Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

skkn MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP ĐỠ HỌC SINH YẾU KÉM KHẮC PHỤC NHỮNG KHÓ KHĂN KHI GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.73 KB, 31 trang )

PHÒNG GD & ĐÀO TẠO
HUYỆN ĐIỆN BIÊN ĐÔNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC CHUA TA
&
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
VỀ NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM
TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP ĐỠ HỌC SINH YẾU KÉM KHẮC PHỤC
NHỮNG KHÓ KHĂN KHI GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN Ở LỚP 2
Người thực hiện: Đinh Thị Hòa
Điện Biên Đông - Điện Biên, tháng 9 năm 2011
1
Phần I: MỞ ĐẦU
I - Lý do chọn đề tài:
Cùng với các môn học khác ở bậc tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng
quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của
thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một
số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy
nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ
độc lập, linh động sáng tạo cho học sinh. Mặt khác các kiến thức, kĩ năng môn toán ở
tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế.

Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt nhiều năm đứng lớp
ở khối 2, tôi thấy: Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình toán ở
tiểu học.Các em được làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp học, đặc biệt ở lớp 2
yêu cầu các em viết lời giải cho phép tính Có thể nói, đây thực là một khó khăn cho
học sinh khi học giải toán có lời văn. Đọc một đề toán đang còn là khó đối với các em
vậy mà còn tiếp tục phải: Tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính đáp
số Và thực tế cho thấy không phải học sinh nào cũng học tốt giải toán có lời văn,đối
tượng học sinh yếu, kém khi học môn toán này vẫn luôn tồn tại, tuy nhiên về số
lượng học sinh yếu kém,nhiều hay ít và mức độ tiến bộ của học sinh yếu kém nhanh


hay chậm trong quá trình được giáo dục và rèn luyện mới là điều đáng quan tâm của
riêng mỗi nhà trường. Vì vậy đây cũng là một vấn đề mà chúng tôi luôn trao đổi, thảo
luận trong những buổi sinh hoạt chuyên môn, tích lũy nghiệp vụ do nhà trường tổ
chức. Làm thế nào để học sinh hiểu được đề toán, viết được tóm tắt, nêu được câu lời
giải, phép tính đúng. Điều đó đòi hỏi rất nhiều công sức và nỗ lực không mệt mỏi của
người giáo viên đứng lớp.

Là một giáo viên đã có nhiều năm trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy ở khối lớp
2, đứng trước thực trạng trên tôi thấy người giáo viên cần có một tâm huyết, tinh thần
2
cao và đặc biệt cần phải có một nhiệm vụ và trách nhiệm khắc phục ngay thực tế trên,
sự nghiệp trồng người đồi hỏi người giáo viên cần phải nỗ lực hết mình để giúp cho
học sinh của mình phát triển một cách toàn diện.Chính vì lý do đó nên tôi đã chọn đề
tài" Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém khắc phục những khó khăn khi giải
toán có lời văn ở lớp 2.
II - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Thực hiện đề tài này tôi nhằm mấy mục đích sau đây:
- Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn ở lớp 2.
- Tìm một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém giải toán có lời văn.
- Rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ và kĩ năng tính toán cho học sinh khi học toán.
- Định hướng cho học sinh hoạt động theo hướng tích cực( lấy học sinh làm trung
tâm).
- Tập dượt nghiên cứu khoa học.
III- NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
- Tìm hiểu phương pháp dạy học toán ở lớp 2.
- Tìm hiểu để lựa chon những phương pháp giúp đỡ học sinh yếu kém khắc phục
những khó khăn khi giải toán có lời văn ở lớp 2.
- Điều tra thực trạng việc dạy và học của giáo viên và của học sinh trường tiểu học
đối với môn toán
- Lựa chon một số dạng toán điển hình để rèn kĩ năng giải toán cho học sinh.

- Bước đầu đề xuất một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng học toán điển
hình ở lớp 2.
IV - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
3
2.Thực hành giải toán tiểu học.
3.Phương pháp điều tra quan sát.
4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
5.Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
V - PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.

1/ Phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ đề tài này,vì điều kiện thời gian có hạn nên tôi chỉ nghiên cứu
một số dạng toán lớp 2 như:
- Bài toán về nhiều hơn ,ít hơn.
- Tìm số bị chia, số trừ
- Tìm số hạng chưa biết.
- Tính chu vi, độ dài đường gấp khúc.
2/ Đối tượng nghiên cứu:
* Đối tượng: Các dạng toán có lời văn trong chương trình toán lớp 2.
* Địa bàn: Học sinh lớp 2 trường Tiểu học Chua Ta - Điện Biên Đông - Điện Biên.
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
Cơ sở lý luận và thực tiễn của giải toán có lời văn lớp 2.
I - CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Vai trò của giải toán có lời văn lớp 2.

Việc dạy môn toán cho học sinh lớp 2 nói riêng nó có một vị trí rất quan trọng có
thể coi như" Hơn đá thử vàng" của dạy học toán trong một chương mục nào đó. Có
4

