Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.37 KB, 85 trang )

Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
MỤC LỤC
Câu hỏi 30
Khá 47
3.2.2.2 Đối với Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) 78
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Tư vấn Tài
chính Kế toán Kiểm toán
AASC
Bảng cân đối kế toán BCĐKT
Báo cáo kết quả kinh doanh BCKQKD
Báo cáo tài chính BCTC
Ban Giám đốc BGĐ
Chuẩn mực kiểm toán CMKT
Rủi ro kiểm soát CR
Cơ sở dẫn liệu CSDL
Rủi ro kiểm toán DR
Giấy làm việc GLV
Hội đồng quản trị HĐQT
Kiểm soát nội bộ KSNB
Kiểm toán viên KTV
Lợi nhuận LN
Lợi nhuận trước thuế LNTT
Mức trọng yếu MTY
Trách nhiệm hữu hạn TNHH
Tài sản cố định TSCĐ
Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam VACPA
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Câu hỏi 30
Khá 47
3.2.2.2 Đối với Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) 78
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
LỜI MỞ ĐẦU
Vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường là không thể phủ định.
Nhờ có các công ty kiểm toán mà nền kinh tế phát triển bền vừng và hạn chế
khủng hoảng. Ở Việt Nam hiện nay, các công ty kiểm toán đang trên đà phát
triển, nhằm cùng cấp dịch vụ tốt nhất cho thị trường, và hoàn thiện quy trình
đánh giá trọng yếu rủi ro là điều tất yếu của các công ty kiểm toán. Đánh giá
trọng yếu rủi ro được cho là một trong nhưng quy trình quan trọng nhất của
cuộc kiểm toán. Dựa vào quy trình này KTV có thể lập kế hoạch kiểm toán
chi tiết, thiết kế các thủ tục kiểm toán để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm
toán, đảm bảo cuộc kiểm toán vừa đạt được tính hiệu quả và tính kinh tế.
Trải qua quá trình 20 năm hình thành và phát triển, Công ty TNHH dịch
vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) đang ngày càng lớn mạnh,
với số lượng nhân viên, doanh thu được xếp hạng một trong số các công ty
kiểm toán hàng đầu Việt Nam. Trong thời gian thực tập ở AASC, em đã có cơ
hội được tìm hiểu, thực tập, áp dụng quy trình đánh giá trọng yếu rủi ro với
các loại khách hàng khác nhau. Công ty đã thiết kế quy trình đánh giá trọng
yếu rủi ro đầy đủ với nhiều ưu điểm, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và công
ty cần phải hoàn thiện hơn quy trình này.
Xuất phát từ tầm quan trọng của quy trình đánh giá trọng yếu rủi ro và
nhu cầu muốn lầm rõ lý luận chung cung như thực tế áp dụng của quy trình tại
công ty kiểm toán AASC, em quyết định chọn đề tài: “Hoàn thiện quy trình
đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Dịch
vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC)”.
Trong chuyên đề, em sẽ nghiên cứu: Hệ thống lý luận cơ bản về quy

trình, phương pháp đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán BCTC. Thực
trạng quy trình, phương pháp xác lập MTY và rủi ro trong kiểm toán BCTC
tại AASC. Đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện quy trình, phương pháp
xác lập MTY và rủi ro trong kiểm toán BCTC.
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
1
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
Đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Đặc điểm quy trình và phương pháp đánh giá trọng yếu và
rủi ro trong kiểm toán BCTC do công ty TNHH dịch vụ tư vấn tài chính kế
toán và kiểm toán AASC
Chương 2: Thực trạng vận dụng quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro
trong kiểm toán BCTC tại công ty TNHH dịch vụ tư vấn kế toán và kiểm toán-
AASC
Chương 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình, phương pháp
đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán BCTC tại công ty TNHH dịch vụ
tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán - AASC
Do còn hạn chế về kiến thức và bỡ ngỡ trong thực tế, bài viết của em
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý chỉ bảo của
Thầy để em có thể hoàn thành tốt chuyên đề thực tập.
Cũng nhân dịp này, em xin chân thành cảm ơn tới những người đã giúp
đỡ em hoàn thành bài viết, đặc biệt là T.S Đinh Thế Hùng, người đã hướng
dẫn tận tình trong suốt thời gian qua và các anh các chị trong Phòng kiểm
toán FIS DEPT, công ty kiểm toán AASC đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi
trong việc thu thập thông tin và áp dụng các kiến thức của em vào thực tế.
EM XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN
Sinh viên thực hiện
MAI SINH THỜI
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
2

Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP
ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN
BCTC DO CÔNG TY TNHH DỊCH VỤ TƯ VẤN TÀI CHÍNH KẾ
TOÁN VÀ KIỂM TOÁN- AASC THỰC HIỆN
1.1. Khái quát chung về trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán BCTC
tại công ty AASC
1.1.1. Bản chất và ý nghĩa trọng yếu trong kiểm toán BCTC
Trong lĩnh vực kế toán, trọng yếu là một trong các nguyên tắc kế toán
chi phối các quá trình kế toán. Nguyên tắc “Trọng yếu” chỉ chú trọng đến
những vấn đề quyết định bản chất và nội dung của sự vật. Một thông tin được
coi là trọng yếu nếu nó ảnh hưởng đến chất lượng quyết định của những
người sử dụng.
Trong lĩnh vực kiểm toán, trọng yếu là một khái niệm thường xuyên
được nhắc đến, đặc biệt là trong kiểm toán BCTC. Trọng yếu là khái niệm chỉ
tầm quan trọng của một thông tin kế toán mà trong trường hợp cụ thể, nếu các
thông tin đó bị trình bày sai lệch hoặc bị bỏ sót sẽ làm thay đổi hoặc ảnh
hưởng tới quyết định của những người sử dụng thông tin.
Theo Văn bản Chỉ đạo Kiểm toán Quốc tế Số 25 (IAG 25) về “Trọng
yếu và rủi ro trong kiểm toán” do Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC) soạn
thảo và công bố: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất của sai phạm
(kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ hoặc là từng nhóm, mà trong
bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính
xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm”. CMKT Việt Nam Số 320 cũng
định nghĩa về trọng yếu: Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu
thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các
quyết định của người sử dụng BCTC.
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
3
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng

