Tải bản đầy đủ (.pdf) (275 trang)

Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.73 MB, 275 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VŨ QUÝ THU





PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP
CỦA NHÂN DÂN THANH HÓA CUỐI THẾ KỶ
XIX
(1885 - 1895)





LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ











HÀ NỘI - 2006



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VŨ QUÝ THU



PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP
CỦA NHÂN DÂN THANH HÓA CUỐI THẾ KỶ
XIX
(1885 - 1895)

Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại
Mã số : 62 22 54 05



LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Khánh
GS.NGND Đinh Xuân Lâm







HÀ NỘI - 2006



MỤC LỤC


Trang

MỞ ĐẦU
1

Chương 1: THANH HÓA TRƯỚC KHI PHONG TRÀO YÊU NƯỚC
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP BÙNG NỔ (THÁNG 7-1885)
14
1.1.
Vài nét về vị trí chiến lược, truyền thống yêu nước chống
ngoại xâm của nhân dân Thanh Hóa
14
1.2.
Tình hình tỉnh Thanh Hóa trước khi phong trào Cần Vương
bùng nổ (7-1885)
21

Chương 2: TỪ CĂN CỨ ỔN LÂM - KỲ THƯỢNG ĐẾN KHỞI

NGHĨA BA ĐÌNH (1885 - 1887)
32
2.1.
Căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng và đội nghĩa quân của
Nguyễn Ngọc Phương
32
2.1.1.
Khởi nghĩa Ba Đình và phong trào chống Pháp ở Thanh
Hóa những năm 1886 - 1887
46

Chương 3: KHỞI NGHĨA HÙNG LĨNH BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI
CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP Ở THANH
HÓA (1887 - 1895)
82
3.1.
Căn cứ Bồng Trung - Đa Bút (Vĩnh Lộc)
82
3.2.
Cầm Bá Thước, Hà Văn Mao… với phong trào miền Tây
Thanh Hóa
111

Chương 4: ĐẶC ĐIỂM, TÍNH CHẤT VÀ KINH NGHIỆM CỦA
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
Ở TỈNH THANH HÓA CUỐI THẾ KỶ XIX
134
4.1.
Đặc điểm, tính chất của phong trào
134

4.2.
Vị trí, nguyên nhân thất bại và kinh nghiệm về phong trào
yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX
148

KẾT LUẬN
163

NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
TỚI LUẬN ÁN
168

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
170

PHỤ LỤC
185
DANH MỤC CÁC HÌNH (BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ)

Số hiệu
hình
Tên hình
Trang
2.1a
Các cứ điểm trong phong trào chống Pháp ở Nông Cống
39
2.1b
Sơ đồ căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng
39
2.2a

Căn cứ phòng ngự Ba Đình
48
2.2b
Sơ đồ diễn biến trận chiến Ba Đình
48
2.3a
Cứ điểm phòng ngự Ba Đình và Mã Cao
52
2.3b
Sơ đồ căn cứ Mã Cao
52
3.1
Sơ đồ hoạt động của nghĩa quân Tống Duy Tân - Cao Điển
89
3.2
Căn cứ Trịnh Vạn của Cầm Bá Thước ở Thường Xuân
113




1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thanh Hóa là một tỉnh lớn, có dân số đông, giữ một vị trí quan trọng
cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong quá trình dựng nước và giữ nước
của dân tộc Việt Nam.
Nhân dân Thanh Hóa có truyền thống yêu nước, bất khuất chống
ngoại xâm. Cuối thế kỷ XIX, sau khi thực dân Pháp dùng vũ lực buộc triều

đình Huế ký Hiệp ước Hác-măng (25-8-1883) và Pa-tơ-nốt (6-6-1884), áp đặt
nền bảo hộ của chúng lên toàn bộ đất nước ta, hưởng ứng chiếu Cần Vương
của vua Hàm Nghi, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân
Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu văn thân đã bùng nổ mạnh mẽ,
quyết liệt, góp phần cùng nhân dân cả nước ngăn cản quá trình bình định quân
sự và tiến hành khai thác bóc lột trên qui mô lớn của chúng, tô đậm thêm
những trang sử hào hùng của nhân dân Việt Nam nói chung, của nhân dân
Thanh Hóa nói riêng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Do có vị trí lịch sử đặc biệt quan trọng, cho nên từ lâu nay, phong trào
yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa đã được đề cập đến trong rải rác nhiều
công trình và thể loại xuất bản phẩm, cả trong các tài liệu nghiên cứu và tài
liệu thông sử của các tác giả trong và ngoài nước. Những công trình này đã
giúp người đọc phần nào hiểu được những nét cơ bản về diễn biến của phong
trào Cần Vương ở Thanh Hóa, với những cuộc khởi nghĩa và lãnh tụ tiêu biểu
như khởi nghĩa Ba Đình, Hùng Lĩnh và các thủ lĩnh nghĩa quân như Phạm
Bành, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Cầm Bá Thước, Hà Văn Mao hay
hoạt động của nghĩa quân Cần Vương ở một số căn cứ, một số khu vực riêng
lẻ miền ven biển, vùng đồng bằng, vùng rừng núi. Nhưng nhìn lại, cho tới nay
phong trào chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX vẫn chưa đề


2
cập một cách cặn kẽ, chi tiết để có được cái nhìn tổng thể, thấy rõ vị trí và ý
nghĩa của nó đối với xứ Thanh nói riêng và cả nước nói chung.
Nghiên cứu phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Thanh
Hóa cuối thế kỷ XIX là nhằm làm sáng tỏ một cách toàn diện, hệ thống về quá
trình hình thành và phát triển các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở
Thanh Hóa trong khoảng 10 năm (từ 1885-1895). Những hoạt động tiêu biểu
của nghĩa quân ở các căn cứ và các cuộc khởi nghĩa; xác định mối quan hệ
giữa phong trào của nhân dân Thanh Hóa với phong trào các tỉnh khác. Trên

