Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển – BIDV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.48 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
***
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Ngân hàng
PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI
QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN (BIDV)

Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thị Phương Thảo
Mã sinh viên : 0853030157
Lớp : Anh 3 - Khối1 TCNH
Khóa : 47
Người hướng dẫn khoa học : ThS. Nguyễn Thị Thanh Phương
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BIDV : Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển
ODA : Official Development Assistance- đầu tư nước ngoài
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
TMQT : Thương mại quốc tế
TMCP : Thương mại cổ phần
D/P (Document against payment) : Nhờ thu chứng từ trả ngay
ICC (Internationnal Chamber of Commerce) : Phòng thương mại quốc tế
ISBP
L/C : Tín dụng thư
UCP (The Uniform Customs and Practice for Documentary Credits): Quy tắc thực
hành thống nhất về tín dụng chứng từ
URC ( The Uniform Rules for Collections): Quy tắc thống nhất về nhờ thu
URDG ( The Uniform Rules for Demand Guarantees ): Quy tắc thống nhất về bảo
lãnh


1
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển và đang trên con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa để đạt tới một nước công nghiệp ngang tầm với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Với những mục tiêu đặt ra, việc chuyển hướng kinh doanh
các ngân hàng thương mại, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ để phát huy tối đa nội
lực và tận dụng tối đa nguồn vốn từ bên ngoài đóng vai trò quan trọng trong chiến
lược phát triển nền kinh tế- xã hội của đất nước.
Khi bước vào công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta
đã xác định nền kinh tế Việt Nam phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Do đó, chiến lược huy động vốn để phát triển nền kinh tế luôn được
phát triển theo phương châm khơi trong hút ngoài. Hiện nay, các tổ chức tín dụng
luôn bám vào phương châm đó để thực hiện chiến lược huy động vốn và đặc biệt
chú trọng huy động vốn từ bên ngoài. Chính sách huy động vốn và sử dụng nguồn
vốn có hiệu quả có vai trò quan trọng trong việc lợi dụng vốn, khoa học công nghệ,
kinh nghiệm quản lý để phát triển nền kinh tế.
Những năm gần đây, Nhà nước tập trung chiến lược phát triển kinh tế theo
hướng ngoại. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại luôn là một trong
những định hướng phát triển hàng đầu của quá trình Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
đất nước trong đó phát triển ngoại thương luôn được coi là trọng điểm. Các doanh
nghiệp làm công tác xuất nhập khẩu cần khối lượng vốn lớn, do đó bằng mọi hình
thức phải tài trợ vốn cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể huy động vốn từ
nhiều nguồn, bên cạnh nguồn vốn hỗ trợ chính thức ODA để xây dựng và phát triển
cơ sở hạ tầng thì nguồn vốn tài trợ thương mại cũng có ý nghĩa quan trọng để giúp
doanh nghiệp có đủ vốn duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó,
BIDV- một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu tại Việt Nam, luôn chú
trọng và tập trung phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế với nhiều sản
2
phẩm dịch vụ ngày càng phong phú, đóng góp không nhỏ vào việc nâng cao hiệu

quả kinh doanh của Ngân hàng. Tuy nhiên, để tạo ra lòng tin đối với các ngân hàng
nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước thì BIDV một mặt phải
tiếp tục phát huy những ưu điểm và mặt khác quan trọng hơn là phải phát hiện kịp
thời, đầy đủ những mặt yếu kém trong lĩnh vực tài trợ thương mại quốc tế. Nhận
thức được tầm quan trọng đó, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “ Phát triển hoạt
động tài trợ thương mại quốc tế tại ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát
triển – BIDV” làm đề tài ngiên cứu
Mục đích của đề tài :
Mục đích nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp là giới thiệu đầy đủ hơn một số
nội dung của hoạt động tài trợ thương mại quốc tế và làm rõ thực trạng, phân tích,
đánh giá và đề ra các giải pháp nhằm phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế
tại BIDV
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của ngân hàng
thương mại.
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại BIDV
Phương pháp nghiên cứu
-Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng học thuyết kinh tế chính trị
Mác- Lê Nin, các lý thuyết kinh tế học hiện đại về tiền tệ, tín dụng và hiệu quả kinh
tế xã hội, quán triệt tư tưởng và quan niệm đổi mới kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt
Nam
- Phương pháp nghiên cứu: Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tiếp cận hệ
thống và phân tích hệ thống, dùng lý luận để đánh giá thực tiễn, ứng dụng lý luận và
thực tiễn vào khoa học quản lý kinh doanh ; phương pháp so sánh và phân tích kết
hợp với phương pháp chọn mẫu và hệ thống hóa khoa học.
Bố cục của khóa luận
Khóa luận gồm 3 chương:
3
Chương I : Một số vấn đề cơ bản về hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của
các ngân hàng thương mại

Chương II: Thực trạng hoạt động tài trợ thương mại quốc tế tại BIDV
Chương III: Một số giải pháp phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế
tại BIDV
Để có thể hoàn thành khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến sự
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo ThS. Nguyễn Thị Thanh Phương cùng sự
giúp đỡ quý báu của các cán bộ Sở Giao Dịch 1- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam.
4
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1Khái niệm tài trợ thương mại quốc tế
Tài trợ thương mại quốc tế là một lĩnh vực đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở
nhiều góc độ và được đề cập đến bằng nhiều thuật ngữ khác nhau như tài trợ ngoại
thương, tài trợ xuất khẩu, nhưng với nội dung không hoàn toàn trùng lặp. Để đưa ra
được một khái niệm hoàn chỉnh về tài trợ thương mại quốc tế không hề dễ dàng.
Sau khi tham khảo ở nhiều tài liệu, có thể tìm ra được một khái niệm tương đối trọn
vẹn được đề cập đến trong đề tài : “ Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn tài trợ thương mại quốc tế ở Việt Nam” của GS Đinh Xuân Trình . Theo đó “
Tài trợ thương mại quốc tế là tập hợp các biện pháp và hình thức hỗ trợ về mặt tài
chính trực tiếp hay gián tiếp cho các doanh nghiệp hoặc đơn vị kinh tế tham gia
hoạt động kinh doanh thương mại trong một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường thế giới nhằm mục đích sinh lời”
Nếu xem xét về hình thức tài trợ thì tài trợ thương mại quốc tế được thực hiện
dưới hai thức: Thứ nhất, hình thức hỗ trợ về tài chính , thông thường được thực hiện
thông qua việc cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn các doanh nghiệp và đơn vị
kinh tế để tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, máy móc

