Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 82 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là: Hoàng Thị Hồng Minh
Sinh viên lớp: Kinh tế phát triển 50A
Tôi xin cam đoan bài chuyên đề này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi
và chưa từng được công bố trên bất kì phương tiện truyền thông nào. Đây là chuyên
đề do tôi tự đọc tài liệu, tự nghiên cứu và viết. Mọi trích dẫn đều ghi rõ nguồn,
không sao chép. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường.
Hà Nội, ngày 11 tháng 5 năm 2012.
Tác giả chuyên đề
Hoàng Thị Hồng Minh
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
i
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
MỤC LỤC
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
ii
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
vii
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu của đề tài
Ngành chế biến gỗ của Việt Nam trong thập kỷ qua đã phát triển mạnh mẽ
tạo ra nhiều việc làm, cải thiện thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người
dân, góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Sự phát triển của công
nghiệp chế biến sản phẩm gỗ Việt Nam được thể hiện rõ rệt qua sự gia tăng nhanh
chóng về số lượng cơ sở chế biến, quy mô chế biến, khối lượng sản phẩm, chất
lượng sản phẩm và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ngoài việc cung cấp các sản phẩm
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường trong nước, sản phẩm gỗ của Việt


Nam hiện có mặt ở thị trường của trên 120 quốc gia. Đặc biệt tại một số thị trường
lớn như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU sản phẩm đồ gỗ Việt Nam đã có được một chỗ
đứng, vị thế quan trọng trên thị trường, chiếm một tỷ lệ thị phần đáng kể đặc biệt là
thị trường Nhật Bản với tốc độ tăng thị phần khá nhanh, với kim ngạch xuất khẩu
ngày càng tăng qua các năm, sản phẩm chủng loại khá đa dạng. Số lượng lao động
lớn sử dụng trong các cơ sở chế biến hiện nay được đánh giá là đã góp phần quan
trọng vào giải quyết việc làm cho người lao động ở nước ta. So với nhiều ngành
kinh doanh khác, có thể thấy sự hấp dẫn của ngành gỗ đến từ tốc độ tăng trưởng
doanh thu, lợi nhuận, độ an toàn và ổn định của hoạt động sản xuất kinh doanh và
hơn nữa là lợi thế canh tranh của một quốc gia có nguồn nguyên liệu dồi dào.
Mặc dù giành được những kết quả rất tích cực, ngành công nghiệp chế biến
sản phẩm gỗ của Việt Nam đang phát triển dựa trên một nền tảng không vững chắc
với nhiều rủi ro tiềm ẩn, chưa trở thành yếu tố quan trọng thúc đẩy sự tận dụng
những tiềm năng và lợi thế về phát triển lâm nghiệp của đất nước, sức cạnh tranh
yếu, thiếu sự liên kết. Tuy đã đạt được những thành tựu nổi bật về xuất khẩu nhưng
nếu so sánh với các đối thủ trên thị trường có cùng mặt hàng xuất khẩu thì kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn. Thị phần chiếm lĩnh so với
các đối thủ còn quá nhỏ. Nguyên nhân chính là do thiếu nguyên liệu để sản xuất,
phụ thuộc vào gỗ nguyên liệu của nước ngoài, nguyên liệu trong nước chưa được sử
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
viii
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
dụng một cách có hiệu quả và những cáo buộc về sử dụng gỗ lậu; sản phẩm
có sức cạnh tranh kém; không có công nghiệp phụ trợ; ô nhiễm môi trường; thiếu
nhân công lành nghề và cơ sở sản xuất còn nhỏ lẻ;… Thực tế vừa nêu cho thấy rất
rõ rằng việc xây dựng một chiến lược phát triển công nghiệp chế biến gỗ là một
việc làm hết sức cấp thiết, và phải giải quyết những thách thức, mâu thuẫn và khó
khăn, và hơn thế là tạo điều kiện để ngành công nghiệp chế biến gỗ nước ta phát
triển một cách bền vững. Vì vậy em đã chọn đề tài “ Chiến lược phát triển ngành
công nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam”.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về chiến lược phát triển ngành và vai trò
của ngành công nghiệp chế biến gỗ đối với nền kinh tế quốc dân. Phân tích thực
trạng sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp chế biến đồ gỗ Việt Nam trong
nước và trên thị trường xuất khẩu để từ đó đề xuất các giải pháp đối với các doanh
nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm khắc phục những điểm yếu và tồn
tại, phát huy điểm mạnh và cơ hội để ngành trở thành trụ cột của nền kinh tế quốc
dân đồng thời hướng đến sự phát triển bền vững trong tương lai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu thực trạng phát triển của ngành công nghiệp chế biến gỗ
Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt
Nam trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
- Phương pháp toán thống kê
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
ix
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phục lục, mục
lục thì nội dung của đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chiến lược phát triển ngành.
Chương 2: Thực trạnh của ngành công nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam.
Chương 3: Chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam
Trong quá trình nghiên cứu và viết đề tài này do trình độ, thời gian, kinh
nghiệm còn hạn chế và nguồn tài liệu còn hạn hẹp nên chắc chắn em không tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của thầy cô
giáo. Và em xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS. TS. Phan Thị Nhiệm đã tận tình

giúp đỡ em để em hoàn thành bài viết này.
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
x
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN NGÀNH
I. Sự ra đời và phát triển của khái niệm chiến lược phát triển kinh tế xã hội
1. Sự ra đời và phát triển của khái niệm chiến lược
Khái niệm “chiến lược” được sử dụng đầu tiên trong lĩnh vực quân sự, sau
đó trong lĩnh vực chính trị. Ở Trung Quốc, vào khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công
nguyên, khi vạch ra kế hoạch và chỉ huy chiến tranh người ta sử dụng khái niệm
“mưu toán” với ý nghĩa là chiến lược. Trong quân sự, chiến lược được hiểu là “nghệ
thuật phối hợp các nghệ thuật quân sự, chính trị, tinh thần, kinh tế được huy động
vào chiến tranh để đánh thắng kẻ thù”, ở đây hai yếu tố cơ bản của chiến lược là
“cạnh tranh” và “bất ngờ” cũng được coi là những yếu tố cơ bản để dành chiến
thắng trong kinh doanh, vì thế cho đến nay khi du nhập vào các lĩnh vực khác nhau
như chính trị văn hóa, xã hội, kinh tế,…đã làm xuất hiện ngôn ngữ mới trong ngôn
ngữ khoa học tại các lĩnh vực này.
Ở phương Tây, từ chiến lược bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ “Strategen” hoặc
“Strateges”. Sau này nhiều nước sử dụng từ chiến lược lý giải với nghĩa chung là
“nghệ thuật thống soái”, về sau có nội dung của từ chiến lược ngày nay khác với
chiến thuật và chiến dịch.
Theo đà phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, ở thời kỳ cận đại, từ chiến
lược dần được sử dụng vào lĩnh vực chính trị, các khái niệm chiến lược cách mạng,
chiến lược chính trị nối tiếp nhau ra đời. Là khái niệm chính trị, chiến lược có ý
nghĩa bao quát hơn sách lược. Sách lược phải phục vụ và phục tùng chiến lược.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, ở phương Tây lại lưu hành khái niệm
chiến lược quốc gia. Chiến lược quốc gia là chiến lược trên tầm vi mô, là chiến lược
cao nhất ở tầm quốc gia. Nó không những gộp chiến lược chính trị, kinh tế, chiến
lược quân sự thành một khối mà còn có sự chỉ đạo thực tế đối với chiến lược các

