Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém môn toán lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.79 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
I. Lý do chọn đề tài 1
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu 2
1. Mục đích 2
2. Phương pháp 2
III . Giới hạn của đề tài 2
B. PHẦN NỘI DUNG 2
I . Cơ sở lý luận 2
II . Cơ sở thực tiễn 2
III . Thực trạng 3
1. Thuận lợi 3
2. Khó khăn 3
IV . Các biện pháp giải quyết vấn đề 4
1. Thực hiện định hướng trong việc dạy bài mới và dạy thực hành luyện tập: 4
2. Về phía giáo viên: 4
3. Giải pháp: 5
V . Hiệu quả 9
C. KẾT LUẬN 10
I . Ý nghĩa 10
II . Khả năng áp dụng 10
III . Bài học kinh nghiệm 10
Tài liệu tham khảo 12
A: PHẦN MỞ ĐẦU:
I. Lí do chọn đề tài:
Để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri
thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
Trong việc dạy học toán, xuất phát từ một nhận định rằng mọi học sinh có sức khỏe
bình thường đều có thể tiếp thu được kiến thức chương trình của lớp mình học. Nhưng bên
cạnh đó hiện tượng có không ít học sinh kém toán do nhiều nguyên nhân như: các học sinh


ấy chưa có điều kiện tốt để học tập, do sức khoẻ, do bệnh tật và cũng có thể do giáo viên
chưa quan tâm… Dạy học môn toán không chỉ dạy cho học sinh có trí thông minh, hay
năng khiếu đặc biệt nào. Mà mỗi người giáo viên có trách nhiệm cần phải làm và làm thể
nào cho mọi học sinh của lớp mình đều tiếp thu được những kiến thức và kỹ năng tối thiểu
mà chương trình và sách giáo khoa quy định.
Từ đó không thể nói mọi học sinh đều tiếp thu kiến thức được như nhau. Trong điều
kiện học tập như nhau, có học sinh có thể nắm kiến thức toán học rất nhanh chóng và sâu sắc
mà không cần một sự cố gắng đặc biệt, trong khi các em khác lại không đạt được kết quả
như vậy mặc dù cố gắng nhiều, đó chính là các em yếu, kém về môn toán.Vậy làm thế nào
để giúp những học sinh yếu kém về môn toán có thể tiếp thu được những kiến thức và kỹ
năng tối thiểu chương trình và sách giáo khoa quy định. Đó là điều không chỉ bản thân
chúng tôi trăn trở suy nghĩ mà còn là nỗi lo chung của toàn bộ giáo viên khi trong lớp mình
có những học sinh yếu kém môn toán. Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo
học sinh yếu không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặt
khác, nếu quan tâm đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến
lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ
cập giáo dục tiểu học ở địa phương.
Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng
dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu. Đây sẽ là nền tảng, là
động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa
trên con đường học vấn của mình.
Từ những suy nghĩ trên, bản thân đã mạnh dạn chọn đề tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÚP ĐỠ HỌC SINH YẾU KÉM MÔN TOÁN Ở LỚP 3 ”

1
II. Mục đích và phương pháp:
1. Mục đích :
- Tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất lượng phụ đạo học sinh yếu
chưa đạt hiệu quả cao. Và từ đó sẽ có những biện pháp khắc phục phù hợp.
2. Phương pháp :