MTY tuỳ thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai
sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. MTY là một ngưỡng, một điểm
chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu
của thông tin phải xem xét cả trên phương diện định lượng và định tính”. Như
vậy, MTY là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của
thông tin cần phải có. Mức trọng yếu (MTY) là lượng sai lệch tối đa có thể
chấp nhận được của thông tin trên BCTC. Vượt trên mức sai lệch này sẽ làm
người đọc BCTC hiểu sai về tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán.
Tuy nhiên, một sai phạm dù nhỏ nhưng có thể làm nảy sinh các vấn đề liên
quan khác có tác động dây chuyền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mức độ hợp
lý và mức độ tin cậy của BCTC hoặc làm thay đổi bản chất của thông tin trên
BCTC và có thể dẫn đến việc hiểu sai của người sử dụng BCTC về bản chất
các thông tin tài chính của đơn vị thì cũng được coi là trọng yếu. Chính vì thế,
trọng yếu, xét trong quan hệ với nội dung kiểm toán, là khái niệm chung chỉ
rõ tầm cỡ và tính hệ trọng của sai phạm có ảnh hưởng tới tính đúng đắn của
việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm toán và việc sử dụng thông tin đã
đánh giá đó để đưa ra quyết định quản lý. Trên góc độ người sử dụng thông
tin, một thông tin được coi là trọng yếu và cần phải được trình bày trên BCTC
nếu nó có khả năng ảnh hưởng tới các quyết định của người sử dụng.
Như vậy, khái niệm trọng yếu bao hàm hai mặt liên quan tới nhận thức
đối tượng: Quy mô và bản chất của sai phạm.
Về quy mô, trọng yếu được xem xét trên hai góc độ: Quy mô tuyệt đốivà
quy mô tương đối. Quy mô tuyệt đối là một con số tuyệt đối thể hiện mức
quan trọng mà không cần cân nhắc thêm bất kỳ một yếu tố nào khác. Tuy
nhiên, trong thực tế rất khó ấn định một con số cụ thể về mức trọng yếu, đặc
biệt là khi có yếu tố ảnh hưởng tiềm ẩn: Một số tiền cụ thể có thể là trọng yếu
đối với công ty này nhưng lại là quá nhỏ đối với một công ty khác. Vì thế,
đưa ra một con số tuyệt đối về MTY để áp dụng cho các đơn vị khác nhau là
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
4

Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
điều không thể. Vì vậy, MTY thường được xác định theo quy mô tương đối
hơn là theo quy mô tuyệt đối.
Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa giá trị của đối tượng
cần đánh giá với trị số của một chỉ tiêu làm số gốc. Số gốc thường khác nhau
trong mỗi tình huống. Chẳng hạn, với BCKQKD, số gốc có thể là doanh thu,
thu nhập thuần hoặc bình quân thu nhập của mấy năm gần nhất. Ví dụ, KTV
có thể đánh giá nếu tổng hợp các sai phạm mà có tỷ lệ nhỏ hơn 5% so với giá
trị lợi nhuận thuần thì được xem là không trọng yếu nhưng nếu lớn hơn 10%
thì chắc chắn trọng yếu; với BCĐKT, số gốc có thể là giá trị tài sản ngắn hạn
hoặc tổng tài sản… Ngoài ra, xem xét về quy mô của trọng yếu, chú ý không
chỉ quy mô tuyệt đối hay quy mô tương đối mà cả mức độ ảnh hưởng luỹ kế
của đối tượng xem xét. Theo Đoạn 07, CMKT Việt Nam Số 320: “KTV cần
xem xét tới khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ nhưng tổng hợp lại có
ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC, như: một sai sót trong thủ tục hạch toán cuối
tháng có thể trở thành một sai sót trọng yếu, tiềm tàng nếu như sai sót đó cứ
tiếp tục tái diễn vào mỗi tháng”. Có nhiều sai phạm khi xem xét một cách cô
lập thì chúng không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ. Nếu cộng dồn tất cả những
sai phạm sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của sai phạm và khi
đó những sai phạm đó được xem là trọng yếu.
Như vậy, quy mô trọng yếu được xác định tuỳ thuộc vào đối tượng kiểm
toán cụ thể, khách thể kiểm toán (với đặc điểm hoạt động kinh doanh và quy
mô khác nhau)… Khi đó, quy mô của các sai phạm không chỉ được đánh giá
bằng con số tuyệt đối mà phải đặt trong tương quan với toàn bộ đối tượng
kiểm toán. Mặt khác, việc đánh giá tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể để xem xét
riêng biệt hay cộng dồn các sai phạm.
Về bản chất, khái niệm trọng yếu gắn với tính hệ trọng của vấn đề xem
xét. Xem xét mặt định tính chỉ cần thiết khi nó ảnh hưởng đến bản chất của
khoản mục hay vấn đề đang được đánh giá. Liên quan tới vấn đề này, tất cả
các nghiệp vụ, khoản mục được xem là trọng yếu thường bao gồm:

SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
5
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
Thứ nhất, Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả
năng gian lận
Với cùng một quy mô tiền tệ, gian lận thường được chú trọng hơn sai sót
bởi gian lận luôn liên quan tới tính trung thực và độ tin cậy của BGĐ và
những người có liên quan. Do đó, một hành vi gian lận luôn được coi là trọng
yếu dù quy mô nhỏ. Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng
khả năng gian lận thường bao gồm: các nghiệp vụ đấu thầu, thanh lý tài sản,
nghiệp vụ tiền mặt, nghiệp vụ về mua bán và thanh toán.
Thứ hai, Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót lớn hoặc mang tính hệ
trọng gồm: các khoản mục nghiệp vụ có quy mô lớn, nghiệp vụ vi phạm
nguyên tắc kế toán, nghiệp vụ có sai sót lặp lại nhiều lần, các nghiệp vụ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nhiều kỳ. Xem xét về mặt bản chất của các sai phạm
sẽ cung cấp thông tin bổ sung giúp cho KTV đánh giá toàn diện các sự kiện.
Tất cả các khoản mục, nghiệp vụ thuộc về bản chất của đối tượng kiểm toán
đều liên quan trực tiếp đến nhận thức đúng đối tượng và đưa ra ý kiến kiểm
toán, và do đó không thể bỏ qua. Như vậy, khái niệm trọng yếu đã đặt ra yêu
cầu xác định các sai phạm với nguyên tắc là không được bỏ sót các sai phạm
có quy mô lớn và có tính hệ trọng.
1.1.2. Những khái niệm cơ bản về rủi ro kiểm toán
1.1.2.1. Khái niệm
CMKT Việt Nam Số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” đã đưa
ra khái niệm về rủi ro kiểm toán như sau: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do KTV
và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi BCTC đã
được kiểm toán vẫn còn chứa đựng những sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán
bao gồm ba bộ phận: rủi ro tiềm tàng; rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”.
Như vậy, rủi ro kiểm toán trên có thể thấy: rủi ro kiểm toán là những
nhận xét không xác đáng, chủ yếu theo hướng KTV kết luận BCTC của khách

