Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Hướng dẫn học sinh cách tìm hiểu đề, tìm ý, chọn và sắp xếp ý khi làm một bài tập làm văn lớp 4 - 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.24 KB, 25 trang )

HƯỚNG DẪN HỌC SINH CÁCH TÌM HIỂU ĐỀ, TÌM Ý, CHỌN VÀ SẮP
XẾP Ý KHI LÀM MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
I.1.Lí do chọn đề tài:
Hoà chung với nhịp độ đi lên của đất nước đang trên đường tiến vào thế kỉ XXI.
Một thế kỉ công nghiệp hoá – hiện đại hoá ( CNH- HĐH). Mục tiêu của Giáo dục
hiện nay là: “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Đó là một
nhiệm vụ hết sức vinh quang nhưng cũng không kém phần nặng nề của ngành Giáo
dục. Như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII của Ban chấp hành TW đã khẳng
định đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng , dân chủ và văn minh, đất nước vững bước đi lên CNXH. “Giáo dục & Đào tạo
là quốc sách hàng đầu.”Theo định hướng đó thì bậc tiểu học là nền tảng. Mục tiêu
giáo dục là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, nhằm đào tạo một thế hệ trẻ vừa
“ hồng” vừa “chuyên”, có đầy đủ” Đức- Trí- Mĩ- Duc”; có kiến thức văn hoá, khoa
học, có kĩ năng nghề nhiệp, lao động tự chủ, sáng tạo, có kĩ thuật, giàu lòng yêu
nước, yêu Chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng với nhu cầu phát triển của đất
nước trong những năm 2012-2020 và trong tương lai. Mỗi một môn học ở bậc tiểu
học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ ; cung cấp cho trẻ những
trí thức cần thiết. Đặc biệt môn Tập làm văn là một phân môn hết sức quan trọng
trong việc rèn luyện kĩ năng nói và viết cho trẻ. Vì vậy dạy cho học sinh biết tìm hiểu
đề ,quan sát tìm ý … để hình thành một thói quen chuẩn bị tốt trước khi làm một bài
Tập làm văn là một yêu cầu hết sức quan trọng. Muốn tìm hiểu đề tốt, học sinh cần
nắm được cách đặt các câu hỏi tìm trọng tâm của đề một cách chính xác và những
yêu cầu để làm tốt một bài Tập làm văn.
Đối với cả giáo viên và học sinh đều chưa nhận thức được hết tầm quan trọng
của giờ hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài, quan sát, tìm ý , chọn lọc ý và sắp xếp ý
nên chất lượng giờ dạy còn hạn chế. Từ thực tế trên, qua quá trình giảng dạy, khi
thấy học sinh thường sai đề một cách đáng tiếc.Với mong muốn có một đóng góp
nhỏ bé trong việc giáo dục học sinh phát triển toàn diện; nâng cao năng lực sư phạm
- 1 -
cho bản thân. Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài : “ Hướng


dẫn học sinh tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc và sắp xếp ý khi làm một bài Tập làm văn.”
I.2. Mục đích, nhiệm vụ đề tài:
Ngày nay khi đất nước phát triển môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập
làm văn nói riêng được giáo dục quan tâm và đầu tư đúng mức. Tiếng Việt không
chỉ để học làm ngôn ngữ giao tiếp mà Tiếng Việt còn là nơi cho học sinh những hiểu
biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, tăng cường khả năng diễn
đạt, trang bị một số hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học và góp phần rèn luyện
nhân cách con người cho học sinh.
Đối với học sinh lớp 4+5 là giai đoạn tiếp thu kiến thức khá cao, yêu cầu của
môn Tiếng việt hết sức quan trọng, trong đó phân môn Tập làm văn đóng vai trò chủ
chốt nên giáo viên cần chú ý quan tâm đến việc rèn luyện các kỹ năng cơ bản từ đó
tiếp tục bồi dưỡng cho học sinh tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn
sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế mục tiêu của đề tài là hướng dẫn học sinh
cách tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc và sắp xếp ý khi làm một bài Tập làm văn. Dựa
vào việc tìm hiểu thực trạng của việc giảng dạy và học tập giờ tìm hiểu đề, quan sát
tìm ý cho bài Tập làm văn hiện nay, tôi có một số suy nghĩ về việc hướng dẫn học
sinh biết cách tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý một cách tích cực có hiệu quả tiến tới học
sinh có khả năng nói và viết tốt hơn.
Với những mục đích, nội dung nghiên cứu của đề tài trên và những kiến thức
thu nhặt được từ quá trình giảng dạy, kết hợp với tham khảo qua sách báo, tài liệu,
bản thân tôi đã tìm hiểu tình hình học tập phân môn Tập làm văn lớp 4+5 ở Trường
tiểu học Phú Lộc qua việc rèn luyện hình thành các kĩ năng của học sinh. Nhằm góp
phần nâng cao chất lượng học tập phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 4+5.
I.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên đối tượng nghiên cứu của đề tài là các em
học sinh lớp 4+5 Trường Tiểu Học Phú Lộc.
- 2 -
I.4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Từ thực tế trên, qua quá trình giảng dạy, khi thấy học sinh thường sai đề một

cách đáng tiếc. Với mong muốn có một đóng góp nhỏ bé trong việc giáo dục học sinh
phát triển toàn diện; nâng cao năng lực sư phạm cho bản thân. Tôi đã tìm hiểu
nguyên nhân và bổ cứu trong cách dạy của mình. Sau đây là những bước nhằm giúp
học sinh làm bài một cách có chất lượng qua “Tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc và sắp
xếp ý” trước khi làm một bài Tập làm văn hoàn chỉnh của lớp 4+5.
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
Dùng phương pháp tổng kết kinh nghiệm, ngoài ra còn sử dụng một số phương
pháp sau:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm ( Nghiên cứu bài làm của các em).
- Phương pháp trò chuyện.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc, tham khảo tài liệu qua sách báo,
- Khảo sát tình hình thực tế, dự giờ thăm lớp.
- Phương pháp thực hành, so sánh đối chiếu,….
II. PHẦN NỘI DUNG :
II.1. Cơ sở lí luận:
Trong thực tế bài làm của học sinh thường không xuất sắc vì rơi vào các trường
hợp sau: sai đề hoàn toàn; bài làm dàn trãi, không thể hiện được trọng tâm yêu cầu
của đề ra; bài làm phiến diện, thiếu cân đối (ý trọng tâm thì lướt qua còn ý phụ lại đi
sâu hơn); bài làm đúng yêu cầu nhưng ý nghèo, nông cạn,… Nguyên nhân chính của
những sai sót này là do học sinh không chịu tìm hiểu kỹ đề, tìm và chọn lọc ý mà chỉ
đọc qua quýt rồi làm bài trực tiếp chứ không thông qua làm nháp. Không chỉ do học
sinh lười tìm hiểu đề mà thực chất do giáo viên chúng ta không chú trọng đến khâu
này, không trực tiếp hướng dẫn và kiểm tra một cách nghiêm túc, chặt chẽ đối với
học sinh cho nên các em không có thói quen tìm hiểu đề, tìm ý. Thậm chí, một số
giáo viên có ý thức chú trọng khâu này nhưng lại lúng túng chưa tìm ra biện pháp
hướng dẫn cho học sinh xâm nhập đề ra nên đã bỏ qua bước quan trọng bậc nhất này.
- 3 -
Tìm hiểu đề, tìm ý, chọn và sắp xếp ý khi làm một bài văn là khâu đầu tiên quan
trọng nhất quyết định đúng sai trong quá trình làm bài. Đặc biệt, đối với học sinh