thiệt bị, hàng tiêu dùng … Thứ hai, hình thức cung ứng dịch vụ tiền tệ - tín dụng,
thông thường được thực hiện thông qua các dịch vụ thanh toán quốc tế ( Như
chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu hay tín dụng chứng từ …), bảo lãnh , bao thanh toán,
thuê mua tài chính …
Còn nếu căn cứ vào người cung ứng tài trợ thương mại quốc tế
1
có thể chia
1
Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương- GS Đinh Xuân Trình
5
thành : Thứ nhất là tài trợ thương mại quốc tế của nhà nước, đặc trưng của hình
thức tài trợ này là tài trợ gián tiếp thông qua ngân hàng trung ương, các tổ chức tín
dụng ngân hàng và phi ngân hàng, các cơ quan chính phủ …bằng các biện pháp
bình ổn giá, quỹ dự phòng rủi ro, quỹ xúc tiến phát triển …dưới các hình thức bảo
lãnh, tái chiết khấu và thông qua các chính sách tài chính- tiền tệ ở tầm vĩ mô. Thứ
hai là tài trợ thương mại quốc tế của ngân hàng trung ương, ở hình thức này ngân
hàng trung ương trở thành người thực hiện các chính sách cho vay tái cấp vốn, tái
chiết khấu, cấp bảo lãnh nhà nước, thực hiện các chính sách tài chính –tiền tệ như tỷ
giá, lãi suất , phá giá tiền tệ …Thứ ba là tài trợ thương mại quốc tế của các các tổ
chức tín dụng, đặc trưng của hình thức tài trợ này là tài trợ trực tiếp từ người tài trợ
đến người nhận tài trợ, không phải qua các kênh trung gian khác, thông qua cho
vay, bảo lãnh, chiết khấu, bao thanh toán, thuê mua tài chính, tín dụng chứng từ,
nhờ thu…Thứ tư là tài trợ thương mại của các doanh nghiệp, với công cụ sử dụng
thường là tín dụng thương mại như hối phiếu trả chậm, thanh toán ghi sổ, ứng tiền
trước khi giao hàng …
Ngày nay, khi quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa ngày càng được mở rộng
và đi vào các cam kết thực chất thì các hình thức tài trợ thương mại quốc tế của các
chủ thể như nhà nước và ngân hàng trung ương ngày càng bị hạn chế và thu hẹp.
Thay vào đó là nổi lên vai trò của các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp với các
hình thức tài trợ đa dạng, linh hoạt và đảm bảo tính cạnh tranh công bằng cho hoạt

động thương mại quốc tế. Theo đó, với tính chuyên nghiệp cao, tiềm lực tài chính
dồi dào và mạng lưới cơ sở rộng khắp các ngân hàng thương mại đã trở thành nhà
tài trợ chủ yếu cho hoạt động thương mại quốc tế. Chính bởi lý do đó, trong phạm
vi khóa luận này hoạt động thương mại quốc tế sẽ được đề cập đến dưới góc độ nhà
tài trợ là các ngân hàng thương mại , hay nói cách khác hoạt động tài trợ thương
mại quốc tế được hiểu là hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của các ngân hàng
thương mại
6
1.2 Vai trò của tài trợ thương mại quốc tế
Có thể nói sự ra đời tài trợ thương mại quốc tế là một yêu cầu tất yếu khách
quan, gắn liền các quan hệ thương mại giữa các nước với nhau. Tài trợ thương mại
được coi là bà đỡ cho hoạt động thương mại quốc tế. Có thể đưa ra những vai trò
chủ yếu của tài trợ thương mại quốc tế như sau
1.2.1 Vai trò đối với doanh nghiệp
Thứ nhất, thông qua hoạt động tài trợ thương mại quốc tế các doanh nghiệp
có thể được cấp tín dụng ( trực tiếp hoặc gián tiếp) để phục vụ cho hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu của mình. Trong hoạt động kinh doanh không phải lúc nào
nguồn vốn của doanh nghiệp cũng đủ để tài trợ cho các chi phí phát sinh như mua hàng
hóa, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực xuất nhập khẩu, với giá trị hàng hóa giao dịch rất lớn, doanh nghiệp thường phải
thông qua tài trợ thương mại quốc tế mới có thể có khả năng chi trả hay cam kết chi trả
cho đối tác để đưa hàng hóa vào sản xuất hoặc kinh doanh. . Nếu không có sự hỗ trợ
của ngân hàng thì nhiều khi doanh nghiệp không đủ vốn để thực hiên các thương vụ
mua bán trên thị trường quốc tế. Do đó, với sự tài trợ về vốn của ngân hàng mà các
doanh nghiệp có thể khả năng nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, trang trải chi phí
thực hiện hợp đồng…tạo khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế và nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh
Thứ hai, hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của ngân hàng thương mại là
phương thức hiệu quả trong việc hạn chế rủi ro khi tham gia kinh doanh trên thị
trường quốc tế. Thông qua các hình thức tài trợ thương mại quốc tế thì các ngân

hàng sẽ chịu trách nhiệm đối với các rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro
thương mại… Đương nhiên các doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm trong việc
chi trả nhữn chi phí cho việc “chuyển rủi ro” này.
Cuối cùng, hoạt động tài trợ thương mại quốc tế góp phần nâng cao uy tín
doanh nghiệp trong kinh doanh. Trong quá trình tìm kiếm đối tác, rất nhiều doanh
nghiệp vấp phải vấn đề uy tín đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mới
7
thành lập. Đó chính là cơ sở để ngân hàng cho ra đời hình thức tài trợ dưới hình
thức bảo lãnh. Với hình thức này ngân hàng đã thay mặt doanh nghiệp đứng ra bảo
đảm khả năng hoàn thành nghĩa vụ của doanh nghiệp trong hợp đồng, tôn thêm được
hình ảnh của doanh nghiệp, tăng thêm niềm tin với bạn hàng, giành được ưu thế cạnh
tranh từ các đối thủ và dễ dàng dành được hợp đồng thương mại quốc tế.
1.2.2 Vai trò đối với ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại bằng việc thực hiện tài trợ thương mại đã tạo ra
một khoản thu lớn từ các chi phí dịch vụ, phí bảo lãnh rủi ro. Các khoản thu này
thường có giá trị không nhỏ bởi lẽ bản thân giá trị của các hợp đồng tài trợ thương
mại quốc tế bao giờ cũng ở mức khá cao. Hơn thế nữa, phát triển hoạt động tài trợ
thương mại quốc tế góp phần thúc đẩy sự phát triển nói chung của các loại hình
dịch vụ khác của ngân hàng thương mại như: nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ thanh
toán quốc tế, nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối đồng thời tạo ra mối liên hệ gắn kết
giữa các loại hình dịch vụ này với nhau. Nhờ vậy, ngân hàng thương mại sẽ thực
hiện hiệu quả việc đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khách hàng theo
đó nâng cao được sức cạnh tranh và tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Tài trợ thương mại quốc tế giúp các ngân hàng thương mại nâng cao độ an
toàn và hạn chế rủi ro. Thông qua hoạt động tài trợ thương mại quốc tế, ngân hàng
thương mại có thể kiểm soát được các nguồn thanh toán một cách tập trung bằng
các tài khoản thanh toán mở tại chính ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng thương
mại cũng có thể hạn chế được rủi ro từ việc hạn chế tình trạng sử dụng vốn sai mục
đích của bên được thanh toán.
Hoạt động tài trợ thương mại quốc tế giúp ngân hàng thương mại tiếp cận được