lĩnh vực. Chiến lược này còn được gọi là đại chiến lược.
Ngày nay, hòa bình và phát triển đã trở thành chủ đề của đời sống kinh tế thế
giới, và do vậy ra đời khái niệm chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược phát
triển kinh tế xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế ở đây có thể hiểu là chiến lược
phát triển của bản thân kinh tế, nghĩa là chiến lược tập trung vào các mặt như tăng
quy mô, tăng tốc độ và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế.
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
Từ những điều trình bày ở trên, có thể rút ra một nhận xét chung: đó là
những vấn đề có tính chất toàn cục không thực hiện ngay một lúc được thì gọi là
chiến lược. Nhưng do điều kiện toàn cục không thể điều tiết một lúc được, vì thế nó
có tính lâu dài. Hơn nữa những vấn đề toàn cục và lâu dài đều là những vấn đề quan
trọng. Do vậy, có thể hiều, chiến lược là những mưu tính và quyết sách đối với
những vấn đề trọng đại có tính chất toàn cục và lâu dài. Khoa học nghiên cứu
những vấn đề lý luận và phương pháp đưa ra các quyết sách những vấn đề trọng đại
và lâu dài gọi là chiến lược học.
Nhìn chung, chiến lược tuy có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng đều có
những đặc điểm sau:
- Thứ nhất: chiến lược có tính mục tiêu. Chiến lược xác định một cách rõ ràng các
mục tiêu cơ bản, phương hướng cần phải đạt tới trong đúng thời kỳ và được quán
triệt tới trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của một đơn vị nào đó.
- Thứ hai: Chiến lược có tính liên tục. Chiến lược phải được phản ánh liên tục trong
cả một quá trình từ khi xây dựng, tổ chức thực hiện đến đánh giá, kiểm tra và điều
chỉnh chiến lược.
- Thứ ba: Tính định hướng lâu dài. Chiến lược phải phác thảo hoạt động của một
đơn vị nào đó trong dài hạn khung hoạt động trong tương lai.
- Thứ tư: Chiến lược phải được xây dựng dựa trên lợi thế cạnh tranh của chủ thể,
đảm bảo huy động tối đa, kết hợp tốt với việc khai thác và sử dụng các nguồn lực
của chủ thể nhằm phát huy lợi thế và nắm bắt cơ hội để giành được ưu thế hay làm

cho chiến lược trở nên khả thi.
2. Khái niệm về chiến lược phát triển kinh tế xã hội
Như phần trên đã đề cập, khái niệm chiến lược bắt nguồn từ thuật ngữ quân
sự, thường hay đi liền với những từ như sách lược chung, mưu tính chung, bố trí
hành động chung và rộng nghĩa hơn với từ chiến thuật.
Từ những năm 50-60 của thế kỷ thứ XX, khái niệm chiến lược được sử dụng
trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Nếu theo quan điểm quân sự hay chính trị, “chiến
lược” thường được hiểu là hướng và cách giải quyết nhiệm vụ đặt ra mang tính toàn
cục, tổng thể và trong thời gian dài. Đi cùng khái niệm chiến lược là chiến thuật,
được hiểu là hướng và cách giải quyết nhiệm vụ mang tính từng mặt, từng thời
điểm, từng khu vực nhằm thực hiện chiến lược đặt ra. Quan điểm nói trên có điểm
nhấn là khẳng định bản chất của chiến lược (so với sách lược), đó là sự lựa chọn
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
hướng và cách đi tối ưu mang tính tổng thể và dài hạn. Theo góc độ đó thì khái
niệm trên không chỉ đúng cho lĩnh vực quân sự, chính trị mà cả cho lĩnh vực kinh
tế, xã hội.
Trên thực tế nhìn từ góc độ quản lý, chiến lược là một quyết sách toàn cục
của một phạm vi không gian rộng lớn, trong một thời gian dài. Chiến lược phát triển
chính là sự trù tính của chủ thể đối với toàn cục phát triển của sự vật. Chúng ta cần
phân biệt các khái niệm có liên quan: chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược phát
triển xã hội, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Chiến lược phát triển kinh tế là khái niệm do nhà kinh tế học người Mỹ A.
Hechman đưa ra. Tác phẩm “chiến lược phát triển kinh tế” của Ông được chính
thức xuất bản vào năm 1958. Đây là tác phẩm đầu tiên trên thế giới mang tên là
“chiến lược phát triển kinh tế”. Chiến lược phát triển kinh tế được hiểu là hệ thống
các quan điểm, mục tiêu và phương hướng phát triển của đất nước (ngành, cơ sở)
trong một thời kỳ nhất định trong tương lai (10-15 hoặc 20 năm).
Chiến lược phát triển kinh tế tập trung vào các mặt như tăng quy mô, tăng

tốc độ, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, trong chiến lược phát triển kinh tế, người ta
quan tâm trước hết đến các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế như: tổng giá trị sản xuất,
tổng giá trị quốc nội, thu nhập quốc dân hoặc thu nhập bình quân theo đầu người.
Tuy rằng mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế là nâng cao mức sống về vật chất
và tinh thần, thỏa mãn nhu cầu cho con người, nhưng mục đích này được ẩn chứa
trong chiến lược phát triển kinh tế mà không biểu hiện rõ nét. Chiến lược phát triển
kinh tế cũng phản ánh mục tiêu biến đổi chất lượng nền kinh tế, tức là thay đổi
trong cơ cấu sản xuất, kết cấu kỹ thuật.
Trong lĩnh vực kinh tế, cũng có khá nhiều quan niệm bàn về chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội (gọi tắt là chiến lược phát triển). Tổ chức phát triển công
nghiệp của Liên Hợp quốc (UNIDO) cho rằng: thông thường chiến lược phát triển
có thể mô tả như một bản phác thảo quá trình phát triển nhằm đạt được những mục
tiêu đã định cho một thời kỳ dài. Chiến lược cung cấp một “tầm nhìn” của một quá
trình phát triển mong muốn và giải pháp tổng thể tiến hành; chiến lược hướng dẫn
các nhà hoạch định chính sách trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực. Khái
niệm của UNIDO cũng có phần giống quan điểm của các nhà quân sự, chính trị, tuy
vậy có muốn gắn kết chiến lược với hoạch định các chính sách và các văn bản
hoạch định khác. Theo cách hiểu của Trung tâm kinh tế Quốc tế của Úc (CIE), thì
chiến lược thể hiện ở việc mô tả điểm xuất phát, và mục tiêu cuối cùng của quá
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
trình phát triển, phải xây dựng thể chế và tận dụng yếu tố thị trường để đạt được các
mục tiêu phát triển. Quan điểm này chú trọng đến nội dung cấu thành chiến lược và
gắn chiến lược với môi trường kinh tế thị trường.
Có thể thấy, chiến lược phát triển kinh tế xã hội là hệ thống các mục tiêu
phát triển cả lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội, đặt ra trong mối quan hệ tác động
qua lại với nhau cùng các quyết sách, giải pháp nhằm thực hiện được những mục
tiêu kinh tế - xã hội đó trong thời kỳ dài hạn, trong điều kiện bên trong và bên ngoài
nhất định của một quốc gia hay một địa phương.