hàng được trình bày trung thực, hợp lý trong khi chúng vẫn có sai phạm trọng
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
6
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
yếu. Những sai phạm này ảnh hưởng trọng yếu tới những người sử dụng
thông tin trên BCTC. Loại rủi ro như vậy luôn luôn có thể tồn tại, ngay cả khi
cuộc kiểm toán được lập kế hoạch chu đáo và thực hiện một cách thận trọng.
Rủi ro này sẽ tăng lên nếu việc lập kế hoạch kiểm toán không tốt và thực hiện
thiếu thận trọng.
1.1.2.2. Các loại rủi ro trong kiểm toán.
Thứ nhất, Rủi ro tiền tàng
Khái niệm, Rủi ro tiềm tàng là khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu
trong bản thân các đối tượng kiểm toán (chưa tính đến sự tác động của bất cứ
hoạt động kiểm soát nào kể cả kiểm soát nội bộ). Rủi ro tiềm tàng là khả năng
BCTC có sai phạm trọng yếu với giả thiết trong đơn vị không có hoạt động
kiểm soát nội bộ. Nếu KTV đánh giá khả năng tồn tại sai phạm trọng yếu với
đối tượng kiểm toán (với giả định không có sự tác động của hoạt động kiểm
soát nội bộ trong đơn vị) là cao, KTV sẽ xác định rủi ro tiềm tàng ở mức cao.
Các nhân tố ảnh hưởng, Ở mỗi doanh nghiệp, mỗi loại hình kinh doanh
và tính chất ngành nghề khác nhau thì rủi ro tiềm tàng là hoàn toàn khác nhau.
Các yếu tố có ảnh hưởng đến rủi ro tiềm tàng là:
- Bản chất kinh doanh của khách hàng như: ngành kinh doanh, các loại
sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp tạo ra được cung cấp cho thị trường,
các yếu tố tác động của ngành nghề, môi trường kinh tế, địa điểm hoạt đông,
cơ cấu vốn, tính chất thời vụ.
-Bản chất của các bộ phận, khoản mục được kiểm toán như: khả năng
chứa đựng các sai phạm trọng yếu thay đổi theo các khoản mục, như khoản
mục hàng tồn kho có khả năng chứa đựng những sai phạm trọng yếu nhiều
hơn là khoản mục tài sản cố định vì hàng tồn kho phải thông qua nhiều khâu
tính toán, đánh giá, tính nhất quán của phương pháp tính giá xuất kho,

phương pháp lập dự phòng giảm giá.
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
7
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
- Bản chất hệ thống kế toán và thông tin trong đơn vị: như mức độ, tính
chất, phạm vi, hiệu quả của hệ thống kế toán hay các thiết bị thông tin áp
dụng trong doanh nghiệp.
Rủi ro tiềm tàng tồn tại khách quan nằm ngay trong nội tại doanh nghiệp,
nó không phụ thuộc công việc kiểm toán.
Trình tự đánh giá rủi ro tiềm tàng, Trình tự đánh giá phân tích rủi ro
tiềm tàng, thông thường việc phân tích đánh giá rủi ro tiềm tàng thường được
tiến hành từ trên xuống dưới, từ đỉnh xuống đáy, từ tổng thể đến chi tiết, từ
toàn bộ công ty đến các công ty trực thuộc, từ toàn bộ BCTC đến từng khoản
chi tiết trọng BCTC.
Ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro tiềm tàng, Việc nghiên cứu đánh giá
rủi ro tiềm tàng có một ý nghĩa quan trọng trong cuộc kiểm toán. Mức độ rủi
ro tiềm tàng ở mỗi doanh nghiệp mà KTV dự kiến cao thấp khác nhau sẽ là
căn cứ, cơ sở để KTV xác định về khối lượng, quy mô, phạm vi công việc
kiểm toán cần thực hiện, cũng là căn cứ để KTV xác định thời gian và chi phí
kiểm toán.
Thứ hai, rủi ro kiểm soát
Khái niệm, Rủi ro kiểm soát là khả năng HTKSNB của đơn vị được
kiểm toán không phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm
trọng yếu. Đây là rủi ro liên quan đến sự yếu kém của HTKSNB. Rủi ro kiểm
soát là khả năng xảy ra các sai phạm trọng yếu do HTKSNB của đơn vị khách
hàng không hoạt động hoặc hoạt động không có hiệu quả.
Các nhân tố ảnh hưởng, Rủi ro kiểm soát cũng như rủi ro tiềm tàng tồn
tại khách quan nằm ngay trong doanh nghiệp không phụ thuộc vào công việc
kiểm toán có tiến hành hay không. Trong quá trình tìm hiểu, đánh giá về về
hệ thống kế toán và HTKSNB, KTV cần phải có đủ hiểu biết về hệ thống này,