thể coi làm tính, giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất hoạt động trí
tuệ của học sinh.
Dạy học môn toán giúp học sinh luyện tập, củng cố vận dụng những kiến thức và
những kĩ năng thực hành vào thực tiễn, từ đó giúp học sinh phát triển năng lực, tư
duy, rèn luyện phương pháp kĩ năng suy luân, lô gic. Khơi dậy và tập dượt khả năng
quan sát phỏng đoán tìm tòi. Ngoài ra còn rèn luyện cho học sinh ý chí khắc phục khó
khăn, thói quen cẩn thận chu đáo, làm việc có kế hoạch, ham thích tìm tòi sáng tạo từ
mức đơn giản nhất và nâng cao dần lên.
Việc làm tính giải toán vừa đòi hỏi tính tích cực, độc lập sáng tạo trong suy luận
vừa đòi hỏi một khả năng thực hành.
Học sinh tiểu học và học sinh ở lứa tuổi lớp 2 thường hiếu động thích cái mới,
những gì các em thích thì các em tìm tòi để tìm ra kết quả mà các em mong muốn, và
ngược lại những gì các em vướng mắc thì các em cũng dễ nhàm chán không tập
trung suy nghĩ vào bài làm của mình. Một đặc điểm nữa là các em tiếp thu kiến thức
nhanh xong thiếu khoa học và thường làm theo kiểu rập khuôn máy móc. Chính vì
vậy các giờ toán sau khi học xong lý thuyết chuyển sang luyện tập thực hành thì các
em làm tính giải toán khá thành thạo và chính xác nhưng khi hỏi đến thì các em
không giám khẳng định bài làm của mình là đúng.
Sự chú ý của học sinh lớp 2 nói chung là sự chú ý không chủ định thiếu bền
vững nhất là những vấn đề trìu tượng ít thay đổi, khả năng phân tích tổng hợp còn
hạn chế, dễ bị kéo vào những hình ảnh trực quan, gợi cảm.
Chính vì thế việc giải toán bồi dưỡng cho các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận,
cần cù chịu thương chịu khó trong học tập, làm việc khoa học có kế hoạch, thói quen
tự kiểm tra công việc của mình, có óc suy nghĩ độc lập, óc sáng tạo và phát triển tư
duy. Tin tưởng vào sự hiểu biết của bản thân.
Phần lớn nội dung trong SGK là dành cho các bài toán. Kết quả học tập môn
toán của học sinh thường được đánh giá qua các kĩ năng giải các bài toán
Giải toán giúp học sinh hình thành kĩ năng kiến thức đã học, rèn kĩ năng trình
bày diễn đạt, kĩ năng phân tích tổng hợp,phát triển óc sáng tạo và vận dụng kiến thức
vào thực tế đời sống. Đồng thời giải toán giúp giáo viên dễ dàng phát hiện những ưu

5
điemr hoặc những kiến thức thiếu sót của học sinh. Từ đó dễ dàng tìm giải pháp cho
học sinh phát huy ưu điểm khắc phục những kiến thức bị hổng, những khó khăn khi
sử dụng ngôn từ trong lời giải.
Điều quan trọng của việc dạy giải toán giúp học sinh biết cách tự giải quyết
vấn đề thường gặp trong đời sống, các vấn đề này được nêu dưới dạng các bài toán có
lời văn. Đây là sự vận dụng có tính chất tổng hợp các kiến thức kĩ năng, phương pháp
suy nghĩ và giải quyết vấn đề học được trong môn toán. Có ý nghĩa là đã đạt được
một bước tiến cao, thành quả học tập tốt.
2/ Nội dung cơ bản của một số dạng toán lớp 2:
Dạng 1: Các bài toán về nhiều, hơn ít hơn, phép nhân phép chia:
- Cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100
- Nhận biết mối quan hệ số lượng
- Cộng trừ không nhớ trong phạm vi 100
- Bảng nhân, bảng chia( từ 2 đến 5)
Dạng 2: Đại lượng và đo đại lượng:
- Giới thiệu đơn vị đo độ dài
- Giới thiệu đơn vị đo thời gian: Tuần lễ, ngày trong tuần, biết xem lịch, xem đồng
hồ.
Dạng 3: Các bài toán có yếu tố hình học:
Tính độ dài đường gấp khúc, tính chu vi.
3/ Chuẩn kiến thức kĩ năng.
- Biết tự tóm tắt bài toán bằng cách ghi ngắn gọn hoặc bằng sơ đồ, hình vẽ.
- Biết giải và trình bày bài giải các bài toán có 2 phép tính trong đó có các bài toán:
+ Bài toán về nhiều hơn , ít hơn.
+ Tìm số bị chia , số trừ.
+ Tìm số hạng chưa biết.
+ Tính chu vi độ dài đường gấp khúc.
- Học sinh nắm được các bước giải một bài toán có lời văn.
* Năng lực cần để giải quyết vấn đề:

6
- Học sinh đọc được đề toán - tự tóm tắt bài toán - nhận ra tìm ra các thông tin có
trong bài toán, cụ thể:
+ Học sinh nhận ra thông tin cái đã biết trong bài toán.
+ Nhận ra các thông tin đó để kết nối giữa các thông tin và tìm cách để xử lý thông
tin.
+ Xác định được nhiệm vụ phải thực hiện để giải quyết vấn đề.
+ Sử dụng ngôn ngữ chính xác hợp lý để diễn đạt bằng lời hoặc viết lời giải, phép
tính, suy luận lo gic chặt chẽ.
+ Học sinh biết cách lựa chọn cách giải quyết vấn đề một cách hợp lý.
II - CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1/ Thực trạng về việc dạy học giải toán có lời văn lớp 2 của giáo viên và học sinh ở
một số trường Tiểu học thuộc địa bàn huyện Điện Biên Đông - Tỉnh Điện Biên.
* Về việc dạy của giáo viên:
- Ưu điểm:
- Hiện nay nghành giáo dục đang triển khai chương trình dạy học mới, nội dung
mới, chương trình mới, phương pháp mới phù hợp với mục tiêu giáo dục và sự phát
triển của đất nước.Nội dung này được triển khai một cách đồng bộ ở các trường tiểu
học nói chung (trường tiểu học Chua Ta nói riêng).
- Giáo viên đã được tập huấn một cách tốt nhất.Vì vậy họ chủ động tiếp thu
chương trình mới, phương pháp dạy học mới nhằm nâng cao việc truyền thụ kiến
thức cho học sinh.
- Nhược điểm:
+ Đội ngũ giáo viên về chuyên môn không đồng đều có một số giáo viên chưa
qua đào tạo chuẩn nên việc tiếp thu chuyên đề gặp nhiều khó khăn.
+ Nhiều giáo viên chưa chịu đầu tư nghiên cứu tài liệu mà còn phụ thuộc nhiều
vào SGV, thiết kế bài giảng mới chỉ cung cấp kiến thức cho học sinh ở mức độ
"nông" mà chưa " sâu".
+ Một số giáo viên nói là đổi mới phương pháp nhưng thực chất họ áp dụng một
cách gò bó, ép buộc và đặc biệt là rất máy móc chưa phát huy được tính sáng tạo của

