CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU QUỐC GIA
Ngành công nghiệp chế biến gỗ tại Việt Nam
Hà Nội
Tháng 6, 2009
1
Tóm tắt nội dung chính
Việt Nam có truyền thống lâu đời trong việc sản xuất đồ gỗ kiểu cổ nhưng lại khá lạ lẫm với
kiểu đồ gỗ thương mại trong nhà và ngoài trời của thế giới.
Việc sản xuất đồ gỗ thương mại quy mô lớn đã có bước phát triển nhanh chóng trong 7, 8 năm
trở lại đây, bắt đầu bằng việc một số nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm thị trường lao động giá
rẻ. Họ đã chuyển đến từ khu vực Đông Á như Đài Loan, Philipin, Malaixia, Thái Lan và mới
đây thậm chí là cả Trung Quốc. Việc sản xuất này xuất phát từ nugồn vốn FDI được bổ sung
nhờ có sự tham gia của các công ty thương mại lớn như IKEA, Carrefours, B & Q, Walmart,
vv. Họ tìm kiếm mặt hàng đồ gỗ trên cơ sở thương lượng giá thấp như một hàng rào chống lại
sự khuyếch trương quá mức của hàng hoá Trung Quốc. Điều này đã mang lại sư khởi đầu cho
một số lượng lớn các doanh nghiệp Việt Nam để đáp ứng nhu cầu thị trường. Bề ngoài, tất cả
có vẻ như đang tiến triển rất tốt. Xuất khẩu tăng với tỉ lệ đáng kể, số lượng lao động tăng lên,
ngành công nghiệp có vẻ như đang đi đúng hướng. Nhưng thực tế có phải vậy?
Sự tăng trưởng của ngành công nghiệp đồ gỗ dựa trên nền tảng không vững chắc. Cần phải có
một chiến lược để định hướng đúng và tạo ra một mội trường mà trong đó ngành công nghiệp
đồ gỗ được ghi nhận như một sự thành công thực sự về kinh tế nếu như có sự đảm bảo cho sự
đóng góp lâu dài của nó.
Sự thành công hiện tại đạt được không dựa trên cơ sở bền vững vì:
• thiếu nguồn nhân công lành nghề
• thiếu nghiêm trọng cở đào tạo nâng cao tay nghề
• trang thiết bị nghèo nàn, lạc hậu
• thiếu diện tích rừng được xác nhận về các điều kiện môi trường tại Việt Nam
• thiều nguồn cung cấp nguyên liệu thô
• thiều nguồn nhân sự marketing được đào tạo và kinh nghiệm
• yếu trong khâu thiết kế và
• cơ sở hạ tầng yếu kém
Tính đến những hạn chế này của ngành công nghiệp bản địa và thực tế là một số lượng lớn sản
phẩm xuất khẩu được sản xuất bởi các công ty có vốn đầu tư của nước ngoài, sự phát triển mở
rộng xuất khẩu rõ ràng cần có một chiến lược cụ thể để thúc đẩy khả năng cạnh tranh của
ngành, nâng cao giá trị xuất khẩu để đạt được mục tiêu của chính phủ và xây dựng một nền
tảng bền vững cho sự phát triển lâu dài.
Chiến lược được đề cập trong bản báo cáo này được xây dựng nhằm đạt được một ngành công
nghiệp đầu tư dài hạn một cách bền vững, phân phối giá trị cho nền kinh tế Việt Nam. Mục
2
tiêu dài hạn là để phân tích chuỗi giá trị hiện tại từng bước một và tìm kiếm để nắm lấy lợi
ích tối đa cho nền kinh tế trong khi đặt nền móng cho một nền công nghiệp bền vững lâu
dài.
Chiến lược này sẽ đạt được bằng cách:
• phát triển khả năng cung cấp nguyên liệu thô tại địa phương càng nhiều càng tốt, ở
những nơi không thể cung cấp nguyên liệu thô thì cần đảm bảo các cơ sở hạ tầng đầy
đủ cho việc nhập khẩu nguyên liệu cần thiết
• thông qua thiết kế và phát triển sản phẩm sử dụngt tối đa nhưng nguyên liệu tự nhiên
không phải là gỗ như mây, tre và sợi tự nhiên như cói, vv
• tổ chức đào tạo ở cấp độ thủ công, cấp độ chế tạo cơ khí, cấp độ thiết kế và quản lý để
có thể cung cấp nguồn nhân lực được đào tạo khi cần
• lấp đầy những khoảng trống trong cơ sở hạ tầng về đào tạo bằng cách trực tiếp hỗ trợ
các doanh nghiệp trong việc thuê chuyên gia bên ngoài về kỹ thuật, thiết kế, marketing,
quản lý và tài chính
• tận dụng các cơ hội để quảng bá Việt Nam như một điểm đến thiết thực cho nguồn
cung đồ gỗ, tham dự các hội chợ thương mại quốc tế với vai trò là nhà cung cấp Việt
Nam trong khi vẫn đảm bảo rằng những doanh nghiệp có gian hàng tại các triển lãm
trong nước có thể nâng tầm và đề cao thương hiệu của đồ gỗ Việt Nam.
• bắt đầu gắn thương thiệu cho các sản phẩm càng sớm càng tốt trong quá trình phát triển
doanh nghiệp
• cung cấp các tiện nghi triển lãm tiến tiến nhất để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
Việt Nam trưng bày sản phẩm của họ tại một điạ điểm tiện nghi và tin cậy
• khuyến khích các doanh nghiệp FDI đầu tư ổn định để họ không dễ dàng chuyển đến
một mục tiêu “giá rẻ” tiếp theo.