với thị trường tài chính ngân hàng toàn cầu, mở rộng mối quan hệ hợp tác với các ngân
hàng thương mại nước ngoài, nắm được các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến hoạt động
của các ngân hàng thương mại. Từ đó, ngân hàng thương mại có điều kiện nâng cao vị
thế cũng như nâng cao uy tín của mình, sẵn sàng tham gia vào các tiến trình tự do hóa thị
trường tài chính – ngân hàng và xu hướng hội nhập kinh tế.
1.2.3 Vai trò đối với nền kinh tế quốc dân
8
Tài trợ thương mại quốc tế có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát
triển thông qua việc tạo điều kiện cho hàng hóa xuất nhập khẩu lưu thông trôi chảy,
thực hiện thường xuyên, liên tục, thuận lợi, dễ dàng hơn, góp phần tăng tính năng
động của nền kinh tế, ổn định thị trường. Mặt khác, tài trợ thương mại quốc tế góp
phần phân phối vốn đầu tư một cách hiệu quả hơn thông qua việc thúc đẩy bình quân
hóa lợi nhuận trước hết là trong ngành thương mại, và sau đó là trong ngành sản xuất
công nghiệp. Do vậy, vốn đầu tư toàn xã hội sẽ được sử dụng một cách có hiệu suất
cao hơn, làm nền kinh tế phát triển tối ưu hơn.
Tài trợ thương mại quốc tế góp phần vào công cuộc hiện đại hóa nền kinh tế
quốc dân từ việc thúc đẩy nhập khẩu dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị hiện
đại, tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển quy mô sản xuất, tăng năng suất lao
động, tăng năng lực cạnh tranh và hạ giá thành sản phẩm.
Cuối cùng, tài trợ thương mại quốc tế giúp gắn liền thị trường quốc gia với thị
trường quốc tế. Hành vi xuất khẩu của nước này đồng thời là hành vi nhập khẩu của
nước kia và ngược lại. Hàng hóa dịch vụ tương ứng từ một nước sẽ phải đối đầu với sự
cạnh tranh gay gắt từ hàng hóa, dịch vụ của nước khác. Do vậy, để tồn tại và phát triển
việc sản xuất hàng hóa, dịch vụ trên bình diện quốc gia phải gắn liền với việc cạnh
tranh trên bình diện quan hệ thị trường quốc tế; và tài trợ thương mại quốc tế là một
trong những cầu nối hữu hiệu để thắt chặt thêm sự gắn kết giữa thị trường quốc gia và
thị trường quốc tế.
1.3 Các nhân tố tác động đến phát triển tài trợ thương mại quốc tế của ngân hàng
thương mại
Cũng như rất nhiều hoạt động khác của ngân hàng thương mại. tài trợ thương

mại quốc tế cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ nhiều yếu tố. Các yếu tố này có thể ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động tài trợ thương mại quốc tế, song nhìn
chung muốn phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế thì các ngân hàng không
thể không quan tâm đến các yếu tố này.
1.3.1 Các nhân tố bên trong ngân hàng.
9
* Mô hình tổ chức quản lý hoạt động tài trợ thương mại quốc tế
Đối với bất kỳ một hoạt động nào các khâu bố trí, tổ chức, thực hiện và giám
sát đều có những tác động mạnh mẽ đến kết quả thu được. Việc bố trí, quản lý hoạt
động tài trợ thương mại quốc tế của các ngân hàng thương mại như thế nào ảnh hưởng
trực tiếp đến doanh thu từ hoạt động này của ngân hàng.Việc bố trí, quản lý tốt hoạt
động tài trợ thương mại quốc tế sẽ tiết kiệm chi phí, thời gian, mang lại cho khách hàng
một cảm giác chuyên nghiệp của ngân hàng. Bên cạnh đó, còn chiếm được niềm tin tối
đa của khách hàng, và sẽ là một trong những nhân tố thu hút khách hàng đến với ngân
hàng càng nhiều. Đó là tiền đề quan trọng để phát triển hoạt động tài trợ thương mại
quốc tế của ngân hàng.
•Uy tín của ngân hàng thương mại
Trong hoạt động của ngân hàng thương mại, uy tín đã trở thành nhân tố không
thể tách rời. Một ngân hàng có uy tín lớn là ngân hàng có thể chiếm được lòng tin của
khách hàng. Đối với hoạt động tài trợ thương mại quốc tế, uy tín của ngân hàng càng
đóng vai trò quan trọng, một ngân hàng có uy tín lớn đứng ra bảo lãnh, tài trợ cho
doanh nghiệp thì đương nhiên sẽ nhanh chóng chiếm được niềm tin từ phía các đối tác
nước ngoài, quy trình thực hiện sẽ nhanh chóng và thuận lợi hơn. Cam kết do ngân
hàng uy tín phát hành dễ dàng được chấp nhận hơn, đây là động lực lớn khiến các
doanh nghiệp luôn muốn tìm đến các ngân hàng uy tín. Đôi khi đây cũng chính là
những yêu cầu từ đối tác nước ngoài. Do vậy, uy tín của ngân hàng là nhân tố ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói
chung và tài trợ thương mại quốc tế nói riêng. Uy tín của ngân hàng được đánh giá qua
các tiêu chí như là khả năng thanh toán, kỹ thuật xử lý nghiệp vụ. quy mô của nguồn
vốn huy động và cho vay, sự đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, thái độ phục vị của