về các yếu tố cấu thành về hạn chế cố hữu của nó, kể cả quy trình và trình tự
đánh giá nghiên cứu về hệ thống kế toán và HTKSNB cũng như các yếu tố
ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán đó là:
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
8
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
- Tính chất mới mẻ và phức tạp của các loại giao dịch.
- Khối lượng và cường độ của giao dịch (nhiều hay ít, mạnh hay yếu)
- Số lượng và chất lượng của hệ thống nhân lực tham gia kiểm soát trong
doanh nghiệp.
- Tính hiệu lực, hợp lý và hiệu quả của các thủ tục kiểm soát và trình tự
kiểm soát trong doanh nghiệp.
- Tính khoa học, thích hợp và hiệu quả của HTKSNB như: việc sắp xếp
phân công đúng người đúng việc, việc bố trí sử dụng một cách tối ưu các
phương tiện thiết bị kết hợp với con người trong quá trình kiểm soát.
Việc đánh giá rủi ro kiểm soát thực chất là việc đánh giá về tính hiệu lực,
hiệu quả của hệ thống kế toán và HTKSNB trong doanh nghiệp có đủ khả
năng ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời các gian lận, sai sót trọng yếu xảy
ra trong doanh nghiệp một cách đáng tin cậy hay không. Rủi ro kiểm soát là
cao trong trường hợp như: hệ thống kế toán và HTKSNB không hiệu quả,
KTV không có đầy đủ cơ sở để đánh giá sự thích hợp, đầy đủ và hiệu quả của
hệ thống kế toán và HTKSNB của doanh nghiệp. Ngược lại, rủi ro kiểm soát
ở mức độ thấp khi: KTV có đầy đủ điều kiện và có kế hoạch để thử nghiệm
về kiểm soát nhằm khẳng định việc đánh giá rủi ro kiểm soát của mình. KTV
có đầy đủ bằng chứng và cơ sở để kết luận hệ thống kế toán và HTKSNB của
doanh nghiệp là có hiệu lực, hiệu quả.
Trình tự đánh giá rủi ro kiểm soát, Về trình tự nghiên cứu, đánh giá
rủi ro kiểm toán hoàn toàn giống nhau như trình tự phân tích, đánh giá rủi
ro tiềm tàng.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu rủi ro kiểm soát, Việc nghiên cứu đánh

giá rủi ro kiểm soát có một ý nghĩa quan trọng quá trình lập kế hoạch kiểm
toán. Mức độ rủi ro kiểm soát ở mỗi doanh nghiệp mà KTV dự kiến cao thấp
khác nhau sẽ là căn cứ và là cơ sở để KTV xác định về khối lượng, quy mô,
phạm vi công việc kiểm toán và các thủ tục kiểm toán áp dụng cho cuộc kiểm
toán. Từ đó để KTV dự kiến biên chế, thời gian, chi phí và các phương tiện
cần thiết khác cho một cuộc kiểm toán.
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
9
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
Thứ ba, rủi ro phát hiện
Khái niệm, CMKT Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa về rủi ro phát
hiện như sau: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai phạm trọng yếu trong
từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính
gộp mà trong quá trình kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán không phát
hiện được”
Rủi ro phát hiện hoàn toàn phụ thuộc vào công việc kiểm toán. Nó phụ
thuộc vào quy trình, phương pháp, phạm vi và trình độ, kinh nghiệm của
KTV. Rủi ro phát hiện chính là khả năng không phát hiện ra gian lận sai sót
trọng yếu trong quá trình kiểm toán của KTV.
Các nhân tố ảnh hưởng
- Phạm vi kiểm toán: Phạm vi kiểm toán càng rộng thì khả năng phát
hiện gian lận sai sót càng tăng lên. Tức là khả năng không phát hiện ra gian
lận sai sót giảm đi có nghĩa là rủi ro phát hiện giảm và ngược lại.
- Phương pháp kiểm toán: Phương pháp kiểm toán tốt, thích hợp và hiệu
quả thì khả năng phát hiện các gian lận, sai sót tăng lên tức là những gian lận,
sai sót không phát hiện được sẽ giảm xuống có nghĩa là rủi ro phát hiện giảm
và ngược lại.
- Trình độ, kinh nghiệm của KTV: KTV có trình độ chuyên môn cao, có
nhiều kinh nghiệm thì dễ phát hiện nhiều gian lận sai sót do đó rủi ro phát
hiện sẽ giảm.

Trình tự đánh giá rủi ro phát hiện, Việc đánh giá rủi ro phát hiện được
thực hiện sau khi KTV xác định được rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Với
mức rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cố định KTV sẽ đưa ra ước tính của
mình về rủi ro phát hiện dựa trên các yếu tố ảnh hưởng tới rủi ro phát hiện.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu rủi ro phát hiện, Việc đánh giá rủi ro phát
hiện có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Với mức đánh giá rủi ro phát hiện
cao thấp khác nhau sẽ quyết định rủi ro kiểm toán. Bởi vì, trong một doanh
nghiệp rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là tồn tại khách quan dù KTV có
thực hiện cuộc kiểm toán hay không. Mức rủi ro phát hiện cao thấp lại phụ
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
10
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
thuộc vào công việc kiểm toán của KTV. Điều này quyết định trực tiếp đến
khối lượng công việc và các thủ tục mà KTV sẽ áp dụng nhằm hạn chế rủi ro
và đảm bảo thời gian, chi phí của cuộc kiểm toán.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành rủi ro kiểm toán
Rủi ro kiểm toán xảy ra khi KTV nhận xét BCTC được trình bày trung
thực, hợp lý khi chúng chứa đựng sai phạm trọng yếu. Rủi ro này xuất phát từ
các sai lệch tiềm ẩn trong BCTC (rủi ro tiềm tàng) đã vượt qua HTKSNB của
đơn vị (rủi ro kiểm soát) và không bị KTV phát hiện (rủi ro phát hiện). Mối
quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và các bộ phận rủi ro cấu thành có thể được thể
hiện qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
Rủi to tiềm tàng
HTKSNB
Rủi ro kiểm soát
Khả năng phát
hiện của KTV

