động phụ thuộc chủ yếu vào tỷ lệ thất nghiệp, mức
hưởng và thời gian hưởng trợ cấp BHTN cũng như nội dung sử dụng quỹ.
Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ số giữa số người thất nghiệp so với lực lượng lao động. Lực lượng lao
đọng phải được xác định thống nhất. Còn số người thất nghiệp được xác định thông qua điều

tra hay dựa vào số liệu thống kê những người đã đăng ký thất nghiệp. Nhìn chung, tỷ lệ thất
20
Nhóm 3 - Bảo hiểm
nghiệp thường xuyên biến động, vì thế nó là nhân tố có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ đóng góp của
các bên tham gia BHTN cũng như sự hỗ trợ của Nhà nước . Sự hỗ trợ của Nhà nước cho quỹ
BHTN là không thể thiếu, bởi vì thất nghiệp là một vấn đề mang tính xã hội rộng lớn. Nhà
nước không chỉ ban hành chính sách,mà phải quan tâm đến việc thực hiện chính sách, bằng
cách trích một khoản ngân sách đáng kể hỗ trợ Quỹ BHTN. Mặc dù chỉ hỗ trợ một phần nhưng
Nhà nước có một nguồn quỹ rất lớn để khắc phục tình trạng thất nghiệp, từ đó góp phần ổn
định xã hội.
Mặt khác, nhiều khi Doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất,kinh doanh, lao động bị thất
nghiệp nhiều không hẳn tại Doanh nghiệp hay người lao động mà tại Nhà nước, do nhà nước
thay đổi các chính sách kinh tế, do quản lý thị trường yếu kém và tiền vốn cấp phát không kịp
thời v v Vì vậy, Nhà nước cũng phải tham gia đóng góp vào Quỹ BHTN. Nhà nước có thể
tham gia theo một trong hai hình thức:
+) Thứ nhất, đóng góp thường xuyên thông qua việc trích Ngân sách hỗ trợ quỹ BHTN .
+) Thứ hai, Nhà nước chỉ tham gia với tư cách là người bảo hộ khi đóng góp của người lao
động và người sử dụng lao động không đủ bù đắp các khoản chi hoặc khi Quỹ BHTN có
những biến động lớn do Lạm phát.
Mức độ tham gia đóng góp vào Quỹ BHTN trong những năm gần đây của một số nước thực
hiện BHTN cũng rất khác nhau. Có nước quy định, người lao động, người sử dụng lao động và
Nhà nước đóng góp ngang nhau. Cách đóng góp này có ưu điểm là giảm được mức đóng góp
của Người lao động và Người sử dụng lao động, đồng thời Cơ quan BHTN chủ động được
nguồn quỹ vì Nhà nước tham gia đóng góp ngay từ đầu. Ngoài ra nó còn tạo tâm lý công bằng
chia sẻ gánh nặng thất nghiệp, từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi bên. Có một số
nước lại quy định ,Người lao động và người sử dụng lao động đóng góp ngang nhau, Nhà nước
cấp bù khi có những biến động lớn. Cách đóng góp này có ưu điểm làm giảm gánh nặng Ngân
sách nhà nước. Nhưng lại tạo ra tâm lý ỷ lại vào Nhà nước. Cơ quan BHTN sẽ không tích cực
thu và tiết kiệm chi dẫn đến không chủ động được Nguồn quỹ. Do vậy, khi áp dụng cách thức
này,Cơ quan BHTN phải nhận thức rõ hơn là, nhà nước chỉ cấp bù khi thị trường lao động có

biến động xấu, tỷ lệ thất nghiệp tăng đột biến hoặc tốc độ Lạm phát gia tăng v v
21
Nhóm 3 - Bảo hiểm
Ngoài ra còn có nước quy định, Người sử dụng lao động đóng gấp đôi người lao động , Nhà
nước chỉ tiến hành bù thiếu. Bởi vì, người sử dụng lao động luôn có tiềm lực kinh tế mạnh hơn
và vấn đề thất nghiệp chủ yếu do họ gây ra chứ không phải do người lao động.
Quỹ BHTN được sử dụng chủ yếu để chi trả trợ cấp BHTN. Ngoài ra nó còn được sử dụng
cho các hoạt động nhằm đưa người thất nghiệp mau chóng trở lại vị trí làm việc.
22
Nhóm 3 - Bảo hiểm
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BẢO HIỂM AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Bảo hiểm xã hội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
a) Giai đoạn trước năm 1945:
- Trước năm 1945 ở Việt Nam chưa có pháp luật bảo hiểm xã hội. Bởi vì đất nước bị thực dân
Pháp đô hộ. Đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, nghèo đói.
- Tuy nhiên nhân dân Việt Nam có truyền thống cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau những khi gặp rủi ro
hoạn nạn. Đặc biệt là sự che chở của họ hàng làng xã thân tộc. Cũng có một số nhà thờ tổ chức
nuôi trẻ mồ côi, thực hiện tế bần (BHXH sơ khai).
b) Giai đoạn từ tháng 8/1945 đến 1960
Ngay từ năm đầu kháng chiến chống Pháp chính phủ đã áp dụng chế độ hưu chí cũ của
Pháp để giải quyết quyền lợi cho một số công chức đã làm việc dưới thời Pháp sau đó đi theo
kháng chiêns nay đã già yếu. Đến năm 1950, Hồ Chủ Tịch dã kí sắc lệnh số 76/SL ngày
20/5/1950 ban hành quy chế công chức và sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 ban hành quy chế
công nhân.
Nhìn lại các chế độ ban hành ở giai đoạn nay cho thấy: Các chính sách được ban hành
ngay sau khi giành được độc lập, trong tình trạng kinh tế còn nhiều thiếu thốn nên chưa đầy đủ
chỉ đảm bảo được mức sống tối thiểu cho công nhân viên chức Nhà nước. Mức hưởng mang tính
bình quân, đồng cam cộng khổ, chưa có tính lâu dài. Các khoản chi còn lẫn lộn với tiền lương,
chính sách BHXH chưa có quỹ riêng để thực hiện. Tuy nhiên, chính sách BHXH có ý nghĩa giải