Như vậy, trên thực tế có thể có nhiều thuật ngữ khác nhau liên quan tới chiến
lược. Chúng ta cũng gặp những thuật ngữ này trong tài liệu, sách báo, khi dùng
thuật ngữ “chiến lược phát triển” với hàm ý nói đến chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội hay chiến lược phát triển kinh tế. Thực tế, khái niệm “phát triển kinh tế” theo
nghĩa rộng đã bao hàm trong đó cả sự tăng trưởng kinh tế và biến đổi tiến bộ cơ cấu
và giải quyết các nhu cầu cơ bản của con người. Đặt ra vấn đề phân biệt trên đây,
chẳng qua chỉ để làm rõ bản chất của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà thôi.
Tổng hợp các góc độ phân tích khác nhau nói trên, có thể rút ra kết luận:
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu ở tầm quốc gia, và được hiểu đầy đủ
là một hệ thống các phân tích, đánh giá và lựa chọn thể hiện quan điểm, tầm nhìn,
mục tiêu của một quá trình phát triển mong muốn, sự nhất quán về con đường và
các giải pháp cơ bản để thực hiện. Các bộ phận chiến lược thuộc phạm vi chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội xét trên phạm vi tổng thể quốc gia, bao gồm: chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực
của nền kinh tế quốc dân; chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng, tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương. Các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp hay chiến
lược sản phẩm của doanh nghiệp không thuộc phạm vi của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội xét trên phạm vi tổng thể quốc gia. Chiến lược phát triển cấp ngành
là một hệ thống các quan điểm cơ bản (tư tưởng chỉ đạo và chủ đạo), các mục tiêu
tổng quát và mục tiêu chủ yếu, các định hướng phát triển chủ yếu trong các lĩnh vực
của ngành, các biện pháp thực hiện của ngành để thực hiện và các giải pháp cơ bản
để thực hiện các mục tiêu. Trong đó, chiến lược phát triển của ngành phải phụ thuộc
vào chiến lược quốc gia.
II. Nội dung của chiến lược phát triển ngành
Thông thường, nội dung của chiến lược phát triển ngành bao gồm ba phần
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
chính: một là, quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển; hai là, nội dung chiến
lược; ba là, các giải pháp chủ yếu và các chương trình trọng điểm. Khi xây dựng

chiến lược theo các bước trên, chiến lược của ngành sẽ mang tính chất khoa học, rõ
ràng trong việc “phác họa bức tranh tương lai” sau thời kỳ chiến lược, nêu rõ những
bước thực hiện cơ bản là gì và những phương án hay cách thức đạt được chiến lược
đó. Bên cạnh đó, nhờ vào ba bước nêu trên, người đọc có thể dễ dàng theo dõi và
nắm được nội dung của chiến lược ngành một cách lôgic.
1. Quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển
1.1. Quan điểm phát triển: Trong quan điểm phát triển, tiềm lực, vị trí, tiềm
năng và triển vọng phát triển của ngành trong tổng thể nền kinh tế hay trong một
lĩnh vực nào đó sẽ được nêu bật. Qua đó, người đọc có thể hình dung cụ thể hơn về
ý nghĩa của ngành trên trong thời kỳ chiến lược.
Quan điểm cơ bản của chiến lược là những tư tưởng chỉ đạo và chủ đạo thể
hiện tính định hướng của chiến lược. Quan điểm thể hiện trung thành những ý
tưởng của người hoạch định đường lối phát triển. Nó quyết định con đường sẽ đi và
phương hướng của các giải pháp lớn. Việc xác định các quan điểm cơ bản và có ý
nghĩa quan trọng trong việc tìm ra các bước ngoặt của con đường phát triển, tạo ra
động lực cơ bản xuyên suốt trong quá trình phát triển của ngành.
Quan điểm cơ bản là bộ khung, là hành lang cho việc xác định các mục tiêu
kinh tế - xã hội cùng những giải pháp lớn. Các quan điểm cơ bản hình thành nên
một hệ quan điểm. Hệ quan điểm phát triển thể hiện rõ mô hình phát triển và cách
thức để đạt tới mục tiêu định hướng trong một thời kỳ nhất định. Ở mỗi thời kỳ
chiến lược khác nhau, hệ quan điểm cũng sẽ có những thay đổi nhất định cho phù
hợp với tình hình và điều kiện mới.
Ngoài ra, quan điểm chiến lược cần phải vạch rõ trong sự phát triển của
ngành đó thì những lĩnh vực nào sẽ được quan tâm chú trọng vào, đâu sẽ là giải
pháp chính dẫn đến sự thành công của chiến lược phát triển trên hay nói cách khác
là đạt được mục tiêu và tầm nhìn đề ra.
1.2. Mục tiêu phát triển: Phần này cần nêu bật vị trí và sức phát triển của
ngành đang ở đâu trong thời điểm sau chiến lược bằng các chỉ tiêu cụ thể là các con
số tuyệt đối và tương đối. Điều đó giúp cho chúng ta dễ dàng hình dung ra bức
tranh của tương lai một cách sáng sủa hơn.