cơ sở đó, đưa ra nhận xét, đánh giá về đặc điểm, tính chất, vị trí, nguyên nhân
thất bại, và kinh nghiệm của phong trào. Đề xuất giải pháp bảo tồn hiện trạng,
tôn tạo các di tích liên quan đến các yếu nhân và các phong trào yêu nước
chống thực dân Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ thứ XIX. Kết quả
nghiên cứu sẽ làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác giảng dạy và học tập,
nghiên cứu cho cán bộ và sinh viên chuyên ngành Lịch sử Việt Nam ở các
trường đại học, cao đẳng trong cả nước và cho những ai quan tâm đến vấn đề
này. Đồng thời, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho
các tầng lớp nhân dân nhất là cho thanh thiếu niên ở Thanh Hóa nói riêng, cả
nước nói chung.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: "Phong trào yêu nước
chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX (1885 - 1895)" làm
đề tài luận án tiến sĩ lịch sử của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Khi viết về phong trào Cần Vương chống Pháp ở Thanh Hóa cuối thế
kỷ XIX, các tác giả Pháp, trong đó có cả những người đã từng trực tiếp tham
chiến, đã thừa nhận phong trào kháng chiến ở Thanh Hóa có vị trí quan trọng,
diễn ra trên địa bàn có ý nghĩa chiến lược, có ảnh hưởng đến địa bàn Bắc Bộ
và miền Trung. Vào tháng 10-1886, Paul Bert lúc đó là Tổng trú sứ Bắc Kỳ
và Trung Kỳ đã viết: "Tình hình các tỉnh phía Bắc Trung Kỳ, đặc biệt là


3
Thanh Hóa, đã khiến chúng ta phải lo lắng Tầm quan trọng của khởi nghĩa,
cung cách tổ chức của họ, vùng giàu có phong phú, tầm quan trọng chính trị
như là quê hương của hoàng tộc, những mối quan hệ các dòng sông lớn chảy
qua Lào " [65, tr. 59-60]. Tổng kết hoạt động quân sự của Pháp ở Đông
Dương, Daufès đã viết: "Trong chiến dịch Thu - Đông 1886 - 1887 cuộc công
hãm Ba Đình là cuộc chiến đấu quan trọng nhất" [65, tr. 60].
Các sử gia của triều đình Nguyễn và bọn tay sai đã hằn học khi nhắc

đến phong trào yêu nước của nhân dân Thanh Hóa với dụng ý xuyên tạc, bôi
nhọ, nhưng trong một chừng mực nào đó cũng phải thừa nhận tầm vóc to lớn
của các sự kiện đó. Trần Lục (cha Sáu), tên thầy tu phản động được thực dân
Pháp phong chức "Khâm sai tuyên phủ sứ" sau khi kéo quân vào Thanh Hóa
cùng bọn xâm lược đánh dẹp phong trào, trong báo cáo gửi cho quan thầy
cũng phải nhận định rằng:
Các huyện như Ngọc Sơn (Tĩnh Gia), Nông Cống, Đông Sơn,
Quảng Xương giặc giã tứ tung, đường chạy trận thì hiểm trở, tướng
giặc đồn tại làng Thạch Đồng, Ổn Lâm thuộc huyện Nông Cống, giả
dân cạo trọc đầu, trắng răng chực toan lấn sang Yên Định, Thọ Xuân,
Quảng Hóa quân giặc thế ngày thêm hống hách [65, tr. 60].
Sách "Đại Nam thực lục chính biên" bộ quốc sử của triều Nguyễn cũng
phải dành tới 11 lần nói về phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa [20, tập 37,
tr. 47; 82; 126; 141; 152; 170; 174; 243-244; 255; 271; 307].
Trước Cách mạng tháng 8-1945, dưới ách thống trị của đế quốc Pháp,
việc nghiên cứu lịch sử các phong trào chống Pháp là điều cấm kỵ. Tuy vậy,
bộ "Việt Nam sử lược" của Trần Trọng Kim trong các phần viết về "sự đánh
dẹp của các quân quan thực dân" cũng đã gián tiếp nói đến phong trào vũ
trang chống Pháp, nhưng sơ lược và có dụng ý hạ thấp ý nghĩa, giá trị lịch sử
của các phong trào. Đề cập đến phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa, Trần
Trọng Kim chỉ có vài dòng nói về hoạt động của Hà Văn Mao, nhưng lại nhấn


4
mạnh đến các chi tiết phản ánh hạn chế của phong trào như việc nghĩa quân
đốt phá làng đạo, còn các phong trào khác hầu như không được đả đụng tới.
Cũng dưới thời Pháp thuộc, chúng ta biết đến một cuốn sách nói về
khởi nghĩa Ba Đình, đó là sách "Ba Đình truyện ký " của Phan Trần Chúc.
Tuy nhiên, đấy là cuốn sách đầy rẫy những hư cấu văn học, căn cứ khoa học
mỏng manh và phương pháp khảo cứu ít đáng tin cậy.

Theo dòng mạch này, một số cuốn sách khi viết lịch sử về giai đoạn
cận đại Việt Nam xuất bản ở miền Nam trước ngày giải phóng (1975) có đề
cập tới phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa, trong bối cảnh phong trào Cần
Vương cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, do hạn chế về tư liệu, đặc biệt do thiếu
những phương pháp nghiên cứu khoa học và bị hạn chế bởi những quan điểm
chính trị chống Cộng, các cuốn sách đó điển hình như: "Việt Nam quân sử"
(tập II, Việt sử Tân biên) của Phạm Văn Sơn dù có nhấn mạnh đến phong trào
vũ trang chống Pháp, nhưng lại biện hộ tuyên truyền cho chủ nghĩa thực dân
mới của Mỹ và "gắn liền cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của ông cha với
cuộc chiến tranh miền Bắc chống cộng sản xâm lược"(?!). Vì vậy, những
đóng góp về phương diện khoa học lịch sử của các cuốn sách này hầu như
không có.
Ngược với quan điểm của bọn thực dân xâm lược và tay sai, sự đánh
giá của nhân dân ta đối với những chiến tích oai hùng và tinh thần hy sinh cao
cả của các nghĩa sĩ chống Pháp đã được thể hiện trong các áng văn, thơ mang
đậm tính cách dân gian, được lưu truyền qua các thế hệ.
Trong sự nghiệp vận động giải phóng dân tộc, các nhà yêu nước như
Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền và cả lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng
tỏ lòng ngưỡng mộ, khâm phục, ca ngợi các chiến công của ông cha ta trong
sự nghiệp đánh giặc cứu nước, trong đó có sự nghiệp của nghĩa quân Ba Đình
- Hùng Lĩnh, với các tấm gương: Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân và luôn