7
học sinh.Chính vì thế mà học sinh không có hứng thú học tập- các hình thức học tập
nghèo nàn đơn điệu.
+ Trong quá trình dạy học giáo viên chưa nắm được hết các điểm yếu, các chỗ
hổng trong kiến thức của từng học sinh yếu kém để tập trung bù đắp, bổ sung kiến
thức.
* Về việc học của học sinh:
- Ưu điểm:
+ Học sinh đã phát huy được tính tích cực học tập sáng tạo, là người lĩnh hội tri
thức dựa trên sự hoạt động của giáo viên. Vì vậy học sinh rất phấn khởi và chủ động.
+ Hệ thống bài tập có nhiều cách thể hiện mới, có bài tập là cả một trò chơi thú
vị, phù hợp với tâm lý trẻ tiểu học. Vì thế các em đua nhau khám phá ra các tri thức
mới.
- Nhược điểm:
Đối với học sinh: Việc dạy và học dạng" dạng toán có lời văn" còn gặp rất
nhiều khó khăn nhất là đối với học sinh vùng cao. Học sinh lớp 2 đang trong giai
đoạn làm quen với làm tính, giải toán tư duy của các em còn hạn chế, khả năng suy
luận còn thấp.
Nhất là đối với học sinh vùng cao 100% là người dân tộc thiểu số, khả năng tư
duy kém, khả năng phân tích suy luận, tổng hợp còn rất nhiều hạn chế, các em
thường thiếu tự tin khi giải bài toán có lời văn.
Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì kĩ
năng đọc thành thạo của các em chưa cao,nên các em đọc được đề toán và hiểu đề
còn thụ động chậm chạp. Nó khiến cho tỉ lệ học sinh yếu, kém trong giải toán có lời
văn ngày càng cao.
2/ Nguyên nhân dẫn đến thực trạng:
Qua thống kê việc học sinh giải toán tôi thấy các em có những sai lầm trong
cách giải toán như sau:
- Chưa đọc kĩ đầu bài, nên chưa xác định đúng yêu cầu của bài.
- Nhầm lẫn các " Dữ kiện, điều kiện,yêu cầu phải tìm"dẫn đến làm sai phép tính giải.

8
- Còn gặp khó khăn trong việc tóm tắt đề toán( nhất là những bài toán bằng sơ đồ
đoạn thẳng).
- Chưa tạo được hứng thú học tập tích cực trong học sinh.
- Hình thức dạy học chưa thực sự đa dạng, phong phú nên học sinh không có hứng
thú tiếp nhận kiến thức mới, dẫn đến thiếu kỹ năng giải toán.
- Cũng không ít học sinh lười suy nghĩ, lười học, không động não ưa sẵn, rập khuôn,
máy móc dẫn đến kỹ năng giải toán không có.
Sau khi rà soát và thống kê lại tôi thấy nguyên nhân dẫn đến như sau:
+ Một là: Do đặc điểm tâm lý của học sinh yếu kém là thường tự ti, mặc cảm, không
tin tưởng vào khả năng của bản thân mình.
+ Hai là: Do các em còn gặp khó khăn( bất đồng ngôn ngữ) trong việc phân biệt các
từ chìa khóa: VD như phân biệt giữa " nhiều hơn, ít hơn" dẫn đến thực hiện sai phép
giải toán. Chưa biết tóm tắt bài toán để từ đó tìm ra phương pháp giải toán chính xác,
dễ dàng hơn.
+ Ba là: Việc hướng dẫn học sinh giải toán của giáo viên còn chưa kỹ, từ đó tóm tắt
đến giải còn khó và trừu tượng đối với học sinh. Giáo viên hướng dẫn các em sử
dụng các thủ thuật để giải toán và đánh giá kết quả. Từng bước giúp học sinh hình
thành thói quen kiểm tra lại kết quả. Điều quan trọng là sau mỗi bài toán giáo viên
cần phải khái quát lại kết quả, cách giải để tránh tình trạng sau này gặp bài toán có
cấu trúc tương tự học sinh sẽ giải được.
CHƯƠNG II
Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém khắc phục những khó
khăn khi giải toán có lời văn ở lớp 2.
Từ những thực trạng đó, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp khắc phục tồn tại
để nâng cao hiệu quả cho việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn ở lớp 2:
- Khi dạy giải toán có lời văn, chủ yếu dạy học sinh biết cách giải bài
toán( phương pháp giải toán). Giaó viên không nên làm thay hoặc áp đặt cách giải,
mà chỉ cho học sinh làm mỗi phép tính để tìm ra kết quả.Cố gắng để học sinh tự tìm
ra cách giải bài toán( tập trung vào 3 bước: tóm tắt bài toán, để biết bài toán cho biết