Mục tiêu phát triển là mức phấn đấu cần đạt được qua một thời kỳ nhất định.
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
Mục tiêu bao gồm cả phần định tính và định lượng, phản ánh một cách toàn diện
những biến đổi quan trọng của nền kinh tế.
Về mặt định tính: Mục tiêu định tính được diễn đạt bằng lời văn, mô tả bước
tiến mới của ngành trên những phương diện: trình độ hiện đại hóa của ngành, năng
lực cạnh tranh của ngành khi ngành kết thúc thời kỳ chiến lược (ra khỏi khủng
hoảng, bước phát triển cao hơn, giai đoạn ngành cất cánh, đến độ chín muồi, trưởng
thành…), sức mạnh tổng hợp của ngành, thu nhập bình quân đầu người.
Về mặt định lượng: Mục tiêu định lượng hướng vào một số chỉ tiêu quan
trọng và chủ yếu nhất: Mức tăng trưởng bình quân GDP trong thời kỳ (% và số
tuyệt đối), sản phẩm chủ yếu, tố chất của ngành (khả năng cạnh tranh trong nước và
quốc tế, đóng góp của khoa học công nghệ trong nền kinh tế, tỷ lệ các sản phẩm
hàng đầu trong nước và quốc tế), chỉ tiêu về môi trường sinh thái.
Việc xác định mục tiêu phát triển phải xuất phát từ khả năng thực tế, đòi hỏi
của cuộc sống, của thời đại, hướng tới việc không ngừng nâng cao khả năng cạnh
tranh cho các doanh nghiệp trong ngành, bộ mặt ngành được thay đổi, tạo vị thế của
ngành ở trong nước cũng như quốc tế, tăng cường vào hội nhập. Việc xác định mục
tiêu phải trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo. Mục tiêu phải đảm bảo tính
khả thi. Muốn vậy, phương pháp xác định mục tiêu phải khoa học. Mục tiêu phải
lựa chọn trên nhiều phương án, sao cho vừa đảm bảo tính hiện thực, tích cực, vững
chắc nhưng đảm bảo tính linh hoạt và mềm dẻo.
1.3. Định hướng phát triển: đây là mục nêu ra những định hướng, những
con đường để tiến tới các mục tiêu phát triển của ngành. Định hướng phát triển luôn
được xác định cụ thể tại một thời điểm trong tương lai, từ 10 đến 15 năm. Trong đó,
luôn có những mục tiêu tổng quát cụ thể được đặt ra bằng số tương đối và tuyệt đối.
Ví dụ như mục tiêu cần đạt được về tốc độ tăng trưởng hay doanh thu trong giai
đoạn chiến lược.

2. Nội dung của chiến lược
Để đạt được những mục tiêu chiến lược nêu trên, nội dung của chiến lược
phải bao gồm những phần, những công việc lớn mà chiến lược cần phải hướng tới,
thực hiện và triển khai. Trong đó, nội dung chiến lược cụ thể hóa là ngành cần phải
phát triển những lĩnh vực nào trong thời gian chiến lược. Nói cách khác, nội dung
chiến lược chính là các biện pháp cần thực hiện chiến lược. Thông thường, nó bao
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
gồm một số nội dung như sau: phát triển nguồn nhân lực đầy đủ về số lượng cũng
như về chất lượng cho ngành trong thời gian chiến lược; phát triển và ứng dụng
công nghệ nhằm đẩy nhanh cơ giới hóa sản xuất, tận dụng các công nghệ và xu
hướng phát triển của thế giới chẳng hạn là thương mại điện tử và kinh doanh điện
tử; hay phát triển hạ tầng về cơ sở vật chất (đường xá, cầu cống, nhà xưởng,…) làm
thuận tiện giao thông liên lạc và hệ thống trao đổi, liên lạc thông tin trên Internet.
3. Các giải pháp chủ yếu và các chương trình trọng điểm
Các giải pháp chủ yếu và các chương trình trọng điểm là hướng dẫn cụ thể
về cách thức thực hiện nhằm đảm bảo hoàn thành các mục tiêu chiến lược đề ra. Để
thực hiện thắng lợi các mục tiêu còn cần các giải pháp có tính đột phá của chiến
lược, nhằm vào các khâu yếu, khó khăn và phức tạp mà thực hiện nó sẽ tạo ra động
lực khai thác tốt nhất các nguồn lực cho phát triển.
3.1. Các giải pháp chủ yếu: Thông thường sẽ có rất nhiều giải pháp để giải
quyết một vấn đề, tuy nhiên mức độ logic và bao trùm giữa các giải pháp cần được
xem xét một cách kỹ lưỡng. Trên đây là những giải pháp quan trọng cần phải thực
hiện ngay tức thì hay từng bước một để nhằm đạt được mục tiêu chiến lược. Những
giải pháp trên không chỉ với mong muốn đạt được mục tiêu mà còn góp phần hoàn
thiện dần môi trường phát triển cho ngành hay bản thân của ngành đó. Thông
thường, mỗi bản chiến lược phát triển ngành tập trung vào các giải pháp mang tính
cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, do đặc thù nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, sức cạnh tranh nội tại của các ngành còn kém và rời rạc

do ảnh hưởng từ thời kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp, nên phần lớn các giải
pháp thường tập trung vào: huy động nguồn vốn thực hiện chiến lược, phát triển
nguồn nhân lực, phát triển hệ thống nghiên cứu triển khai hay tăng cường hợp tác,
liên kết trong nước và quốc tế.
3.2. Các chương trình trọng điểm: bao gồm các chương trình phải được
thực hiện song song trong quá trình thực hiện đồng thời với các giải pháp đã nêu.
Chúng là những công việc cụ thể phải cần thực hiện, trong đó còn là những dự án
mang tính cấp bách cần phải triển khai nhằm hỗ trợ cho các giải pháp và định
hướng lớn thực hiện chiến lược. Các chương trình trọng điểm có thể diễn ra đồng
thời tùy thuộc vào tiềm lực tài chính đầu tư thêm hay năng lực sẵn có của ngành.
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
III. Tầm quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội
1. Vai trò đối với quốc gia
Không phải ngẫu nhiên mà khái niệm chiến lược lại được chuyển nhanh từ
quân sự, chính trị sang kinh tế, xã hội. Nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nền kinh tế của mỗi nước trở thành một mắt
xích trong hệ thống kinh tế thế giới, việc xây dựng và quản lý bằng chiến lược phát
triển là một yêu cầu bức thiết đặt ra và có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi quốc
gia. Sự cần thiết phải có chiến lược phát triển được lý giải bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, xuất phát tính chất cạnh tranh ngày càng sâu sắc của nền kinh tế
thị trường hội nhập quốc tê. Nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế làm cho mỗi
quốc gia trở thành một khâu trong chuỗi dây chuyền giá trị toàn cầu, điều đó tạo
nhiều cơ hội để các nước có thể nhanh chóng thực hiện được mục tiêu phát triển.
Tuy vậy, nó cũng tạo ra những thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước
đang phát triển, vì thị trường chính là chiến trường. Tính chất cạnh tranh trở nên
ngày càng khốc liệt hơn đòi hỏi mỗi quốc gia phải chủ động trong quá trình lựa
chọn, xác định tầm nhìn bao quát, tìm ra hướng đi trong dài hạn. Như vậy, xây dựng
và quản lý bằng chiến lược phát triển sẽ giúp các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định

