1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PH
ẠM TH
ỤC NHI
ÊN
CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ ĐẾN NĂM 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2007
2
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU VỀ THỊ TRƯỜNG MỸ
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGÀNH DỆT-MAY
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM
1.1, Giới thiệu về thị trường Mỹ :
1.1.1, Đặc điểm đất nước, văn hóa, con người Mỹ:
Là một nước có diện tích lớn thứ 3 trên thế giới (9.629.091 km2 chiếm 6,2%
diện tích toàn cầu) và với khoảng 290 triệu dân có nguồn gốc từ nhiều nơi khác
nhau trên thế giới, Mỹ là một xã hội đa dạng nhất trên thế giới. Mặc dù đại bộ phận
người M
ỹ được coi là có nguồn gốc từ Châu Âu, song những người thiểu số như
người gốc Mỹ (người da đỏ), người Mỹ gốc Phi, người Hispanic, và người Châu Á
cũng rất đông. Hiện nay, mỗi năm có tới trên một triệu người nước ngoài di cư đến
Mỹ sinh sống và làm ăn, và dự kiến đến năm 2050 người Mỹ da trắng chỉ còn
chiếm dưới 50%. Các cộng đồng đ
ang sinh sống ở Mỹ đều có những bản sắc riêng
của họ, kể cả ngôn ngữ, tôn giáo, tín ngưỡng, và phong tục; do vậy, rất khó có thể
khái quát chính xác được văn hóa nói chung và văn hóa kinh doanh nói riêng ở
nước này.
Khác với một số nền văn hóa khác, nhất là văn hóa Châu Á, nhìn chung,
người Mỹ rất coi trọng tự do cá nhân và tính tự lập. Gia đình, cộng đồng, tôn giáo,
hoặc tổ chức là thứ yếu so với các quyền cá nhân. Chủ ngh
ĩa cá nhân này cũng dẫn
đến một tính cách nổi bật của người Mỹ là cạnh tranh.
Phong cách chung của doanh nhân Mỹ là ít chú ý đến nghi lễ, đi thẳng vào
vấn đề, và muốn có kết quả nhanh. Trong đàm phán, người Mỹ thường xác định
trước và rõ mục tiêu cần đạt được, chiến lược và chiến thuật đàm phán, và dùng số
liệu để chứng minh cho các luận điểm của mình. Họ muốn dành chiến thắ
ng về
phần mình, song cũng sẵn sàng thỏa hiệp trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. ở Mỹ, “có
3
đi có lại” là nguyên tắc quan trọng trong đàm phán chính trị cũng như trong kinh
doanh.
Người Mỹ thích nói thẳng, rõ ràng, và dễ hiểu. Họ không thích kiểu nói
vòng vo, xa xôi, hoặc ví von. Nhìn chung, khi người Mỹ nói “được” thì có nghĩa là
được và “không được” có nghĩa là không được. Người Mỹ không ngại ngùng khi
trả lời “tôi không biết” nếu như họ không biết về vấn đề mà bạn quan tâm, hoặc
“tôi không phụ trách việc này” nếu như vấn đề bạn quan tâm không trong phạm vi
trách nhiệ
m của họ. Tuy nhiên, người Mỹ thường sẵn sàng chỉ cho bạn biết bạn
phải hỏi ai hoặc tìm ở đâu để có những thông tin mà bạn cần, hoặc ai là người phụ
trách việc mà bạn quan tâm.Tính thẳng thắn và sự lịch thiệp cũng có mức độ khác
nhau tuỳ theo vùng. Người New York nổi tiếng là trực tính, và thậm chí hơi thô
bạo nếu so sánh với văn hóa Châu Á. Người ở vùng Trung Tây cũng thẳng thắn
nhưng thường lịch sự hơn nhiều. Người California không phải lúc nào cũng nói
đúng ý nghĩ của họ. Ví dụ ở Los Angeles – miền đất của những giấc mơ - nếu ai đó
nói với bạn “Tôi sẽ trở lại vấn đề này với bạn” thì cũng có thể là họ sẽ làm như vậy
thật, song cũng có thể họ ngụ ý là “Bạn không có cơ hội”.
Nhìn chung, người Mỹ không có thói quen nói hoặ
c cười to trong khi ăn
uống hoặc ở nơi công cộng. Họ rất tự giác xếp hàng đợi đến lượt mình khi có từ
hai người trở lên, và không có thói quen chen ngang hàng. Tại cửa ra vào thang
máy, tàu điện ngầm, hoặc xe buýt, người ở ngoài thường đợi cho người ở trong ra
hết rồi mới vào. Người Mỹ có thói quen cám ơn khi được người khác giúp đỡ dù
chỉ là một việc rất nhỏ như nhường đường chẳng hạ
n.
Cũng vì muốn tiết kiệm thời gian, nên các cuộc gặp làm việc với người Mỹ
thường là ngắn, tập trung và đi thẳng vào vấn đề. Đối với một số nền văn hóa vừa
gặp nhau đã bàn ngay đến chuyện làm ăn thì có thể bị coi là mất lịch sự, trong khi
đó người Mỹ lại thích nói chuyện làm ăn trước, sau đó mới nói đến chuyện cá nhân
và các chuyện khác. Vì vậy, th
ường thì khách, nhất là những người chào hàng phải
chuẩn bị rất kỹ và đi thẳng vào nội dung sau những câu chào hỏi xã giao ngắn gọn.
Yêu cầu này càng quan trọng nếu cuộc làm việc được tiến hành thông qua phiên
dịch vì thực chất thời gian làm việc chỉ còn tối đa một nửa. Trong các cuộc họp
4
hoặc gặp gỡ làm việc, người Mỹ có thể cắt ngang lời nhau để hỏi hoặc nêu ý kiến
của mình. Thói quen này có thể bị coi là bất lịch sự trong một số nền văn hóa Châu
Á. Do vậy, các nhà kinh doanh nước ngoài không nên ngạc nhiên khi bị người Mỹ
cắt lời để hỏi hoặc nêu ý kiến của họ.
1.1.2, Đặc điểm kinh tế của thị trường Mỹ:
Đồng USD của Mỹ
vẫn là đồng tiền thanh toán quốc tế thịnh hành nhất.
Hiện khoảng 60% tiền mặt USD lưu hành ở ngoài nước Mỹ; tất cả thanh toán trong
lĩnh vực dầu khí, năng lượng thế giới đều bằng USD Mỹ. Trong điều kiện đó, tỷ
giá USD luôn là một vấn đề mấu chốt trong quan hệ kinh tế thương mại của Mỹ
với bên ngoài, là một nội dung chủ yếu c
ủa các cuộc gặp G7/G8 hàng năm. Mỹ và
các đối tác của Mỹ có thể mất hoặc được lợi hàng tỉ USD, và sức cạnh tranh kinh
tế có thể bị tác động lớn chỉ vì sự thay đổi tỷ giá đó chứ không phải do kết quả của
sản xuất trực tiếp. Vì vậy chính sách tiền tệ và quan hệ với thị trường vốn và tài
chính thế giới ra sao là một vấn đề đạ
i sự trong nền kinh tế. Việc đa số các nước
đến nay dự trữ ngoại tệ chủ yếu bằng USD Mỹ mang lại lợi thế cho Mỹ (tuy cũng
có mặt khác, làm đồng tiền Mỹ tùy thuộc tình hình bên ngoài). Gần đây Trung
Quốc và một vài nước đã tính đến đa dạng hóa dự trữ đó qua các đồng tiền khác để
tránh rủi ro lớn nếu giá USD tụt giảm do tình trạng thâm thủng các cân đố
i tài
chính của Mỹ.