9
gì,hỏi gì để tìm cách giải quyết, thiết lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của đề bài với
phép tính tương ứng. Trình bày bài giải, viết câu trả lời phép tính tương ứng và đáp
số.)
- Về phần tóm tắt bài toán, yêu cầu học sinh tự tri giác rồi nêu(viết) tóm
tắt.Có thể bằng lời hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng( nên dùng sơ đồ đoạn thẳng để biểu
thị trực quan, khái niệm " nhiều hơn, ít hơn"). Phần tóm tắt cần thiết khi học giải
toán, tuy nhiên không nhất thiết phải viết vào phần trình bày bài giải( mục đích tóm
tắt bài toán cho biết gì và kết luận, bài toán hỏi gì từ đó giúp học sinh có cách giải
thích hợp).
- Về trình bày bài giải: Học sinh cần viết được câu lời giải và phép tính tương
ứng. Giaos viên kiên trì để học sinh tự diễn đạt câu trả lời bằng lời sau đó viết câu lời
giải. Lúc đầu học sinh lúng túng, ta nên chấp nhận cách diễn đạt tuy có vụng về
nhưng đúng ý là được.Cái khó nhất của giải toán ở lớp 2 là trình bày bài giải. Do đó
giáo viên cần cho học sinh tự nguyện viết câu lời giải, không nên vội vàng làm thay
cho học sinh.
- Khi dạy phần tính độ dài đường gấp khúc hoặc tính chu vi hình tam giác,
hình tứ giác, các bài toán dạng đó ( bài toán có nội dung hình học) được trình bày bài
giải như các bài toán có lời văn đã học.
- Hiện nay thực hiện dạy học phát huy tính tích cực của học sinh, huy động
mọi kĩ năng của từng học sinh để tự tìm tòi khám phá ra các tình huống có vấn đề
trong học tập và trong cuộc sống. Tự mình hoặc cùng các bạn trong nhóm, trong lớp,
lập kế hoạch và biết lựa chọn kế hoạch hợp lý nhất để giải quyết vấn đề. Tập trung
mọi cố gắng để phát triển năng lực sở trường của mỗi học sinh tạo cho học sinh có
niềm vui và đặc biệt có niềm tin trong học tập.
- Dạy học phát huy tính tích cực, học sinh chủ động và sáng tạo trong học tập,
đồng thời yêu cầu học sinh phải độc lập suy nghĩ động não. Vì thế giáo viên nên tôn
trọng mọi suy nghĩ, ý kiến của học sinh, mọi sáng tạo của học sinh cho dù những
sáng tạo đó chưa thật sự có hiệu quả cao trong học tập.
10

Qua đó cho ta thấy: Kết quả học tập của học sinh sẽ tốt hơn, không chỉ hình
thành cho học sinh kiến thức kĩ năng và thái độ cần thiết, mà còn là xây dựng cho học
sinh lòng nhiệt tình và phương pháp học tập.
Dạy học sao cho tất cả học sinh đều làm việc là một trong những biện pháp
quan trọng của việc giúp đỡ học sinh yếu kém vươn lên trong học tập. Đây là cách
dạy tiên tiến.
Từ những thực trạng trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giúp đỡ học
sinh yếu kém, khắc phục những khó khăn khi giải toán có lời văn ở lớp 2 như sau:
1. Biện pháp thứ nhất: Họp phụ huynh - Thống nhất biện pháp giáo dục.
Chúng ta đều biết học sinh lớp 2 đến trường còn phụ thuộc hoàn toàn vào sự
quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ thầy cô. Các em chưa có ý thức tự giác học tập, chính
vì vậy giáo dục ý thức tích cực học tập cho các em là là một yếu tố không kém phần
quan trọng giúp các em làm tốt hơn.
Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học tập nhiều
em chưa cao. Để thực hiện cuộc vận động "Hai không " của ngành giáo dục và giúp
cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con cái, tôi đã mạnh dạn
trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp và những yêu cầu cần
thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng cách hướng dẫn các
em tự học ở nhà, đặc biệt nhất là vào các buổi tối các ông bố cần bớt chút thời chuyện
trò với bạn bè, tắt vặn nhỏ đài (Ti vi) dành thời gian nhắc nhở, quan tâm cho các em
học tập Rất mừng là đa số phụ huynh đều nhiệt hoan nghênh biện pháp trên vì lâu
nay các phụ huynh còn đang vướng mắc nhiều về cách dạy học cho các em - Sách
giáo khoa mới còn nhiều kí hiệu, các lệnh , yêu cầu của sách, phụ huynh chưa rõ yêu
cầu của bài tập; nhiều gia đình người mẹ bận việc mà người bố ngại hướng dẫn con
nên việc học của con cái chưa được tập trung chú ý. Riêng trong phần bài tập của
sách toán, tôi hướng dẫn phụ huynh cách dạy các em luyện nêu miệng các đề toán,
luyện nói và trả lời nhiều.
Tuy nhiên cuộc họp phụ huynh lần này vẫn còn một số gia đình vắng mặt do có
việc đột xuất, do chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc học, và do điều kiện gia
11

đình còn nhiều khó khăn nên phó mặc việc học của con cái cho giáo viên, cho nhà
trường. Các gia đình này phần lớntrinhf độ văn hóa của bố mẹ không có, thậm chí họ
không biết cách dạy con như thế nào nữa mà chỉ biết nhắc nhở con: " Học bài đi" rồi
con học gì, làm gì ở bàn học bố mẹ cũng không hay Đối với những em này, tôi phải
huopýngs dẫn nhiều hơn ở lớp để về nhà các em tự học. Một số học sinh thiếu SGK
và vở bài tập, tôi gặp gỡ và trao đổi với phụ huynh, động viên họ mua sách tạo điều
kiện cho con em học tập. Tôi trực tiếp kêu gọi những em học sinh cũ( lớp 2 năm
ngoái) ủng hộ số sách cũ của các em cho nhà trường để giúp đỡ những em có hoàn
cảnh gia đình khó khăn. Còn vở bài tập tôi cho phô tô lại cho những em thiếu, vì
không có vở bài tập các em sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi làm bài tập nhất là trong
khi kĩ năng đọc, viết chưa thành thạo.
2.Biện pháp thứ hai: Chuẩn bị cho việc giải toán.
Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo tronh việc giải toán thì chúng ta
không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố không kém phần quan
trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ Tiếng Việt.
Chúng ta đã biết, học sinh lớp 2 còn thụ động, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì
vậy, để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu, trả lời người giáo viên cần phải: Luôn
gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi học tập, được trao đổi,
luyện nói nhiều trong giờ Tiếng Việt giúp các em có vốn từ lưu thông; trong các tiết
học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự ti. Bên
cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: Đọc
nhanh đúng tốc độ,ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được
những yêu cầu mà bài tập nêu ra.
Tóm lại: Để giúp học sinh giải toán có lời văn thành thạo, tôi luôn luôn chú ý rèn
luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các em học sinh trong giờ học Tiếng Việt, bởi
vì học sinh đọc thông viết thạo là yếu tố "đòn bẩy" giúp học sinh hiểu rõ đề và tìm
cách giải toán một cách thành thạo.
Theo chương trình SGK mới đến tuần 23 học sinh lớp 1 mới tập giải toán có lời
văn. Ở lớp 1 yêu cầu học sinh nhìn tranh nêu phép tính, tập nêu tiếp câu hỏi để hoàn
12