Rủi ro phát hiện
11
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
Trong quan hệ đó, rủi ro kiểm toán có thể được phản ánh qua mô hình:
AR = IR x CR x DR (công thức 1.1)
Trong đó: - AR: Rủi ro kiểm toán
- IR: Rủi ro tiềm tàng
- CR: Rủi ro kiểm soát
- DR: Rủi ro phát hiện
Giữa rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện có những điểm
khác biệt. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát tồn tại độc lập, khách quan với
các thử nghiệm kiểm toán. Ngược lại, KTV có thể kiểm soát được rủi ro phát
hiện thông qua việc điều chỉnh nội dung, thời gian và phạm vi của các thử
nghiệm kiểm toán. Đây là điểm mẫu chốt giúp KTV điều chỉnh công việc
kiểm toán của mình tuỳ theo tình hình của đơn vị để đạt được mục đích cuối
cùng là rủi ro kiểm toán sẽ được giảm đến mức không tồn tại sai phạm trọng
yếu với chi phí hợp lý. Vì thế, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán,
KTV thường ấn định trước một mức rủi ro kiểm toán mong muốn đạt tới.
Đồng thời, dựa trên các thông tin tìm hiểu về khách hàng kiểm toán để
đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Sau đó mới xác định ra mức
rủi ro phát hiện và làm cơ sở cho việc lập kế hoạch về nội dung, thời gian
và phạm vi của các thử nghiệm kiểm toán. Do đó, mô hình rủi ro kiểm
toán có thể sử dụng dưới dạng:
DR = (công thức 1.2)
Công thức này được dùng để trợ giúp cho KTV phán đoán khi đánh giá
và xác định rủi ro phát hiện ở mức không tồn tại sai phạm trọng yếu. Mô hình
rủi ro kiểm toán cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa các loại rủi ro kiểm toán.
Trong mối quan hệ này, rủi ro phát hiện luôn có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A

12
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
1.1.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán BCTC
Trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và đó là
quan hệ tỷ lệ nghịch. Nếu MTYcó thể chấp nhận được càng cao thì
rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Nói cách khác, khi KTV tăng giá trị
sai phạm có thể bỏ qua thì sẽ có ít hơn các sai phạm được coi là trọng yếu và
khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu không được ngăn ngừa và phát hiện
sẽ giảm xuống, đồng nghĩa với việc rủi ro kiểm toán cũng giảm xuống. Ngược
lại, nếu giảm mức sai phạm có thể chấp nhận được thì khả năng tồn tại các sai
phạm trọng yếu sẽ lớn hơn và rủi ro kiểm toán sẽ cao hơn. Mối quan hệ giữa
trọng yếu và rủi ro kiểm toán có ý nghĩa quan trọng trong các giai đoạn của
quá trình kiểm toán, từ đó ảnh hưởng tới chất lượng của cuộc kiểm toán. Sự
ảnh hưởng này thể hiện rõ trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, nó giúp
xác định về nội dung, phạm vi, lịch trình của các thủ tục kiểm toán sẽ áp
dụng. Ví dụ, khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV xác định MTY có thể chấp
nhận được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Trong Trường hợp này, để
giảm độ rủi ro kiểm toán, 2 trường hợp sau:
Trường hợp 1: Nếu KTV dự kiến có thể giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã
đánh giá, KTV sẽ thực hiện bằng cách mở rộng, hoặc thực hiện thêm các thử
nghiệm kiểm soát nhằm chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm soát.
Trường hợp 2: Giảm rủi ro phát hiện bằng việc sửa đổi lại nội dung,
lịch trình, phạm vi của những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
Trong quá trình kiểm toán, kết quả đánh giá MTY và rủi ro kiểm toán
của KTV khi lập kế hoạch kiểm toán ban đầu có thể khác so với kết quả đánh
giá ở các thời điểm khác trong quá trình kiểm toán. Có thể là do sự thay đổi
tình hình thực tế hoặc thay đổi hiểu biết của KTV về đơn vị được kiểm toán
dựa trên kết quả thu thập được. ví dụ như, lập kế hoạch kiểm toán trước khi
kết thúc năm tài chính, KTV đã đánh giá MTY và rủi ro kiểm toán căn cứ trên
dự tính kết quả và tình hình tài chính của đơn vị. Nhưng, kết quả và tình hình

SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
13
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
thực tế của đơn vị khác biệt đáng kể so với dự tính, làm KTV phải có sự điều
chỉnh lại MTY và rủi ro kiểm toán dự tính này.
1.2. Quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán BCTC
tại AASC
1.2.1. Quy trình đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán BCTC tại
AASC
1.2.1.1. Khái niệm và sự cần thiết phải xác lập MTY
Khi phát hiện một gian lận, sai sót trong BCTC, đầu tiên KTV phải
đánh giá gian lận đó trên các khía cạnh xem có thể chấp nhận được không.
Nếu chấp nhận được, KTV có thể bỏ qua, nếu không chấp được, KTV sẽ đưa
ra ý kiến nhận xét cho phù hợp. Cái ngưỡng để xem xét sai phạm có thể chấp
nhận được hay không được gọi là MTY (tính trọng yếu).
KTV phải xem xét đến các nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót
trọng yếu trong BCTC. Đánh giá của KTV về MTY liên quan đến số dư các
tài khoản và các loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp KTV xác định được các khoản
mục cần được kiểm tra. Việc đánh giá MTY liên quan đến số dư các tài khoản
và các loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp KTV lựa chọn được những thủ tục kiểm
toán thích hợp và việc kết hợp các thủ tục kiểm toán thích hợp đó với nhau sẽ
làm giảm được rủi ro kiểm toán tới mức độ có thể chấp nhận được.
Trong một cuộc kiểm toán, MTY và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỷ
lệ nghịch với nhau: MTY càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược
lại. KTV phải cân nhắc đến mối quan hệ này khi xác định nội dung, lịch trình
và phạm vi của các thủ tục kiểm toán một cách thích hợp như: nếu KTV xác
định MTY có thể chấp nhận được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên.
Trường hợp này KTV có thể:
- Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng
hoặc thực hiện thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi

ro kiểm soát.
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
14
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
- Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và
phạm vi của những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
Tính trọng yếu có một ý nghĩa quan trọng trong quá trình kiểm toán
và thiết kế xây dựng các thủ tục kiểm toán, nó giúp KTV xác định được
thời gian, nội dung, thủ tục kiểm toán và mức độ hợp lý của các thông tin
trên BCTC.
1.2.1.2. Cơ sở và phương pháp xác lập MTY
Cở sở xác lập MTY.
Trọng yếu là một vấn đề nhạy cảm, phụ thuộc vào kinh nghiệm, kiến
thức và khả năng xét đoán của KTV và đặc biết, nó mang tính chủ quan. Thực
tế, trọng yếu thiên về tương đối hơn là tuyệt đối. Trong yếu bao gồm cả 2
mặt: định lượng và định tính.
Về mặt định lượng, tính trọng yếu luôn phải được xem xét trong mối
quan hệ chặt chẽ giữa các sai phạm về mặt định lượng với nhau. MTY tuyệt
đối khác nhau theo các ngành nghề và công ty, ở doanh nghiệp này nó là
trọng yếu nhưng ở doanh nghiệp khác thì nó không phải. Hoặc có khoản mục
là trọng yếu nếu xem xét mối liên hệ với khoản mục khác. Về mặt định tính,
tính trọng yếu nói lên bản chất của sai phạm. Có những sai phạm không phân
biệt độ lớn nhưng vẫn coi là trọng yếu để xem đoán tính trọng yếu như:
- Các lỗi về luật pháp, chính sách, chế độ và những quy định có tính
nguyên tắc.
- Vi phạm liên quan đến tính trung thực của nhà quản lý cấp cao.
- Vi phạm có tính chất gây hậu quả phản ứng dây chuyền.
- Vi phạm về LN, thu nhập của doanh nghiệp.
- Vi phạm đã được chỉ ra nhưng không được sữa chữa.
Việc xem xét tính trọng yếu phải được đặt ra trong từng hoàn cảnh và

điều kiện cụ thể với những tình huống nhất định. Việc đánh giá và xét đoán
tính trọng yếu không chỉ với những sai phạm đã được phát hiện trong kỳ kiểm
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
15
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
toán, với những sai phạm đơn lẻ mà nó còn được xem xét trong mối quan hệ
với những sai sót chưa được xem xét trong mối quan hệ với những sai sót
chưa được sửa chữa của kỳ kiểm toán trước cũng như trong mối quan hệ với
những sai phạm dự kiến chưa được phát hiện trong tổng thể sai phạm dự kiến
trong tổng thể của KTV và trong mối quan hệ tổng hợp chặt chẽ với các sai
phạm. Để có thể xét đoán và vận dụng được tính trọng yếu đòi hỏi KTV phải
có sự hiểu biết thấu đáo chặt chẽ và sâu sắc về tính trọng yếu từ đó có thể
giảm được rủi ro kiểm toán. Trong thực tế, KTV khi lập kế hoạch kiểm toán
thường ấn định MTY có thể chấp nhận được thấp hơn so với mức được sử
dụng để đánh giá kết quả kiểm toán của KTV nhằm tạo ra một khoảng lề an
toàn cho chính KTV và cuộc kiểm toán.
Quy trình, phương pháp xác lập MTY.
Bước 1: Ước lượng sơ bộ ban đầu về MTY.
Mức ước lượng ban đầu về trọng yếu là lượng sai lệch tối đa của BCTC
nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng thông tin
tài chính. Nói cách khác, đây chính là những sai sót có thể chấp nhận được
đối với toàn bộ BCTC. Việc ước lượng ban đầu về MTY giúp cho KTV lập
kế hoạch để thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp. Nếu ước lượng
MTYcàng thấp, thì độ chính xác của các số liệu trên BCTC càng cao, dẫn đến
số lượng bằng chứng phải thu thập càng nhiều và ngược lại. Xác định được số
lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập một cách hợp lý sẽ giúp KTV có
thể đưa ra được ý kiến kiểm toán phù hợp, đồng thời tiết kiệm thời gian và chi
phí kiểm toán, từ đó đảm bảo được chất lượng của cuộc kiểm toán. Nhưng,
mức ước lượng ban đầu về trọng yếu không cố định mà có thể thay đổi trong
suốt cuộc kiểm toán nếu mức ước lượng ban đầu được đánh giá là quá cao

hoặc quá thấp hoặc một trong các nhân tố dùng để xác định mức ước lượng
ban đầu về trọng yếu bị thay đổi. CMKT Việt Nam Số 320 quy định: Kết quả
đánh giá MTY và rủi ro kiểm toán của KTV ở thời điểm lập kế hoạch kiểm
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
16
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
toán ban đầu có thể khác với kết quả đánh giá ở các thời điểm khác nhau
trong quá trình kiểm toán. Sự khác nhau này là do sự thay đổi tình hình thực
tế hoặc sự thay đổi về sự hiểu biết của KTV về đơn vị được kiểm toán dựa
trên kết quả kiểm toán đã thu thập được, như: trường hợp lập kế hoạch kiểm
toán trước khi kết thúc năm tài chính, KTV đã đánh giá MTY và rủi ro kiểm
toán căn cứ trên dự tính trước kết quả hoạt động và tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Nếu tình hình tài chính thực tế và kết quả hoạt động của doanh
nghiệp có sự khác biệt đáng kể so với dự tính, thì việc đánh giá MTY và rủi
ro kiểm toán sẽ có thay đổi. Ngoài ra, trong khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV
thường ấn định MTY có thể chấp nhận được thấp hơn so với mức sử dụng để
đánh giá kết quả kiểm toán nhằm tăng khả năng phát hiện sai sót. Ước lượng
ban đầu về trọng yếu là một việc làm mang tính xét đoán nghề nghiệp của
KTV. Căn cứ để đưa ra ước tính ban đầu về MTY đối với toàn bộ BCTC là
các nhân tố ảnh hưởng đến trọng yếu (xét cả về mặt định lượng và định tính).
Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục
Sau khi KTV đã có được mức ước lượng ban đầu về trọng yếu cho toàn
bộ BCTC, mức ước lượng này cần được phân bổ cho từng khoản mục trên
BCTC. Đây chính là sai số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục.
Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục là cần thiết vì
bằng chứng thường được thu thập theo các bộ phận hơn là theo toàn bộ BCTC
nói chung. Phân bổ này sẽ giúp xác định được số lượng bằng chứng kiểm toán
thích hợp phải thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất có
thể, trong khi vẫn đảm bảo tổng hợp các sai phạm trên BCTC không vượt quá
mức ước lượng ban đầu về trọng yếu, từ đó đảm bảo chất lượng của cuộc