cán bộ ngân hàng
• Yếu tố công nghệ
Công nghệ ngày càng phát triển đã, đang và sẽ ảnh hưởng đến hầu hết các hoạt
động của nền kinh tế. Công nghệ ngân hàng liên quan đến toàn bộ cơ sở vật chất và
10
mạng lưới truyền thông, thanh toán. Hoạt động tài trợ thương mại quốc tế chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ từ yếu tố công nghệ ngân hàng. Việc thực hiện các quy trình nghiệp
vụ có nhanh chóng hay không, có theo kịp các ngân hàng nước ngoài về hoạt động tài
trợ thương mại quốc tế hay không phụ thuộc rất lớn vào yêu tố công nghệ. Hơn nữa, rất
nhiều ngân hàng thương mại đã áp dụng hệ thống ngân hàng trực tuyến( internet
banking) tạo rất nhiều thuận lợi cho khách hàng trong quá trình tiếp xúc với các dịch
vụ của ngân hàng. Việc phát triển công nghệ đã tạo tiền đề để thức đẩy hoạt động tài
trợ thương mại quốc tế.
Với thực tiễn môi trường kinh doanh cạnh tranh hiện tại, các yêu tố trên rất quan
trọng , sau khi Việt Nam ký kết hiệp định thương mại Việt- Mỹ và gia nhập WTO các
ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là các ngân hàng Mỹ, sẽ được nới lỏng các quy định về
hoạt động ngân hàng nước ngoài, cho phép cung cấp các dịch vụ mà ngân hàng nước
ngoài hơn hẳn các ngân hàng thương mại Việt Nam về công nghệ và trình độ quản lý
như thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng
Việt Nam phải thực hiện tái cơ cấu, theo đúng yêu cầu của WTO. Đây thực sự là một
thách thức, buộc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải chuyên môn hóa và phát
triển dịch vụ ngay từ bây giờ để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong đó, tài trợ
thương mại quốc tế là vấn đề nhạy cảm vì gắn liền với các yếu tố công nghệ, nguồn
vốn, trình độ quản lý…
•Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi ngân
hàng. Hoạt động tài trợ thương mại quốc tế bản thân nó đã rất phức tạp, liên quan đến
nhiều lĩnh vực và quan hệ với nhiều thị trường, vì thế đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên
môn, ngoại ngữ và những kinh nghiệm thực tiễn sẽ là điều kiện thức đẩy hoạt động tài
trợ thương mại quốc tế tại các ngân hàng thương mại. Nguồn nhân lực tốt sẽ giúp cho

ngân hàng có thể tiến hành hoạt động tài trợ thương mại quốc tế một cách suôn sẻ đáp
ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng, tạo niềm tin nơi khách hàng. Mặt khác, trình độ
cán bộ vững sẽ xử lý các kỹ thuật nghiệp vụ một cách chính xác và hạn chế rủi roc ho
ngân hàng, nâng cao chất lượng hoạt động.
11
•Mạng lưới đại lý
Thương mại quốc tế tiềm ẩn nhiều rủi ro trong đó có rủi ro xuất phát từ sự thiếu
thông tin về thị trường và doanh nghiệp, khi đó mạng lưới đại lý của ngân hàng sẽ là
một sự hỗ trợ đắc lực. Mạng lưới đại lý có thể giúp ngân hàng mở rộng thị trường hoạt
động, phạm vi giao dịch, đáp ứng nhanh chóng yêu cầu của khách hàng và giảm thiểu
rủi ro trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế. Nhờ vậy, mà năng lực cạnh tranh của
ngân hàng được tăng cường và nâng cao uy tín của ngân hàng
1.3.2 Các nhân tố bên ngoài ngân hàng
a) Chính sách vĩ mô của Nhà nước
- Chính sách vĩ mô của Nhà nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp, và theo đó sẽ ảnh hưởng đến hoạt động
tài trợ thương mại quốc tế của các ngân hàng thương mại. Do đó, các ngân hàng
thương mại phải có sự theo dõi sát sao các chính sách này để có thể điều chỉnh hướng
phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế cho phù hợp.
- Chính sách kinh tế đối ngoại : Các định hướng mang tính chiến lược về bảo hộ
mậu dịch hay tự do mậu dịch có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của doanh nghiệp.
Chính phủ các nước cũng thường sử dụng biện pháp này trong quản lý và điểu hành
kinh tế vĩ mô. Trong hoạt động ngoại thương, ngân hàng với vai trò là trun gian thanh
toán, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài trợ thương mại quốc tế. Đồng thời cũng nhờ
hoạt động tài trợ thương mại quốc tế phát triển đã tác động làm cho hoạt động này diễn
ra một cách sôi nổi, trôi chảy, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
- Chính sách thuế : Chính sách thuế của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt các doanh nghiệp tham gia vào thương
mại quốc tế chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ thuế xuất nhập khẩu, nhà nước có thể thực
hiện chính sách khuyến khích hay hạn chế xuất khẩu hay nhập khẩu thông qua chính

sách thuế quan. Vì thế, hoạt động tài trợ thương mại quốc tế cũng bị ảnh hưởng từ
chính sách thuế Nhà nước, không chỉ ở hoạt động phát triển chung mà còn ảnh hưởng
đến cơ cấu ngành nghề của hoạt động tài trợ thương mại quốc tế, những ngành nào
được khuyến khích xuất khẩu hay không hạn chế nhập khẩu sẽ có nhu cầu về hoạt
12
động tài trợ thương mại quốc tế cao hơn những ngành bị hạn chế hay cấm xuất khẩu,
nhập khẩu.
- Chính sách quản lý ngoại hối : Để có thể tham gia vào thương mại quốc tế thì
một trong những yếu tố mà các doanh nghiệp phải tính đến là ngoại tệ. Vì thế, hoạt
động xuất nhập khẩu của doanh nhiệp chịu nhiều ảnh hưởng từ chính sách ngoại hối
của Nhà nước và hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của các ngân hàng thương mại
theo đó cũng chịu ảnh hưởng từ chính sách này. Nhà nước thực hiện quản lý ngoại hối
thông qua việc đề ra các chính sách kiểm soát luồng vận động của ngoại tệ vào ra và
các quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào tình hình cụ
thể và những biến động trên thị trường mà nhà nước áp dụng chính sách quản lý ngoại
hối tự do hay thắt chặt. Việc này sẽ ảnh hưởng đến cung cầu ngoại hối trên thị trường
và do đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc gia, đầu tiên là ảnh hưởng đến ngoại
thương.
b) Các yếu tố từ khách hàng
Hoạt động tài trợ thương mại quốc tế chịu ảnh hưởng trực tiếp từ phía khách
hàng. Khách hàng có biết đến hoạt động này không, tình hình sản xuất kinh doanh có
tốt không, khả năng tài chính ra sao…đều tác động đến hoạt động tài trợ thương mại
quốc tế của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó còn là yếu tố hành vi đạo đức của
khách hàng. Do hoạt động tài trợ thương mại quốc tế rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ ngân
hàng phải có trình độ chuyên môn cao, nếu khách hàng có hành vi đạo đức không thiện
chí, giả mạo chứng từ thì ngân hàng có thể bị thiệt hại rất lớn.
2. MỘT SỐ HÌNH THỨC TÀI TRỢ THUƠNG MẠI QUỐC TẾ
2.1 Bảo lãnh
2.1.1 Nguồn luật điều chỉnh hoạt động bảo lãnh
a) Các Công ước quốc tế