chỉnh đề toán, tập viết câu lời giải ở dạng đơn giản và chưa yêu cầu lời giải hay ,
chính xác. Trong khi thời gian dành cho cả tiết học là không quá 40 phút, với nhiều
yêu cầu kiến thức khác nhau nên các em chưa được rèn luyện nhiều. Vì vậy, khi lên
lớp 2 những tuần đầu khi học giải toán có lời văn, nhiều em lúng túng kể cả những
em có học lực khá. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn các em nêu đề toán, tìm hiểu đề
và gợi ý nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, sự trau chuốt lời giải của các em
chưa được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em, ở những tiết toán có
bài toán giải tôi thường dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình
bày mẫu nhiều bài giúp các em ghi nhớ và hình thành kĩ năng.
Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 11 SGK Toán 2.
" Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát.Hỏi cả hai
lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát? "
- Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán:
Lớp 2A có: 18 học sinh.
Lớp 2B có: 21 học sinh.
Hỏi có tất cả: ? học sinh.
- Học sinh nêu miệng câu lời giải:
Cả hai lớp có tất cả số học sinh đang tập hát là:
Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 21 = 39 (bạn)
- Tiếp đó, học sinh được làm quen với việc tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời sau đó
nêu cách giải rồi tự giải. Ở dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học sinh luyện nêu
miệng đề toán nhiều lần để các em ghi nhớ một bài toán.
Ví dụ: Bài tập 2( trang 25 - SGK toán 2)
An có: 11 bưu ảnh.
Bình nhiều hơn An: 3 bưu ảnh.
Bình có: ? bưu ảnh.
- Tôi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời theo yêu cầu.
Học sinh: An có 11 bưu ảnh. Bình có số bưu ảnh nhiều hơn số bưu ảnh của An là 3
cái. Hỏi Bình có tất cả bao nhiêu cái bưu ảnh?
Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng:

13
Số bưu ảnh của Bình có là: 11 + 3 = 14 (bưu ảnh)
Rồi tự trình bày bài giải:
Bài giải:
Số bưu ảnh của Bình có là:
11 + 3 = 14 (bưu ảnh)
Đáp số: 14 bưu ảnh.
3.Biện pháp thứ ba: Áp dụng qua các tiết dạy.
Khác với lớp 2 chương trình giáo dục cũ, chương trình Toán lớp 2 mới
thường được cho dưới dạng sau:
+ Lớp 2A có 15 bạn gái, số học sinh trai của lớp ít hơn số học sinh gái 3 bạn. Hỏi lớp
2A có bao nhiêu học sinh trai ?
+ Tháng trước tổ em được 16 điểm mười, tháng này tổ em được nhiều hơn tháng
trước 5 điểm mười. Hỏi tháng này tổ em được bao nhiêu điểm mười ?
Nhưng dù ở hình thức nào, dạng nào tôi cũng tập trung luyện cho học sinh các kĩ
năng: Tìm hiểu nội dung bài toán, tìm cách giải bài toán và kĩ năng trình bày bài giải,
được tiến hành cụ thể qua các bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán.
Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khóa
quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông
thường như: "ít hơn", " nhiều hơn", " tất cả"
Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng
dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài toán đang làm,
sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đặt câu hỏi đàm thoại: " Bài toán cho
gì? Bài toán hỏi gì? " và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán
Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương pháp
giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh họa để các em tìm hiểu, nhận xét nội
dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và dựa
vào câu hỏi của bài toán, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài
toán rồi cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập.

14
Bước 2: Tìm cách giải bài toán.
a, Chọn phép tính giải thích hợp:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái phải tìm
cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn" phép cộng" nếu bài toán yêu
cầu " nhiều hơn" hoặc "gộp", " tất cả". Chọn "tính trừ" nếu "bớt" hoặc " tìm phần còn
lại" hay "ít hơn"
Ví dụ:
Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam.
Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam?
Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái đẫ
cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu hỏi gợi
ý như:
+ Bài toán cho biết gì? ( vườn nhà Mai có 17 cây cam)
+ Bài toán còn cho biết gì nữa? ( Vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây)
+ Bài toán hỏi gì? (Vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam )
+ Muốn biết vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam em làm tính gì? ( tính trừ)
+ Lấy mấy trừ đi mấy? (17 - 7 )
+ 17 - 7 bằng bao nhiêu? (17 - 7 =10)
b. Đặt câu lời giải thích hợp.
Thực tế giảng dạy cho thấy đặt câu lời giải phù hợp là bước vô cùng quan trọng
và khó khăn nhất đối với học sinh lớp 2. Chính vì vậy việc hướng dẫn học sinh lựa
chọn và đặt câu lời giải hay cũng là một khó khăn lớn đối với người dạy. Tùy từng
đối tượng học sinh mà tôi lựa chon các cách hướng dẫn sau:
- Cách 1; (Được áp dụng nhiều nhất và dễ hiểu nhất): Dựa vào câu hỏi của bài toán
rồi bỏ bớt từ đầu "hỏi" và từ cuối "mấy" rồi thêm từ "là" để có câu lời giải: " vườn
nhà Hoa có số cây cam là"
- Cách 2: Nêu miệng câu hỏi: " Vườn nhà Hoa có mấy cây cam? " Để học sinh trả lời
miệng: " Vườn nhà Hoa có số cây cam là: " rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải
( gồm câu hỏi, câu lời giải và phép tính) :