chủ động xem xét và xác định đất nước sẽ đi theo hướng nào và khi nào thì đạt tới,
là cơ sở cho sự thành công và chiến thắng trên bước đường thực hiện mục tiêu phát
triển của mình một cách có hiệu quả nhất.
Thứ hai, những hạn chế, bất cập của nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện
nền kinh tế thị trường mở, điều kiện môi trường mà các quốc gia phải đối mặt luôn
biến đổi nhanh chóng, những biến đổi nhanh chóng thường tạo ra hay làm mất đi
những cơ hội và nguy cơ bất ngờ trong các yếu tố môi trường phát triển. Phương
thức quản lý bằng chiến lược giúp các nhà hoạch định chủ động và kịp thời dự báo,
tính toán và xác định cơ hội và thách thức, nhằm tận dụng và khai thác triệt để cơ
hội, giảm thiểu tác động tiêu cực của thách thức để thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội trong tương lai.
Thứ ba, Chiến lược cung cấp một tầm nhìn và khuôn khổ chung cho xây
dựng và triển khai các văn bản hoạch định ở các cấp thấp hơn. Chúng ta hình dung
một người lái tầu trên biển cả mênh mông, nếu anh ta nhìn thấy ngọn đèn hải đăng,
thì mặc dù ngọn đèn ấy hiện còn đang ở rất xa, nhưng nó có tác dụng định hướng,
tạo niềm tin, cơ sở vững chắc để người lái tầu thực hiện các thao tác nghiệp vụ kỹ
thuật và xử lý tình huống. Chiến lược đóng vai trò là ngọn đèn hải đăng trên biển,
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
nó được coi là một định hướng, là cơ sở cho xây dựng chính sách, quy hoạch và kế
hoạch ngắn hạn, trung hạn. Chiến lược cung cấp tầm nhìn và khuôn khổ tổng quát
cho việc thực hiện các quan hệ hợp tác hay hội nhập quốc tế một cách chủ động và
có hiệu quả.
2. Vai trò đối với ngành nói chung
Thứ nhất, chiến lược là căn cứ để hoạch định kế hoạch phát triển ngành.
Hoạt độn quản lý nền kinh tế - xã hội bằng kế hoạch được thực hiện bằng các kế
hoạch trung hạn, ngắn hạn của Nhà nước và các ngành, các địa phương, vùng, lãnh
thổ. Các kế hoạch được xây dựng đều có đối tượng và nhiệm vụ riêng. Nhưng tất cả
các kế hoạch đó không thể tránh được sự chỉ đạo chung của chiến lược, vì chiến

lược là sự trù tính cho toàn cục trong một thời kỳ nhất định. Thực hiện các kế hoạch
cụ thể phải phục tùng chiến lược phát triển chung. Chiến lược phát triển ngành trở
thành chỗ dựa, là căn cứ căn bản để xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội ngành.
Thứ hai, chiến lược là cương lĩnh hành động của quản lý kinh tế - xã hội
ngành. Hoạt động quản lý kinh tế - xã hội ngành rất rộng lớn và phức tạp. Trong
điều kiện của nước ta, “Cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước XHCN”,
Đảng và Nhà nước đã khẳng định: quản lý kinh tế - xã hội bằng nhiều công cụ chủ
yếu là lực lượng kinh tế nhà nước, trong đó Khoa học là công cụ chủ yếu quan
trọng. Tuy nhiên, kế hoạch không phải là quản lý, vì quản lý là khái niệm rất rộng.
Một loạt các hoạt động khác không phải là kế hoạch như: chính sách, nhất là các
chính sách xã hội, lập pháp nhưng lại thuộc phạm trù quản lý. Muốn đưa mọi hoạt
động quản lý thuộc các lĩnh vực khác nhau, có đặc tính quản lý khác nhau vào trong
một tầm suy nghĩ chung, thì cần phải có chiến lược. Vì vậy, chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội ngành đảm nhiệm chức năng là cương lĩnh thống nhất, hành động
quản lý mọi hoạt động kinh tế - xã hội ngành. Ngoài ra, trong cơ chế Nhà nước
quản lý, thực hiện và quản lý do các đơn vị được Nhà nước giao nhiệm vụ ví dụ
như: các Bộ, các Tổng công ty 91… thì chiến lược là cụ thể hóa một bước đường lối
phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, là cầu nối giữa đường lối với thực tiễn
quản lý của Nhà nước, các đơn vị chủ quản và các doanh nghiệp tổ chức có liên
quan trong ngành trên.
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
IV. Những nhân tố ảnh hưởng đến chiến lược phát triển ngành
1. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô bao gồm tổng thể các nhân tố bên ngoài ngành, có tác
động nhiều mặt đến các hoạt động của ngành, ảnh hưởng đến việc kinh doanh của
doanh nghiệp, đến việc hoạch định ra chiến lược thị trường của ngành. Các nhân tố
của môi trường vĩ mô bao gồm: môi trường quốc tế và môi trường trong nước.

1.1. Môi trường quốc tế
Trong điều kiện ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa đời sống kinh tế - xã hội
đang diễn ra ngày một sôi động. Nền kinh tế quốc gia là một bộ phận của nền kinh
tế khu vực và thế giới. Các nền kinh tế đều mở cửa ra bên ngoài, đẩy mạnh các quan
hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế trở thành một xu thế bắt buộc, tất yếu. Ảnh
hưởng của môi trường quốc tế đối với sự phát triển kinh tế xã hội của một nước chủ
yếu biểu hiện ở 3 mặt: lịch sử, hiện trạng và tương lai.
Nếu so sánh tình hình phát triển của một đất nước nào đó với các nước có
chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, có trình độ phát triển kinh tế xã hội khác có thể
thấy được chỗ mạnh, chỗ yếu về phương diện phát triển kinh tế - xã hội của nước
đó, tạo cơ sở cho một sự phát triển tiên tiến hơn, khoa học hơn.
Việc tham khảo các nước tiên tiến, cho phép học hỏi kinh nghiệm, tránh lặp
lại những vết xe đổ, tránh đi đường vòng và cho phép lựa chọn con đường rút ngắn
nhằm đạt tới mục tiêu một cách hiệu quả.
Môi trường quốc tế chứa đựng nhiều yếu tố tác động đến nền kinh tế - xã hội
của một nước: khoa học – công nghệ, quan hệ thương mại, thị trường, đầu tư, cả
những vấn đề chiến lược quân sự, chính trị. Vì vậy, phân tích môi trường quốc tế là
một căn cứ quan trọng trong việc hoạch định chiến lược.
Bối cảnh quốc tế và khu vực là điều kiện bên ngoài của sự phát triển mỗi
quốc gia. Trong điều kiện ngày nay, điều kiện trong nước phải được xem xét trong
mối quan hệ chặt chẽ với điều kiện quốc tế mới có khả năng phát triển được và hơn
nữa là phát triển năng động có hiệu quả. Bối cảnh thế giới và khu vực là một trong
những căn cứ khoa học quan trọng khi hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia.
Phân tích bối cảnh quốc tế bao gồm:
- Xu thế hòa bình và hợp tác tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững và lâu
dài, tránh được tổn hại do chiến tranh hay các cuộc tranh chấp thương mại
không đáng có gây nên.
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
10