5
coi đó là sức mạnh truyền thống, cổ vũ các thế hệ tiếp nối và quyết tâm đưa
sự nghiệp cứu nước đến thắng lợi [133].
Chỉ từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 và đặc biệt là từ sau khi miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng (1954), cùng với sự hình thành và phát triển
của nền sử học mácxít, truyền thống lịch sử dân tộc ta nói chung, trong đó có
phong trào Cần Vương Thanh Hóa, mới thực sự được giới sử học nghiên cứu

như một đối tượng của khoa học lịch sử, và nhờ đó đã đạt được những thành
tựu đáng kể, góp phần từng bước làm sáng tỏ các sự kiện, các nhân vật lịch sử
của phong trào lịch sử này.
Nhiều trung tâm nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở Trung ương cũng
như địa phương, nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu lịch sử đã dành sự quan tâm
đối với đề tài nghiên cứu phong trào vũ trang chống Pháp ở Thanh Hóa cuối
thế kỷ XIX. Những thành tựu nghiên cứu được phản ánh trong các luận văn
khoa học, các bài báo, báo cáo khoa học, các công trình thông sử và chuyên
khảo, các giáo trình giảng dạy, các sưu tập sử liệu, văn liệu, các báo cáo điền
dã, trong đó có nhiều công trình đã được xuất bản. Các công trình tiêu biểu
như: "Dự thảo lịch sử cận đại Việt Nam", "Lịch sử 80 năm chống Pháp" [93]
của Trần Huy Liệu; "Chống xâm lăng" [35] của Trần Văn Giàu; bộ giáo trình
"Lịch sử cận đại Việt Nam", 4 tập của tập thể giảng viên trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội, tập II "Lịch sử Việt Nam"; "Lịch sử cận đại Việt Nam" [38] [39]
của Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Sự, Đặng Huy Vận; "Lịch
sử Việt Nam" của Hoàng Văn Lân, Ngô Thị Chính [83]; "Lịch sử Việt Nam"
tập 2 của Nguyễn Khánh Toàn (chủ biên), Nguyễn Công Bình, Văn Tạo,
Phạm Xuân Nam, Bùi Đình Thanh; "Lịch sử Việt Nam 1858 - 1896" Viện Sử
học do Vũ Huy Phúc (chủ biên) cùng Phạm Quang Trung, Nguyễn Ngọc Cơ
[159]; "Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay" [25] Những công trình vừa nêu
đã đề cập đến bối cảnh phong trào kháng chiến chống Pháp dưới danh nghĩa


6
Cần Vương, khái quát sự hình thành các căn cứ địa, diễn biến trận chiến và
một số nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của từng cuộc khởi nghĩa của nhân
dân ta nói chung và nhân dân Thanh Hóa nói riêng.
Ngoài ra, còn nhiều luận văn khoa học được đăng tải trên các tạp chí
nghiên cứu lịch sử, các tập san, nội san của khoa Sử các trường đại học: Tổng
hợp, Sư phạm Hà Nội I; một số tư liệu, một số tác phẩm văn học khai thác các

sự kiện, các nhân vật lịch sử liên quan đến phong trào Cần Vương Thanh Hóa
cũng đã được sưu tập, công bố trong các hợp tuyển, hoặc sách tham khảo. Thêm
vào đó, các luận văn tốt nghiệp cử nhân Sử học: "Bước đầu tìm hiểu phong
trào Cần Vương miền biển Thanh Hóa hồi cuối thế kỷ XIX " của Nguyễn Văn
Tường [134], "Tìm hiểu hệ thống căn cứ Mã Cao trong phong trào chống Pháp
của nhân dân Thanh Hóa hồi cuối thế kỷ XIX " của Vũ Thế Truyền [135],
"Cao Thắng và vai trò của ông trong cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng" của
Hoàng Việt Phương [122], đã cung cấp một số tư liệu về từng địa phương
tỉnh Thanh trong phong trào yêu nước chống Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX.
Cần phải nhấn mạnh thêm về những đóng góp rất thiết thực và có giá trị
của một số xuất bản phẩm địa phương, như: " Từ Ba Đình đến Hùng Lĩnh" [74],
"Thành phố Thanh Hóa" [78]. "Phong trào yêu nước chống Pháp ở Nông Cống
cuối thế kỷ XIX "(1885 - 1895) [117], "Địa chí Nông Cống" [26], "Địa chí
Thanh Hóa "[29], "Ba Đình - Nga Sơn " [53], v.v Các công trình này nêu
khái quát sự hình thành phong trào và cuộc chiến đấu bảo vệ các căn cứ địa
diễn ra trên từng địa bàn. Riêng cuốn "Từ Ba Đình đến Hùng Lĩnh" đã tập trung
trình bày trực tiếp hơn về quá trình xây dựng căn cứ Ba Đình - Mã Cao, căn
cứ Hùng Lĩnh, về hoạt động chiến đấu, cũng như về ý nghĩa, kinh nghiệm đấu
tranh chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa.
Tháng 12 năm 1986 Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa phối
hợp với Viện Sử học Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học: "Khởi nghĩa Ba Đình


7
và phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX
"nhân kỷ niệm 100 năm khởi nghĩa Ba Đình (1886-1996) [65]. Tháng 6 năm 1995
Ủy ban nhân dân huyện Thường Xuân phối hợp với Sở Văn hóa - Thông tin
Thanh Hóa tổ chức: "Hội thảo khoa học về danh nhân Cầm Bá Thước" nhân kỷ
niệm 100 năm ngày mất của ông (1895-1995) [66]. Tháng 12 năm 2002 Huyện
ủy, Ủy ban nhân dân huyện Bá Thước phối hợp với Sở Văn hóa - Thông tin