Hiến pháp Mỹ qui định Quốc hội Mỹ có quyền quản lý ngoại thương và
quyết định về thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, do việc tăng hoặc giảm thuế nhập khẩu,
ấn định hạn ngạch nhập khẩu, hoặc đàm phán các hiệp định thương mại quốc tế rất
phức tạp và ảnh hưởng đến lợi ích không những của M
ỹ mà còn của các nước khác;
nên nhiều trách nhiệm trong những lĩnh vực này đã đuợc Quốc hội ủy quyền cho
các cơ quan hành pháp. Trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ được Quốc hội
ủy quyền, các cơ quan hành pháp được ủy quyền có trách nhiệm tham vấn thường
xuyên và chặt chẽ với các ủy ban có liên quan của Quốc hội và các nhóm cố vấn
của khu vực tư nhân.
1.1.2.1, GDP của Mỹ:
5
Hiện nay, và trong nhiều thập kỷ nữa, Mỹ vẫn là nước có nền kinh tế lớn
nhất và có sức cạnh tranh nhất trên thế giới. Năm 1999, GDP của Mỹ là 9.350 tỷ
USD trong khi của cả thế giới khoảng 40.700 tỷ USD và của cả khối G7 là 15.170
tỷ USD. Năm 2000, GDP của Nhật bằng 32% GDP của Mỹ, Đức bằng 19,4%,
Pháp bằng 14,6%, và Anh bằng 13,7%. Mặc dầu, tỷ trọng GDP của Mỹ trong tổng
GDP của toàn thế giới có xu hướng giảm, song hiện nay, Mỹ vẫn là nước có thu
nhập quốc dân lớn nhất và có thu nhập bình quân đầu người đứng đầu thế giới.
Năm 2005, tổng thu nhập quốc dân của Mỹ đạt xấp xỉ 12,5 nghìn tỷ USD (tính
theo sức mua – (PPP)purchasing power parity), chiếm khoảng 20.34% tổng GDP
toàn thế giới. Thu nhập bình quân đầu người ở năm 2005 đạt 41.557 USD (Xem
bảng 1.1).
Bảng 1.1
GDP CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ THẾ GIỚI NĂM 2005
Thứ tự Nước
GDP (PPP)
(triệu USD)
Tỷ lệ % của
thế giới
GDP/người
(USD)
Thế giới
61.006.604
100,00%
1 United States 12.409.465 20,34% 41.557
2 China 8.572.666 14,05% 27.122
3 Japan 3.943.754 6,46% 30.897
4 India 3.815.553 6,25% 3.262
5 Germany 2.417.537 3,96% 31.400
6 United Kingdom 1.926.809 3,16% 31.400
7 France 1.829.559 3,00% 30.100
8 Italy 1.667.753 2,73% 29.700
9 Brazil 1.627.262 2,67% 8.600
10 Russia 1.559.934 2,56% 12.100
11 Spain 1.133.539 1,86% 27.000
12 Canada 1.061.236 1,74% 34.444
13 South Korea 1.056.094 1,73% 22.543
37 Vietnam 254.041 042% 2,782
Nguồn : The world Factbook & Wikipedia
Trong cơ cấu kinh tế của Mỹ, hiện nay, có tới 80% GDP được tạo ra từ các
ngành dịch vụ, trong khi đó công nghiệp chỉ chiếm 18%, và nông nghiệp chỉ đóng
góp 2%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP của Mỹ còn tiếp tục tăng trong các năm tới.
Mức tăng trưởng GDP bình quân của Mỹ trong thập kỷ 90 là 3,6% trong khi
đó mức tăng chung của cả khối G7 trong cùng thời kỳ chỉ là 2,6%. Tuy nhiên, tốc
6
độ tăng GDP thực tế của Mỹ từ năm 2000 trở lại đây không ổn định và thấp hơn so
với mức bình quân của thập kỷ 90. Cụ thể là mức tăng năm 2000 là 5%, 2001 là
0,5%, 2002 là 2,2%, và 2003 là 3,1%, năm 2005 là 6,4%.
1.1.2.2, Về mặt ngọai thương:
Mỹ là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), và là một trong
ba nước thành lập ra Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Mỹ đã ký hiệp
định thương mại tự do song phương với một số nước, và dành ưu đãi thương mại
đơn phương cho nhiều nước đang và chậm phát triển. Hiện nay, Mỹ có quan hệ
buôn bán với 230 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nă
m 2006, Trung quốc đã
vượt Mexico trở thành bạn hàng lớn thứ 2 của Mỹ sau Canada.
Các nước bạn hàng
lớn tiếp theo của Mỹ là Nhật bản, Đức, Anh, Hàn Quốc, Đài Loan, Pháp, Malaysia
(xem bảng 1.2).
Tổng kim ngạch thương mại quốc tế (gồm cả hàng hóa và dịch vụ) của Mỹ
năm 2005 đạt xấp xỉ 3,27 nghìn tỷ USD, tăng khoảng 12% so với năm 2004, trong
đó kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá khoảng 2,57 nghìn tỷ, chiếm 78% tổng kim
ngạch thương mại quốc tế và bằ
ng 20% GDP.
Kim ngạch xuất khẩu của Mỹ tăng dần qua các năm, năm 2005, kim ngạch
xuất khẩu hàng hóa của Mỹ đạt xấp xỉ 904 tỷ USD, tăng 87 tỷ (10,6%) so với năm
2004. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của Mỹ tăng cao hơn năm 2005 rất lớn xấp
xỉ 133 tỷ (14,7%) đạt xấp xỉ 1.037tỷ USD. Năm 2006, có 20 nhóm hàng có kim
ngạch xuất khẩu tăng hơn năm 2005, các nhóm hàng có m
ức tăng cao nhất là năng
lượng nguyên tử, máy bay và các thiết bị hàng không vũ trụ; các sản phẩm dầu lửa;
và xe động cơ, năm 2006 các nhóm hàng này tăng so với năm 2005 là 60tỷ USD
chiếm gần 47% tổng trị giá xuất khẩu. (xem bảng 1.3)
7
Bảng 1.2:
CÁC NƯỚC XUẤT KHẨU CHÍNH VÀO MỸ
(2001-2006)
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Quốc gia
Đvt: triệu USD
Canada
216.836 210.518 224.016 255.660 287.534 303.034
China
102.069 124.796 151.620 196.160 242.638 287.052
Mexico
130.509 134.121 137.199 154.959 169.216 197.056
Japan
126.139 121.262 118.485 129.535 137.831 148.071
Germany
58.939 60.985 66.532 75.622 84.345 87.756
United Kingdom
41.118 40.429 42.455 45.920 50.758 53.502
Korea
34.917 35.284 36.930 45.064 43.155 44.714
Taiwan
33.262 32.054 31.490 34.462 34.574 38.086
France
30.024 28.232 28.896 31.505 33.499 36.837
Malaysia
22.228 23.953 25.321 28.070 33.695 36.441
Venezuela
14.178 14.352 16.677 24.440 32.750 36.283
Italy
23.707 24.212 25.293 27.975 30.880 32.707
Saudi Arabia
12.359 12.177 17.112 20.434 26.150 31.142
Ireland
18.599 22.374 25.766 27.401 28.385 28.921
Nigeria
8.916 5.820 10.114 16.295 23.875 27.863
Brazil
14.415 15.609 17.717 21.098 24.346 26.169
Thailand