Năm 1995, Uỷ ban Pháp luật và thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc đã soạn
thảo: “ Công ước Liên hiệp quốc về bảo lãnh độc lập và Tín dụng dự phòng” nhưng
cho đến nay nó vẫn chưa có hiệu lực thi hành. Công ước là sự tổng hòa của các Bộ
Luật Quốc Gia về giao dịch bảo lãnh độc lập và tín dụng dự phòng. Công ước ra đời
tạo ra một cách thức phù hợp với tập quán và thông lệ quốc tế. Tùy thuộc vào hệ thống
13
pháp luậ của từng nước, các quốc gia có thể phê chuẩn Công ước nhằm tạo một hành
lang pháp lý trong giao dịch quốc tế về bảo lãnh độc lập và tín dụng dự phòng. Lợi thế
của Công ước là việc phê chuẩn Công ước là cả hai bên đều nắm hiểu và áp dụng
thông thạo một điều luật chung trong giao dịch, trách tình trạng một trong hai đối tác
lựa chọn luật của nước mình áp dụng cho giao dịch, tạo bất lợi cho phía bên kia.
b) Các văn bản của Phòng thương mại quốc tế ( ICC) ban hành
Sự phát triển mạnh mẽ của giao dịch cam kết bảo lãnh trong thập kỷ 60 đã bắt
buộc các tổ chức thương mại, tài chính quốc tế nghĩ đến một hành lang pháp lý cho
công bảo đảm được coi là linh hoạt, uyển chuyển này. Trong số đó, phòng thương mại
quốc tế ( The International Chamber of Commerce- ICC), một tổ chức phi chính phủ
về Thương mại- Ngân hàng- Bảo hiểm- Vận tải lớn nhất thế giới có những đóng góp
đáng kể vào công trình trên.
Năm 1978, phòng thương mại quốc tế đã ban hành Quy tắc thống nhất về bảo
lãnh hợp đồng, ấn phẩm số 325. Ngoài việc, đưa ra những tiêu chuẩn chung, mục đích
URDG 325 là làm giảm bớt khả năng phát sinh tranh chấp trong hoạt động bảo lãnh
bằng việc đưa ra các quy tắc công bằng, hợp lý. Mục đích quy tắc này là một chuẩn
mực thực hành bảo lãnh và tạo đà phát triển cho giao dịch thương mại. Nhưng thực tế
URDG lại không được đón nhận rộng rãi, nhược điểm của nó là yêu cầu người thụ
hưởng khi đòi thanh toán phải xuất trình phán quyết của tòa án hay quyết định của
trọng tài, thậm chí cả văn bản chấp nhận đòi tiền của người được bảo lãnh.
Đến tháng 12/1991, ICC đã hoàn tất ấn bản số 458- Các quy tắc thống nhất về
bảo lãnh theo yêu cầu ( The Uniform Rules for Demand Guarantee- gọi tắt là URDG )
và có hiệu lực vào tháng 4/1992. Đây thật sự là một bước hoàn thiện mới những quy
tắc bảo lãnh. Các quy tắc này tổng hợp những điểm tiến bộ của “ Các quy tắc thống

nhất về Bảo lãnh hợp đồng”. URDG- ICC 458 không những điều tiết những mối quan
hệ phát sinh từ những bảo lãnh đối ứng ( counter guarantee). URDG là văn bản khá
hoàn thiện, việc nghiên cứu và dẫn chiếu theo các Quy tắc này tránh được những rủi ro
do không nắm được luật pháp của các bên đối tác. Bên cạnh đó, do tính chất ấn bản sau
không phủ định ấn bản trước đối với các văn bản do ICC phát hành, do vậy “ Các quy
14
tắc thống nhất về bảo lãnh hợp đồng URDG 325, ICC 1978 vẫn còn hiệu lực. Các bên
tham gia bảo lãnh có thể tùy chọn áp dụng URCG 325, ICC 1978 hay URDG 458, ICC
1992.
URDG 758 ( Uniform Rules for Demand Guarantees- Bộ quy tắc thống nhất về
bảo lãnh trả tiền ngay) là bản sửa đổi đầu tiên sau 18 năm kể từ ngày bản gốc URDG
458 có hiệu lực thi hành. Là một bộ quy tắc rõ ràng hơn, chính xác hơn và toàn diện
hơn, bảo đảm sự cân bằng hợp lý về lợi ích của các bên, URDG 758 có những đổi mới
chưa từng có ở bộ quy tắc khác ở ICC. Đối với các giao dịch L/C hầu hết các ngân
hàng trên thế giới đều thống nhất dẫn chiếu UCP 600 làm quy tắc điều chỉnh. Tuy
nhiên đối với các giao dịch bảo lãnh, các ngân hàng hiện nay vẫn chưa nhất trí sử dụng
một bộ quy tắc thống nhất nào cả. Các bảo lãnh dẫn chiếu luật/ quy tắc điều chỉnh là từ
nguồn luật/ quy tắc không được phổ biến rộng rãi rất dễ không được người thụ hưởng
chấp nhận. Do vậy, việc các ngân hàng hướng tới sử dụng một nguồn luật hay quy tắc
thống nhất như URDG 758 để điều chỉnh giao dịch bảo lãnh là cần thiết.
Bản sửa đổi năm 2010 URDG 758 nhận được sự đồng thuận rộng rãi từ các ngân
hàng, người sử dụng và các thành viên của cộng đồng bảo lãnh. URDG 758 được đánh
giá là bộ quy tắc rõ ràng hơn, chính xác hơn, toàn diện hơn, bảo đảm cân bằng hợp lý
về lợi ích các bên. Do vậy, so với các nguồn luật/ các quy tắc khác, chắc chắn URDG
758 sẽ tiếp tục chứng tỏ là một nguồn luật điều chỉnh đáng tin cậy và được sử dụng
rộng rãi hơn trong hoạt động bảo lãnh quốc tế.
2.1.2 Khái niệm bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng là trách nhiệm trả tiền không hủy ngang của một ngân hàng
trong trường hợp người thứ ba không thực hiện đầy đủ một dịch vụ nào đó. Bảo lãnh
ngân hàng mang tính độc lập và tách biệt trong quan hệ vay nợ hoặc hợp đồng mua