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
- Tác động của khoa học – công nghệ, đây là yếu tố tạo bước đột phá quan
trọng nhất trong thời đại hiện nay. Nhờ có sự tác động của khoa học công
nghệ mà rất nhiều công việc đã thực hiện được trong những lĩnh vực ngoài
tầm của con người, ví dụ như phát minh ra các rô bốt đi lên và thăm dò mặt
trăng…
- Toàn cầu hóa và khu vực hóa, giúp cho các nước và các khu vực trở lên gần
gũi nhau hơn, đặc biệt thông qua Internet đã là thế giới truyền tải thông tin
một cách hiệu quả và nhanh chóng hơn.
- Những xu hướng biến đổi môi trường và yêu cầu phát triển bền vững toàn
cầu tác động đến mỗi nước.
Từ phân tích bối cảnh quốc tế, có thể rút ra những cơ hội và khó khăn thách
thức.
Những cơ hội:
- Tranh thủ được điều kiện hòa bình ổn định trong khu vực để tập trung sức
phát triển kinh tế.
- Ngăn ngừa được phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế.
- Có điều kiện phát huy lợi thế so sánh, mở rộng thị trường quốc tế, thu hút
đầu tư, chuyển giao công nghệ.
- Có cơ hội đấu tranh để được hưởng ưu đãi dành cho các nước chậm phát
triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi.
- Nâng cao vị thể đất nước trong đàm phán quốc tế.
Những khó khăn thách thức:
- Chênh lệch về trình độ phát triển, đặc biệt là sự tụt hậu ngày càng xa hơn so
với các nước, dẫn đến năng suất lao động luôn thấp hơn so với các nước và
phụ thuộc vào công nghệ của nước ngoài.
- Sức ép của cạnh tranh trong môi trường kinh tế chung, đó chính là một phần
của hội nhập, sức ép đó ngày càng mạnh thêm khi quá trình hội nhập ngày
càng sâu sắc hơn.
- Tiến trình hội nhập có thể làm giảm thu ngân sách do giảm thuế nhập khẩu.

- Tình hình thế giới đòi hỏi phải chú ý đến an ninh – quốc phòng trong bố trí
chiến lược v.v…
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
1.2. Môi trường trong nước
Môi trường kinh tế vĩ mô
Các nhân tố thuộc môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hường rất mạnh tới tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp, các ảnh hưởng chủ yếu của môi trường này bao
gồm: tốc độ tăng trường kinh tế, lãi suất ngân hàng, chu kỳ kinh tế, cán cân thanh
toán, chính sách tài chính tiền tệ. Môi trường kinh tế có thể là nguy cơ hoặc mang
lại cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp. Một môi trường kinh tế tăng trưởng ổn
định, khống chế được lạm phát, kiểm soát được tiền tệ… sẽ tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định cũng ảnh hưởng đến khả năng sản
xuất, đến tổng cầu và tổng cung về hàng hóa dịch vụ. Kinh tế tăng trưởng cao tạo
điều kiện gia tăng thu nhập của dân cư và từ đó ảnh hưởng đến khả năng tăng nhu
cầu về hàng hóa dịch vụ của hãng.
Môi trường chính trị, pháp luật
Các yếu tố thuộc môi trường chính trị pháp luật có ảnh hưởng ngày càng lớn
đến hoạt động của doanh nghiệp. Các yếu tố đó bao gồm:
- Tình hình chính trị quốc gia và xu hướng phát triển của nó.
- Cơ cấu giai cấp và xã hội.
- Chủ trương, chính sách và các đường lối của Đảng.
- Nếu môi trường chính trị ổn định, các chính sách và hệ thống pháp luật rõ
ràng minh bạch, công bằng…sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh
một cách lâu dài và ổn định.
Môi trường văn hóa, xã hội
Đây là một yếu tố hết sức phức tạp, để có thể nắm bắt được nó không phải là
điều dễ dàng và không thể thực hiện ngay được nhưng nó lại có tác động khá mạnh
tới việc xây dựng chiến lược thị trường cho doanh nghiệp. Nhân tố văn hóa là tổng

tể các yếu tố tập quán, truyền thống văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, đời sống tâm
linh của con người…Nó có ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi, tập quán, thói quen, thị
hiếu của người tiêu dùng. Như vậy, để có một chiến lược thị trường thành công thì
doanh nghiệp cần phải hiểu một cách cặn kẽ về đặc điểm của người tiêu dùng để từ
đó đưa ra chiến lược một cách phù hợp nhất.
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm hệ thống các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến
nguồn lực đầu vào cần thiết cho nhà sản xuất và ảnh hưởng cả đến vấn đề tiêu thụ
của doanh nghiệp. Việc phân tích cặn kẽ môi trường tự nhiên trước hết giúp doanh
nghiệp đánh giá được tình trạng cung ứng các nguồn năng lượng hay nguyên liệu,
đánh giá được vấn đề môi trường tự nhiên của doanh nghiệp.
Môi trường khoa học công nghệ
Môi trường khoa học và công nghệ có ảnh hưởng rất lớ tới đặc điểm sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó tác động tới việc đổi mới máy móc thiết bị đang
sản xuất của doanh nghiệp. Sự phát triển sản xuất của doanh nghiệp phụ thuộc vào
sự phát triển của khoa học và công nghệ. Do vậy, một khi doanh nghiệp nắm bắt
được sự phát triển của khoa học công nghệ, chú ý đổi mới công nghệ sản phẩm phù
hợp với thị hiếu người tiêu dùng thì doanh nghiệp đó sẽ chiếm lĩnh được thị trường.
2. Các nhân tố thuộc môi trường nội bộ ngành
Việc hiểu biết và phân tích môi trường ngành giúp cho những nhà hoạch
định chiến lược tránh được nhiều sai sót hơn với thực tế phát triển ngành. Thực tế,
các doanh nghiệp luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và cạnh tranh nhau một
cách khốc liệt đối với các doanh nghiệp trong ngành. Các doanh nghiệp khi hoạt
động kinh doanh thì luôn phải chịu 5 áp lực cạnh tranh (theo Michael Porter) đó là:
- Sức ép từ phía khách hàng.
Thị trường của doanh nghiệp chính là các khách hàng. Vì vậy mỗi doanh
nghiệp cần phải tìm ra cho mình trong tập các khách hàng được một đoạn thị trường