14.672 14.796 15.075 17.510 19.803 22.345
India
9.708 11.790 13.034 15.503 18.710 21.674
Russia
6.178 6.740 8.381 11.637 15.353 19.642
Israel
11.969 12.437 12.767 14.515 16.870 19.157
Các nước khác 201.892 202.870 225.219 266.398 308.013 346.603
Tổng cộng 1.132.635 1.154.811 1.250.097 1.460.160 1.662.380 1.845.053
Nguồn : the U.S. Department of Commerce and the U.S. International Trade Commission
(DOC & USITC)
8
Bảng 1.3:
MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CỦA MỸ
(2001-2006)
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Mặt hàng Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá %
Đvt : tỷ USD
Các ứng dụng trong hóa
học, máy móc, các phản
ứng hạt nhân
145 130 131 149 166 182 17,55
Máy móc điện tử, thiết bị
và phụ tùng
123 110 113 125 129 146 14,06
Phương tiện vận chuyển
và phụ tùng
59 63 65 73 83 93 8,94
Máy bay và phụ tùng
45 44 40 42 50 67 6,44
Sản phẩm dùng trong ytế
44 41 44 51 55 62 5,97
Nhựa và các sản phẩm
có liên quan
27 27 29 34 38 43 4,12
Chất đốt, dầu thô và các
sản phẩm từ việc khai
thác
13 12 14 19 26 35 3,37
Hóa chất
19 19 23 30 30 34 3,24
Kim loại, đá quý tự nhiên
15 14 15 18 22 32 3,04
Đồ dự trữ phân loại đặc
biệt
24 23 23 25 27 29 2,83
Dược phẩm
13 13 16 19 22 25 2,43
Các sản phẩm có liên
quan đến hóa học
11 11 11 13 14 16 1,51
Ngũ cốc
10 10 11 13 11 14 1,30
Các sản phẩm có liên
quan đến sắt hoặc thép
8 8 8 9 11 13 1,30
Giấy và các sản phẩm có
liên quan
11 10 11 11 12 13 1,27
Sắt và thép
5 5 7 9 11 13 1,22
Nhôm các sản phẩm có
liên quan
5 5 5 6 7 10 0,97
Các thành phần hóa học,
các hợp chất kim loại quý
6 6 6 7 9 10 0,97
Cao su và các sản phẩm
có liên quan
7 6 7 8 9 10 0,93
Hạt giống
7 7 10 9 8 9 0,88
Các mặt hàng khác
136 129 136 147 162 183 17,66
Tổng cộng
731 693 724 817 904 1.037 100,00
Nguồn: USITC
Năm 2006, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 1.845 tỷ USD, tăng 183 tỷ
USD (11%) so với năm 2005. Nhiều nhóm hàng có mức tăng trên 4 tỷ, trong đó
nhóm sản phẩm chất đốt, dầu thô có mức tăng cao nhất , năm 2006 tăng 45 tỷ so
9
với năm 2005 chiếm 17,17% tổng kim ngạch nhập khẩu, chủ yếu là do giá dầu thế
giới tăng(xem bảng 1.4). Các nhóm hàng có kim ngạch giảm nhiều nhất là bán dẫn
và mạch tích hợp (giảm 831 triệu USD), và máy ảnh và thiết bị (giảm 503 triệu
USD) (www.usitc.gov).
Bảng 1.4:
MỘT SỐ MẶT HÀNG NHẬP KHẨU CỦA MỸ
(2001-2006)
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Mặt hàng Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá %
Đvt : tỷ USD
Chất đốt, dầu thô 113 109 145 194 272 317 17,17
Các ứng dụng trong hóa học, máy
móc, các phản ứng hạt nhân
160 161 169 199 221 243 13,15
Máy móc điện tử, thiết bị và phụ
tùng
154 151 156 184 206 228 12,35
Phương tiện vận chuyển và phụ
tùng
161 171 176 192 201 216 11,73
Hóa chất 34 35 38 42 47 51 2,74
Sản phẩm dùng trong ytế 35 35 39 44 47 50 2,73
Kim loại, đá quý tự nhiên 26 26 28 33 37 44 2,38
Dược phẩm 16 22 29 32 36 42 2,3
Bàn ghế, thiết bị trang trí nội thất 23 27 30 34 37 40 2,15
Đề dự trữ phân loại đặc biệt 35 36 34 35 38 40 2,15
Hàng may mặc không dệt kim 32 31 33 35 37 38 2,05
Hàng may mặc dệt kim 27 28 30 32 33 35 1,92
Sắt và thép 10 11 10 22 22 29 1,56
Các sản phẩm có liên quan đến
sắt và thép
14 14 15 20 24 28 1,53
Đồ chơi, trò chơi, thiết bị thể thao,
phụ tùng kèm theo
20 21 21 22 24 26 1,4
Gỗ, đồ gỗ 15 16 17 23 24 23 1,24
Đồ dự trữ báo cáo nhập khẩu đặc
biệt
13 13 14 16 18 20 1,09
Giày dép 15 15 16 16 18 19 1,03
Nhôm và các sản phẩm có liên
quan
8 9 10 13 15 19 1,03
Các mặt hàng khác 202 204 218 246 272 303 16,45
Tổng cộng 1.133 1.155 1.250 1.460 1.662 1.845 100,00
Nguồn: USITC
1.1.3, Quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ
1.1.3.1, Quan hệ ngoại giao:
10
Năm 1991, Việt Nam và Mỹ bắt đầu đàm phán chính thức về bình thường
hóa quan hệ.
Tháng 2 năm 1994, Mỹ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Hai nước
thiết lập lại quan hệ ngoại giao vào ngày 12 tháng 7 năm 1995 và tiến hành trao đổi
đại sứ đầu tiên vào tháng 5 năm 1997.
Ngày 11 tháng 12 năm 2001, Hiệp định Thương mại song phương giữa hai
nước (BTA) bắt đầu có hiệu lực, sự kiện này đánh dấ
u một mốc quan trọng trong
quá trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Theo Hiệp định này, tất cả các
loại hàng hóa Việt Nam (bao gồm hàng dệt may, giầy dép, đồ gỗ, đồ điện gia dụng,
điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ, v..v...) xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ từ ngày
10/12/2001 trở đi sẽ dược hưởng mức thuế quan tối huệ quốc (còn được gọi là
NTR). Mức thuế này trung bình chỉ còn 3% so với mức thuế quan trung bình
không có tối huệ quốc 40% tr
ước đây.
Sự kiện quan trọng gần đây nhất đánh dấu bình thường hóa hoàn toàn quan
hệ giữa hai nước là ngày 20 tháng 12 năm 2006, Tổng thống Bush đã ký luật thiết
lập quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam. Việc áp
dụng PNTR sẽ tạo một nền tảng mang tính bền vững cho việc phát triển quan hệ
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong các lĩnh vực, đặc biệt là kinh t
ế, thương mại, đầu
tư. Từ nay, Việt Nam và Hoa Kỳ là các đối tác thương mại bình đẳng, cùng áp
dụng cho nhau những cam kết của mình trong khuôn khổ WTO.
Quan hệ ngoại giao của hai nước ngày càng thắt chặt hơn, hiểu biết lẫn nhau,
tạo điều kiện rất lớn cho quan hệ thương mại giữa hai nước ngày càng phát triển.