tiểu học khâu này lại càng cần thiết vì các em còn nhỏ, ngây thơ trong cách học, cách
hiểu, cách làm bài.
II.2. Thực trạng:
a/ Thuận lợi - Khó khăn:
* Thuận lợi:
+ Về phía giáo viên:
- Trong quá trình dạy học bản thân cũng như các giáo viên khác luôn được Nhà
trường quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ cho công tác dạy học. Đội ngũ giáo viên Nhà
trường có tay nghề cao là điều kiện thuận lợi để giáo viên dự giờ học hỏi kinh
nghiệm. Học sinh có đầy đủ SGK và Giáo viên có đầy đủ sách hướng dẫn , được học
về cách sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. Bản thân giáo viên yêu nghề, có
năng lực sư phạm.
- Giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với công việc giảng dạy, hết lòng yêu thương trẻ.
Quan tâm và hiểu tâm lí của từng học sinh trong lớp, nắm được sức học của từng em
để từ đó có hướng rèn luyện đúng đắn, tạo hứng thú học văn cho các em.
- Giáo viên nắm rõ yêu cầu của việc đổi mới phương pháp một cách cơ bản, việc sử
dụng đồ dùng dạy học tương đối có hiệu quả.
- Sự chỉ đạo của chuyên môn PGD, trường, tổ khối có vai trò tích cực giúp giáo viên
đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.
- Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thao đã có nhiều giáo viên thành công khi
dạy Tập làm văn.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng, ti vi, đài, sách báo giáo viên tiếp cận với
phương pháp đổi mới Tập làm văn thường xuyên hơn.
- Tài liệu giảng dạy của thư viện nhà trường phong phú, phù hợp với từng đối tượng
học sinh.
+ Về phía học sinh:
- 4 -
- Đa số học sinh được sự quan tâm chăm sóc của gia đình. Được giáo dục trong
môi trường lành mạnh, trong xã hội tiến bộ và phát triển. Các em đều có động cơ học
tập đúng đắn, luôn muốn tìm tòi, khám phá thế giới muôn màu, muôn vẻ xung quanh.

Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần nâng cao chất lượng phân môn
Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng việt nói chung.
- Học sinh lớp 4+5 phần lớn đã đọc thông viết thạo, có cố gắng trong quá trình tiếp
thu bài cũng như hình thành và rèn luyện kĩ năng cho mình. Một số học sinh có khả
năng tiếp thu nhanh kiến thức, ý thức tốt trong việc tìm hiểu đề kĩ, quan sát, tìm và
chọn lọc ý khi làm một bài văn.
- Các em rất giàu tư duy sáng tạo, mỗi em đều có những sở trường riêng. Ở lứa tuổi
các em rất thích tỏ ra mình là một người lớn, biết vâng lời, luôn luôn lắng nghe, ham
học hỏi,say mê tìm tòi,hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng. Các em thường thể hiện nét
ngộ nghĩnh đáng yêu và cảm nhận thế giới xung quanh theo từng cách riêng với trí
tưởng tượng không giống nhau.
- Các em học sinh đều được học 2 buổi/ngày. Buổi sáng học lý thuyết và buổi chiều
được luyện tập củng cố để khắc sâu kiến thức. Từ đó giúp các em có khả năng sử
dụng thành thạo các bài tập thực hành và áp dụng linh hoạt vào các phân môn khác.
* Khó khăn:
- Do đặc điểm lứa tuổi học sinh giai đoạn này thường tiếp thu tốt nhưng cũng nhanh
quên; các em còn ngại khó, hễ gặp vấn đề hơi khó là muốn dừng lại mà phân môn
Tập làm văn lại là môn đòi hỏi tính cần cù, nhẫn nại cao.
- Trong trường có học sinh của ba dân tộc khác nhau, nhìn chung khả năng tiếp thu
không đồng đều, một số học sinh vốn ngôn ngữ Tiếng việt hạn chế nên đã ảnh hưởng
nhiều đến khả năng tạo lập văn bản của các em.
- Đối với học sinh vùng sâu, vùng xa điều kiện để các em phát triển về giao tiếp còn
hạn chế không được mở rộng như thành thị, học sinh chưa nhạy bén trong va chạm,
vốn sống của các em chưa thật phong phú.
- 5 -
- Ý thức học tập của một số em còn hạn chế. Bên cạnh đó học sinh với lối tư duy cụ
thể, khả năng tư duy trừu tượng chưa cao, chưa có ý thức tự giác học bài ở nhà, còn
trông chờ vào sự giúp đỡ của giáo viên nên kết quả học tập chưa cao.
- Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình khi cuộc sống còn gặp
nhiều khó khăn, vất vả, còn có quan điểm '' trăm sự nhờ nhà trường, nhờ thầy cô''

cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập các môn nói chung và Tập làm văn nói
riêng.
b/ Thành công – Hạn chế:
* Thành công: Tất cả: Tìm hiểu đề bài, tìm, chọn, sắp xếp ý là quá trình hoạt động
của trí óc giúp cho học sinh làm bài không lạc đề, bài làm trở nên chặt chẽ và nổi bật
trọng tâm, đầy đủ và phong phú - bài viết hấp dẫn mang phong cách riêng chứ không
rập khuôn theo một khuôn mẫu. Chính vì vậy khi áp dụng phương pháp này trong
phân môn Tập làm văn thì khả năng phát triển của học sinh đạt hiệu quả cao hơn.
* Hạn chế:
+ Giáo viên:
- Việc vận dụng dạy học tích hợp chưa được giáo viên vận dụng triệt để nên lượng
kiến thức, kĩ năng cung cấp cho các em trong một tiết Tập làm văn thường rất lớn so
với thời gian, nhiều lúc dẫn đến tình trạng quá tải trong tiết học.
- Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi
khi cũng ngại không dám “thoát li” các gợi ý của sách giáo khoa, sách tham khảo vì
sợ sai và không đủ thời gian cho một tiết học.
+ Học sinh:
- Học sinh chưa vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học trong các phân môn của
Tiếng Việt nên các em còn gặp một số khó khăn sau:
+ Chương trình Tiếng Việt mới có rất nhiều ưu điểm trong việc phát huy sáng tạo của
học sinh nhưng lại tương đối nặng đối với đối tượng học sinh trung bình, yếu.
- 6 -
+ Đôi lúc, do nhiều nguyên nhân, một số giáo viên vẫn lạm dụng phương pháp “làm
mẫu” đối với học sinh trung bình, yếu, từ đó dẫn đến tình trạng học sinh “coppy”
nhau hoặc học thuộc bài văn mẫu.
+ Thời gian quy định đối với một tiết học cũng là một trong những nguyên nhân ảnh
hưởng đến việc dạy Tập làm văn trong nhà trường Tiểu học.
+ Trong các lớp vẫn còn rải rác một số học sinh yếu, cá biệt, có học sinh đọc chưa
thông, viết chưa thạo. Đây là một trở ngại lớn cho việc “tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc,
sắp xếp ý” của các em.

+ Kĩ năng làm văn của các em học sinh yếu hầu như không có. Các em chưa biết
cách tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý,… thực hiện làm một bài văn chưa đúng quy trình,
chưa biết cách chọn lọc các chi tiết miêu tả đặc sắc để đưa vào bài văn, làm cho bài
văn thành “một mớ hỗn độn” của các chi tiết hoặc là thành “một bản liệt kê” với rất
nhiều chi tiết.
- Với học sinh khá, giỏi, việc dạy học Tập làm văn gặp một số tồn tại sau:
+ Do trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên giáo viên thường sử dụng phương
pháp làm mẫu để tạo đà giúp học sinh trung bình, yếu làm văn. Phương pháp này
giúp học sinh yếu có thể làm được bài bằng những gợi ý. Tuy nhiên, một số học sinh
học được lại thường hay bắt chước các câu, đoạn văn mẫu nên nhiều bài làm có các
câu, đoạn giống nhau.
+ Có sự chênh lệch rất lớn về trình độ của học sinh khá, giỏi và học sinh trung bình,
yếu nên giáo viên rất khó sử dụng các phương pháp “hiện đại” để có thể thực hiện tốt
nhiệm vụ giáo dục. Nếu chú ý đến học sinh khá, giỏi thì sẽ bỏ qua học sinh trung
bình, yếu. Nhưng nếu tập trung vào học sinh trung bình, yếu, kiên trì với đối tượng
này đạt được yêu cầu bài văn thì lại ảnh hưởng đến sự phát triển của số học sinh khá,
giỏi.
+ Một khó khăn nữa là nhiều học sịnh viết chữ chưa đẹp, nếu không nói là rất xấu,
sai chính tả. Nhiều bài văn có chữ viết lem nhem, đầy vết bẩn. Với một bài văn đầy
lỗi chính tả, tẩy xoá thì việc đọc lại bài, chau chuốt câu văn, sửa ý, sửa từ quả là khó
khăn, gian khổ.
- 7 -
c/ Mặt mạnh- Mặt yếu
* Mặt mạnh:
Do chú trọng khâu này nên đã khắc phục được tình trạng lạc đề hoặc làm bài dàn
trãi. Đối với những em yếu, trung bình thì bài làm đã đúng trọng tâm. Đối với những
em khá, giỏi thì rất phong phú về ý, sâu sắc về nội dung, chặt chẽ trong lập luận. Do
vậy, có một phần không nhỏ cho thành công của học sinh trong mùa thi.
* Mặt yếu:
Còn có nhiều học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo nên khi làm bài văn không

tìm hiểu sâu sát được vấn đề. Vì vậy bài làm của các em thường sai đề một cách đáng
tiếc.
d/ Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
- Các bài Tập làm văn trong sách giáo khoa của học sinh còn hướng dẫn một cách
chung chung, thiếu cụ thể, khó hiểu, chưa gây hứng thú học tập cho các em.
- Có một số giáo viên chuẩn bị bài chưa chu đáo nên khi lên lớp hướng dẫn học sinh
tìm hiểu đề, quan sát chưa kỹ, cho nên học sinh chưa biết cách tìm và chọn lọc ý một
cách hợp lí,…
- Học sinh chưa biết ghi chép những gì mình quan sát được một cách rõ ràng, tỉ mỉ,
chưa biết chọn lọc, sắp xếp các ý mà mình đã quan sát được theo trình tự thời gian,
không gian bằng các giác quan của mình.
- Học sinh thiếu sự tưởng tượng, ít cảm xúc về đối tượng trong đề bài. Không quan
sát theo đúng yêu cầu. Vốn ngôn ngữ còn quá ít ỏi , chưa biết dùng từ đặt câu, viết
văn còn sai lỗi ngữ pháp và lỗi chính tả quá nhiều,
Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập của các
em. Chính vì vậy tôi đã chú trọng việc hướng dẫn học sinh phải tìm hiểu đề kĩ, quan
sát, chọn và sắp xếp ý trước khi làm một bài Tập làm văn.
e/ Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Dựa vào việc tìm hiểu thực trạng của học sinh qua các bài kiểm tra khi viết một
bài văn hoàn chỉnh. Tôi có một số suy nghĩ về việc hướng dẫn học sinh biết quan sát
tìm ý một cách tích cực có hiệu quả tiến tới các em có khả năng nói và viết tốt hơn.
- 8 -
Môn tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là dạy học sinh biết sử dụng các ngôn bản
khi nói và cũng như khi viết. Vốn hiểu biết của các em thể hiện qua kết quả các bài
kiểm tra viết. Qua bài viết hoặc nói của các em thể hiện rõ sự hiểu biết về thế giới
xung quanh, đời sống tinh thần, trình độ nhận thức của các em.
Tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý, chọn lọc ý là hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề bài, tìm
ra được yêu cầu chính của đề, để học sinh không đi lạc hướng trong lúc viết. Tiếp đó
tổ chức cho học sinh quan sát đối tượng miêu tả là một công việc hết sức quan trọng
trong khi dạy môn TLV. Trên cơ sở quan sát, các em có thể ghi nhớ các hình ảnh đặc