có khối lượng đủ lớn mà doanh nghiệp có khả năng cung cấp và hoạt động được,
sao cho có hiệu quả.
- Sức ép từ phía nhà cung ứng.
Sự tồn tại nhiều hay ít nhà cung ứng có ảnh hưởng mạnh đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu nhà cung ứng nhiều và đa dạng, chúng ta sẽ
ít phải lo lắng đến nguồn cung cấp nguyên vật liệu, ngược lại chúng ta sẽ phải tốn
nhiều chi phí hơn cho các nguồn nguyên liệu đầu vào.
- Sức ép từ phía đối thủ cạnh tranh.
Các đối thủ cạnh tranh cũng có những tham vọng, những kế sách, chiến lược
riêng. Do vậy, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cần phải hướng vào tạo ra
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh của mình trên những lĩnh vực then chốt bằng
cách so sánh các yếu tố, khả năng của doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh.
- Sức ép của sản phẩm thay thế.
Khi một sản phẩm đã tồn tại quá lâu trên thị trường thì việc xuất hiện sản
phẩm thay thế là một điều tất yếu. Bởi mỗi sản phẩm chỉ có một vòng đời nhất định,
nó sẽ phải biến mất trên thị trường để nhường chỗ cho một sản phẩm mới khác hấp
dẫn hơn. Nếu giá của một sản phẩm quá cao hoặc mẫu mã không phù hợp với nhu
cầu tiêu dùng thì khách hàng sẽ chuyển sang sản phẩm thay thế.
V. Sự cần thiết xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ
1. Cơ sở pháp lý nghiên cứu chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ
Dưới đây là một số văn bản pháp lý tạo điều kiện cho việc hình thành chiến
lược phát triển ngành Công nghiệp chế biến gỗ nhằm giúp Ngành phát triển mạnh
mẽ hơn, đủ sức đáp ứng nhu cầu về sản phẩm chế biến gỗ của thị trường nội địa và
đủ sức hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
- Luật Doanh nghiệp, số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và các văn bản
dưới Luật;
- Luật Bảo vệ Môi trường, số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và các văn

bản dưới Luật.
- Luật Đấu thầu, số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và các văn bản dưới
Luật;
- Luật Bảo vệ Môi trường, số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005 và các văn
bản dưới Luật;
- Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục
vụ phát triển nông thôn;
- Nghị định số 61/2010/NĐ-CP ngày 4/6/2010 của Chính Phủ về chính sách
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn;
- Quyết định số 150/2004/QĐ-TTg ngày 20/06/2004 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu nông lâm nghiệp và thuỷ sản của cả
nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020;
- Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020;
- Chỉ thị số 19/2004/CT-TTg ngày 01/6/2004 về Một số giải pháp phát triển
ngành chế biến gỗ và xuất khẩu sản phẩm gỗ.
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
- Quyết định 2511/BNN-KH ngày 20/8/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn về việc chuẩn bị các dự án trong kế hoạch năm 2009;
- Quyết định số 20/2008/QĐ-BNN ngày 28/01/2008 của Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và PTNT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thuỷ sản và nghề muối;
- Thông tư số 95/2004/TT-BTC ngày 11/10/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn
một số chính sách hỗ trợ tài chính và ưu đãi về thuế phát triển vùng nguyên liệu và
công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, muối.
2. Cơ sở khách quan nghiên cứu chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế
biến gỗ
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2010, công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đã

đạt được tốc độ tăng trưởng đáng kể cả về quy mô phát triển, chất lượng sản phẩm
và đặc biệt là giá trị kim ngạch xuất khẩu. Với hơn 1200 doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực chế biến gỗ năm 2000, đến năm 2009, cả nước đã có trên 2500 doanh
nghiệp, trong đó nhiều doanh nghiệp đã phát triển thành các tập đoàn lớn. Chất
lượng sản phẩm gỗ được nâng cao, minh chứng là giá trị kim ngạch xuất khẩu sản
phẩm gỗ của Việt Nam liên tục tăng trong 10 năm qua: giá trị kim ngạch xuất khẩu
năm 2000 đạt 219 triệu USD; năm 2009 đạt 2.620 triệu USD; tính bình quân giá trị
kim ngạch xuất khẩu đồ mộc tăng bình quân 500 triệu USD/năm. Sản phẩm gỗ của
Việt Nam đã có mặt trên 120 quốc gia và vùng lãnh thổ; trong đó các thị trường
xuất khẩu chủ yếu là Hoa Kỳ (chiếm 38%-41% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu),
các nước thuộc khối EU (chiếm 28-44% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu) và Nhật
Bản (chiếm 12-15% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu).
Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng và thuận lợi của ngành, hiện nay, công
nghiệp chế biến gỗ của nước ta cũng đang gặp rất nhiều khó khăn và bộc lộ những
điểm yếu kém từ khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh sang cơ
chế thị trường. Những năm gần đây, ngành công nghiệp chế biến gỗ phát triển có
bước phát triển vượt bậc song chưa vững chắc, thiếu quy hoạch và tầm nhìn chiến
lược, tính cạnh tranh chưa cao, sự liên kết và phân công sản xuất chưa tốt (chưa có
sự chuyên môn hoá, chưa có phân công sản xuất theo vùng, tiểu vùng…), chưa xây
dựng được thương hiệu trên thị trường thế giới, thiếu vốn đầu tư cho phát triển và
hiện đại hoá công nghệ.
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
Trong cuộc cạnh tranh mạnh mẽ của ngành chế biến gỗ Việt Nam trên thị
trường chế biến gỗ thế giới hiện nay, sau hội nhập WTO, ngành chế biến gỗ Việt
Nam đã bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế về mẫu mã, chất lượng, thương hiệu, pháp
luật thương mại quốc tế, tiêu chuẩn, chứng chỉ quốc tế, thương mại điện tử…v.v.
Đó là chưa kể đến những cạnh tranh (kể cả cạnh tranh không lành mạnh) trong nội
bộ các doanh nghiệp trong nước, cũng là một trong số các nguyên nhân làm cho các

doanh nghiệp Việt Nam chỉ gia công sản phẩm gỗ xuất khẩu mà không mang
thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế.
Xuất phát từ thực tế trên đây, việc xây dựng Chiến lược phát triển ngành
Công nghiệp chế biến gỗ là hết sức cần thiết. Chiến lược này sẽ là cơ sở để góp
phần giải quyết những yếu kém, khó khăn thách thức của công nghiệp chế biến gỗ
Việt Nam và định hướng cho công nghiệp chế biến gỗ nước ta phát triển một cách
ổn định và bền vững.
3. Mục đích và ý nghĩa xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế
biến gỗ
- Xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ để phục vụ
điều hành của Tập đoàn than Việt Nam trong quá trình hoạch định chiến lược sản
xuất kinh doanh, cũng như việc xây dựng kế hoạch kinh tế - xã hội.
- Mục đích của chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ là đánh
giá hiện trạng, cân đối giữa năng lực và mục tiêu phát triển, đề ra giải pháp sử dụng
tối đa năng lực đầu tư, xác định nhu cầu và đầu tư chiều sâu, đầu tư mới và các nhu
cầu khác, từ đó nhằm tổ chức lại và xây dựng công nghiệp chế biến gỗ trở thành
mũi nhọn kinh tế của ngành Lâm nghiệp với trình độ chuyên môn hóa cao và phân
công sản xuất tối ưu theo vùng, tiểu vùng, hình thành và phát triển các Tập đoàn
phân phối sản phẩm gỗ Việt Nam cả trên thị trường quốc tế và thị trường nội địa.
Tiếp thu ứng dụng khoa học công nghiệp chế biến mới, đưa thương mại sản phẩm
gỗ Việt Nam đạt trình độ tiên tiến, hiện đại cả về công nghệ thiết bị và khả năng
tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ
BIẾN GỖ Ở VIỆT NAM
I. Giới thiệu chung về ngành công nghiệp chế biễn gỗ ở Việt Nam
1. Giới thiệu chung
Công nghiệp chế biến gỗ hiểu theo nghĩa rộng là ngành bao gồm tất cả các