1.1.3.2, Quan hệ thương mại:
Năm 1994 – năm Mỹ bỏ cấm vận kinh tế với Việt Nam, kim ngạch thương
mại hàng hóa hai chiều đã tăng từ 220 triệu USD lên 1,4 tỷ USD năm 2001 - năm
trước khi BTA có hiệu lực và đạt 9,563 tỷ USD năm 2004, trong đó xuất khẩu của
Việt Nam sang đã tăng nhẩy vọt từ 1,026 tỷ USD năm 2001 lên đến 8,463tỷ USD
năm 2006 (xem biểu đồ 1.1).
11
Biểu đồ 1.1:
KIM NGẠCH HAI CHIỂU VIỆT NAM - MỸ (2001-2006)
1,026
461
2,392
580
4,472
1,324
5,161
1,163
6,522
1,192
8,463
1,100
2001 2002 2003 2004 2005 2006
US - Việt Nam
Việt nam - US
Nguồn : USITC
Năm 2001, Việt nam đứng thứ 40 về kim ngạch xuất khẩu vào thị trường
Mỹ, một năm sau khi hiệp định song phương Việt – Mỹ có hiệu lực, năm 2002,
Việt nam vươn lên đứng hàng thứ 38 về kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ, và từ năm
2003 đến năm 2006, Việt Nam đã trở thành bạn hàng lớn thứ 33 của Mỹ (tính theo
kim ngạch nhập khẩu của Mỹ - phụ l
ục 1).
Về hoạt đông kinh doanh ngoại thương:
Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ tăng 29,8% so với
năm 2005, chiếm thị phần rất nhỏ khoảng 0,46%.Những mặt hàng xuất khẩu chính
của Việt Nam sang gồm hàng may mặc, giầy dép, đồ gỗ, thủy sản, nông sản thô,
dầu khí…Và xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam đạt 1,1 tỷ USD năm 2006 giảm xấp
xỉ
8,4% so với năm 2005. Các mặt hàng Mỹ xuất khẩu sang Việt Nam chủ yếu
gồm máy bay dân dụng, máy móc, thiết bị và phụ tùng, phụ tùng máy bay, phân
bón, nguyên liệu công nghiệp như bông, bột giấy, nhựa, phụ kiện gia công giày,v.v.
Nói chung, xu hướng nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ chủ yếu là thiết bị, phụ tùng
công nghệ cao, mặc dù rất đắt tiền nhưng là hàng không thể mua từ các nước khác,
hoặc các nguyên liệu, phụ liệ
u phục vụ gia công hàng xuất khẩu (xem bảng 1.5,
1.6).
12
Bảng 1.5:
MỘT SỐ MẶT HÀNG CỦA MỸ XUẤT KHẨU VÀO VIỆT NAM
(2001-2006)
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Mặt hàng
Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá %
Đvt: triệu USD
Các ứng dụng trong hóa học,
máy móc, các phản ứng hạt
nhân
83 127 127 122 115 175 15,87
Nhựa và các sản phẩm có liên
quan
22 27 37 58 84 96 8,70
Máy móc điện tử, thiết bị và
phụ tùng
42 48 52 75 72 88 7,96
Máy bay và phụ tùng
53 79 716 376 346 77 7,03
Gỗ, đồ gỗ
6 19 21 39 44 65 5,94
Sản phẩm dùng trong ytế
20 24 42 39 57 65 5,91
Phương tiện vận chuyển và
phụ tùng
8 13 26 39 41 49 4,43
Bông, sợi, vải
29 28 35 67 49 48 4,33
Các sản phẩm sữa, trứng, mật
ong, các sản phẩm khác
8 3 3 24 39 42 3,78
Giày dép
19 18 23 24 31 34 3,11
Hóa chất
9 10 15 9 11 22 2,01
Trái cây, đậu, dưa
5 7 6 6 10 22 1,98
Da thuộc
3 6 6 12 16 22 1,98
Sắt và thép
3 4 5 76 18 20 1,86
Giấy và các sản phẩm có liên
quan
18 17 21 24 17 19 1,71
Bột gỗ, các vật liệu khác
tương tự làm giấy, giấy loại
9 9 9 7 17 17 1,54
Đồ phế thải
8 13 12 10 22 17 1,53
Sơ sợi làm bằng tay
2 4 5 7 7 16 1,48
Thức ăn làm sẵn
0 1 1 4 15 14 1,27
Thịt
1 0 0 12 12 13 1,20
Các mặt hàng khác
113 124 163 134 169 180 16,37
Tổng cộng
461 580 1.324 1.163 1.192 1.100 100,00
Nguồn: USITC
13
Bảng 1.6:
MỘT SỐ MẶT HÀNG CỦA VIỆT NAM XUẤT KHẨU VÀO MỸ
(2001-2006)
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Mặt hàng
Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá %
Đvt: triệu USD
Hàng may mặc không dệt kim 26 437 1.241 1.422 1.540 1.768 20,89
Hàng may mặc dệt kim 21 436 1.096 1.081 1.124 1.384 16,36
Chất đốt, dầu thô 157 179 209 250 502 956 11,30
Giày dép 132 224 325 473 717 952 11,24
Bàn ghế, thiết bị trang trí nội thất 14 82 190 389 697 902 10,66
Thủy hải sản 384 479 569 404 464 467 5,52
Trà, cà phê,gia vị 89 73 98 144 184 240 2,84
Các ứng dụng trong hóa học,
máy móc, các phản ứng hạt
nhân
1 20 67 62 126 222 2,63
Máy móc điện tử, thiết bị và phụ
tùng
1 7 30 50 87 210 2,48
Thức ăn làm sẵn 93 138 162 162 163 184 2,17
Trái cây, đậu, dưa 48 71 99 172 154 154 1,82
Các sản phẩm làm bằng da
thuộc
3 62 101 124 127 137 1,61
Các sản phẩm liên quan sắt,
thép
1 3 6 12 34 83 0,99
Nhựa và các sản phẩm có liên
quan
0 6 11 28 53 82 0,97
Mũ, khăn trùm đầu 0 24 39 63 68 77 0,91
Xà phòng, các chất tẩy rửa 0 1 0 1 25 71 0,84
Các sản phẩm liên quan tới dệt
may
1 7 22 48 41 53 0,63
Đồ chơi, trò chơi, thiết bị thể
thao, phụ tùng kèm theo
1 8 12 16 31 46 0,54
Cao su và các sản phẩm liên
quan
4 16 20 27 35 44 0,52
Các sản phẩm gốm sứ 7 12 21 27 34 44 0,52
Các mặt hàng khác 44 108 154 208 316 385 4,55
Tổng cộng 1.026 2.392 4.472 5.161 6.522 8.463 100,00
Về hoạt động đầu tư:
Mỹ là nước đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn nhất thế giới. Năm 2004, đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của đạt 252 tỉ USD. Kể từ khi Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ (BTA) có hiệu lực (tháng 12.2001), không chỉ hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam vào Mỹ tăng mà dòng vốn đầu tư và hàng hóa Mỹ cũng không ngừng
14
chảy vào Việt Nam. Năm 2005, đã có 259 dự án đầu tư trực tiếp từ Mỹ vào Việt
Nam với tổng số vốn đăng ký là 2 tỉ USD, xếp thứ 11 trong số những quốc gia đầu
tư lớn nhất vào Việt Nam (theo số liệu của Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch
đầu tư).