Thanh Hóa tổ chức: "Hội thảo khoa học danh nhân Hà Văn Mao" [67]. Các
cuộc hội thảo này tập trung đánh giá vị trí, vai trò của căn cứ Ba Đình - Mã
Cao, Trịnh Vạn, Điền Lư, cũng như những đóng góp của các thủ lĩnh Phạm
Bành, Đinh Công Tráng, Cầm Bá Thước, Hà Văn Mao trong việc chỉ huy
nghĩa quân, xây dựng căn cứ chống Pháp ở Thanh Hóa.
Chúng tôi rất đồng ý với ý kiến của Đỗ Thị Hảo khi nghiên cứu các
cuộc khởi nghĩa và phong trào Cần Vương - Thanh Hóa là phải nhìn nhận trên
bình diện chung của cả tỉnh:
Nhìn Thanh Hóa là một hậu phương vững chắc, có thể thấy
tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Ba Đình mà chỉ có những tư
liệu khác trong kho tàng văn nghệ dân gian mới minh họa được
nhiều nét. Ở lĩnh vực này chắc các nhà nghiên cứu folklore lịch sử
sẽ phát hiện được nhiều. Còn nhìn vào kho tài liệu Hán Nôm, nếu
chỉ bằng sử liệu thì sẽ ít gặp những tài liệu trực tiếp ghi chép như
vậy [65, tr. 64].
Cũng theo hướng này chúng ta hãy tìm xem giữa Nguyễn
Xuân Ôn - Nghệ An và Nguyễn Phương ở Thanh Hóa có quan hệ gì
mà lời thơ của ông nghè Diễn Châu viếng Tú Tĩnh lại đề cao ông
này đến như vậy:
Khoa hoạn nhân trung đệ nhất hào
Nghĩa thanh chán nhiếp quỷ phương tào


8
Nghĩa là: Trong đám văn thân đệ nhất ông
Bọn giặc nghe danh phải hãi hùng [65, tr. 66].
Trên các tạp chí Lịch sử quân sự, Nghiên cứu lịch sử, một số bài đã được
công bố như: "Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng tiêu biểu cho phong trào
văn thân 1885-1896" của Trần Huy Liệu; "Về cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh" [111]
của Trịnh Nhu, "Ba Đình làng chiến đấu độc đáo cuối thế kỷ XIX " [7], "Đinh

Công Tráng với khởi nghĩa Ba Đình" [6] của Phan Trọng Báu đã phân tích,
đánh giá một số khía cạnh về quá trình xây dựng, chiến đấu bảo vệ căn cứ địa,
vai trò của các thủ lĩnh trong từng cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương
chống Pháp.
Cùng với trong nước, phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa cũng được đề
cập tới trong các công trình nghiên cứu lịch sử Việt Nam của nhiều tác giả nước
ngoài, trong đó có các sử gia phương Tây như: "Souvenirs de L' Annam et du
Tonkin" (Hồi ký Trung Kỳ và Bắc Kỳ) của Masson [168], "L'Indochine: erreurs
et dangers" (Đông Dương: Những sai lầm và hiểm họa) của F.Bemard [161],
"Trois colonnes au Tonkin(1894-1895)" (Ba đạo quân ở Bắc Kỳ) của Galliéni
[163], "Histoire militaire de l'Indochine de 1664 à nos jours" (Lịch sử quân sự
xứ Đông Dương từ 1664 đến nay) [165], "Vietnamese Anticolonialism, 1885-
1925" (Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân (1885-1925) của David G. Marr
[173] đã đề cập tới sự hình thành, tác dụng của một số căn cứ địa, sự đối
phó vất vả của Pháp. Đáng chú ý là luận án tiến sĩ của Charles Fourniau bảo
vệ năm 1983 với công trình: "Les contacts Franco - Vietnammiens en Annam
et au Tonkin de 1885 à 1889" (Những đụng độ Pháp - Việt ở Trung Kỳ và Bắc
Kỳ từ 1886 đến 1889) đã khai thác từ nhiều nguồn lưu trữ tại Pháp. Luận án
tiến sĩ sử học của Nina S.ADAMS, năm 1978, Đại học tổng hợp Yale (Hoa
Kỳ), đã dành một chương trong năm chương nói về phong trào kháng chiến
chống Pháp ở Việt Nam (1885-1895). Dựa trên nhiều tư liệu quý hiếm, tác giả


9
có nhiều nhận định khá khách quan về cả hai phía Việt - Pháp [89]. Tuy
vậy, vẫn cần phải kiểm định lại không những về cách đánh giá mà cả về những
tư liệu đã được sử dụng.
Gần đây có tác phẩm của ông Yoshiharu Tsuboi - người Nhật Bản, giáo
sư đại học ở Tokyo "Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 -
1885" [150], đã cho ta "nhiều tư liệu cho đến nay chưa được biết và chưa được

công bố hay đã công bố mà chưa được sử dụng, hoặc sử dụng mà chưa đúng
tầm quan trọng" [150, tr. 7]. Khi viết về phong trào Cần Vương, ông Yoshiharu
Tsuboi chỉ nhận xét:
Tuy nhiên, ngay khi vua Hàm Nghi tung ra hịch chiếu kháng
chiến vào tháng 7 năm 1885, thì họ (tức nghĩa quân Cần Vương - TG)
liền đoàn tụ lại và xuất hiện như một lực lượng quốc gia. Tuy nhiên
công trình nghiên cứu của phong trào đó có lẽ vượt quá mức giới
hạn của tập sách này [150, tr. 330-331].
Như vậy, chỉ có nền sử học mácxít của dân tộc đã góp phần to lớn trong
việc khôi phục lại bức tranh lịch sử của những sự kiện anh hùng trong quá
khứ, đồng thời khẳng định ngày càng rõ tầm vóc cuộc chiến đấu chống Pháp
của nhân dân Thanh Hóa nói riêng và phong trào chống Pháp của nhân dân cả
nước nói chung. Từ 1980 đến 2000 có các công trình liên quan đến phong trào
này được đánh giá cao là "Từ Ba Đình đến Hùng Lĩnh" của tác giả Đinh Xuân
Lâm và Trịnh Nhu, xuất bản năm 1995; "Khởi nghĩa Ba Đình và phong trào
kháng Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX", kỷ yếu hội thảo khoa
học, xuất bản năm 1992 và "Địa chí Thanh Hóa", tập I, xuất bản năm 2000 ,
nhưng đều chưa phải là công trình nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống
về quá trình hình thành, phát triển cũng như lý giải khoa học về sự thất bại
của phong trào. Mặt khác, tất cả các công trình nêu trên mới chỉ đề cập đến
từng cuộc khởi nghĩa hoặc một phong trào riêng lẻ nào đó, mà chưa nêu được
một cách tổng thể và toàn diện phong trào yêu nước của nhân dân Thanh Hóa