hoạt động sử dụng máy móc, thiết bị và hoá chất thực hiện quá trình chuyển hoá gỗ
thành các sản phẩm thoả mãn các nhu cầu của con người. Theo nghĩa hẹp, công
nghiệp chế biến gỗ là ngành bao gồm các hoạt động sử dụng nguyên liệu là gỗ để
sản xuất ra các sản phẩm gỗ ngoài trời, trong nhà, ván nhân tạo, đồ gỗ mỹ nghệ, và
các sản phẩm gia dụng có sự kết hợp giữa gỗ với các vật liệu khác, Nhìn chung sự
khác biệt chủ yếu giữa hai cách hiểu là việc có bao gồm hay không bao gồm các
hoạt động sản xuất giấy, dầu sinh học – tức là các hoạt động sử dụng gỗ làm nguyên
liệu và các phương pháp hoá học để tạo ra những sản phẩm. Ở đây, ngành công
nghiệp chế biến gỗ được hiểu theo quan niệm hẹp và các vấn đề liên quan đến quy
hoạch cũng chỉ xem xét trong phạm vi của quan niệm hẹp.
2. Vị trí, vai trò của ngành trong nền kinh tế quốc dân
Công nghiệp chế biến sản phẩm gỗ của Việt Nam cho đến nay vẫn được coi là
một ngành không thể thiếu được trong nền kinh tế quốc dân. Vị trí này xuất phát từ
những đặc điểm sau đây:
Một, đây là ngành sản xuất và cung cấp các sản phẩm rất cần thiết cho đời
sống hàng ngày của người dân Việt Nam – cho đến nay mặc dù trình độ khoa học,
công nghệ đã phát triển nhưng vẫn chưa tạo ra được sản phẩm thay thế có hiệu quả
hơn. Không có số liệu thống kê đầy đủ nhưng dễ dàng nhìn thấy rằng ngành công
nghiệp chế biến gỗ của nước ta đang tạo ra hàng nghìn loại sản phẩm đáp ứng các
nhu cầu của người dân, trong đó có nhiều sản phẩm không chỉ đơn thuần mang ý
nghiã tiêu dùng mà còn mang nặng những ý nghĩa văn hoá và tâm linh, với tổng giá
trị mỗi năm đạt hàng nghìn tỷ đồng.
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
Biểu đồ 1. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam trong 5
năm vừa qua
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2010, Tổng cục Thống kê, 2011)
Hai, sự phát triển của công nghiệp chế biến đang có vai trò rất quan trọng
trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Hiện tại, bên cạnh việc sử dụng một

nửa triệu công nhân trong các cơ sở chế biến, công nghiệp chế biến gỗ với nhu cầu
tiêu dùng hàng triệu m3 gỗ nguyên liệu từ rừng trồng đang góp phần giải quyết việc
làm và thu nhập cho hàng triệu hộ gia đình nông dân nghèo ở những vùng có điều
kiện sản xuất nông nghiệp khó khăn của nước ta.
Ba, sự phát triển theo hướng sản xuất và cung cấp các sản phẩm cho thị trường
quốc tế không chỉ làm tăng thêm thu nhập cho sản xuất mà còn đóng góp vào thu ngoại
tệ cho các hoạt động thương mại và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bảng 1. Số hộ gia đình có rừng trồng ở Việt Nam
Vùng Tổng số
Số HGĐ phân theo quy mô diện tích DT rừng
trồng của
HGĐ (ha)
<1 ha 1-3 ha 3-5 ha >5 ha
Toàn quốc 1.010.869 677.898 256.487 46.381 30.103 1.219.919
1. Đồng Bằng Sông Hồng 15.386 11.963 2.630 441 352 100.185
2. Đông Bắc 396.180 247.624 116.892 19.926 11.738 481.080
3. Tây Bắc 99.416 70.695 23.529 3.409 1.783 13.866
4. Bắc Trung Bộ 255.921 179.305 57.378 11.389 7.849 346.722
5. Nam Trung Bộ 117.237 81.694 27.174 4.733 3.636 195.184
6. Tây Nguyên 18.319 13.002 4.015 633 669 11.169
7. Đông Nam Bộ 28.454 21.146 5.457 1.045 806 16.127
8. Đồng Bằng sông Cửu
Long
79.956 52.469 19.412 4.805 3.270 55.585
(Nguồn: Lê Quang Trung, 2011)
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:PGS.TS. Phan Thị Nhiệm
Biểu đồ 2. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam
trong 5 năm qua

(Nguồn: Tổng Cục Thống kê, 2011)
Bốn, sự phát triển của công nghiệp chế biến đóng vai trò to lớn đối với môi
trường và sự phát triển bền vững của toàn xã hội. Sự phát triển của công nghiệp chế
biến gỗ chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế, lợi nhuận và bỏ qua việc thực hiện các hoạt
động hoặc các tác động đến môi trường sẽ gây ra những thảm hoạ về ô nhiễm
không khí, ô nhiễm nguồn nước, kích thích sự phá rừng … Do vậy, luôn phải đặt sự
phát triển công nghiệp chế biến gỗ trong mối quan hệ với bảo vệ môi trường tức là
giảm thiểu những tác động tiêu cực đến không khí, môi trường nước và sự phá
rừng.
Năm, dân số và điều kiện kinh tế càng phát triển thì nhu cầu của con người
đối với các sản phẩm gỗ ngày càng gia tăng cả về số lượng, chủng loại và chất
lượng.
Sáu, làm tăng giá trị gia tăng của các mặt hàng chế biến từ gỗ.
II. Các điều kiện và yếu tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp chế biến gỗ
1. Các yếu tố thuận lợi
1.1. Những yếu tố tự nhiên là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
công nghiệp chế biến gỗ
Nước ta có chiều dài bờ biển tới 3.260 km với nhiều cảng biển chạy dọc theo
chiều dài của đất nước là yếu tố địa lý thuận lợi cho vận chuyển nguyên vật liệu,
SV: Hoàng Thị Hồng Minh Lớp: Kinh tế phát triển A
19

×