Tại Việt Nam, các công ty sẽ đặc biệt quan tâm đến các lĩnh vực viễ
n thông,
ngân hàng, bảo hiểm, logistics (vận tải, giao nhận…), phân phối, xuất nhập khẩu,
bán lẻ, năng lượng, bất động sản, sản xuất linh kiện điện tử công nghệ cao và lắp
ráp máy tính, gia công cơ khí, các dịch vụ phục vụ kinh doanh, giải trí, giáo dục, và
y tế. Bên cạnh việc đầu tư thành lập doanh nghiệp mới các công ty sẽ rất quan
tâm đến việc mua lại một phần các công ty đang hoạt độ
ng tại Việt Nam (kể cả các
công ty có vốn đầu tư nước ngoài) và tham gia vào quản lý các công ty này. Ví dụ,
Quỹ TPG và Quỹ đầu tư Intel gần đây đã mua 10% cổ phần của FPT trị giá 36,5
triệu USD. Một số công ty khác đang tìm kiếm khả năng mua cổ phần chiến lược
ở Việt Nam. Ví dụ, một ngân hàng lớn đang có kế hoạch mua cổ phần của một
ngân hàng lớn Việt Nam hay một hãng bia lớn
đang thăm dò mua cổ phần của một
công ty bia lớn ở Việt Nam.
Bên cạnh các họat động thương mại, Mỹ tham gia vào các lĩnh vực hợp tác
phi thương mại, được đánh giá là có hiệu quả như giáo dục, phòng chống
HIV/AIDS và nhân đạo. Hiện nay có khoảng 300 tổ chức phi chính phủ, tổ chức từ
thiện của Mỹ (trong đó có nhiều tổ chức được chính phủ Mỹ tài trợ), đã và
đang
thực hiện các dự án nhân đạo ở Việt Nam.
1.2, Vị trí, vai trò của ngành dệt – may trong họat động kinh doanh xuất khẩu
của Việt Nam.
Sản phẩm của ngành dệt may là mặt hàng nhu yếu phẩm quan trọng trong
đời sống con người, có tính chất thời trang. Ngành dệt may là ngành công nghiệp
chủ yếu tạo nguồn thu ngoại tệ nhiều cho đất nước, trong vài năm gần đây, ngành
dệt may được xem như ngành “mũi nhọn”, bởi những ưu thế: đầu tư ít, thu hồi vốn
nhanh, nhân công dồi dào và rẻ, giải quyết được nhiều công ăn việc làm, đ
óng góp
phần lớn vào kim ngạch xuất khẩu.
15
1.2.1, Vị trí của ngành dệt may trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu:
Ngành dệt may xuất khẩu chiếm tỷ trọng khá đáng kể trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước, từ 14-16% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, luôn đứng vị
trí thứ hai sau dầu thô. Kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may tăng liên tục hàng
năm từ 10-21%, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chiếm 14,64% tổng
kim ngạ
ch xuất khẩu đạt 5,83 tỷ USD, tăng 20,6% so với năm 2005 (xem bảng
1.7).
Bảng 1.7.
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY (2004-2006)
Đvt : tỷ USD
Năm 2004 2004/2003 2005 2005/2004 2006 2006/2005
Tổng KNXK 26.50 31.40% 32.44 22.40% 39.83 22.80%
Dầu thô 5.67 7.37 8.26
Dệt may 4.39 19.00% 4.84 10.30% 5.83 20.60%
Giày dép 2.69 3.00 3.59
Hải sản 2.40 2.74 3.36
Gỗ và sản phẩm gỗ 1.14 1.56 1.93
Điện tử máy vi tính,
linh kiện
1.08 1.43 1.70
Cao su 0.60 0.80 1.29
Gạo 1.31 1.41 1.27
Cà phê 0.64 0.74 1.22
Tỷ trọng hàng dệt
may/ tổng KNXK
16.55% 14.92% 14.64%
Nguồn: Tổng hợp các báo cáo của Tổng cục Hải Quan Việt Nam
Ngành dệt may và ngành giày dép là hai ngành cùng sử dụng nhiều lao động,
nhưng ngành dệt may luôn tỏ ra là ngành sản xuất hiệu quả hơn, đạt kim ngạch
xuất khẩu cao hơn, chứng tỏ ngành dệt may luôn chiếm vị trí quan trọng trong quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Ngành dệt may là ngành công nghiệp chủ chốt trong quá trình thúc đẩy
chuyển đổi cơ cấu hàng xuất khẩu. Từ những năm 1992,1993, hàng dệt may từ vị
trí thứ
3,4 về kim ngạch xuất khẩu đã dần chiếm vị trí thứ 2 trong 10 mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau dầu thô.
16
1.2.2, Vai trò của ngành dệt may trong hoạt đông kinh doanh xuất khẩu:
1.2.2.1,Ngành dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực:
Trong cơ cấu hàng xuất khẩu, xét về tổng thể, hàng dệt may chỉ đứng sau
dầu thô và chỉ tính riêng xuất khẩu hàng dệt may đã đóng góp từ 13-15% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước đồng thời tạo việc làm cho gần 2 triệu lao động ,
trong đó chưa tính tới số lao động trồng dâu, nuôi tằm. Trong khi tốc độ tăng GDP
bình quân của cả nước tăng 5%/năm thì giá trị
xuất khẩu hàng dệt may tăng khoảng
20-25%/năm.
Hàng dệt may Việt Nam hiện đã hiện diện trên 150 nước, vùng và lãnh thổ
so với năm 2000 là 100 nước, vùng và lãnh thổ. Điều đó chứng tỏ hàng dệt may
Việt Nam đã có uy tín trên thị trường thế giới và có thể cạnh tranh được tại các thị
trường khác nhau, kể cả những thị trường khó tính như Nhật bản, EU, .
1.2.2.2, Ngành dệt may có tỉ su
ất lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh.
So với nhiều ngành khác ngành dệt may yêu cầu đầu tư thấp hơn nhiều, lại
sinh lợi nhanh. Chi phí đầu tư cho một chỗ lao động chỉ cần 600USD cho thiết bị
và 300USD cho nhà xưởng, điện nước mà thời gian thu hồi vốn nhanh có thể sau
3-3,5 năm, lợi nhuận cao. Việc đào tạo công nhân nhanh, có thể từ 2-2,5 tháng.
Chính vì thế, bước vào thời kỳ phát triển kinh doanh xuất khẩu, nhiều nước
như Nhật b
ản, Hồng Kông, Trung quốc đã lấy ngành may làm ngành chủ đạo và đi
lên từ ngành này. Kinh nghiệm cho thấy, việc phát triển ngành sản xuất và đẩy
mạnh xuất khẩu hàng dệt may là yêu cầu khách quan và là cứu cánh để tăng kim
ngạch xuất khẩu và phát triển kinh tế ở một số nước công nghiệp phát triển.
1.2.2.3, Phát triển ngành may là “động lực” cho các ngành khác.
Quá trình sản xuất và xuất nhập khẩu hàng dệt may là quá trình hợp tác và
liên kết toàn diện trên cơ sở phân công và hợp tác sản xuất phát huy hiệu quả lợi
thế trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong ngành. Mặt khác, với xu hướng
chung, các doanh nghiệp đã không ngừng hoàn thiện sản phẩm dệt may với chất
lượng ngày càng cao đáp ứng thị hiếu tiêu dùng ngày càng phong phú và đa dạng,
bảo đảm sức cạnh tranh có hiệu quả trên thị trườ
ng thế giới. Sản phẩm dệt may
xuất khẩu được sự hỗ trợ của các ngành công nghiệp phụ trợ và dịch vụ. Sự phát
17
triển của ngành dệt may kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch
vụ là tất yếu trong xu thế cạnh tranh gay gắt giữa các ngành sử dụng nhiều nhân
công hiện nay.