trưng, những đặc điểm nỗi bật của vật được quan sát đã gây ấn tượng và cảm xúc cho
các em. Nhũng hình ảnh đó được ghi lại theo trình tự thời gian và không gian bằng
các giác quan, từ đó tập cho các em thói quen tự giác tích cực trong việc tìm hiểu đề,
quan sát, tìm, chọn, sắp xếp ý thành một dàn bài logic. Đây là bước đầu tiên khi thực
hành làm một bài TLV.
Tuy nhiên thực trạng hiện nay cho thấy, rất ít giáo viên cũng như học sinh có thể
nhận thức được tầm quan trọng của việc đọc kỹ đề, quan sát, tìm, chọn và sắp xếp ý
trong quá trình làm một bài TLV. Do đó bài viết của tôi nhằm nêu rõ hơn về tầm
quan trọng của vấn đề trên cũng như kiến nghị một số giải pháp để giải quyết như
sau.
II.3. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP
a. Mục tiêu của các giải pháp, biện pháp:
- Hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề ra.
- Hướng dẫn và yêu cầu học sinh đặt câu hỏi tìm trọng tâm đề ra.
- Hướng dẫn, yêu cầu học sinh đặt câu hỏi tìm ý.
- Hướng dẫn, yêu cầu học sinh đặt câu hỏi chọn lọc và sắp xếp ý.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp biện pháp:
+ Tìm hiểu đề: Đọc kỹ đề ra (Đọc nhiều lần, đọc theo từng mức độ khác nhau,
vừa đọc vừa suy nghĩ, cân nhắc từng chữ, từng ý trong đề ra)
- 9 -
- Đọc thầm: Đây là bước đầu tiên tiếp xúc với đề ra nên yêu cầu học sinh thật
tập trung chú ý. Giáo viên yêu cầu cả lớp im lặng nhìn lên đề ra ghi trên bảng và đọc
kỹ bằng mắt cho quen chữ, quen cách ngắt, nghỉ trong từng câu, từng vế của đề ra.
Tất nhiên, đây là lúc giáo viên đọc đề cho các em nghe.
- Đọc to: Yêu cầu vài em đứng dậy đọc to đề cho cả lớp nghe, trong lúc đó, lớp
vẫn đọc thầm bằng mắt theo bạn.
- Đọc diễn cảm: Đây là khâu rất quan trọng trong quá trình đọc đề, tìm hiểu đề.
Diễn cảm ở đây không phải ngân nga lên bổng xuống trầm mà là đọc rõ, biết ngắt,
nghỉ, nhấn giọng ở những từ ngữ quan trọng (Giáo viên đọc một lần, yêu cầu hai đến
bốn em đọc). Qua đọc, ý của đề ra sẽ rõ ràng, các trọng tâm yêu cầu rất dễ nhận rõ,

giúp học sinh thâm nhập đề ra một cách dễ dàng nhanh chóng.
Giáo viên có thể hỏi: theo em, nên ngắt, nghỉ hơi ở chổ nào? Nhấn giọng ở
những từ ngữ nào? Vì sao? (Có thể cho vài em đọc lại đúng ngữ điệu).
Tóm lại, đọc kỹ đề là bước đầu tiên quan trọng nhất giúp các em nghe, hiểu,
thâm nhập đề ra một cách chắc chắn nhất. Nhưng mới chỉ đọc thì chưa đủ mà trong
quá trình đọc phải kết hợp vừa đọc vừa suy nghĩ, cân nhắc từng chữ, từng từ để xác
định mối quan hệ giữa các từ ngữ, các vế trong đề ra, đặc biệt là cần đặt câu hỏi để
xác định trọng tâm yêu cầu của đề mà ta sẽ nói ở phần tiếp theo.
+ Xác định trọng tâm yêu cầu của đề ra:
Nếu không xác định trọng tâm yêu cầu của đề thì học sinh sẽ làm sai đề hoăc
bài làm của các em sẽ rơi vào dàn trãi hoặc phiến diện. Học sinh không hiểu đề hay
chỉ hiểu một cách mơ màng mà không biết yêu cầu chính của đề ra.
Muốn xác định đúng trọng tâm của đề ra, yêu cầu các em đặt câu hỏi: Đề yêu
cầu chúng ta phải làm gì? (tả, thuật hay kể?). Đối tượng nào? (Cảnh, vật, người hay
đồ vật? ), yêu cầu: tả, thuật hay kể về cái gì là chính? Muốn trả lời chính xác câu hỏi
sau cùng, giáo viên yêu cầu các em phải suy nghĩ, cân nhắc từng chữ, từng từ, vì có
những dạng đề chỉ khác nhau một chữ, thậm chí có khi chỉ một dấu phẩy.
- 10 -
Ví dụ 1:
a/ Bà em trồng rau. Hãy tả lại
b/ Bà, em trồng rau. Hãy tả lại
Nếu không tinh ý, không nhạy bén sẽ rất khó xác định. Muốn học sinh hiểu,
nắm vững cách đặt câu hỏi tìm hiểu trọng tâm của đề ra, giáo viên phải
trực tiếp đưa ra những đề có sự khác nhau cụ thể cho học sinh xác định trực tiếp.
Dạng đề thứ nhất: khác một dấu phẩy dẫn đến khác nội dung. Đó là dạng như
hai đề ở ví dụ 1 đã nêu trên. Đề a, yêu cầu tả một minh bà đang trồng rau. Đề b, yêu
cầu tả cả bà, tả cả cháu đang trồng rau.
Dạng đề thứ hai : Khác một chữ dẫn đến nội dung yêu cầu bài làm hoàn toàn
khác nhau.
Ví dụ 2:

a/ Tả làng em sau cơn bão.
b/ Tả làng em trong cơn bão.
Ở đây, yêu cầu học sinh đọc kỹ đề và cân nhắc từng chữ, qua sự gợi ý của giáo
viên, ở hai đề trên về số lượng từ có khác nhau không? Về đối tượng có khác nhau
không? (không khác vì cùng tả "làng em").
Vậy, khác nhau ở điều gì? (khác ở ý nghĩa qua hai chữ "sau","trong"),"Tả làng
em sau cơn bão" tức là tả làng em khi bão đã như thế nào? (bão đã tan tức là chỉ còn
lại hậu quả của bão gây nên cho làng em). Còn "làng em trong cơn bão" thì sao? (tức
là làng em đang bị bão hoành hành…). Cả hai đề cùng tả "làng em" nhưng nội dung
tả có giống nhau không ? Vậy do đâu mà có sự khác nhau về trọng tâm yêu cầu đó?
Qua hai đề trên, ta thấy nhiều lúc từ ngữ đóng vai trò gì trong đề văn? (Quyết định
nội dung chính trong bài làm). Bỏ sót từ ngữ hoặc không hiểu từ, ngữ sẽ dẫn đến sai
trọng tâm yêu cầu. Do đó ta phải cân nhắc từng chữ.
Dạng đề thứ ba: đảo từ ngữ dẫn đến khác nhau về nội dung:
Ví dụ 3:
a/ Tả quê em chiều mưa.
- 11 -
b/ Tả chiều mưa quê em.
Sau khi giúp học sinh nhận định: cả hai đề không khác về số lượng chữ và đều
nói đến "chiều mưa", "quê em" và cùng yêu cầu miêu tả nhưng vị trí các ngữ được
đảo lại.
Qua sự đảo lại như vậy giúp em hiểu trọng tâm yêu cầu của mỗi đề.
Đề a: Yêu cầu tả "chiều mưa" là chính, hay tả "quê em" là chính? (tả "quê em"
là chính: Tức là tả cảnh, người, vật "quê em" lúc trời mưa).
Đề b: Tả cảnh nào là chính? (Cảnh "chiều mưa", tức là cảnh mưa như thế nào?
Âm thanh, màu sắc, mức độ gió ra sao? Sấm? Chớp?… Mưa làm cho cảnh vật ra
sao?
Sau đó, giáo viên cung cấp hai đoạn văn miêu tả (Viết lên bảng).
Giáo viên hỏi học sinh : Theo em đoạn văn nào tả "quê em chiều mưa" đoạn
văn nào tả "chiều mưa quê em"? qua trả lời của học sinh, giáo viên giúp các em nắm

vững hơn về sự khác nhau trên.
Với những dạng đề trên, nếu học sinh hấp tấp thiếu bình tỉnh sẽ rất dễ sai đề.
Nhất là khi các em được làm một đề (đề a hoặc đề b). Đến khi làm bài kiểm tra, gặp
đề còn lại là các em sẽ lướt qua đề rồi viết y như đã làm bài ở đề trước. Chính vì điều
này nên giáo viên lưu ý các em phải chú ý cân nhắc từng chữ từng từ, không ghi sai
hoặc bỏ sót từ ngữ nào và phải thận trọng khi gặp dạng đề tương tự đề mình đã làm,
giúp các em cảnh giác để tránh những sai lầm đáng tiếc.
Giữa đọc kỹ đề và đặt câu hỏi xác định đề là một yêu cầu quan trọng phải tiến
hành cùng một lúc: vừa đọc kỹ đề vừa cầm bút gạch chân các từ ngữ quan trọng
trong đề ra. Trong óc vừa hình thành câu hỏi thì câu trả lời ghi vào giấy nháp. Hai
vấn đề đó không thể tách rời nhau. Với học sinh tiểu học, giáo viên cần hướng dẫn
từng chữ, từng cách đặt câu hỏi, cách ghi giấy nháp như thế nào, ba dạng đề trên
cũng là ba dạng hướng dẫn luyện tập tìm hiểu đề cho các em. Sau khi đã tìm hiểu,
xác định được trọng tâm yêu cầu của đề ra, tiến hành bước 2: tìm và chọn lọc, sắp
xếp ý. Đây là khâu giúp các em hình thành được trọng tâm bài văn trên dạng ý đầy
- 12 -
đủ nên cần hướng dẫn học sinh câu hỏi phù hợp với từng thể loại, từng dạng đề để
học sinh áp dụng cho từng đề cụ thể.
+ Tìm ý
Thông thường học sinh miêu tả hoặc kể, thuật lại một cách chung chung đại
khái mà thiếu những yếu tố riêng, cụ thể.
Ví dụ 4:
Ở lớp 4:
Tả cây bàng thì: lá bàng to, màu xanh…
Tả cây chuối tiêu: lá chuối màu xanh, rất to…
Cây tre: lá tre màu xanh rung rinh trước gió…
Thực chất, cây nào cũng có lá màu xanh hoặc rất nhiều cây lá to, màu xanh, có
thân, cành, cội rễ… phần lớn có hoa, quả…
Hoặc ở lớp 5: Tả người: ai cũng có đầu, chân, tay, mặt mũi… cho nên, đa số
học sinh làm chung chung.

Vậy, hệ thống câu hỏi tìm ý, giáo viên phải hướng dẫn làm thế nào để các em
linh hoạt sao cho phù hợp với yêu cầu đề, qua đó, phân biệt được cây này với cây kia,
con này với con kia, người này với người khác.
Trong phần này giáo viên cũng phải cho một số đề cụ thể để vừa làm ví dụ vừa
luyện tập tìm ý:
Ví dụ 5:
a/ Tả con trâu.
b/ Tả con mèo.
Giáo viên ghi 2 đề thành 2 cột trên bảng để hệ thống các ý tìm hiểu song song
nhau nhằm giúp các em nhận thấy được sự khác nhau giữa các loài vật (giáo viên yêu
cầu các em nêu câu hỏi và trả lời, lớp nhận xét bổ sung, giáo viên chốt lại, ghi bảng).
Câu hỏi bao quát: lông mèo màu gì? Dày hay thưa? Mềm hay cứng? Lông trâu
có giống lông mèo không? Mèo thì ta có nhìn thấy da không? Còn trâu thì sao? Da
- 13 -
trâu màu gì? Đầu mèo như thế nào? Tai ra sao? Còn mắt mèo? Mũi, miệng? Đầu, tai,
mắt, mũi miệng của trâu khác của mèo như thế nào? Mỗi câu trả lời đúng của học
sinh, giáo viên ghi bảng theo 2 cột để học sinh dễ phân biệt.
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo hệ thống câu hỏi, giáo viên có thể kết
luận: "loài vật đa số có đầu, thân, lông, chân, đuôi…nhưng mỗi loài mang những nét
đặc điểm riêng biệt. Cây cối, con người cũng thế. Cho nên chúng ta cần tìm ý tả thật cụ
thể để làm toát lên những nét riêng biệt đó".
Khi đã làm hết ý, giáo viên gợi ý tiếp: Còn ý nào nữa không? Để buộc các em
suy nghĩ và liệt kê hết các ý cần tả, cần thuật lên giấy nháp. Sau đó giáo viên hệ
thống lại bằng những câu hỏi: đối với dạng đề miêu tả thì các câu hỏi phải nhằm vào
cảnh gì? Bộ phận, đường nét gì? Màu sắc, hương vị, âm thanh, hoạt động như thế
nào?
Đối với tường thuật: Việc gì? Làm việc gì trước, làm việc gì sau? Làm như thế
nào? Các thao tác ra sao? Âm thanh? Động tác? Suy nghĩ? Tâm trạng? Và cảnh vật
xung quanh như thế nào?
Đối với kể chuyện: Diễn biến câu chuyện ra sao? Cần thể hiện các chi tiết như thế