Vườn nhà Hoa có số cây cam là:
15
17 - 7 = 10 (cây cam)
Đáp số: 10 ( cây cam)
Tóm lại: Tùy từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các em cách lựa
chọn , đặt câu lời giải cho phù hợp.
Trong một bài toán, học sinh có thể có nhiều cách đặt khác nhau như 2 cách
trên.
Song trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi đưa cho các em suy
nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra câu lời giải đúng và hay nhất phù hợp với
câu hỏi của bài toán đó.
Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (cách 1) còn các cách
kia giáo viên đều công nhận là đúng và phù hợp nhưng cần lựa chọn để có câu lời
giải là hay nhất để ghi vào bài giải.
Bước 3: Trình bày bài giải:
Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn học sinh đã phải tự viết câu lời
giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa.
Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học, đẹp
mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu cầu này trước
tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn, quy định.
- Đầu tiên là tên bài ( viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm tắt, sau gần
tóm tắt là trình bày bài giải. Từ " Bài giải" hgi ở giữa trang vở ( có gạch chân), câu
lời giải ghi cách lề khoảng 2- > 3 ô vuông, chữ ở đầu câu viết hoa, ở cuối câu có dấu
hai chấm(:), phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng 2-> 3 chữ, cuối phép tính là
đơn vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số ghi sang phần vở bên phải
( có gạch chân) và dấu hai chấm rồi mới viết kết quả và đơn vị tính ( không phải viết
dấu ngoặc đơn nữa).
Bước 4: Kiểm tra đánh giá kết quả.
Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình bày
bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày để từ đó

học sinh quen nhiều với cách trình bày. Bên cạnh đó tôi còn thường xuyên chấm bài
16
và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp, tuyên dương trước lớp những học
sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp, cho các em đó lên bảng trình bày lại bài làm của
mình để các bạn cùng học tập
Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc nhở,
rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng - đẹp. Việc kết hợp giữa chữ
viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công
trong vấn đề giải toán có lời văn của các em.
Cùng với việc áp dụng các biện pháp ngay từ đầu năm học và áp dụng trực tiếp
các biện pháp vào bài dạy đầu tiên về giải toán có lời văn, tôi đã cho học sinh làm
một số dạng bài tập giải toán có lời văn như sau:
Dạng 1: Dạng đề cho sẵn
Ví dụ: Một cửa hàng buổi sáng bán được 12 xe đạp, buổi chiều bán được 20 xe đạp.
Hỏi hai buổi cửa hàng bán được tất cả bao nhiêu xe đạp? (SGK Toán 2 trang 5)
-Bước 1: Học sinh đọc đề toán, xác định cái đã cho và cái cần tìm ( đề cho biết gì?
Hỏi gì?)
- Bước 2: Lập kế hoạch giải.
+ Muốn biết hai buổi cửa hàng bán được bao nhiêu xe đạp ta làm gì?
+ Tìm lời giải (dựa vào câu hỏi của bài toán), đơn vị.
- Bước 3: Trình bày bài giải.
Hai buổi cửa hàng bán được số xe đạp là:
12 + 20 = 32 (xe đạp)
Đáp số: 32 xe đạp
- Bước 4: Kiểm tra đánh giá kết quả.
+ Xem lại dữ kiện và yêu cầu của bài toán.
+ Lấy kết quả làm điều kiện để so sánh( 32 lớn hơn các số đã cho là 12 và 20 có
thể là hướng đúng, vì tất cả nghĩa là phải cộng lại…)
* Lưu ý: Cần tóm tắt đề theo 1 hoặc 2 cách sau:
Cách 1: Cách 2:

Buổi sáng: 12 xe đạp 12
Buối chiều: 20 xe đạp 20 ?
17
Cả hai buổi: ? xe đạp.
Dạng 2: Dạng đề dựa vào tóm tắt.
Ví dụ: Giaỉ bài toán theo tóm tắt sau:
Gói kẹo chanh: 28 cái
Gói kẹo dừa: 26 cái
Cả hai gói: ? cái.
(Sách giáo khoa Toán 2, trang 22).
- Bước 1: Đọc tóm tắt, xác định cái đã ch, cái cần tìm.
- Bước 2: Lập kế hoạch giải(như ví dụ1).
- Bước 3: Tiến hành giải và kiểm tra.
Dạng 3: Dạng đề tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Ví dụ: Giaỉ bài toán theo tóm tắt sau:
15 người
Đội 1:
2 người
? người
( Sách giáo khoa Toán 2 trang 25)
Bước 1: Xác định dữ kiện đề toán, tìm cái đã cho và cái cần tìm.
Bước 2: Lập kế hoạch giải( tìm lời giải, phép tính, đơn vị).
Bước 3: Tiến hành giải.
Đội hai có số người là:
15 + 2 = 17( người)
Đáp số: 17 người.
Bước 4: Kiểm tra kết quả (như các ví dụ trước).
Tiếp tục tiến hành kiểm tra nhiều kĩ năng giải toán của học sinh với nhiều dạng bài
khác nhau, tổng hợp kết quả qua chấm chữa bài cho 24 học sinh tôi thu được kết quả
sau:

- Số bài giỏi: 8 bài
- Số bài khá: 9 bài.
18
- Số bài trung bình: 7 bài.
- Số bài yếu: Không có.
4. Biện pháp thứ tư: Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập.
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê
các em trong học tập rèn luyện. Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học
sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm tiến
bộ, thường rụt rè tự ti, vì vậy tôi luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên
bảng làm bài. Chỉ cần các em có một " tiến bộ nhỏ" là tôi tuyên dương ngay, để từ đó
các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học khá giỏi tôi
yêu cầu các em giúp đỡ bạn mình khuyến khích bạn vươn lên trong học tập. Chính sự
khen chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng
khích lệ học sinh trong lớp.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu
tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong
muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta đều
biết học sinh tiểu học nói chung , học sinh lớp 2 nói riêng có trí thông minh khá nhạy
bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư
duy
toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu áp đặt, căng thẳng hay quá
tải . Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn
là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ
không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian
dài. Vì vập muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới
phương pháp dạy học tức là kiểu dạy hoc: "Lấy học sinh làm trung tâm", hướng tập
trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường
dành 2 - 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học
tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng

nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học
19
Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn luyện kĩ
năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý đến việc:
Khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.
5.Biện pháp thứ năm: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học trong mỗi tiết dạy.
Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học và lựa chọn xem đồ dùng đó cần đưa ra lúc nào,
cho phù hợp với nội dung của từng bài và các hoạt động trong tiết dạy. Tức là sử
dụng đồ dùng phải đúng thời điểm.
- Điều quan trọng nữa là giáo viên và học sinh phải được chuẩn bị bài, chuẩn bị đồ
dùng môn toán cẩn thận, chu đáo trước mỗi tiết học.
- Ngoài ra giáo viên cần tìm thêm những đồ dùng phụ trợ để cho tiết học thêm sinh
động, hoặc lựa chọn các trò chơi để củng cố kiến thức khắc sâu bài.
Ví dụ: Dạy bài lít ngoài đồ dùng là ca một lít và chai một lít giáo viên còn phải tìm
thêm can 5 lít, cốc loại 3 chiếc 1 lít, 4 chiếc 1 lít và chất lỏng như rượu, sữa để khắc
sâu cho các em về biểu tượng nhiều hơn, ít hơn với các chất lỏng và để tổ chức trò
chơi khi đong chất lỏng cũng là để củng cố đơn vị đo dung tích.
6. Biện pháp thứ sáu: Phát huy các nguồn lực trong nhà trường.
- Giúp đỡ học sinh yếu kém được gắn với cuộc vận động " Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực" và " Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và
sáng tạo". Thực hiện nghiêm túc cuộc vận động " Hai không" với 4 nội dung do Bộ
GD - ĐT phát động , cương quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực
trong các lần tổ chức kiểm tra - thi cử trong toàn nghành.
- Ưu tiên phân công các giáo viên có năng lực tay nghề vững vàng, có đạo đức, tâm
huyết và có kinh nghiệm để phụ đạo giúp đỡ học sinh yếu kém. Dạy phụ đạo học sinh
yếu kém bằng tâm lý sư phạm, kiên trì và dài lâu, dùng các biện pháp kích thích động
viên các em là chính, khơi dậy trong học sinh lòng tự tin, hứng thú học tập và vượt
khó để tiến bộ.
- Giáo viên phải nắm hết các điểm yếu, các nơi hổng hóc trong kiến thức của từng
học sinh yếu kém để tập trung bù đắp, bổ sung kiến thức. Không tạo không khí căng

thẳng , không được có lời lẽ và thái độ nặng nề với các em trong giờ dạy và trong
các lần kiểm tra.
20
- Đẩy mạnh công tác giáo viên chủ nhiệm lớp, thực hiện tốt truy bài đầu giờ: Tổ chức
kiểm tra việc chuẩn bị bài của HS ở nhà, tổ chức ôn bài, sửa bài tập đầu buổi học,
phân công cán bộ lớp, cán sự bộ môn của lớp hướng dẫn giải bài tập, tổ chức học tổ,
học nhóm dưới sự hướng dẫn của GVCN.
- Trong dạy học tận dụng tối đa quỹ thời gian ở từng tiết học để tăng cường giáo dục
học sinh cá biệt, học sinh khuyết tật, giúp đỡ kèm cặp học sinh yếu kém.Giúp học
sinh ôn lại kiến thức cũ, hệ thống hóa kiến thức đã học để thực hành thành thạo kĩ
năng làm bài tập.
CHƯƠNG III
DẠY THỰC NGHIỆM VÀ CÁC ĐỀ XUẤT
I – MỤC ĐÍCH THỰC NGHIỆM
- Xuất phát từ việc nghiên cứu của đề tài.
- Xuất phát từ thực trạng của việc dạy học hiện nay ở trường tiểu học.
- Tiến hành thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của đề tài.
II – NỘI DUNG THỰC NGHIỆM
Tôi tiến hành dạy 2 tiết
Tiết 1: Bài dạy: Bài toán về nhiều hơn.
Tiết 2: Bài dạy: Bài toán về ít hơn.
III – THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM THỰC NGHIỆM:
Lịch thực nghiệm ở các lớp như sau:
Lớp
Dạy vào
2A1 2A2
Tuần lễ thứ 5 Tiết 2 X
Tuần lễ thứ 6 X Tiết 3
IV- KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM:
Trước khi dạy thực nghiệm:

+ Lớp 2A1 : Giỏi: 1 Khá: 2 TB: 9 Yếu: 2
21
+ Lớp 2A2 : Giỏi: 2 Khá: 5 TB: 10 Yếu: 3
- Căn cứ vào phương pháp dạy học, với vốn kiến thức của bản thân và tham khảo ý
kiến của bạn bè đồng nghiệp tôi đã đưa những biện pháp trên vào dạy thực nghiệm ở
lớp 2A1 và lớp 2A2.
- Trong quá trình thực nghiệm trong từng giờ dạy tôi luôn khái quát để tìm ra vướng
mắc của thầy và trò mắc phải để khắc phục qua từng tiết dạy.
- Hình thành những kiến thức ban đầu về giải toán có lời văn cho học sinh.
- Củng cố vận dụng kiến thức, thao tác đã học ở lớp 1 để khắc sâu cách giải, trình bày
bài giải, lời giải.
- Biết cách phân tích các bài toán hợp thành các bài toán đơn. Biết phát hiện lô gic
giữa các bài toán, để diễn tả tổng hợp bài toán dưới dạng tóm tắt, lập kế hoạch giải,
vận dụng các thủ thuật giải toán.
-Hình thành cho học sinh phương hướng, cách tìm hiểu bài, giải toán có lời văn một
cách thành thạo qua các bước.
+ Tìm hiểu kỹ đầu bài.
+ Lập kế hoạch giải.
+ Thực hiện kế hoạch giải.
+ Kiểm tra và đánh giá kết quả.
-Từ việc nắm vững các bước giải hướng dẫn các em biết lựa chọn và vận dụng các
thủ thuật giải toán sao cho phù hợp với mỗi dạng toán.
-Để đánh giá xem kết quả của quá trình thực nghiệm các biện pháp dạy bài toán có
lời văn tôi đã cho học sinh làm trên phiếu bài tập và thu được kết quả sau:
+ Lớp 2A1: Giỏi: 5 Khá: 5 TB: 4
+ Lớp 2A2: Giỏi: 6 Khá:6 TB: 8
- Từ kết quả trên ta thấy việc đáng mừng là số học sinh yếu, kém trong việc giải
toán có lời văn đã không còn nữa, tuy nhiên vẫn còn có những học sinh đã xác
định được đầu bài nhưng tìm ra cách giải vẫn còn hơi chậm cần phải có thời gian,
tôi tin rằng sử dụng tốt những biện pháp này hiệu quả sẽ còn cao hơn nữa.