bán. Theo Luật các tổ chức tín dụng thì bảo lãnh ngân hàng được định nghĩa : “Bảo
lãnh ngân hàng là một trong các hình thức cấp tín dụng, được thực hiện thông qua sự
cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ
tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ hoặc hoàn trả
15
cho ngân hàng số tiền đã được trả thay”
- Mục đích của bảo lãnh ngân hàng : Để bảo đảm quyền lợi cho các bên tham gia
thương mại quốc tế, tránh được các rủi ro có thể phát sinh trong các dịch vụ mua bán
không thường xuyên, đòi hỏi phải có sự đảm bảo của bên thứ ba cam kết bồi thường
cho bên bị thiệt hại do bên đối tác gây ra. Người thứ ba thông thường là người phải uy
tín, có khả năng tài chính và có đủ điều kiện thực hiện ngay việc bồi thường. Thực
tế,người có khả năng đứng ra vai trò là người thứ ba thì thường là ngân hàng. Chính vì
vậy mà trong hợp đồng kinh tế, khi nói đến bảo lãnh người ta thường hay nghĩ đến Bảo
lãnh ngân hàng. Cam kết bồi thường của ngân hàng bằng văn bản và thường được gọi
là “ Thư bảo lãnh ngân hàng – Bank Guarantee”
2.1.3 Các loại bảo lãnh ngân hàng:
a) Bảo lãnh dự thầu : Trong thương mại quốc tế, đấu thầu thường được sử dụng
để tìm được nguồn cung cấp tối ưu nhất . Thông thường, đó là những hợp đồng lớn,
đặc biệt là những hợp đồng xây dựng, thiết kế hay cung cấp thiết bị. Mục đích của loại
bảo lãnh này là nhằm bù đắp thiệt hại về thời gian và chi phí cho chủ thầu do những vi
phạm của người dự thầu gây ra như : rút đơn thầu, trúng thầu nhưng bỏ không ký tiếp
hợp đồng cung ứng… Bảo lãnh dự thầu có tác dụng để cho bên chủ thầu thấy đơn dự
thầu là một cam kết nghiêm túc và bên dự thầu sẽ ký hợp đồng dự thầu nếu trúng thầu.
Bảo lãnh dự thầu là một hình thức tài trợ của ngân hàng vì việc ngân hàng cấp
bảo lãnh dự thầu hàm ý năng lực tài chính của người dự thầu là lành mạnh. Ngoài ra,
nếu trúng thầu ngân hàng sẽ xét cấp tiếp các bảo lãnh như bảo lãnh thực hiện hợp đồng,
bảo lãnh đặt cọc. Thời hạn bảo lãnh dự thầu kết thúc trong trường hợp : người dự thầu
trúng thầu và đã ký được bảo lãnh thực hiện hợp đồng, hoặc khi người dự thầu không
trúng thầu.

b) Bảo lãnh thực hiện hợp đồng : Đây là loại bảo lãnh được sử dụng rộng rãi và
thường có hiệu lực ngay sau khi chấm dứt hiệu lực của bảo lãnh dự thầu. Mục đích của
bảo lãnh thực hiện hợp đồng là tạo nghĩa vụ cho nhà xuất khẩu phải thực hiện đúng
những điều đã ký kết trong hợp đồng, và bồi thường cho nhà nhập khẩu trong trường
hợp nhà xuất khẩu vi phạm hợp đồng như không giao hàng, chậm giao hàng, không
16
đúng chất lượng và số lượng…Mức bảo lãnh thực hiện hợp đồng thường là 5%-10%
giá trị của hợp đồng. Hiệu lực của bảo lãnh thực hiện hợp đồng chấm dứt khi người
bảo lãnh hoàn thành nghĩa vụ cung ứng hàng hóa. Đây chính là một hình thức tài trợ
của ngân hàng vì ngân hàng đã lấy uy tín của mình để cam kết với nhà nhập khẩu là sẽ
bồi thường cho họ nếu nhà xuất khẩu vi phạm hợp đồng đã ký.
c) Bảo lãnh thanh toán ứng tiền trước : Khi ký kết những hợp đồng có giá trị lớn,
thông thường người bán yêu cầu người mua phải đặt cọc một phần tiền nhằm tài trợ
cho người bán thực hiện hợp, đồng thời người mua cũng yêu cầu người bán đề nghị
ngân hàng phát hành bảo lãnh khoản tiền đặt cọc đó. Mục đích của bảo lãnh tiền đặt
cọc nhằm đảm bảo cho nhà nhập khẩu được nhận lại số tiền đã đặt cọc trong trường
hợp nhà xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng, nghĩa là không giao hàng
đúng như hợp đồng quy định. Bảo lãnh tiền đặt cọc có hiệu lực khi người bán sử dụng
khoản tiền vay này và hết hiệu lực khi người bán giao hàng lần cuối cộng với một số
ngày để người thụ hưởng làm thủ tục đòi tiền.
d) Bảo lãnh thanh toán : Thường được dùng trong các hợp đồng mua bán hàng
hóa thiết bị trả chậm. Quan hệ giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu thực chất là
quan hệ tín dụng thương mại. Để bảo vệ mình trước rủi ro không thanh toán đầy đủ và
đúng hạn của người mua, người bán có thể yêu cầu một bảo lãnh thanh toán của ngân
hàng.Do vậy, bảo lãnh thanh toán chính là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho
người mua. Hiện nay, đây là loại bảo lãnh phổ biến ở các nước đang phát triển và có
thể được sử dụng để thay thế phương thức tín dụng chứng từ
e) Bảo lãnh nhận hàng : Thông thường người mua luôn muốn nhận vận đơn để
nhận hàng khi phương tiện vận tải chuyển hàng hóa đến cảng đích. Tuy nhiên, trên
thực tế, nếu hàng về trước khi ngân hàng nhận được bộ chứng từ và khách hàng cũng

chưa nhận được B/L thì để tránh các rủi ro như phí lưu kho bãi, chi phí cơ hội,tổn thất
…người mua sẽ yêu cầu ngân hàng của mình phát hành một cam kết( thay thế cho
B/L) với hang vận tải để nhận hàng. Cam kết này là một bảo lãnh nhận hàng của ngân
hàng. Bằng việc ký kết trên bảo lãnh nhận hàng, ngân hàng đã cam kết thực hiện
chuyển giao vận đơn cho công ty vận tải. Do đó, bảo lãnh nhận hàng cũng chính là một
17
hình thức tài trợ của ngân hàng cho người mua vì ngân hàng đã dùng chữ tín của mình
để cam kết cho hãng vận tải sẽ chịu trách nhiệm đối với lô hàng, và người mua chưa
phải trả tiền lô hàng cho người xuất khẩu đã nhận được hàng hóa.
2.2 Cho vay tài trợ thương mại quốc tế
Có thể nói nghiệp vụ cho vay là một trong những nghiệp vụ truyền thống của các
ngân hàng thương mại. Khác với cho vay thông thường , cho vay tài trợ thương mại
quốc tế thể hiện rất rõ tính chất tài trợ của mình. Nếu như mục đích cho vay thông
thường đơn thuần là thu về lợi nhuận thì mục đích của cho vay tài trợ thương mại quốc
tế ngoài mục tiêu lợi nhuận còn có mục tiêu mang tính chất kinh tế- xã hội, đó là hỗ trợ
đẩy mạnh sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. Như vậy, cho vay tài trợ
thương mại quốc tế là chỉ việc hỗ trợ cho những phương tiện tài chính hoặc những
phương tiện thay thế tài chính cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương
mại quốc tế nhằm hoàn tất nghĩa vụ thanh toán phát sinh trong quá trình từ sản xuất
đến lưu thông hàng hóa.
Cho vay tài trợ thương mại quốc tế thực hiện chức năng tài trợ cho cả nười xuất
khẩu lẫn người nhập khẩu
- Cho vay tài trợ xuất khẩu :
Trong hoạt động thương mại quốc tế, đối với những hợp đồng kinh tế có giá trị
lớn thì thời gian tạo thành sản phẩm dài nên người xuất khẩu thường thiếu vốn lưu
động để chuẩn bị cho lô hàng xuất khẩu. Chính từ yêu cầu thực tiễn này mà hình thức
cho vay tài trợ xuất khẩu của ngân hàng thương mại đã ra đời . Hình thức cho vay tài
trợ xuất khẩu là một hình thức cho vay theo quá trình sản xuất, lưu thông, do vậy, tùy
theo tính chất ngành hàng, mặt hàng xuất khẩu mà có thể phân thành các thời hạn cho
vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và có thể phân thành cho vay tài trợ xuất khẩu trước