1.2.2.4, Ngành dệt may góp phần thực hiện thành công công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước:
Phát triển ngành dệt may thông qua việc cải tiến công nghệ, tăng năng suất
lao động, tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế
giới. Hơn nữa, thị hiếu về may mặc trong đời sống hiện đại ngày càng cao, đối thủ
cạnh tranh của ngành dệt may xuất khẩu không chỉ là đối thủ nước ngoài, các tập
đòan đầu tư trong nước mà còn chính các doanh nghiệp xu
ất khẩu trong nước. Nhờ
sự phát triển công nghệ qui mô toàn cầu và sự phân công và hợp tác lao động quốc
tế, mà ngành dệt may Việt Nam có khả năng “chen chân” vào thị trường thế giới.
Khách hàng đã “đổ” vào Việt Nam gia công hàng dệt may nhờ ngành dệt may đã
có nhiều năm tích lũy kinh nghiệm quản l y,có đội ngũ lao động biết nghề, thiết bị
ngày càng trang bị khá tiên tiến, chất lượng sản phẩm dệt may càng cao, giá nhân
công rẻ
.
Nhiều doanh nghiệp dệt may nhà nước trung ương, địa phương và các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác: công ty tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước
ngoài.. đã có tiếng trên thị trường châu Âu, châu Á, Bắc . Trong thực tế, ngành dệt
may đà có nhiều năm tích lũy kinh nghiệm quản ly , có đội ngũ, có đội ngũ lao
động biết nghề, thiết bị máy móc ngày càng được trang bị khá tiên tiến, chất lượng
sản phẩm ngành dệt may ngày càng cao, giá nhân công rẻ, tăng thêm sức cạnh
tranh cho hàng dệt may trên thị trường thế giới. Khách hàng nhiếu nước thấy mối
lợi đó đổ vào Việt Nam để gia công hàng dệt may.
1.2.2.5, Ngành dệt may góp phần giải quyết vấn đề việc làm và thúc đẩy
hình thành thị trường lao động và phân công lao động.
Ngành dệt may sử dụng nhiều lao động sống, phù hợp với các nước có
nguồn nhân công dồi dào như Việt Nam, hiên số lao động trong ngành dệt may là 2
triệu người (so với năm 2000 là 1,6 triệu người). Lương công nhân đã có sự gia
18
tăng đáng kể; 1-1,2 triệu đồng/tháng (năm 2002 là từ 700-800 ngàn đồng/tháng).
Ngành dệt may phát triển trên qui mô rộng lớn trong cả nước tạo thuận lợi cho
người lao động lựa chọn, thay đổi nơi làm việc thích ứng với mình, điều đó góp
phần thúc đẩy quá trình phân công lao động hợp ly trên qui mô toàn xã hội, tạo
điều kiện nâng cao tay nghề, trình độ khoa học kỹ thuật và kỷ luật công nghiệp,
nguy cơ bị th
ất nghiệp càng lớn thúc đẩy người lao động phải tự hoàn thiện mình.
Ngành dệt may tuy có vai trò tích cực, các doanh nghiệp dệt may thụ động
trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, không chủ động tìm “đầu ra”, “đầu vào”
cho sản xuất, chủ yếu là gia công xuất khẩu, làm chậm năng lực cạnh tranh của
ngành của quốc gia, làm chậm tiến trình phát triển kinh tế theo chiều sâu.
Phần lớn hàng dệt may của Việt Nam gia công theo mẫu mã thiế
t kế, nhãn
hiệu của nước ngoài, chưa có thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được vị thế của
nhãn hiệu của mình trên thị trường quốc tế, nên ngành dệt may của Việt Nam còn
phụ thuộc rất nhiều vào các đối tác nước ngoài.
Trong quá trình chuyển giao công nghệ, tiếp thu công nghệ mới, dổi mới
trang thiết bị, do trình độ chuyên môn nghiệm thu kém, nên có tình trạng nhập
khẩu máy móc lỗi thời, không phù hợp v
ới sự phát triển và đòi hỏi mới của ngành
dệt may, một phần gây thất thoát cho nhà nước, một gây khó khăn cho ngành dệt
may phát triển.
1.3, Các yêu cầu cấp thiết đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị
trường Mỹ:
Mỹ là thị trường tiêu thụ rộng lớn, được gán là “sân chơi” quốc tế cho các
ngành xuất khẩu của các nước trên thế giới. Các nước trên thế giới canh tranh về
giá, về chất lượng sản phẩm để có “chỗ đứng” tại thị trường này. Mỹ là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam hiện nay, sự hiện diện của sản
phẩm dệt may trong các chuỗi cửa hàng bán lẻ của Mỹ đã nói lên được vị thế của
hàng sệt may trên thế giới, là “bàn đạp” để xâm nhập vào các nước có mức tiêu
dùng lớ
n trên thế giới.
Từ bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia có ngành dệt may xuất
khẩu trên thế giới và thực tiễn ngành dệt may của Việt Nam đang mất dần lợi thế
19
so sánh là sử dụng nguồn lao động rẻ, dồi dào, chậm chuyển đổi cơ cấu theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lợi thế hóa, cùng với chính sách, cơ chế khuyến
khích xuất khẩu lạc hậu, chậm chuyển đổi theo xu hướng thế giới. Ngành dệt may
có các yêu cầu cấp thiết để mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ:
Các yêu cầu khách quan:
Việt Nam đã là thành viên chính thức của t
ổ chức thương mại thế giới
(WTO), Mỹ bãi bỏ chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt nam, tận dụng
những ưu đãi là thành viên của WTO và xuất khẩu không hạn chế vào Mỹ. Cơ chế
quản l y về giá của hàng dệt may xuất khẩu để tránh bị kiện cáo vể việc bán phá giá.
Mở rộng qui mô và đầu tư vào ngành dệt may xuất khẩu từ
chính phủ nhằm
tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Các yêu cầu chủ quan:
Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản và tòan diện về khoa học và công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến hiện
đại vào sản xuất quản ly.
Có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ lẩn nhau giữa các doanh nghi
ệp dệt
may xuất khẩu.
Đa dạng hóa các mặt hàng dệt may xuất khẩu; tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thiết kế mẫu mã, xây dựng thương hiệu cho hàng dệt may xuất khẩu.
Ngành dệt may phải có chính sách tiếp thị quảng cáo về sản phẩm dệt may,
tổ chức các cuộc thi tay nghề “bàn tay vàng”, các doanh nghiệp dệt may tham gia
vào các cuộc bình chọn “hàng Việt Nam chất lượng cao”, qua đó khẳ
ng định được
vị trí của sản phẩm dệt may của doanh nghiệp, nâng cao uy tín của sản phẩm.
Tăng cường xuất khẩu theo phương thức tự doanh, tăng tỷ lệ nội địa hóa của
sản phẩm dệt may đạt 60%.
Phát triển ngành dệt may xuất khẩu trên phạm vi toàn quốc và gồm mọi
thành phần kinh tế tham gia, tận dụng lợi thế của nhau (về nguồn vốn, phươ
ng
pháp quản ly, bí quyết công nghệ…).
20
Phát triển ngành dệt may theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước,
nhằm mục tiêu biến đất nước thành một nền kinh tế có cơ cấu Công nghiệp – Nông
nghiệp – Dịch vụ.