10
cuối thế kỷ XIX (1885 - 1895), chưa chỉ rõ đặc điểm, vị trí và mối quan hệ
của các phong trào trong tỉnh và các tỉnh khác.
Trên cơ sở kế thừa thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, đồng
thời dựa vào nhiều nguồn tư liệu lưu trữ ở Trung ương và địa phương, ở thư
viện các trường đại học, ở tỉnh Thanh Hóa và các huyện Nông Cống, Nga

Sơn, Thường Xuân, Bá Thước, Yên Định, Vĩnh Lộc ; đặc biệt là tài liệu điền
dã sưu tầm ở địa phương tỉnh Thanh, luận án này đi sâu nghiên cứu một cách
toàn diện và hệ thống về đề tài "Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân
dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX (1885 - 1895)".
3. Nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ
- Luận án tập trung nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về quá
trình hình thành và phát triển các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở
Thanh Hóa trong khoảng 10 năm (từ 1885-1895).
- Những hoạt động tiêu biểu của nghĩa quân ở các căn cứ và các cuộc
khởi nghĩa.
- Trên cơ sở đó, đưa ra nhận xét, đánh giá về đặc điểm, tính chất, vị
trí, nguyên nhân thất bại, và kinh nghiệm của phong trào.
- Đề xuất giải pháp bảo tồn hiện trạng, tôn tạo các di tích liên quan
đến các yếu nhân và các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân
dân Thanh Hóa cuối thế kỷ thứ XIX.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng: Chúng tôi chọn Thanh Hóa làm địa bàn nghiên cứu, kể
từ khi ở đây xuất hiện các cuộc nổi dậy chống Pháp theo danh nghĩa Cần
Vương đến khi phong trào bị dập tắt (1885-1895).


11
+ Phạm vi không gian: Luận án chủ yếu nghiên cứu phong trào yêu
nước chống Pháp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa vào cuối thế kỷ XIX trong mối
quan hệ với phong trào ở các địa phương và cả nước dưới danh nghĩa Cần
Vương, cứu nước.
+ Phạm vi thời gian: Phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của
nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX, thực chất là phong trào Cần Vương,
được chia làm các thời kỳ:

- Trong thời kỳ từ năm 1885 đến đầu năm 1887, luận án tập trung
trình bày các cuộc nổi dậy mang tính chất tự phát ở các địa phương rồi tiến
lên xây dựng căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng và căn cứ Ba Đình.
- Thời kỳ thứ hai từ đầu năm 1887 đến nửa đầu năm 1895, tập trung
phản ánh phong trào đấu tranh của nhân dân Thanh Hóa mà tiêu điểm là cuộc
khởi nghĩa Hùng Lĩnh và phong trào đấu tranh chống Pháp ở miền Tây Thanh
Hóa.
4. Nguồn tƣ liệu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã khai thác các nguồn tư liệu sau:
4.1. Nguồn tài liệu thành văn
- Tài liệu lưu trữ ở các cơ quan trung ương và tỉnh Thanh Hóa.
- Các bộ sách về địa lý và lịch sử do Quốc sử quán triều Nguyễn biên
soạn:
+ Đại Nam thực lục chính biên, các tập: 27, 36, 37, 38.
+ Đại Nam nhất thống chí, phần ghi về Thanh Hóa.
- Các nguồn tư liệu khác mà chúng tôi đã liệt kê ở tài liệu tham khảo.
4.2. Nguồn tài liệu điều tra thực địa ở địa phương
Bao gồm các gia phả, bản phân chia điền thổ, các loại bằng sắc, văn
tế, một số sách thơ, văn ca ngợi đất nước, con người xứ Thanh. Tài liệu hồi cố,


12
ảnh các dấu tích có liên quan đến đề tài. Trong các nguồn tài liệu trên thì tài liệu
có giá trị nhất là tài liệu thành văn bằng chữ Hán, chữ Pháp đặc biệt là tài liệu điền
dã.
4.3. Một số công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài
nước về phong trào Cần Vương và phong trào đấu tranh yêu nước của nhân
dân ta cuối thế kỷ XIX.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận của luận án

Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính chất của
phong trào giải phóng dân tộc, về đấu tranh vũ trang và vai trò vị trí của các
giai cấp trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là chủ yếu, luận án
còn sử dụng các phương pháp như: mô tả, thống kê, so sánh, phân tích và chú
trọng phương pháp tổng kết từ thực tiễn lịch sử diễn ra phong trào để rút ra
những nhận xét khoa học.
6. Những đóng góp của luận án
Luận án góp phần làm cho các vấn đề trong phong trào yêu nước
chống thực dân Pháp của nhân dân Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX (1885-1895)
được hiểu sâu sắc và toàn diện hơn trên các khía cạnh cơ bản:
- Phân chia quá trình phát triển của phong trào yêu nước chống Pháp
ở Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX qua hai giai đoạn 1885 -1887, 1887-1895.
- Phục dựng lại diễn biến và các hoạt động của các đội nghĩa quân
chống Pháp dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh: Nguyễn Ngọc Phương, Phạm
Bành, Tống Duy Tân, Cầm Bá Thước, Hà Văn Mao


13
- Luận án có thêm đóng góp mới, thể hiện ở căn cứ Ổn Lâm - Kỳ
Thượng của Nguyễn Ngọc Phương (Nam Thanh Hóa); căn cứ Mã Cao (Yên
Định); căn cứ Điền Lư của Hà Văn Mao (Bá Thước); căn cứ Mường Kỷ của
Hà Văn Nho (Bá Thước) về các nhân vật, cấu trúc cứ điểm quân sự cũng như
các trận chiến ở đây.
- Luận án đã nêu lên một số đặc điểm nổi bật, tính chất, vị trí, mối
quan hệ giữa phong trào yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa với các tỉnh, góp
phần tổng kết lịch sử phong trào Cần Vương nói riêng, phong trào yêu nước
chống Pháp cuối thế kỷ XIX của cả nước nói chung.