Khi thực hiện sáng kiến này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp vấn đáp
III. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI:
- Giúp học sinh khối lớp 3 của trường Tiểu học An Thạnh 1 để phụ đạo học sinh
yếu toán học tốt hơn theo sách giáo khoa Toán lớp 3.
B. PHẦN NỘI DUNG :
I Cơ sở lý luận:
Qua những năm trực tiếp giảng dạy, bản thân cũng nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí lứa
tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, quan tâm của
gia đình, thầy cô và có một môi trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích, say mê và nỗ lực
trong học tập. Điều này có tác động rất lớn đến các em là học sinh yếu, giúp các em tự tin
hơn trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh yếu hay nói khác hơn, để nâng cao chất
lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình mà là của toàn xã hội. Vì
vậy, đây là động lực để những ai đang làm công việc “trồng người” luôn cố gắng tìm ra
phương pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng HS yếu.
II. Cơ sở thực tiễn:
Khảo sát tình hình học yếu của học sinh lớp 3 hiện nay.
Tiếp cận với học sinh, các bậc phụ huynh học sinh để tìm ra những biện pháp có hiệu
quả nhất trong việc phụ đạo học sinh yếu.
Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục.
Bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”
2
III. THỰC TRẠNG :
1. Thuận lợi:
- Đối với học sinh lớp 3 là lớp giữa cấp của bậc tiểu học nên ý thức, động cơ học tập

của các em chưa cao.
Học sinh lớp 3 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía. Trong đó, bạn
học với vai trò “ Đôi bạn cùng tiến” đã giúp các em học sinh yếu giảm bớt phần nào khó
khăn trong học tập.
Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh đặc
biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám Hiệu và Đoàn thể nhà trường.
Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khoán nội dung
chương trình cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân môn, từng bài học. Vì
vậy, việc giúp đỡ các em trên lớp dễ dàng hơn, chủ động hơn.
2. Khó khăn
Như đã nêu, đối tượng học sinh yếu có những khác biệt. Và hơn thế nữa, trong từng cá
nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về phong cách nhận thức.Vì vậy, mỗi dạng đối
tượng cần có sự tác động khác nhau.
Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, môn học xếp loại yếu khi điểm học
lực môn dưới 5. Nhưng trong thực tế, những học sinh yếu môn Toán, thì những môn học
khác cũng bị ảnh hưởng. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò rất cao.
Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ
ly hôn, cuộc sống không ổn định hoặc là gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số, ít quan
tâm đến việc học.
Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục:
Đội ngũ giáo viên
Cơ sở vật chất
Chất lượng đầu vào.
Trước những thách thức đó đòi hỏi người thầy phải nỗ lực bản thân, kiên trì, bền bỉ
cùng nhà trường khắc phục khó khăn và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục.

3
Thực tế, trong lớp 3 mà bản thân chúng tôi chủ nhiệm, có một số học sinh thuộc con em gia
đình đồng bào dân tộc, một số học sinh thuộc con em gia đình lao động nghèo, vì cuộc
sống mưu sinh, vì mãi lo cho kinh tế gia đình, một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học

tập của con em mình. Điều này phần nào đã ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em.
IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực hiện định hướng trong việc dạy bài mới và dạy thực hành luyện tập:
Trong dạy bài mới: Giúp học sinh:
- Tự phát hiện và giải quyết các vấn đề của bài học.
- Tự chiếm lĩnh tri thức mới.
- Hướng dẫn học sinh cách thức phát hiện, chiếm lĩnh tri thức.
- Thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học.
-
Thực hành cách diễn đạt thông tin bằng lời nói, bằng kí hiệu.
Trong dạy bài thực hành luyện tập: Giáo viên cần tổ chức và động viên mọi học sinh
tham gia vào hoạt động thực hành luyện tập.
- Giúp học sinh nhận ra kiến thức mới học và quy trình vân dụng các kiến thức đó
trong các dạng bài tập khác nhau.
- Giúp học sinh thực hành, luyện tập theo khả năng của mình. Chấp nhận thực tế: có
những học sinh làm ít hơn hay nhiều hơn số lượng bài tập đưa ra.
- Tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ nhau giữa các đối tượng học sinh.
- Khuyến khích học sinh tự kiểm tra kết quả thực hành luyện tập
- Tập cho học sinh thói quen không thoả mãn với bài làm của mình, với các cách giải
mã đã có.
Tóm lại, cần thông qua các hoạt động thực hành, luyện tập làm cho các em thấy học
không chỉ để biết, để thuộc mà còn để làm, để vận dụng.
. 2. Về phía giáo viên:
Nguyên nhân học sinh học yếu không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần ảnh
hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có thể
thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình độ
học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở đây giáo viên phải biết lựa chọn
4
phương pháp dạy học nào là phù hợp với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến

thức.
Qua quá trình công tác bản thân nhận thấy, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý
quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu. Chưa tìm tòi nhiều phương
pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm
hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình
trạng học sinh học yếu mà chúng tôi nhận thấy trong quá trình công tác. Qua việc phân tích
những nguyên nhân đó, chúng tôi đưa ra một số biện pháp để giáo dục, phụ đạo học sinh
yếu. Trong phạm vi của bài viết, chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh yếu ở môn Toán
3. Giải pháp:
- Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông
qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học
sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình.
Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng
hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà
hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình.
Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ
như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em hoàn
thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng cách ghi hoa điểm mười
để thưởng.
-Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh.
Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn
có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng
em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài
chậm, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát…
Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách
nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức
năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này.

5

Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều
kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Trong dạy học cần phân
hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ,
những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng
bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của
một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các
em.
Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp
giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi trong
một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn
các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề.
-Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự hứng thú trong
học tập, không để tình trạng học sinh đứng bên lề tiết dạy. Từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý
thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học
sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ
ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và
nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép
việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học
sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý
thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con
em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân
tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia
đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
- Kèm cặp học sinh yếu:
Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu là
bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo.

6


TỔNG HỢP KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG MÔN TOÁN ĐẦU NĂM

Lớp Tổng số học sinh
Học sinh yếu kém toán
Đầu năm

3 32
Số lượng T.L%
10 31,3 %
Như lớp 3 mà bản thân tôi chủ nhiệm, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có
6 học sinh yếu trong đó có 2 học sinh lớp 3 và tất cả 10 em này đều thuộc hộ nghèo trong
Phường, bản thân đã lên kế hoạch phụ đạo cho các em.
Lập danh sách học sinh yếu và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong
mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi
các em trả lời đúng,…
Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ huynh tìm biện
pháp khắc phục.
- Những biện pháp cụ thể:
a. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán và biện pháp khắc
phục
Trong lớp chủ nhiệm có một số em thì hầu như là không biết tính khi học toán. Nguyên
nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu biểu: Không nắm được
các phép tính cộng, trừ có nhớ, không thuộc bảng nhân, bảng chia. Vì vậy, các em cũng
không nắm được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Không nắm được lí thuyết bài (công
thức, quy tắt).
Không nắm được cấu tạo số tự nhiên ( cách đặt tính)…
Vậy, đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các em
hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ, giáo
viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hành đếm.

Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em
không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt 15
phút đầu giờ, giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình
huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện.

7
Ôn lại các cách đặt tính. Giáo viên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản
đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số thuộc cùng một hàng.
Ví dụ: 235 + 345
Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có 2 chữ số với số có 3 chữ số.
Ví dụ: 46 +123
Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hoặc từ
lớn đến nhỏ, thì mới tính toán chính xác được.
Bên cạnh những học sinh không biết tính thì có những em tính còn yếu. Nguyên nhân
các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng
chưa thành thạo dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng,
trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng.
Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo
cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các
em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và không biết tính
hoặc tính thiếu chính xác.
Vậy đối với những học sinh tính yếu thì giáo viên cần:
Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ đơn
giản.
Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm tắt và trình
bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số và yêu
cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc giờ luyện vào buổi
chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai (nếu có) kịp thời.
Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản.
Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp.

Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.
Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn thường
trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, nhờ giáo viên giúp đỡ khi cần.
Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem trước
bài mới.