GIÁO ÁN SỐ 1:
22
Bài toán về nhiều hơn
I. Mục tiêu
Biết giải và trình bày bài giải bài toán về nhiều hơn.
II. Đồ dùng dạy học
7 quả cam có nam châm
III. Các hoạt động- dạy học
1. Kiểm tra bài cũ
- Gọi 2 HS lênbảng thực hiện các yêu cầu sau
+ HS 1: Đặt tính và tính: 38+15; 78+9
+ HS 2: Giải bài toán theo tóm tắt:
Vải xanh: 28 dm
Vải đỏ: 25 dm
Cả hai mảnh: …… dm?
- Nhận xét, cho điểm học sinh.
2. Dạy học bài mới
a. Giới thiệu bài
Trong giờ học toán hôm nay chkúng ta sẽ được làm quen với m.ột dạng toán có
lời văn mới, đó là: Bài toán về nhiều hơn.
b. Giới thiệu về bài toán nhiều hơn
- Yêu cầu cả lớp tập trung theo dõi trên
bảng.
- Cài 5 quả cam lên bảng và nói: Cành
trên có 5 quả cam.
- Cài 5 quả cam xuống dưới và nói: Cành
dưới có 5 quả cam, thêm 2 quả nữa (gài
thêm 2 quả).
- Hãy so sánh số cam 2 cành với nhau.
- Cành dưới nhiều hơn bao nhiêu quả (nối

5 quả trên tương ứng với 5 quả dưới, còn
- Cành dưới có nhiều hơn cành trên (3
học sinh trả lời)
- Nhiều hơn 2 quả (3 HS trả lời)
23
thừa ra 2 quả).
- Nêu bài toán: Cành trên có 5 quả cành
dưới có nhiều hơn cành trên 2 quả cam.
Hỏi cành dưới có bao nhiêu quả cam?
- Muốn biết cành dưới có bao nhiêu quả
cam ta làm thế nào?
- Hãy đọc cho cô câu trả lời của bài toán:
- Yêu cầu học sinh làm ra giấy nháp, 1
học sinh làm trên bảng lớp
Tóm tắt
Cành trên : 5 quả
Cành dưới nhiều hơn cành trên: 2 quả
Cành dưới :…….quả?
- Chỉnh sửa cho học sinh nếu các em còn
sai.
c. Luyện tập thực hành
Bài 1
- Gọi 1 HS đọc đề bài
- Gọi 1 HS tóm tắt
- Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
- Muốn biết Bình có bao nhiêu bông hoa
ta làm như thế nào?
- Trước khi làm phép tính ta trả lời như
thế nào?

- Yêu cầu học sinh làm bài vào vở sau đó
chỉnh sửa, nhận xét
Bài 2
- Thựchiện phép cộng 5 + 2
- Số quả cam cành dưới có là / Cành dưới
có số quả cam là:
- HS làm bài
Bài giải
Số quả cam cành dưới có là:
5 + 2 = 7 (quả cam)
Đáp số: 7 quả cam
- Đọc đề bài
- Độc tóm tắt
- Hòa có 4 bông hoa, Bình có nhiều hơn
Hòa 2 bông hoa
- Bình có bao nhiêu bông hoa
- Ta thực hiện phép tính 4 + 2
- Số bông hoa của Bình là / Bình có số
bông hoa là:
- HS làm bài
24
- Yêu cầu học sinh đọc đề bài, đọc tóm
tắt
- Bài toán hỏi gì?
- Bài toán cho biết những gì liên quan
đến số bi của Bảo?
- Để giải bài toán này, chúng ta làm phép
tính gì?
- Yêu cầu học sinh tự giải bài toán
Bài 3

- Yêu cầu học sinh đọc đề bài
- Bài toán cho biết gì?
- Bài toán hỏi gì?
- Để biết Đào cao bao nhiêu xăngtimet ta
làm như thế nào, Vì sao?
- Yêu cầu HS làm bài vào vở, 1 HS lên
bảng làm
Tóm tắt
Mận cao : 95cm
Đào cao hơn Mận: 3cm
Đào cao hơn :… cm?
- HS đọc đè toán, tóm tắt
- Bài toán hỏi số bi của Bảo
- Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi
Nam có 10 viên bi
Bài giải
Bạn Bảo có số bi là:
10 + 5 = 15 (viên bi)
Đáp số: 15 viên bi
- Đọc đề bài
- Mận cao 95cm. Đào cao hơn Mận 3cm.
- Đào cao bao nhiêu cm?
- Thực hiện phép cộng 95 + 3 “vì cao hơn
cũng giống như nhiều hơn”.
- Làm bài tập
Bài giải
Bạn Đào cao là:
95 + 3 = 98 (cm)
Đáp số: 98cm
3. Củng cố- dặn dò

- Hôm nay chúng ta vừa học dạng toán
gì?
- Chúng ta giải các bài toán nhiều hơn
trong bài bằng phép tính gì?
- Số thứ nhất là 28, số thứ hai nhiều hơn
- Bài toán về nhiều hơn
25

×