nào? Diễn biến tâm lý nhân vật được bộc lộ qua những hành động ra sao? Hoặc nhân vật
sẽ xử lý như thế nào trước những tình huống? Tất nhiên, giáo viên yêu cầu học sinh
phải có vở nháp để ghi lại những ý trả lời đó.
Luyện tập: giáo viên cho 1 đề cụ thể. Yêu cầu cả lớp thầm đặt câu hỏi trong vở
nháp (một bên là câu hỏi, một bên là câu trả lời). Sau đó, gọi vài em trình bày phần
câu hỏi - trả lời; giáo viên ghi các ý lên bảng - gọi một số học sinh bổ sung những ý
còn thiếu - giữ nguyên hệ thống các ý đó để làm ví dụ minh họa cho nội dung tiếp
theo.
+ Chọn lọc ý
Sau khi đã thống kê toàn bộ ý đã tìm được lên vở nháp (giáo viên ghi các ý lên
bảng), giáo viên hướng dẫn học sinh tập chọn ý theo hệ thống câu hỏi: theo các em,
những ý kiến trên, ý nào không quan trọng cần lược bỏ? Ý nào cần tả (hoặc thuật,
kể…) lướt qua vài ba câu? Ý nào cần tập trung tả (hoặc thuật, kể…) kỹ sâu hơn? Tại
- 14 -
sao lại không tả (hoặc thuật, kể…) hết toàn bộ? Tả (hoặc thuật, kể…) một số cảnh
(người, vật, sự việc…) và tả kỹ (…) như vậy nhằm mục đích gì?
Khi học sinh trả lời xong, giáo viên tổng hợp, bổ sung thêm: nếu tất cả các cảnh
(hoặc bộ phận trong 1 cây, 1 người, 1 con vật, 1 đồ vật) hoặc việc làm, thao tác trong
công việc cụ thể đều được tả (hoặc thuật, kể…) một cách đầy đủ, kỹ càng, chi tiết thì:
bài làm sẻ dàn trãi, lan man, dài dòng gây nhàm chán và mất thời gian; nếu chỉ lướt
qua tất cả thì bài làm sẽ nông cạn, hời hợt, thiếu sâu sắc, không cô đọng. Vậy nên,
cần chọn lọc ý, xác định ý nào không quan trọng cần bỏ hoặc lướt qua vài câu, ý nào
quan trọng làm nổi bật trọng tâm yêu cầu đề thì xoáy sâu hơn để bài văn trở nên cô
đọng, hấp dẫn.
+ Sắp xếp ý
Sau khi đã chọn lọc, cần có sự sắp xếp ý xem ý nào (cảnh nào, bộ phận nào
hoặc sự việc, thao tác nào?) cần viết trước, ý nào (…) cần viết sau sao cho hợp lý và
có tính thuyết phục. Vấn đề sắp xếp ý cần có sự linh hoạt tùy theo đề bài cụ thể, tùy
theo góc độ quan sát và chú ý của từng em đối với đối tượng của mình. Có em tả
ngôi trường từ ngoài vào nên ý tả cổng trường rồi đến sân trường, đến cột cờ… có

em lại tả từ phòng học tả ra; có em lại tả cột cờ trước… khi tả người lại tùy theo đối
tượng người đó có thể theo nghề nghiệp, công việc, hoặc tuổi trẻ… để chọn điểm nào
để tả trước. Không nên theo khuôn mẫu, công thức nhất định từ đầu đến chân.
Ví dụ 6: Tả bạn học sinh đang đá bóng thì nên chọn tả hoạt động của đôi chân,
vì lúc này chân nổi bật nhất; hoặc tả ông em đang sửa vườn rau thì tả đôi tay trước.
Có khi tả người già thì có thể tả mái tóc bạc trắng trước cũng có thể da nhăn nheo
hay từ giọng nói phều phào, từ đôi tay run run… tùy theo chủ đích của người tả.
Tất cả: tìm, chọn, sắp xếp ý là quá trình hoạt động của trí óc giúp cho bài làm
trở nên chặt chẽ và nổi bật trọng tâm, đầy đủ và phong phú - bài viết hấp dẫn mang
phong cách riêng chứ không rập khuôn theo một khuôn mẫu.
- 15 -
+ Luyện tập tổng hợp:
Luyện tập tổng hợp là yêu cầu không thể thiếu sau khi hướng dẫn các em theo
những quy trình trên. Ngoài những đề luyện tập minh họa cho mỗi phần, giáo viên ra
1 bài tập tổng hợp, yêu cầu các em thực hiện đầy đủ các bước đã hướng dẫn.
Cần lưu ý các em, quá trình đặt câu hỏi là quá trình diễn ra trong óc, không ghi
vào giấy nháp mà chỉ ghi những câu trả lời vào giấy nháp thôi.
+ Giáo án thực nghiệm: Tập làm văn lớp 5

Bài: LUYỆN TẬP TẢ CẢNH
Tiết 1 Tuần 8
I. Mục tiêu:
1. Kiến thức: Biết lập dàn ý cho bài văn miêu tả một cảnh đẹp ở địa phương
- Một dàn ý với các ý riêng của mỗi học sinh.
2. Kĩ năng: Biết chuyển một phần trong dàn ý đã lập thành đoạn văn hoàn
chỉnh (thể hiện rõ đối tượng miêu tả, trình tự miêu tả, nét đặc
sắc của cảnh; cảm xúc của người tả đối với cảnh).
3. Thái độ: Giáo dục HS ý thức được trong việc miêu tả nét đặc sắc của
cảnh, tả chân thực, không sáo rỗng.
II. Chuẩn bị:

- Thầy: Giấy khổ to, bút dạ - Bảng phụ tóm tắt những gợi ý giúp học sinh lập
dàn ý.
- Trò: Một số tranh ảnh minh họa cảnh đẹp của đất nước.
III. Các hoạt động:
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
1.Bài cũ: - Kiểm tra việc chuẩn bị bài ở
nhà của học sinh.
2.Bài mới:
a/Giới thiệu bài mới
Các em đã quan sát một cảnh đẹp của địa
phương. Trong tiết học luyện tập tả cảnh
- 16 -
hôm nay, các em sẽ lập dàn ý cho bài văn
miêu tả cảnh đẹp ở địa phương
b/ Phát triển các hoạt động:
* Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh Tìm
hiểu nắm chắc đề bài:
Phương pháp: Đàm thoại
- Giáo viên ghi đề bài lên bảng.
Đặt câu hỏi để gợi ý học sinh tìm ra yêu
cầu trọng tâm của đề bài.
- Thể loại
- Kiểu bài
- Đối tượng miêu tả
- Trọng tâm
- Cảnh đó diễn ra ở đâu? Lúc nào?
Giáo viên vừa gợi ý vừa gạch chân các từ
quan trọng của đề bài.
* Hoạt động 2: Học sinh trình bày những
điều đã quan sát được sắp xếp thành ý:

Phương pháp quan sát, thực hành
Giáo viên vừa gợi ý HS vừa đặt câu hỏi
- Đã quan sát tỉ mỉ chưa?
- Đã sắp xếp theo trình tự hợp lý chưa?
- Đã có trọng tâm chưa?
- HĐ nào được tả chính?
- Đã chọn lọc nét tiêu biểu chưa?
- Đã bộc lộ được cảm xúc khi miêu tả chưa?
- Hướng dẫn HS Tìm ý, chọn lọc ý, sắp xếp ý
* Hoạt động 3: Lập dàn ý miêu tả một cảnh
đẹp của địa phương.
Phương pháp bút đàm
- Giáo viên phát bút dạ và phiếu học tập cho
- Hoạt động lớp
- Học sinh theo dõi, trả lời.
- Các bạn nhận xét, bổ sung nếu cần thiết.
- Hoạt động lớp
- Học sinh lần lượt trả lời
- Các bạn nhận xét, bổ sung nếu cần thiết
- Hoạt động nhóm
- 1 học sinh đọc yêu cầu
- Các nhóm làm bài
- 17 -
các nhóm làm bài
- Giáo viên gợi ý
+ Dàn ý gồm mấy phần?
+ Dựa trên những kết quả quan sát, lập dàn
ý cho bài văn với đủ 3 phần.
- Giáo viên có thể yêu cầu học sinh tham
khảo bài.

+ Vịnh Hạ Long / 81,82: xây dựng dàn ý
theo đặc điểm của cảnh.
+ Tây nguyên / 82,83: xây dựng dàn ý theo
từng phần, từng bộ phận của cảnh.
 Giáo viên nhận xét, bổ sung
* Hoạt động 3: Dựa theo dàn ý đã lập, viết
một đoạn văn miêu tả cảnh thiên nhiên ở
địa phương
- Đại diện các nhóm trình bày.
- Các nhóm khác theo dõi nhận xét , đánh giá.
- 3 phần (Mở bài – Thân bài – Kết bài)
 Mở bài: Giới thiệu cảnh đẹp được chọn tả
là cảnh nào? Ở vị trí nào trên quê hương?
Điểm quan sát, thời điểm quan sát?
 Thân bài:
a/ Miêu tả bao quát:
- Chọn tả những đặc điểm nổi bật, gây ấn
tượng của cảnh: Rộng lớn - bát ngát - đồng
quê Việt Nam.
b/ Tả chi tiết:
- Lúc sáng sớm:
+ Bầu trời cao
+ Mây: dạo quanh, lượn lờ
+ Gió: đưa hương thoang thoảng, dịu dàng
đưa lượn sóng nhấp nhô
+ Cây cối: lũy tre, bờ đê òa tươi trong nắng
sớm.
+ Cánh đồng: liền bờ - ánh nắng trải đều - ô
vuông - nhấp nhô lượn sóng - xanh lá mạ.
+ Trời và đất - hoạt động con người - lúc

hoàng hôn.
+ Bầu trời: mây - gió - cây cối - cánh đồng -
trời và đất - hoạt động người.
 Kết bài:
Cảm xúc của em với cảnh đẹp quê hương
- Học sinh lập dàn ý trên nháp - giấy khổ to.
- Trình bày kết quả
- Hoạt động lớp, cá nhân
- 18 -
Phương pháp bút đàm + Phương pháp phân
tích, tổng hợp
- Giáo viên nhắc:
+ Nên chọn 1 đoạn trong thân bài để
chuyển thành đoạn văn.
+ Phần thân bài có thể gồm nhiều đoạn
hoặc một bộ phận của cảnh.
+ Trong mỗi đoạn thường có 1 câu văn nêu
ý bao trùm toàn đoạn. Các câu trong đoạn
phải cùng làm nổi bật đặc điểm của cảnh
và thể hiện được cảm xúc của người viết.
- Giáo viên nhận xét đánh giá cao những
bài tả chân thực, có ý riêng, không sáo
rỗng.
* Hoạt động 4: Củng cố
Phương pháp: Đàm thoại
 Giáo viên đánh giá
c/ Tổng kết - dặn dò:
- Về nhà hoàn chỉnh đoạn văn, viết vào vở
- Chuẩn bị: Luyện tập tả cảnh: Dựng đoạn
mở bài - Kết luận.

- Nhận xét tiết học
- 1 học sinh đọc yêu cầu
- Lớp đọc thầm, đọc lại dàn ý, xác định phần
sẽ được chuyển thành đoạn văn.
- Học sinh viết đoạn văn
- Một vài học sinh đọc đoạn văn
- Lớp nhận xét
- Hoạt động lớp
- Bình chọn đoạn văn giàu hình ảnh, cảm xúc
chân thực.
- Lớp nhận xét, phân tích
c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp:
Quá trình này không chỉ có tác dụng riêng đối với môn Tập làm văn mà nếu áp
dụng tốt, biết triệt để vận dụng thì ngay tất cả các môn học khác nó đều phát huy tác
dụng.
- 19 -
Giáo viên muốn thực hiện tốt quá trình này phải coi việc tìm hiểu đề, tìm ý,
chọn và sắp xếp ý là nguyên tắc không thể thiếu trong quá trình làm bài của học sinh.
Tất cả các bài tập làm văn của các em không thể thiếu phần này. Và trong phần này
phải vạch từng ý, có dấu hiệu nhấn mạnh ở ý trọng tâm, có số thứ tự mà các em sắp
xếp trước khi làm thế nào để rèn luyện một thói quen tốt cho các em trong khâu làm
bài.
Muốn vậy giáo viên phải thật nghiêm khắc, kiên quyết, dứt khoát và có sự động
viên kịp thời trong kiểm tra, đánh giá, cho điểm ở bài làm của các em.
Khi chấm bài phải rà lại các ý trong bài làm xem có theo đúng trình tự các ý các
em đã chọn và sắp xếp ở phần tìm hiểu đề, tìm ý không. Nếu đúng, đánh giá cho
điểm thực chất cộng thêm điểm khuyến khích. Nếu không, yêu cầu về làm lại - giáo
viên kiểm tra chưa đạt vẫn yêu cầu làm lại - cho đến khi làm được mới thôi.
d/ Mối quan hệ giữa giải pháp – biện pháp:
Khi lựa chọn các phương pháp dạy học người giáo viên cần biết phối hợp nhịp