kiểm toán. Vì kế toán thực hiện ghi sổ theo nguyên tắc ghi sổ kép nên nếu
một sai phạm ảnh hưởng tới BCKQKD thì hầu như cũng có ảnh hưởng tương
tự như đối với BCĐKT. Cho nên, khi thực hiện phân bổ mức ước lượng về
trọng yếu cho các khoản mục trên BCTC, mức ước lượng này có thể được
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
17
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
phân bổ hoặc cho các tài khoản trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh,
hoặc cho các tài khoản trên BCĐKT. Nhưng, do hầu hết các thủ tục kiểm toán
tập trung vào các tài khoản trên BCĐKT nên mức ước lượng ban đầu về trọng
yếu thường được phân bổ cho các tài khoản trên BCĐKT.
Phân bổ sẽ dựa vào 2 cơ sở chính là:
- Kinh nghiệm của KTV về sai sót của các khoản mục (khả năng khoản
mục nào sẽ chứa đựng nhiều sai phạm hơn).
- Chi phí kiểm toán cho từng khoản mục (khoản mục nào chi phí kiểm
toán nhiều hơn thì phân bổ nhiều hơn, thường khoản mục hàng tồn kho chi
phí kiểm toán sẽ nhiều hơn vì phải kiểm kê hàng tồn kho).
Bước 3: Ước tính sai sót cho từng khoản mục.
Sau khi hoàn thành bước 2, KTV tiến hành kiểm toán cho từng khoản
mục theo mẫu đã chọn. Dựa trên sai sót phát hiện mẫu đã chọn đó, KTV ước
tính sai sót cho toàn bộ phận đó (được gọi là sai sót dự kiến cho bộ phận đó)
nhằm giúp KTV so sánh đối với sai sót có thể bỏ qua đối với các khoản mục
đó để quyết định có chấp nhân khoản mục đó hay không hoặc thực hiện các
thủ tục kiểm toán bổ sung cho các khoản mục này.
Bước 4: Ước tính sai sót kết hợp của toàn bộ BCTC.
Trên cơ sở ước tính tổng sai phạm trong từng khoản mục, KTV tổng hợp
các sai phạm của các khoản mục trên BCTC. Tổng cộng những sai phạm chưa
được sửa chữa bao gồm những sai phạm mà KTV đã phát hiện và cả những
ảnh hưởng của những sai phạm đã phát hiện trong quá trình kiểm toán kỳ
trước nhưng chưa được sửa chữa và những ước tính của KTV về những sai

phạm khác có thể đã không được xác định cụ thể. Con số tổng hợp này sẽ
được dùng để so sánh với ước lượng ban đầu về trọng yếu hoặc ước lượng
ban đầu đã được điều chỉnh.
Bước 5: So sánh sai sót kết hợp ước tính với ước lượng ban đầu hoặc đã
điều chỉnh về trọng yếu
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
18
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
Trong cả cuộc kiểm toán, mức trọng ban đầu có thể thay đổi phụ thuộc
vào nhưng phát hiện thêm của KTV về rủi ro kiểm soát và rủi ro tiềm tàng. Sự
điều chỉnh này làm cho mức ước lượng ban đầu hợp lý hơn. Tuy nhiên, KTV
phải chú ý rằng không chỉ so sánh đơn thuần mà còn phải lưu ý đến việc so
sánh của từng bộ phận, từng khoản mục với sai sót trọng yếu ban đầu được
phân bổ cho từng khoản mục đó.
1.2.2. Quy trình đánh giá rủi ro trong kiểm toán BCTC tại AASC
Thứ nhất, Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán-Đánh giá ban đầu về rủi ro
kiểm toán (Rủi ro chấp nhận hợp đồng)
Rủi ro kiểm toán ở giai đoạn này là quyết định giữa chấp nhận khách
hàng mới hay là tiếp tục một khách hàng cũ. Việc quyết định này do người có
kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn cao quyết đinh, thường là tổng giám
đốc kiểm toán hoặc là phó giám đốc.
Cơ sở để đánh giá là: lĩnh vực hoạt động, cơ cấu tổ chức, khả năng tài
chính, môi trường hoạt động, tính liêm chính của BGĐ để xếp loại khách
hàng, lịch sử kinh doanh của công ty. Sau đó sẽ phân loại khách hàng theo 3
cấp độ: khách hàng có mức độ rủi ro ở mức thông thường, khách hàng có mức
độ rủi ro cao và khách hàng có mức độ rủi ro có thể kiểm soát được.
Khách hàng có mức độ rủi ro thông thường có đặc điểm này là: Hoạt động
của doanh nghiệp qua các năm đứng vững và có chiến lược cũng như khả
năng phát triển dài hạn. Doanh nghiệp xây dựng được hệ thống tài chính và
HTKSNB hiệu quả. Chính sách kế toán và nhân sự ít có sự thay đổi. BCTC

luôn được tuân thủ về nguyên tắc và thời gian. Bộ phận quản lý của doanh
nghiệp có năng lực chuyên môn, chính trực, có sự hiểu biết về tình hình kinh
doanh và thống nhất về các quyết định của BGĐ. Khách hàng với mức rủi ro
có thể kiểm soát được, đánh giá về khách hàng phụ thuộc vào thực tế và
xem xét dựa trên sự xét đoán tổng thể và năng lực của KTV. Nếu khách
hàng được đánh giá ở mức rủi ro thông thường và mức rủi ro có thể kiểm
soát được thì Công ty có thể chấp nhận khách hàng này.
Khách hàng với mức rủi ro cao là những khách hàng có thể gây ra tổn
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
19
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
thất cho hãng kiểm toán hoặc làm mất uy tín của hãng kiểm toán, với nhưng
khách hàng này công ty nên từ chối kiểm toán.
Thứ hai, Giai đoạn lập kế hoạch
Dựa trên việc tìm hiểu thông tin cơ bản về doanh nghiệp như HTKSNB
ngành nghề kinh doanh, tình hình kinh doanh nói chung, hồ sơ kiểm toán của
các năm trước, cùng như liên hệ với KTV tiền nhiệm, KTV thực hiện đánh
giá rủi ro ban đầu và lập kế hoạch kiểm toán.
Đánh giá rủi ro trong giai đoạn này bao gồm: Đánh giá rủi ro tiềm tàng,
công ty AASC đánh giá rủi ro tiềm tàng bao gồm 3 mức độ cao, trung bình và
thấp. KTV dựa vào bảng sau như một trong những căn cứ để đánh giá sơ bộ
rủi ro tiềm tàng. Đánh giá rủi ro kiểm soát, dựa vào các nguồn thông tin thu
thập được HTKSNB, KTV thực hiện đánh giá rủi ro kiểm soát. HTKSNB
được đánh giá trên 4 yếu tố là: Môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán, thủ
tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ. Hiện nay công ty đang đánh giá rủi ro
kiểm soát thông qua hệ thống câu hỏi về HTKSNB của khách hàng kiểm toán.
Nhờ bảng câu hỏi đó, KTV sẽ đánh giá mức độ tin cậy và hoạt động hiệu quả
của HTKSNB ở 3 mức độ: Khá, trung bình, yếu. Sau đó, sẽ đánh giá được
mức độ rủi ro kiểm soát.
Thực hiện các thủ tục phân tích: Thủ tục phân tích được sử dụng để xác