- Đề xuất một số ý kiến nhằm gìn giữ, tôn tạo các di tích để giáo dục
truyền thống và phục vụ mục đích du lịch lịch sử.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Thanh Hóa trước khi phong trào yêu nước chống thực
dân Pháp bùng nổ (tháng 7 - 1885).
Chương 2: Từ căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng đến khởi nghĩa Ba Đình
(1885-1887).
Chương 3: Khởi nghĩa Hùng Lĩnh - bước phát triển mới của phong
trào yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa (1887-1895).
Chương 4: Đặc điểm, tính chất và kinh nghiệm của phong trào yêu
nước chống thực dân Pháp ở tỉnh Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX.




14
Chương 1
THANH HÓA TRƢỚC KHI PHONG TRÀO YÊU NƢỚC
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP BÙNG NỔ (THÁNG 7-1885)

1.1. VÀI NÉT VỀ VỊ TRÍ CHIẾN LƢỢC, TRUYỀN THỐNG YÊU NƢỚC
CHỐNG NGOẠI XÂM CỦA NHÂN DÂN THANH HÓA
1.1.1. Về vị trí chiến lƣợc
Thanh Hóa - một tỉnh nằm giữa Bắc Bộ và Trung Bộ, có vị trí quan
trọng trong lịch sử dân tộc. Do đặc điểm địa lý đó, Thanh Hóa trở thành một
địa bàn hết sức quan trọng về mặt quân sự trong các cuộc chiến tranh.
Xét về mặt địa hình, tỉnh Thanh Hóa có đủ ba vùng miền: vùng núi
rộng lớn chiếm ba phần tư diện tích toàn tỉnh, vùng đồng bằng ven biển và vùng

biển rộng lớn với 120 km đường biển. Địa hình đa dạng phức tạp, ngay giữa
đồng bằng cũng có rất nhiều đồi núi kéo dài đến tận biển (dãy núi Tam Điệp).
Trên vùng đất thuộc đồng bằng Thanh Hóa, cư dân người Việt cổ đã
hình thành, tồn tại và phát triển. Những phát hiện khảo cổ học ở Núi Đọ,
Quan Yên, Đa Bút, Con Moong, Hoa Lộc, Đông Sơn đã khẳng định Thanh
Hóa là một trong những trung tâm về nguồn gốc hình thành và phát triển của
người Việt. Theo "Lịch sử Thanh Hóa", tập 1, con sông Mã được hình thành qua
5 giai đoạn và đến giai đoạn thứ tư, tức là vào giai đoạn Toàn Tân sớm, con
sông này mới thực sự là sông miền đồng bằng, rồi sang giai đoạn thứ năm thì
châu thổ sông Mã ổn định, có dạng như hiện nay.
Thanh Hóa cũng có nhiều con sông lớn như sông Mã, sông Chu, sông
Yên, và đều khởi nguồn từ miền rừng núi bao la phía Tây của tỉnh. Bên cạnh
đó còn có nhiều hệ thống kênh do thiên tạo và nhân tạo nối liên thông giữa
các sông với nhau


15
Thanh Hóa là một tỉnh giàu có về mặt kinh tế tự nhiên: lên rừng có
nhiều sản vật, nguồn thức ăn hết sức phong phú; đồng bằng được bồi đắp bởi
các sông lớn phì nhiêu, là nơi cung cấp nguồn lương thực đáng kể. Dưới biển
có các loại, loài hải sản phong phú có thể phục vụ tốt đời sống cho con người.
Về mặt vị trí, nằm giữa miền Bắc và miền Nam rộng lớn, miền Trung
bị thắt lại, như một chiếc "đòn gánh" gánh hai đầu đất nước. Tỉnh Thanh Hóa
lại ở vị trí địa đầu của miền Trung, là điểm đầu nút của cán xoong. Muốn tiến
vào Nam phải vượt qua điểm nút này và khi ra Bắc cũng vậy.
Tỉnh Thanh Hóa có miền rừng núi rộng lớn, phía Bắc giáp tỉnh Sơn
La, Hòa Bình; phía Tây giáp Lào. Trong chiến tranh, nếu làm chủ được địa
bàn rừng núi Thanh Hóa sẽ là bàn đạp tiến xuống đồng bằng, hoặc khi rút lui
có thể sang vùng Hòa Bình, lên Tây Bắc rồi qua Trung Quốc, hoặc sang rừng
núi đất Lào ở phía Tây.

Như vậy, ở góc độ quân sự, tỉnh Thanh Hóa là một địa bàn lợi hại khi
có chiến tranh hoặc trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhất là khi
tương quan lực lượng giữa ta và địch chênh lệch.
Thực tế lịch sử cho thấy, tỉnh Thanh Hóa có thể vừa là tiền phương
vừa là hậu cứ chiến lược quan trọng trong các cuộc chiến tranh, trong công
cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Kết luận đó có tính lịch sử tất yếu khách quan trong lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc:
- Trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thế kỷ I (40- 43) bị thất bại, nữ
tướng Lê Hoa đã lui về ẩn ở vùng Nga Sơn.
- Đô Dương, người làng Giàng, đã lui về quê làm căn cứ chống lại giặc
Ngô.


16
- Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Triệu năm 248 cũng lấy địa bàn Thanh Hóa
làm căn cứ, ở ngay núi Nưa (vùng Triệu Sơn, Nông Cống).
- Dương Đình Nghệ - Ngô Quyền tiến ra Bắc từ Ái Châu.
- Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 xứ quân lấy Thanh Hóa làm hậu cứ.
- Lê Hoàn chống Tống, bình Chiêm cũng lấy Thanh Hóa làm đất căn bản.
- Nhà Lý tiến ra Bắc, lấy Thanh- Nghệ làm đất phên dậu phía Nam.
- Nhà Trần rút lui chiến lược về đây và phản công chiến lược cũng từ
đây.
- Nhà Hồ lui về Thanh Hóa đóng kinh đô ở thành An Tôn.
- Khởi nghĩa Lam Sơn lấy rừng núi Thanh Hóa làm nơi tụ nghĩa, nơi
phất cờ khởi nghĩa (Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước ).
Thời Trung hưng nhà Lê, Nguyễn Kim lui về Thanh Hóa sang đất Lào
lập căn cứ rồi sau đó đánh chiếm Thanh Hóa làm đất căn bản
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Thanh Hóa là nơi
hậu cứ, hậu cần cung cấp và vận chuyển lương thực cho các chiến trường Lào

và Điện Biên Phủ, Thanh Hóa còn là nơi sơ tán các cơ quan trung ương, đồng
bào khu Ba.
Hai lần chiến tranh phá hoại trên miền Bắc của đế quốc Mỹ, Thanh Hóa
được coi là điểm tắc lý tưởng dưới cái nhìn của các nhà quân sự Mỹ và Hàm
Rồng là điểm tắc lý tưởng ấy. Đế quốc Mỹ đã tập trung đánh phá Hàm Rồng -
Nam Ngạn và tỉnh Thanh Hóa hết sức ác liệt nhưng chúng đã thất bại.
Như vậy, hầu như trong lịch sử, nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm của dân tộc đều diễn ra hoặc lấy chỗ dựa căn bản trên đất Thanh Hóa,
Thanh Hóa không chỉ là một vùng quần cư lâu đời, một
vùng kinh tế, văn hóa phát triển của đất nước mà còn là địa bàn