nhàng và truyền đạt ngắn gọn để học sinh dễ hiểu, dễ thực hiện.
e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Qua thực hiện đề tài này tôi đã triển khai giảng dạy tại Trường Tiểu học Phú
Lộc. Do chú trọng khâu này nên đã khắc phục được tình trạng lạc đề hoặc làm bài
dàn trãi. Đối với những em yếu, trung bình thì bài làm đã đúng trọng tâm. Đối với
những em khá, giỏi thì rất phong phú về ý, sâu sắc về nội dung, chặt chẽ trong lập
luận. Do vậy, có một phần không nhỏ cho thành công của học sinh trong mùa thi.
II.4. Kết quả:
Qua kiểm tra khảo sát trong hai năm học tôi có kết quả như sau:
Tổng số học sinh : 30 em
- 20 -
Bảng 1.1: Kết quả học tập môn Tập làm văn qua các hai năm của học sinh
lớp 5
Đơn vị: %
Năm học Giỏi Khá Trung bình Yếu
2010-2011 10,0 16,7 53,3 20,0
2011- 2012 27,7 35,6 36,7 0,0
Thực tế qua bảng 1.1 có thể cho chúng ta thấy, thành tích học tập của các học sinh
qua 2 năm, năm 2010-2011 khi chưa áp dụng SKKN và 2011-2012 khi đã áp dụng
SKKN, có sự thay đổi rõ rệt, cụ thể là số học sinh đạt loại giỏi tăng từ 10% lên
27,7%, tăng 17,7%. Học sinh đạt loại khá tăng từ 16,7% lên 35,6%, tăng 18,9%. Học
sinh đạt loại trung bình giảm từ 53,3% xuống 36,7%, giảm 16,6% và học sinh đạt
loại yếu giảm từ 20% xuống còn 0%. Cho thấy SKKN sau khi được áp dụng đạt được
1 số thành quả nhất định.
III. Kết luận- Kiến nghị:
III.1. Kết luận:
Đây là một việc làm rút ra từ thực tế giảng dạy. Không phải không ai làm mà do
không có thói quen cho các giáo viên thực hiện. Vì để hướng dẫn tạo thành thói quen
cho các em, chúng ta không thể nói suông bằng lý thuyết mà đối với học sinh ở bậc
tiểu học thì phải chỉ dẫn từng bước, nhắc từng chữ, đưa ra từng đề cụ thể giải quyết

để các em nắm được yêu cầu. Muốn làm được điều này không thể ngày một ngày hai
mà phải hàng tuần, hàng tháng, hàng năm, tất cả các bài tập đều yêu cầu học sinh
dành thời gian “Tìm hiểu đề, tìm ý, chọn lọc, sắp xếp ý”,… các bài Tập làm văn. Nếu
chúng ta cũng kiên trì và nhiệt tình thực hiện thì sẽ giúp học sinh hình thành cho
mình thói quen, xoáy đúng trọng tâm và có như vậy học sinh sẽ ít xảy ra trường hợp
lạc đề đáng tiếc, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Hiện nay, ở Trường tiểu
học có chế độ dạy 2 buổi/ ngày, thiết nghĩ nếu chúng ta vận dụng được trong quá
trình giảng dạy thì nhất định chất lượng học sình sẽ phần nào được nâng lên.
III.2. kiến nghị:
- 21 -
* Đối với phụ huynh:
- Quan tâm nhiều hơn đến việc học hành của con em mình, có thời gian biểu cho các
em, đầu tư nhiều về thời gian cho con cái học tập, không nên để cho các em thời gian
rảnh quá nhiều và cũng không nên để các em phụ giúp nhiều công việc gia đình.
- Hướng dẫn và tạo cho con cái thói quen cẩn thận trong khi làm bất cứ một công
việc gì. Biết chia sẻ tư vấn, định hướng, bồi dưỡng tâm hồn cho con cái để các em có
nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và phát triển cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống nói
chung và trong việc làm văn nói riêng.
- Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm để tìm hiểu, nắm bắt kịp
thời tình hình học tập của con em mình.
* Đối với phòng giáo dục:
- Tiếp tục tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên trong từng năm để giáo viên có
dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực nâng cao chất
lượng dạy học và đặc biệt là phân môn Tập làm văn.
- Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên giảng
dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém .
* Đối với địa phương:
- Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư cơ sở vật
chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học.
Trên đây là một số suy nghĩ tìm tòi của tôi trong quá trình dạy học sinh “Tìm

hiểu đề, tìm ý, chọn lọc, sắp xếp ý khi làm một bài Tập làm văn”. Do không có nhiều
thời gian nghiên cứu và trình độ , kinh nghiệm có hạn nên những vấn đề nêu trên
không khỏi có sai sót. Tôi mong nhận được những góp ý, phê bình của Ban giám
hiệu nhà trường, của các bạn đồng nghiệp để tôi có thể rút kinh nghiệm trong quá
trình dạy học ngày một tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn
  
Danh mục tài liệu tham khảo:
- 22 -
- Sách Tiếng việt Lớp 4+5 ( Tập 1+ Tập 2)
- Sách Tiếng việt giáo viên Lớp 4+5 ( Tập 1+ Tập 2)
- Sách Thiết kế Bài giảng Tiếng việt Lớp 4+5 ( Tập 1+ Tập 2)
- Một số thông tin khác trên Internet.
- 23 -

MỤC LỤC
Trang
I. Phần mở đầu 1
I.1.Lí do chọn đề tài 1
I.2. Mục đích, nhiệm vụ đề tài 1
I.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 2
I.4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu 2
I.5. Phương pháp nghiên cứu 2
II. Phần nội dung 2
II.1. Cơ sở lí luận 2
II.2. Thực trạng 3
II.3. Giải pháp, biện pháp 6
II.4. Kết quả 12
III. Kết luận, Kiến nghị 12
- 24 -

- 25 -

×