8
Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và động viên
kịp thời.
Tóm lại:
Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu, biện pháp lâu
dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua những phương pháp dạy học
tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu cầu vì nguồn gốc của tính tích
cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó
chính là khả năng tự học.
Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản thân luôn
luôn hướng các em theo khẩu hiệu “Học vì ngày mai lập nghiệp”. Học để hiểu biết, học để
trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Bản thân cũng
tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích hợp trong công tác phụ đạo học sinh
yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của các em ngày một được nâng
cao.
III. HIỆU QUẢ:
Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo điều kiện
cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề ra những giải pháp
trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó giúp học sinh dễ dàng
hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những hạn chế của bản thân. Vì
vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực
tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng cho vào việc đổi mới dạy và phụ đạo học sinh
yếu các lớp 3 đạt hiệu quả.
Đặc biệt trong năm học này, Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm thì việc phụ đạo học

sinh yếu trong lớp 3 bản thân tôi chủ nhiệm lớp đến thời điểm nầy học sinh có tiến bô.
TỔNG HỢP ĐIỂM THI MÔN TOÁN ĐỊNH KÌ LẦN III
Lớp Tổng số học sinh
Học sinh yếu kém toán
Định kì lần III
3B 32
Số lượng T.L%
0 0%
9
C. KẾT LUẬN:
I. Ý nghĩa :
Đây sẽ là một tài liệu nhỏ để các đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những
tình huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm
của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách
nhiệm về mình.
Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương châm
“Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẽ của bạn
bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh yếu. Đây là
một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu đề tài thiết thực hơn và thực
hiện viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất.
II. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:
- Đề tài mang tính thực tiễn trong dạy học, việc tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy học
toán nói chung, nội dung phương pháp dạy học phép nhân, phép chia số tự nhiên nói riêng
là rất cần thiết.
- Đề tài được áp dụng vào giảng dạy phép nhân, phép chia các số tự nhiên theo sách giáo
khoa cho học sinh khối lớp 3 Trường Tiểu học An Thạnh 1 trong năm học 2011- 2012 đạt
hiệu quả.
III. Bài học kinh nghiệm :
Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học
sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm cần:

Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương
pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với
chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong
trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải
luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp
với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của
các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.

10
Học sinh lớp 3 cũng thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình
phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an tâm
học tập.
Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh
với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn
rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học
của mình. Cùng với lòng nhiệt tình của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân
các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em. Và có lẽ rằng,
vai trò của chúng ta đã hoàn thành.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh yếu. Trong bài viết
chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy, cô đóng góp, sửa chữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

Hội đồng xét duyệt của trường
Xếp loại:………….
CTHĐ
An Thạnh, ngày 15 tháng 4 năm 2012
Người viết
11

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán lớp 3 - Đỗ Đình Hoan, Nguyễn Áng, Đỗ Tiến Đạt, Đỗ Trung
Hiệu, Trần Diên Hiển, Đào Thái Lai, Phạm Thanh Tâm, Vũ Dương Thụy. NXB Giáo dục
NXB GD. H.2011.
2. Sách giáo viên Toán 3 - Đỗ Đình Hoan, Nguyễn Áng, Đỗ Tiến Đạt, Đỗ Trung
Hiệu, Trần Diên Hiển, Đào Thái Lai, Phạm Thanh Tâm, Vũ Dương Thụy. NXB Giáo dục,
H.,2004
3. Vở Bài tập Toán 3- Đỗ Đình Hoan, Nguyễn Áng, Đỗ Tiến Đạt, Đỗ Trung Hiệu,
Trần Diên Hiển, Đào Thái Lai, Phạm Thanh Tâm, Vũ Dương Thụy. NXB Giáo dục,
H.,2005
4. Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở Tiểu học. NXB Giáo
duc, H., 2009
5. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học- Đỗ Trung Hiệu, Đỗ Đình hoan, Vũ
Dương Thụy, Vũ Quốc Chung. Nxb Giáo duc, H., 2001.
6. Giáo trình Tâm lí học Tiểu học- PGS.TS Bùi Văn Huệ- NXB Giáo dục, H.,2001
7. Ôn tập- Kiểm tra đánh giá Toán 3 ( Theo chuẩn kiến thức kĩ năng)- Đỗ Trung
Hiệu, Vũ Văn Dương, Hoàng Lê Mai. NXB Giáo dục Việt Nam.
12

×