17
chiến lược quan trọng, là căn cứ địa vững chắc của nhiều cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc từ trước đến nay. Trong
thời đại phong kiến, người dân Thanh Hóa đã ghi lại những mốc son
chói lọi trong lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước của cả dân
tộc Việt Nam. Thanh Hóa là nơi phát tích của các vương triều Tiền
Lê, Hậu Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, triều Nguyễn [29, tr. 18-19].
Đúng như Nguyễn Lộ Trạch (1852-1895), nhà trí thức yêu nước có tư
tưởng cải cách đã nhận xét: Thanh Hóa là một vùng đất có đủ ba điều lợi cơ
bản cho việc giữ nước chống giặc: địa hiểm, binh lực và tài lực
1.1.2. Truyền thống yêu nƣớc chống ngoại xâm của nhân dân Thanh Hóa
Thanh Hóa là một bộ phận của Tổ quốc Việt Nam. Cùng với dân tộc,
nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã sát cánh trên con đường đấu tranh giải phóng và
xây dựng đất nước, góp phần làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Một trong
những bản sắc ấy là truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm.
Thế kỷ I có nữ tướng Lê Hoa cùng nhân dân hưởng ứng cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng.
Thế kỷ III (năm 248) nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã đứng lên chống

giặc Ngô dưới sự lãnh đạo của nữ anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh
Bước sang thế kỷ VI, cục diện chính trị và xã hội Giao Châu thay đổi.
Cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế tiến tới thành lập nước Vạn Xuân cho đến
khi tướng Lưu Phương của nhà Tùy đem 10 vạn quân sang đánh phá và lật đổ
vào tháng Giêng năm 603, tính ra tới 61 năm (542-603). Cuộc nổi dậy của Lý
Nam Đế và Lý Phật Tử chỉ quanh quẩn ở vùng châu thổ sông Hồng, không
mấy khuấy động tới Châu Ái, Châu Hoan (vùng Thanh - Nghệ). Chỉ về sau,
khi Lý Nam Đế chết ở động Khuất Lão (Vĩnh Phúc), Lý Thiên Bảo (anh ruột
Lý Bí) mới kéo 2 vạn quân vào Đức Châu (Hà Tĩnh) giết chết Thứ sử Trần


18
Văn Giới, kéo quân ra vây Ái Châu (miền Tây Thanh Hóa giáp Lào) và xưng
là Đào Lang Vương, Thanh Hóa lúc này mới bị khuấy động lên chút ít.
Sự kiện nổi bật ở Thanh Hóa sau Đào Lang Vương là cuộc nổi dậy
của cha con Lê Ngọc: Thái thú Cửu Chân là Lê Ngọc cùng các con trai, con
gái chia binh, đánh thành chống cự lại nhà Đường ở Cửu Chân, mãi sau mới
bị quân Đường đánh bại.
Dưới triều đại nhà Đường, các cuộc nổi dậy giành độc lập trong quận
Giao Chỉ nổi lên liên tiếp như cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến (687),
của Mai Thúc Loan (722), của Phùng Hưng (766 - 792), của Dương Thanh
(819 - 920) và họ Khúc đã dựng được nền tự chủ cho đất nước sau gần một
nghìn năm Bắc thuộc. Trong thời gian này, miền Cửu Chân tương đối yên
tĩnh, các đô thị cổ tương đối phát triển, giao lưu buôn bán với người Hoa, các
hương, các xã được củng cố.
Vào năm 622, nhà Đường lập ra Giao Châu đô hộ phủ, sau đổi thành
An Nam đô hộ phủ (năm 679), chia nước ta thành 12 châu và 59 huyện.
Vào thế kỷ X, nhà Hán cát cứ vùng Quảng Châu (Trung Quốc) trở nên
cường thịnh và có xu hướng bành trướng. Năm 930 quân Nam Hán chia hai
đường thủy, bộ tấn công xâm lược nước ta. Tháng 10 - 930, bọn giặc tấn công

vào thành Đại La, bắt sống Khúc Thừa Mỹ đem về Quảng Châu. Thừa thắng,
bọn địch thả quân đi cướp bóc các nơi, tiến vào Châu Ái (Thanh Hóa), Châu
Hoan (Nghệ An), vượt dải Hoành Sơn, tấn công nước Chăm Pa, cướp vét
nhiều báu vật, rồi rút về, chứ không chiếm nổi đất đai và chinh phục được cư
dân phía Nam. Lúc này, từ đèo Ba Dội (Tam Điệp) trở vào Nam, tại các châu
Ái, Hoan, các hào trưởng địa phương và tướng tá cũ của họ Khúc vẫn giữ
được quyền kiểm soát đất đai và nhân dân.
- Dương Đình Nghệ - người làng Giàng (Thiệu Dương), một hào trưởng
nổi tiếng, cũng là tướng cũ của họ Khúc đã tập hợp lực lượng tấn công thành