quyết khó khăn cho công nhân viên chức khi tuổi già hoặc mất sức lao động.
c) Giai đoạn từ 1961 đến 1/1995
Trong giai đoạn này kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đòi hỏi số đông lực lượng lao động. Vì
vậy, ngày 27/12/1961 Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời theo nghị định số 218/Chính phủ
về các chế độ BHXH cho công nhân viên chức nhà nước. Đối tượng tham gia BHXH là công
nhân viên chức lực lượng vũ trang. Đã hình thành nguồn để chi trả các chế độ BHXH trong ngân
23
Nhóm 3 - Bảo hiểm
sách nhà nước trên cơ sở đóng góp của xí nghiệp (4,7% so với tổng quỹ lương) và nhà nước cấp.
Áp dụng 6 chế độ BHXH là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao
động, hưu trí và tử tuất cho công nhân viên chức. Ngày 18/9/1985 Hội đồng bộ trưởng ban hành
nghị định 236/HĐBT về việc bổ xung, sửa đổi chế độ BHXH.
Như vậy qua hơn 35 năm thực hiện hnàg triệu người đã được hưởng lương hưu và trợ cấp
BHXH, nên đã có tác dụng làm cho đội ngũ công nhân viên chức gắn bó với cách mạng với chính
quyền, khuyến khích họ hăng say chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng như trong lao
động sản xuất xây dựng đất nước. Chính sách BHXH này đã đảm bảo điều kiện thiết yếu về vật
chất và tinh thần cho người lao động trong trường hợp gặp rủi ro không làm việc được góp phần
đảm bảo an toàn xã hội. Tuy nhiên, các chính sách BHXH đã ban hành cũng bộc lộ một số mặt
tồn tại như: phạm vi đối tượng tham gia BHXH chỉ giới hạn chưa thể hiện rõ sự công bằng đối
với người lao động làm việc trong và ngoài khu vực nhà nước, quyền lợi trách nhiệm các bên
tham gia chưa được thiết lập đầy đủ
d) Giai đoạn từ 1995 đến nay
Bộ luật lao động đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua tại kì họp thứ V
Quốc hội khoá IX ngày 28/6/1994, qui định tại chương XII về BHXH áp dụng cho người lao
động cho mọi thành phần kinh tế. Chính phủ ban hành điều lệ BHXH kèm theo nghị định số
12/CP hướng dẫn qui định thi hành.
Chính sách BHXH trong giai đoạn này đã mở rộng phạm vi đối tượng tham gia đối với
lao động làm công hưởng lương ở các đơn vị, tổ chức kinh tế sử dụng 10 lao động trở lên thuộc
mọi thành phần kinh tế. Thực tế trước nghị định số 12/CP số lao động tham gia BHXH là 3,4
triệu người thì hiện nay đã có 4,1 triệu người trong đó có 517 nghìn người ngoài quốc doanh( kể

cả doanh liên doanh). Quỹ BHXH chủ yếu từ người sử dụng lao động đóng ( 15% quĩ lương) và
người lao động đóng(5% tiền lương) độc lập với ngân sách nhà nước. Qui định rã trách nhiệm
của người sử dụng lao động khi thuê mướn lao động phải đóng BHXH cho người lao động. Qui
định rõ nghĩa vụ của người lao động trong việc đóng góp. Nguồn thu BHXH hàng năm tăng lên.
1998
3875
Nguồn: Tổng cục thống kê.
24
Nhóm 3 - Bảo hiểm
Việc tăng nguồn thu này đã giúp cho việc thực hiện chế độ BHXH trước hết là người nghỉ hưu
được tốt hơn. Chế độ BHXH có tác dụng tích cực làm ổn định đời sống người lao động từ đó có
tác dụng tích cực động viên mọi người an tâm lao động sản xuất, với năng suất cao, hiệu quả cao.
Đã thể hiện được sự công bằng giữa đóng góp và hưởng thụ đồng thời mang tính chất cộng đồng
xã hội để chia sẻ rủi ro.Tuy nhiên,về đối tượng tham gia BHXH chủ yếu vẫn là ở khu vực Nhà
nước, lao động làm việc ở cơ sở sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh, kể cả liên doanh cồn
thấp, chỉ có 15% lực lượng lao động xã hội thuộc đối tượng BHXH bắt buộc.Hiện nay, loại hình
BHXH tự nguyện chưa được ban hành. Do đó, nhiều người lao động không thuộc diện làm công
ăn lương, có nguỵện vọng tham gia BHXH thì chưa thực hiện được nguyện vọng của mình, chưa
có chế độ bảo hiểm thất nghiệp để ổn định cuộc sống người lao động bị mất việc làm. Công tác
giáo dục tuyên truyền còn rất hạn chế nên nhiều doanh nghiệp không đống BHXH. Một số qui
định trong chính sách chế độ BHXH hiện hành trong quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc.
2.1.2. Đối tượng áp dụng
1.Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời
hạn từ đủ ba tháng trở lên;
b) Cán bộ, công chức, viên chức;
c) Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như
đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân;

đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời
hạn;
e) Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
2. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước
25

×