Yêu cầu đảm bảo hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội:
Việc phát triển ngành dệt may xuất khẩu gắn liền với công cuộc công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất n
ước, thúc đẩy các ngành kinh tế-công nghệ trực tiếp
(dệt, cơ khí, giấy, nhựa…) và liên quan (giao thông vận tải, bưu điện…) tham gia
hội nhập quốc tế khu vực nhằm sử dụng có hiệu quả những tiềm năng sẵn có về
nguồn lao động nước ta.
Như vậy, để thực hiện yêu cầu đặt ra cho ngành dệt may xuất khẩu, đòi hỏi
sự nỗ lực ph
ối hợp chặt chẽ giữa nhà nước và các doanh nghiệp trong việc đẩy
mạnh xuất khẩu.
Để thực hiện được các yêu cầu trên có hiệu quả, chúng ta cần xem xét kinh
nghiệm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Trung quốc vào thị trường Mỹ, từ
đó rút ra bài học cho ngành dệt may Việt Nam từ những thành công và thất bại của
họ.
1.4, Một số kinh nghiệm xuất khẩu hàng dệt –may sang củ
a Trung Quốc
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc vào Mỹ không những
lớn nhất mà còn có tốc độ tăng trưởng cao. Sau khi hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt
may được xóa bỏ giữa các nước thành viên WTO, xuất khẩu dệt may của Trung
Quốc vào Mỹ đã tăng vọt. Năm 2005, xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc vào Mỹ
xấp xỉ 27 tỷ USD, tăng 42,5 % so với năm 2004 và chiếm xấp xỉ
27 % tổng kim
ngạch nhập khẩu dệt may của Mỹ, vượt qua Mêhicô để trở thành bạn hàng lớn thứ
hai của Mỹ chỉ còn sau Canada. Tuy nhiên, sau khi Mỹ áp dụng trở lại hạn ngạch
đối với Trung Quốc từ tháng 5/2005 thì tốc độ tăng nhập khẩu hàng dệt may từ
nước này vào Mỹ đã chậm lại (xem bảng 1.8).
21
Bảng 1.8:
KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA TRUNG QUỐC VÀO MỸ
(2001-2006)
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Mặt hàng
Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá Trị giá %
Đvt: tỷ USD
Máy móc điện tử, thiết bị và phụ
tùng
20 24 28 40 53 65 22,52
Các ứng dụng trong hóa học, máy
móc, các phản ứng hạt nhân
14 20 30 44 53 62 21,66
Đồ chơi, trò chơi, thiết bị thể thao,
phụ tùng kèm theo
12 14 16 17 19 21 7,26
Bàn ghế, thiết bị trang trí nội thất 7 10 12 14 17 19 6,74
Giày dép 10 10 11 11 13 14 4,81
Hàng may mặc không dệt kim 4 4 5 7 10 12 4,13
Các sản phẩm liên quan sắt, thép 2 3 3 5 6 8 2,91
Hàng may mặc dệt kim 2 3 3 4 7 8 2,79
Nhựa và các sản phẩm có liên
quan
3 4 4 5 7 7 2,60
Các sản phẩm làm bằng da thuộc 4 4 5 6 6 7 2,34
Phương tiện vận chuyển và phụ
tùng
2 2 2 3 4 5 1,81
Sản phẩm dùng trong ytế 3 3 3 4 4 5 1,66
Các sản phẩm liên quan tới dệt
may
1 2 2 3 4 5 1,61
Gỗ, đồ gỗ 0,842 1 1 2 2 3 1,04
Các sản phẩm có liên quan đến
kim loại
0,985 1 1 2 2 3 1,04
Kim loại, đá quý tự nhiên 0,869 1 1 2 2 3 0,89
Đồ dự trữ báo cáo nhập khẩu đặc
biệt
0,784 0,957 1 2 2 3 0,87
Cao su và các sản phẩm liên quan 0,485 0,679 0,872 1 2 2 0,86
Hóa chất 0,713 0,816 1 1 2 2 0,76
Sắt và thép 0,192 0,245 0,222 1 1 2 0,76
Các mặt hàng khác 13 15 18 22 26 31 10,93
Tổng cộng 102 125 152 196 243 287 100,00
Nguồn: USITC
Sức mạnh cạnh tranh của Trung Quốc chủ yếu nhờ (1) chi phí lao lao động
trên mỗi đơn vị sản phẩm rất thấp do mức lương thấp và năng suất lao động cao; (2)
Trung Quốc có thể sản xuất các loại vải, phụ kiện trang trí, bao bì, và hầu hết các
phụ kiện khác dùng để sản xuất hàng dệt may và các sản phẩm dệt khác; (3) Trung
Quốc được giới chuyên môn đánh giá là một nơi tố
t nhất về sản xuất quần áo, và
các sản phẩm dệt may khác với bất kỳ chất lượng nào hay với bất cứ mức giá nào;
22
(4) Trung Quốc có khả năng cung cấp hàng dệt may với số lượng lớn trong thời
gian ngắn. Tuy nhiên, hiện tại, một số chủng loại dệt may Trung quốc đã bị Mỹ
hạn chế trở lại bằng hạn ngạch cho đến hết năm 2008.
Ở Việt Nam, một trong những lợi thế của ngành dệt may là giá nhân công rẻ,
dễ đào tạo, nhưng lợi thế này mất dần đi khi mức sống ở đô thị đang dần nâng cao,
nếu ngành may không dịch chuyển sản xuất vế các vùng nông thôn ( những nơi có
cơ sở hạ tầng thuận lợi, tương đối hoàn chỉnh về điện nước, giao thông…), hoặc
một công đ
oạn phù hợp với việc sản xuất không tập trung( thêu, kết cườm…) thì
khả năng cạnh tranh về giá sẽ giảm đi rất nhiều.
Từ những phân tích về vai trò của ngành dệt may hiện nay của Việt Nam,
các yêu cầu cấp thiết đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may, cùng với những đặc điểm
về đất nước con người Mỹ, kim ngạch hai chiều Việt – Mỹ t
ăng trưởng nhanh đã
tạo cơ sở vững chắc cho quan hệ hai bên cùng có lợi. Quan hệ thượng mại thuận
lợi đem lại cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư của cả Việt Nam
và Mỹ. Chúng ta nhận thấy cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị
trường Mỹ góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng trường kinh tế, và khẳng
đị
nh vị thế của ngành dệt may Việt Nam trên thế giới. Chúng ta đi vào phân tích
thực trạng nhu cầu về hàng dệt may tại thị trường Mỹ, và tình hình xuất khẩu hàng
dệt maycủa Việt Nam vào thị trường Mỹ trong những năm qua.
23
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ.
2.1, Thực trạng về nhu cầu hàng dệt may của thị trường Mỹ:
2.1.1, Những yêu cầu của thị trường Mỹ về ngành hàng dệt may:
2.1.1.1, Những quy định pháp luật về nhập khẩu hàng hóa của Mỹ:
Hệ thống pháp luật chặt chẽ, phức tạp, đội ngũ lobby, luật sư luôn tìm mọi
cách để tạo ra các sự kiện. Một thị trường có rất nhiều vụ tranh chấp về bán phá giá,
tự vệ và chống tự lập. Luật pháp chi phối môi trường kinh doanh ở Mỹ, và các
doanh nghiệp thường có thói quen kiện tụng, đưa nhau ra tòa để giải quyết các
tranh chấp thương mại. Tại một hộ
i thảo gần đây về quan hệ thương mại doanh
nghiệp Việt-Mỹ, luật sư Ross Meador, Chủ tịch Công ty Rogers & Meador, cho
rằng các doanh nghiệp cần lưu ý đến việc soạn thảo các hợp đồng và nên nhờ đến
các luật sư tư vấn để hạn chế những tranh chấp cũng như tránh bị thiệt hại từ
những quan hệ thương mại được điều ch
ỉnh bởi hợp đồng. Theo bà Lee Baker, cố
vấn pháp luật Hội đồng Thương mại Việt-Mỹ, khi ký hợp đồng với đối tác Mỹ, các
doanh nghiệp Việt Nam nên ký hợp đồng ngắn hạn, bảo đảm hợp đồng có thể tái
tục và được sửa đổi điều khoản; xác định chọn luật nào, trọng tài nào để xử lý
trong trường hợp có tranh chấp; nên chọn các quy định phán quyết củ
a tòa án Mỹ
vì các quy định phán quyết của tòa án Việt Nam có thể gặp khó khăn khi buộc các
doanh nghiệp Mỹ thi hành.
Hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ phải tuân theo các luật và qui
định về sản phẩm như:
Luât phân biệt sản phẩm sợi dêt (Textile Fiber Products Identification Act –
TFPIA) và các quy định của Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC) quy định các
sản phẩm sợi dệt nhập khẩu vào Mỹ phải được dán tem hoặc gắn nhãn hoặc đánh
dấu cung cấp những thông tin liên quan đến loại sợi trừ khi được miễn trừ theo
mục 12 của luật này). Trong trường hợp không phải là sản phẩm để bán hoặc phân
24
phối đến người tiêu dùng cuối cùng thì hóa đơn hay các giấy tờ khác có những
thông tin yêu cầu có thể sử dụng thay cho tem hoặc nhãn (phụ lục 2)
Luật nhãn hàng sản phẩm len (WPLA). Tất cả các sản phẩm có chứa sợi len
khi nhập khẩu vào Mỹ (trừ thảm, chiếu và các sản phẩm đã được sản xuất từ hơn
20 năm trước khi nhập khẩu) đều phải có tem hoặc gắn nhãn với những thông tin
theo yêu cầu của Luật nhãn sản phẩm len năm 1939 (Wool Products Labeling Act
1939) và các quy định dưới luật do FTC ban hành (phụ lục 3).
Quy định về nhãn sử dụng (Care Labeling) yêu cầu các nhà sản xuất và
nhập khẩu quần áo và các sản phẩm dệt phải cung cấp những chỉ dẫn thông thường
về bảo quản sản phẩm tại thời điểm những sản phẩm đó được bán cho người mua
hay thông qua việc sử dụ
ng các ky hiệu về bảo quản hay các cách đọc khác được
mô tả trong quy định này (phụ lục 4). Quy định về nhãn hiệu hay quyền sở hữu
công nghiệp rất chặt chẽ. Nhãn hiệu phải dính liền sản phẩm viết bằng tiếng Anh
dễ hiểu (nếu nhãn hiệu bị mất hoặc không có, Hải quan sẽ không cho nhận hàng
hoặc buộc phải nộp tiền phạt có khi tới 10%). Những nhãn hiệu bắt ch
ước hoặc vi
phạm quyền sở hữu sẽ không cho nhập khẩu hoặc sẽ bị cấm nhập khẩu.
Thủ tục hải quan cũng rắc rối: các doanh nghiệp nhập khẩu của Mỹ phần
lớn thuê các nhà môi giới để làm các thủ tục hải quan (thường được gọi là Customs
Broker) chứ không trực tiếp làm thụ tủc tục hải quan. Vì thế, theo các chuyên gia
về pháp luật, một vướng m
ắc mà doanh nghiệp hay gặp là thủ tục hải quan khi xuất
khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ; phần lớn những trục trặc về thủ tục này rơi vào
trường hợp doanh nghiệp chưa biết cách điền vào tờ khai, khai không đúng số
lượng, chi tiết về hàng hóa trong bảng kê…Hải quan Mỹ sẽ căn cứ trị giá trên hóa
đơn thương mại làm cơ sở để tính thuế, và coi đó là giá trị th
ực của hàng hóa, cho
nên ngoài chi tiết thông thương trên hóa đơn thương mại cần ghi đầy đủ các chi tiết
như: chiết khấu, giảm giá, cước phí, lệ phí…
Đối với hàng dệt may việc khai báo xuất xứ hàng hóa rất quan trong và cần
thiết, đó là yêu cầu phải xuất trình khi làm thủ tục hải quan. Cơ quan Hải quan và
Bảo vệ biên giới Mỹ mới ra một quy định tạm thời về việc khai báo xuất xứ hàng
d
ệt may. Theo đó sẽ hủy bỏ quy định cũ về khai báo (19 CFR 12.130) đối với tất cả
25
hàng dệt và may và thay vào đó, các nhà nhập khẩu phải khai báo mã số của nhà
sản xuất (Manufacturer Identification Code - MID). Quy định này sẽ được áp dụng
cho tất cả hàng dệt may nhập khẩu từ tất cả các nước, bao gồm cả các mặt hàng
may mặc bị áp dụng điều khoản tự vệ đặc biệt và các nước chưa là thành viên của
WTO mà vẫn phụ thuộc vào hiệp định hàng dệt may song.Với việc loại bỏ t
ờ khai
hàng dệt may, quy định mới này (tên văn bản 19 CFR 102) đã được sửa đổi và nêu
ra những yêu cầu về xuất xứ đồng thời hướng dẫn cách thức xây dựng mã code của
nhà sản xuất. Hải quan Mỹ cho biết, nhà nhập khẩu (hoặc môi giới hải quan) là
người sẽ xác định MID dựa trên những thông tin về công ty, điền vào các mẫu khai
hải quan khi làm thủ tục nhập khẩu.Trường hợp c
ơ quan Hải quan tại một cảng nào
bất kỳ thấy nghi ngờ về khai báo MID không đúng, cảng có thể yêu cầu sửa chữa
thông tin sau khi hàng đã qua cửa khẩu. Những lỗi lặp lại về việc xác định MID khi
nhập khẩu hàng dệt may sẽ đưa đến việc đánh giá mức phạt đối với nhà nhập khẩu
hay môi giới hải quan do không lưu tâm đúng mức.
2.1.1.2, Hệ thống phân phối hàng hóa c
ủa thị trường Mỹ
Mỹ là thị trường tiêu thụ khổng lồ, nhiều nước quan tâm. Mỹ là một trong
những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Hệ thống phân phối hàng của
Mỹ rất phong phú rất chuyên biệt được phân thành 7 loại:
(1) Công ty chuyên doanh: nơi đây thường phân phối những nhãn hiệu nổi
tiếng, những lọai hàng đặc biệt có giá cả đắt đỏ;
(2) Cửa hàng siêu thị
(3) Cử
a hàng bán lẻ quốc gia: đây là hệ thống cửa hàng kinh doanh những
mặt hàng giống nhau trải rộng đất nước;
(4) Cửa hàng siêu thị bình dân: cũng giống như cửa hàng siêu thị nhưng ở
nơi đây bán những hàng bình dân giá cả rẻ hơn;
(5) Cửa hàng giảm giá: hệ thống cửa hàng này thường bán với giá giảm hơn
các loại khác, niêm yết các loại giá đã giảm vào ngày giờ cụ thể;
(6) Cửa hàng bán lẻ qua mail, b
ưu điện…: đây là hình thức phổ biến ở Mỹ,
người dân bận rộn làm việc không có thời gian đi mua sắm, đây là kênh phân phối
mà người Mỹ rất ưa thích vì sự tiện lợi;