khi giao hàng và cho vay tài trợ xuất khẩu sau khi giao hàng.
Đối với cho vay tài trợ xuất khẩu trước khi giao hàng thì ngân hàng thương mại
sẽ cấp vốn lưu động cho doanh nghiệp xuất khẩu tiến hành thu mua, sản xuất, chế biến
hàng hóa xuất khẩu. Thời hạn cho vay của loại hình này thường là ngắn hạn và trung
hạn. Đồng tiền cấp vốn thường bằng nội tệ, một phần nhỏ có thể được cấp bằng ngoại
18
tệ khi nguyên, nhiên vật liệu cần thiết cho sản xuất phải nhập khẩu từ bên ngoài.
Còn đối với cho vay tài trợ xuất khẩu sau khi giao hàng thì ngân hàng thương
mại thực hiện việc cấp vốn lưu động khi doanh nghiệp xuất khẩu có bộ chứng từ gửi
hàng. Với loại hình này, việc cấp vốn được thực hiện theo nguyên tắc luân chuyển, tức
là khi ngân hàng dựa vào bộ chứng từ gửi hàng để quyết định cho vay thì ngân hàng
đồng thời cũng thu hồi các khoản cho vay trước khi giao hàng. Nợ cho vay sau khi giao
hàng được ngân hàng thu hồi từ việc người nhập khẩu nước ngoài thanh toán hợp đồng
kinh tế cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng. Các hình thức cấp vốn lưu động sau
khi giao hàng thường được thực hiện dưới các nghiệp vụ như chiết khấu bộ chứng từ
gửi hàng, cho vay thế chấp bộ chứng từ gửi hàng… Hình thức cho vay tài trợ xuất khẩu
thường được áp dụng khi ngân hàng tài trợ cũng đồng thời là ngân hàng thanh toán.
Bởi lẽ nếu ngân hàng tài trợ không phải là ngân hàng thanh toán thì rủi roc ho ngân
hàng sẽ rất lớn do gặp phải khó khăn trong khâu đánh giá khả năng thanh toán của
người nhập khẩu và kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay của doanh nghiệp
Các ngân hàng thương mại và người xuất khẩu thường ký kết với nhau một hạn
mức tín dụng khi tiến hành tài trợ thương mại quốc tế theo hình thức này. Tỷ lệ cho
vay phụ thuộc vào mặt hàng xuất khẩu và khả năng thanh toán của người nhập khẩu
nước ngoài, cỡ khoảng 70%-80% trị giá hàng hóa.
- Cho vay tài trợ nhập khẩu :
Cho vay tài trợ nhập khẩu là một nguồn bổ sung vốn lưu động rất quan trọng đối
với người nhập khẩu, vì giá trị hợp đồng nhập khẩu thường vượt quá nhiều lần vốn lưu
động của người nhập khẩu. Hình thức tài trợ này giúp người nhập khẩu có vốn thanh
toán bộ chứng từ hàng hóa trong khi hàng chưa cập bến, hoặc hàng đã nhập về nhưng
chưa bán ra để thu hồi được vốn đầu tư, hoặc máy móc, dây chuyền thiết bị đang trong

quá trình lắp đặt, chạy thử chưa đưa vào sản xuất để tạo ra sản phẩm…
Thời hạn cho vay tài trợ nhập khẩu có thể là ngắn hạn, trung hạn và dài hạn tùy
thuộc vào đối tượng nhập khẩu . Nếu nhập khẩu hàng hóa là nguyên nhiên vật liệu,
hàng tiêu dùng …thì do vòng quay vốn nhanh nên ngân hàng thường sẽ cấp vốn ngắn
hạn. Còn nếu nhập khẩu hàng hóa là máy móc, thiết bị, phương tiện sản xuất …thì do
vòng quay vốn chậm nên ngân hàng sẽ cấp vốn trung hạn hoặc dài hạn. Đồng tiền cấp
vón thường bằng ngoại tệ để thanh toán cho người bán nước ngoài. Tuy nhiên, khi bán
19
hàng trong nước, đồng tiền thu về lại là nội tệ nên vấn đề rủi ro về tỷ giá hối đoái cần
phải được ngân hàng thương mại và người xuất khẩu hưởng tài trợ hết sức lưu tâm.
2.3 Tài trợ trên cơ sở phương thức tín dụng chứng từ
2.3.1 Bộ tập quán quốc tế điều chỉnh phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
a) Sự cần thiết ra đời UCP 600 và ISBP 681, 2007 ICC
UCP và sự cần thiết ra đời UCP
UCP là tên viết tắt của Uniform Customs and Practice for documentary Credits,
tức Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ. UCP là một tập hợp các
nguyên tắc và tập quán quốc tế được phòng thương mại Quốc tế ( International
Chamber of Commerce Commission- ICC) soạn thảo và phát hành, quy định quyền
hạn, trách nhiệm của các bên liên quan trong giao dịch tín dụng chứng từ với điều kiện
L/C có dẫn chiếu tuân thủ UCP.
Ngày nay, thương mại quốc tế có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển
chung của mỗi Quốc gia. Buôn bán giữa các nước phát triển kéo theo sự phong phú của
các phương thức thanh toán quốc tế, trong đó phương thức tín dụng chứng từ được sử
dụng rộng rãi hơn cả. Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có hệ thống pháp luật và tập quán
riêng nên việc cho ra đời một quy tắc chung để điều chỉnh phương thức thanh toán
bằng L/C là vô cùng cần thiết. UCP cũng ra đời trên tinh thần đó. Năm 1993, ICC đã
ban hành bản UCP đầu tiên và được áp dụng rộng rãi trên thế giới và trở thành cơ sở
cho thanh toán quốc tế bằng L/C. Song, trong một thế giới năng động và không ngừng
phát triển, thương mại quốc tế luôn được mở rộng thì việc sửa đổi UCP để phù hợp với
thực tiễn là điều hết sức cần thiết. Tính đến nay, UCP đã qua sáu lần sửa đổi vào các