định trọng tâm kiểm toán. Quyết định lựa chọn quy trình, phương pháp phân
tích và mức độ áp dụng phụ thuộc vào xét đoán chuyên môn của KTV. thông
quá thực hiện thủ tục phân tích, KTV có thể xác định được biến động bất
thường của khoản mục. Từ đó, KTV sẽ vận dụng thủ tục kiểm tra chi tiết đối
với từng khoản mục đang kiểm tra.
Thứ ba, Giai đoạn thực hiện kiểm toán
Ở giai đoạn này, công ty AASC không thực hiện đánh giá rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát cho từng khoản mục, mà sử dụng HTKSNB của
khách hàng thông qua bảng câu hỏi về HTKSNB của từng phần hành hoặc
khoản mục để đánh giá tính hiệu quả hiệu lực trên thực tế, và thực hiện thủ
tục phân tích xu hướng và phân tích tỷ suất. Khi đã phát hiện ra các biến
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
20
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
động bất thường, KTV sẽ xây dựng các thủ tục kiểm tra chi tiết cho từng
khoản mục.
Thứ tư, Giai đoạn kết thúc kiểm toán
Đánh giá lại trọng yếu va rủi ro là nhiệm vụ chính của KTV trong giai
đoạn này. MTY được xác định trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, sai số
tổng hợp lại được phát hiện thông qua quá trình thực hiện các thủ tục kiểm
toán. KTV phải thực hiện xem xét, đánh giá lại mức MTY, đặc biệt trong
trường hợp có sự thay đổi đáng kể về giá trị của cơ sở để xác định MTY hoặc
trường hợp giám đốc phụ trách kiểm toán kết luận cơ sở ban đầu không còn
phù hợp để xác định MTY và đảm bảo việc so sánh đánh giá phù hợp. Trong
thủ tục đánh giá lại, kinh nghiệm và kiến thức của KTV ảnh hưởng đang kế
tới hiệu quả công việc.
Đối với trường hợp, đánh giá lại mức MTY dẫn đến việc xác định được
một giá trị nhỏ hơn đáng kế so với đánh giá ban đầu về MTY trong giai đoạn
lập kế hoạch kiểm toán, KTV sẽ phải xem xét tính cần thiết phải thực hiện lại
thủ tục phân tích. Đồng thời, KTV phải đảm bảo được các bằng chứng kiểm

toán đã thu thập được là thích hợp và đầy đủ, cả trong trường hợp giá trị MTY
nhỏ hơn và ngưỡng sai phạm trọng yếu đối với các khoản mục trên BCTC,
Ngoài ra, ngưỡng sai phạm trọng yếu cần được xác định lại theo MTY mới
được đánh giá lại.
Kế tiếp, KTV tiến hành đối chiếu tổng hợp các sai phạm với MTY đã được
đánh giá lại. Có 2 tình huống xảy ra: Thứ nhất, tổng các sai phạm nhỏ hơn
MTY thì KTV không cần phải thực hiện các thủ tục kiểm toán. Thứ hai, tổng
sai phạm lớn hơn MTY thì KTV cần xem xét tính thích hợp và đầy đủ của các
bằng chứng đã thu thập được, phải thực hiện thêm các thủ tục kiểm toán để có
thêm bằng chứng kiểm toán.
Trong thực tế, khi phát hiện ra các sai phạm nhỏ hơn mức MTY, công ty
AASC vẫn yêu cầu khách hàng điều chỉnh. Dựa vào tính trọng yếu của các sai
phạm được phát hiện, công ty đưa ra ý kiến kiểm toán cho phù hợp.
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
21
Chuyên đề thực tập chuyên ngành GVDH:TS. Đinh Thế Hùng
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG QUY TRÌNH, ĐÁNH
GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO TRONG KIỂM TOÁN BCTC TẠI
CÔNG TY TNHH DỊCH VỤ TƯ VẤN KẾ TOÁN
VÀ KIỂM TOÁN – AASC
2.1 Vận dụng đáng giá trọng yếu và rủi ro tại hai Khách hàng A và B
Để hiểu rõ hơn thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro tại công ty AASC,
ta tìm hiểu 2 khách hàng của công ty A và B, trong đó:
- A là khách hàng lâu năm của công ty
- B là khách hàng mới
2.1.1 Đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán BCTC
 Đối với Công ty A:
Công ty A là công ty liên doanh hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu
quần áo cao cấp giữa bên Việt Nam và bên Nhật bản. Công ty A được
thành lập theo giấy phép đầu tư số 1500/GP của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

cấp ngày 11/11/2002. Hồ sơ kiểm toán bao gồm các thông tin cơ bản về
công ty A như sau:
•2 bên liên doanh: Bên Việt Nam là Công ty A góp 40% vốn bằng quyền
sử dụng đất và tiền mặt. Bên Nhật Bản góp 60% bằng thiết bị và tiền mặt.
•Tổng số vốn đăng kí kinh doanh: 60.200.000.000 VNĐ
•Trụ sở chính: Khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh– thành phố Thái
Bình
•Lĩnh vực hoạt động: sản xuất và xuất khẩu quần áo sáng các thị trường
Châu mỹ và châu âu.
•HĐQT: HĐQT bao gồm 8 thành viên, 3 thành viên mang quốc tịch
Việt Nam và 5 thành viên Nhật Bản.
SV: Mai Sinh Thời Lớp: Kiểm toán 51A
22

×