19
Đại La, đập tan bộ máy chỉ huy quân sự và chính trị của Nam Hán tại đây và
tự xưng là Tiết Độ sứ. Sự nghiệp đang hưng thịnh, ông bị Kiều Công Tiễn
mưu sát. Ngô Quyền - con rể Dương Đình Nghệ - đã đem quân bản bộ từ Ái
Châu ra Bắc giết Kiều Công Tiễn, đập tan ý chí xâm lược của quân Nam Hán
trên Bạch Đằng Giang năm 938, xưng nền tự chủ, chấm dứt nghìn năm Bắc
thuộc.
- Thời Đinh:
Đinh Bộ Lĩnh là một xứ quân hùng mạnh, đã thống nhất được loạn 12 xứ
quân, thành lập nhà Đinh.
Trong cuộc chinh phục ấy có sự đóng góp rất lớn lao của nhân dân
Thanh Hóa, trước hết là lực lượng vật chất, tinh thần và binh lính, sau nữa là
những con người hùng tài thao lược như Lê Hoàn: Thập đạo sứ quân.
- Triều đại Lý kéo dài 216 năm, so với nhà Đinh 13 năm và nhà Tiền
Lê 29 năm, là một triều đại khá dài trên đất nước ta. Lý Thái Tổ dời đô về
Thăng Long và đặt Thanh Hóa là "Trại", để phân biệt với đất Thăng Long là
"Kinh" (1010), đổi 10 đạo làm 24 bộ, Châu Hoan, Châu Ái làm "Trại". Suốt
thời kỳ nhà Lý, Thanh Hóa nổi lên nhân vật Lê Phụng Hiểu, người Hoằng
Hóa, đã có công lớn trong việc dẹp loạn tam vương đầu triều Lý (1028) ổn

định vương triều Lý.
- Tiền Lê:
Sau khi Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết hại, trước sự
đe dọa xâm lược của nhà Tống, Lê Hoàn được tiến phong ngôi vị, có sự hậu
thuẫn của binh lính và tướng sĩ. Ông đã tiến hành kháng Tống bình Chiêm
thắng lợi, giữ vững nền độc lập dân tộc.
- Nhà Trần coi trọng và sớm thấy vị trí chiến lược quan trọng của xứ
Thanh. Nhân dân Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của các tướng lĩnh nhà Trần đã
chiến đấu dũng cảm đánh tan quân Toa Đô từ Nghệ An đánh ra.


20
Sau đó hai vua nhà Trần đã rút lui chiến lược vào Thanh Hóa (vào
ngày 7 tháng 4 năm 1285) từ đạo Hải Đông, chọn Thanh Hóa làm nơi xuất
phát cho cuộc phản công chiến lược cùng 10 vạn quân đang đóng ở Thanh -
Nghệ giành thắng lợi trọn vẹn.
Vai trò của nhân dân Thanh Hóa hết sức to lớn thể hiện trong câu nói
của nhà Trần: "Hoan Ái do tồn thập vạn binh". Ngoài lực lượng toàn dân, có
những đóng góp rất to lớn của các tướng lĩnh xứ Thanh (Chu Nguyên Lương -
Nam Ngạn, Phạm Sỹ, Trịnh Minh - Nga Thiện, Nga Sơn ) mà tiêu biểu là
Trần Bình Trọng với câu nói bất hủ: "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không
thèm làm vương đất Bắc", khẳng định tinh thần quật khởi của dân tộc Việt
Nam chống xâm lược.
- Nhà Hồ thất bại nhanh chóng bởi sự "chính trị phiền hà" - không
được lòng dân. Quân Minh xâm lược giày xéo đất nước ta, tiến hành một chính
sách đồng hóa nham hiểm, với mục đích thủ tiêu nền văn hóa Đại Việt, biến đất
nước ta thành quận huyện của nhà Minh. Có ý kiến cho rằng, 10 năm dưới triều
nhà Minh, với sự hà khắc nghiệt ngã trong chính sách cai trị ấy còn hơn cả nghìn
năm Bắc thuộc, bằng chứng như trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã từng ghi:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
hay:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa hết mùi.
Trong bối cảnh ấy, người hào trưởng Lam Sơn - Lê Lợi qua nhiều
năm chuẩn bị, thu hút nhân tài, quy tụ nhân dân cả nước, trước hết là những
người tuấn kiệt tổ chức hội thề Lũng Nhai (1416) và chính thức phất cờ khởi
nghĩa (1418), lấy địa bàn rừng núi xứ Thanh làm căn cứ. Mười năm gian khổ,
nhân dân Thanh Hóa cùng nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã


21
giành được toàn thắng, chấm dứt thảm họa diệt vong cho dân tộc Việt Nam,
xây dựng nên một triều đại vững mạnh, đất nước bình yên trên 400 năm.
- Vương triều Nguyễn:
Nguyễn Ánh quê Gia Miêu Ngoại Trang, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh
Hóa đã thành lập nên vương triều Nguyễn, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn.
Năm 1802 ông chính thức lên ngôi hiệu là Gia Long, lấy Huế làm Kinh đô.
Sau 56 năm (1802-1858) đất nước không có quân xâm lược dưới vương
triều Nguyễn. Tháng 9 năm 1858 thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng,
bắt đầu tiến hành cuộc xâm lược Việt Nam.
Triều đình nhà Nguyễn bất lực trước kẻ xâm lược hùng mạnh, dần từng
bước ký kết những hiệp ước nhượng bộ thực dân Pháp: Hiệp ước Nhâm Tuất
(1862), Giáp Tuất (1874) và với Hắc-măng (1883), Pa-tơ-nốt (1884), nhà
Nguyễn chính thức đầu hàng quân xâm lược.
Tuy nhiên, trước diễn biến tình hình, trong vương triều Nguyễn đã nảy
sinh hai xu hướng: một chủ chiến, một chủ hòa. Đại diện cho phe chủ hòa là
những quan lại hèn nhát bán nước cầu vinh và đại diện cho phe chủ chiến là Phụ
chính đại thần Tôn Thất Thuyết. Đêm ngày 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885, phái
chủ chiến tổ chức tấn cống tòa Khâm Sứ và đồn Mang Cá mở đầu phong trào

hưởng ứng chiếu Cần Vương đứng lên trực tiếp chiến đấu chống thực dân Pháp
xâm lược.
Điểm lại những sự kiện lịch sử căn bản diễn ra trên địa bàn Thanh
Hóa cho phép chúng tôi rút ra những nhận xét sau:
- Những sự kiện lịch sử lớn của dân tộc trước phong trào yêu nước
chống thực dân Pháp đều diễn ra trên đất Thanh Hóa.
- Thanh Hóa là nguồn gốc, là nơi phát tích của những vương triều có
thời gian tồn tại lâu dài và có vị trí quan trọng trong lịch sử chế độ phong
kiến Việt Nam.

×