năm 1951, 1962( UCP 222), 1974 ( UCP 290), 1983( UCP 400), 1993( UCP 500) và là
gần đây nhất là năm 2007 ( UCP 600)
b) UCP 600
Vào tháng 5/2003, ICC đã ủy quyền cho ủy ban ngân hàng xem xét lại UCP 500
để có thể có những sửa đổi cần thiết đáp ứng với tình hình thực tiễn mới. Cũng như
những lần sửa đổi trước đây, mục đích chính của lần sửa đổi này là để đáp ứng được sự
phát triển trong hoạt động ngân hàng, vận tải, bảo hiểm, Hơn nữa, cũng cần thiết xem
20
lại ngôn ngữ và phong cách đã được sử dụng trong UCP để loại bỏ những cách diễn đạt
có thể gây hiểu lầm và áp dụng không thống nhất. Ngay khi công việc xem xét lại được
tiến hành, thông qua một số kết quả điều tra toàn cầu, Uỷ ban ngân hàng nhận thấy có
tới khoảng 70% chứng từ xuất trình theo tín dụng thư đã bị từ chối ở lần xuất trình đầu
tiên vì có sai sót. Điều này rõ rang ảnh hưởng tiêu cực đến phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ, vốn là một phương thức thanh toán quốc tế truyền thống và có nhiều ưu
điểm. Do đó, Ban soạn thảo gồm 9 thành viên đã ra đời để sửa đổi UCP 500. Đồng
thời, Uỷ ban ngân hàng thành lập Ban cố vấn gồm 41 thành viên là các chuyên gia
trong lĩnh vực ngân hàng và vận tải đến từ 26 nước trên thế giới. Sau 3 năm soạn thảo
và chỉnh lý, ngày 25/10/2006, ICC thông qua bản UCP 600 thay cho UCP 500. UCP
600 có hiệu lực từ ngày 01/07/2007.
c) ISBP 681
ISBP ( International Standard Banking Practice for the Examination of Document
under Documentary Credit) nghĩa là tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế để kiểm tra
chứng từ theo thư tín dụng. Bản ISBP đầu tiên (ISBP 645) được Ủy ban ngân hàng bỏ
phiếu thông qua tại Hội nghị Rome ngày 31/10/2002 hướng dẫn kiểm tra chứng từ xuất
trình theo các L/C có áp dụng UCP 500. Năm 2007, Uỷ ban ngân hàng của ICC ban
hành UCP 600 thay cho UCP 500, điều này đòi hỏi phải có một bản ISBP mới hướng
dẫn kiểm tra chứng từ xuất trình theo các L/C có áp dụng UCP 600. ISBP 681 ra đời
trên tinh thần đó.
Mục đích ra đời của ISBP 681 là làm rõ những quy định của điều 14, UCP 600 về
“tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ”, đồng thời giải thích cách hiểu và áp dụng các điều

khoản UCP 600 để tất cả các ngân hàng trên thế giới áp dụng, để các bên liên quan đến
giao dịch L/C như người chuyên chở, người bảo hiểm…khi phát hành chứng từ cũng
phải hành động theo. Như vậy, việc ra đời ISBP 681 có ý nghĩa quan trọng trong việc
giúp L/C được thực hiện trôi chảy hơn, trở thành một công cụ thanh toán hữu ích chứ
không phải công cụ từ chối thanh toán.
c) Tính chất pháp lý của UCP 600 và ISBP 681, 2007 ICC
UCP 600 và ISBP 681 đều là các văn bản do ICC phát hành, mà ICC là một tổ
21
chức xã hội, phi chính phủ, do đó các văn bản do ICC ban hành không có tính chất
pháp lý bắt buộc mà có tính chất pháp lý tùy ý. Tính chất pháp lý tùy ý của UCP 600
được nêu rõ trong điều 1, UCP 600 “ Các quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ , bản sửa đổi 2007, ICC xuất bản số 600 là các Quy tắc áp dụng cho bất cứ tín
dụng chứng từ nào( bao gồm cả thư tín dụng dự phòng trong chừng mực mà các Quy
tắc này có thể áp dụng) nếu nội dung của tín dụng chỉ ra một cách rõ rang là có dẫn
chiếu đến các Quy tắc này. Các Quy tắc này rằng buộc tất cả các bên , trừ khi tín dụng
loại trừ hoặc sửa đổi một cách rõ rang”. Như vậy, L/C dẫn chiếu áp dụng UCP 600 thì
nó mới trở nên có giá trị pháp lý bắt buộc điều chỉnh các bên tham gia, nó rang buộc
nghĩa vụ và trách nhiệm của tất cả các bên, trừ khi các bên có thỏa thuận khác về việc
không thực hiện, thực hiện khác đi một số điều trong UCP 600 hoặc bổ sung những
điều mà UCP 600 không đề cập đến, nhưng tất cả những thỏa thuận nayfcaanf được
quy định rõ rang trong L/C. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng tham gia thanh toán quốc
tế trên thế giới đều sử dụng hệ thống Swift để gửi, nhận L/C. Mà theo quy định của
Swift thì trừ khi có quy định khác trong L/C, tất cả các L/C phát hành qua Swift đều
được điều chỉnh bởi UCP – bản mới nhất đang có hiệu lực tại thời điểm phát hành L/C.
Vì ISBP 681 ra đời nhằm mục đích giải thích rõ hơn điều 14, UCP 600 nên việc
áp dụng ISBP 681 cũng mang tính chất pháp lý tùy ý. Việc dẫn chiếu ISBP vào L/C là
không có giá trị, vì việc tuân thủ các điều khoản của ISBP 681 chính là tuân thủ ucp
600. Do vậy khi áp dụng ISBP 681 cần xem xét các điều khoản của L/C liên quan có
điều kiện nào loại trừ, sửa đổi hoặc bổ sung UCP 600 hay không để có cách vận dụng
hiệu quả nhất.

Một điểm vô cùng quan trọng nữa là sự ra đời của UCP 600 cũng như ISBP 681
khôn tuyên bố hiệu lực của các phiên bản trước. Các bên tham gia giao dịch L/C vẫn có
quyền lựa chọn một trong các bản UCP, ISBP trước, miễn là có dẫn chiếu rõ ràng trong
L/C.
Do UCP 600 và ISBP 681 đều là các văn bản pháp lý tùy ý cho nên ICC không
chịu trách nhiệm về những sai sót, tổn thất phát sinh trong quá trình áp dụng. Vậy nên
các bên liên quan cần tìm hiểu thấu đáo nội dung cũng như nắm chắc kỹ thuật nghiệp
22

×