• sử dụng tất các cơ hội tận dụng công nghệ thông tin để thúc đẩy sự gia nhập của Việt
Nam vào thị trường thế giới và giữ thái độ vui vẻ với hàng hoá bị trả lại
• tận dụng tối đa các phương tiện hiệu quả để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối
cùng trong khi cần phải chú trọng đến tất cả các bước như sử dụng nguồn nguyên liệu
bền vững, môi trường sản xuất sạch và giảm tối thiểu các dấu vết cac-bon trong quá
trình giao hàng đến người tiêu dùng.
Sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp đồ gỗ Việt Nam đòi hỏi phải có sự cam kết dài
hạn từ Chính phủ. Lý tưởng nhất là được hỗ trợ bởi “Một cửa” (one stop shop
1
) dưới sự quản
lý của một Bộ tương ứng mà có thể cung cấp tất cả đầu vào và tư vấn về các nguồn hỗ trợ quản
lý, marketing, đào tạo, tài trợ, hỗ trợ tài chính, vv.
1
“Một cửa” -‘one stop shop’ là nơi mà các nhà đầu tư ở một ngành công nghiệp có thể tìm kiếm sự hỗ trợ về
mọi khía cạnh trong chính sách của chính phủ đối với ngành công nghiệp đó bao gồm khung pháp lý, khung tài
chính và các ưu đãi sẵn có khác.
3
1 Giới thiệu
1.1 Cơ sở
Việc sản xuất đồ gỗ có truyền thông lâu đời tại Việt Nam nhưng chỉ mới nở rộ trong thời gian
gần đây. Nó đã trở thành một trong 5 ngành xuất khẩu mũi nhọn sau dầu thô, dệt may, da giày
và hải sản.
Đồ gỗ Việt Nam đã được công nhận trên thị trường thế giới với kim ngạch xuất khẩu tăng từ
135 triệu đô la Mỹ năm 1998 lên 1 tỉ đô năm 2004 và đạt 2.72 tỉ đô năm 2008. Năm 2008, đồ
gỗ Việt Nam đã gia nhập vào cộng đồng 167 quốc gia và lãnh thổ trên toàn thế giới, trong đó
Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch nhập khẩu lên tới 1,1 tỷ USD, tiếp theo là
Nhật Bản (378,8 triệu USD), Anh (197 triệu USD), Đức (152 triệu USD). Từ năm 2000 - 2008,
mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình hàng năm là 25%. Từ 2006, Việt Nam đã
vượt qua Indonesia và Thái Lan để trở thành một trong hai nhà xuất khẩu đồ gỗ hàng đầu
Đông Nam Á.
Trên cả nước có khoảng 2,562 doanh nghiệp chế biến gỗ, tạo công ăn việc làm cho gần
170,000 người lao động. Ngành công nghiệp đã đóng góp đáng kể vào việc cải thiện đời sống
cho người dân ở vùng nông thôn Việt Nam. Ngoài ra, sự phát triển của ngành công nghiệp gỗ
cũng mang lại cơ hội phát triển cho các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước như phần cứng,
phụ kiện, vật liệu hoàn thiện, keo dán, gỗ dán, máy móc, vv và các công nghiệp dịch vụ như tư
vấn, phần mềm, marketing, vận tải, tài chính, vv. Tất cả những lĩnh vực này chưa hoàn toàn
được nắm bắt trong chuỗi giá trị.
Sự phát triển của ngành công nghiệp gỗ ở Việt Nam còn rất nhiều khó khăn. Những khó khăn
này bao gồm cả các yếu tố bên trong và bên ngoài, đó là:
• thiếu nguồn nhân lực có tay nghề
• thiếu nghiêm trọng các tiện nghi đào tạo và các cơ hội được đào tạo nâng cao về thiết kế
và chế tạo cho những người mới vào nghề
• các thiết bị nghèo nàn và lạc hậu tại nhiều nhà máy
• thiếu diện tích rừng được công nhận ở Việt Nam và các khó khăn về nguồn cung cấp gỗ
được xác nhận và không được xác nhận từ thị trường thế giới.
• thiếu nguồn nhân sự marketing có kinh nghiệm và khoảng cách giữa các thị trường lớn
làm hạn chế rất lớn cho việc bán hàng.
• sự yếu kém trong thiết kế và chế tác đồ gỗ đã dẫn đến việc các sản phẩm tương tự lại tìm
đến những thị trường giống nhau, do đó đẩy giá cả, là lợi thế cạnh tranh hàng đầu, xuống
thấp và làm giảm khả năng đầu tư vào thiết kế, chế tác và phát triển sản phẩm.
4
• Cơ sở hạ tầng yếu kém trong cả vận tải đường bộ và đường biển sẽ làm hạn chế khả năng
xuất khẩu.
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu thời gian gần đây cũng đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các
doanh nghiệp chế biến gỗ, thị trường có xu hướng bị thu hẹp, lượng hàng tồn kho của các
doanh nghiệp ngày càng nhiều, giá bán cũng bị chèn ép dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp
phải sản xuất cầm chừng hoặc ngừng sản xuất.
Những hạn chế này ảnh hưởng lên toàn ngành nói chung và từng vùng nói riêng. Thực tế là
một số lượng lớn hàng xuất khẩu đang được sản xuất bởi các công ty có vốn đầu tư nước
ngoài( FDI), để mở rộng quy mô của ngành công nghiệp đò gỗ trong tương lai cần phải có
một chiến lược rõ ràng để thúc đẩy tính cạnh tranh, gia tăng giá trị xuất khẩu và cơ cấu
lại các doanh nghiệp tư nhân để có thể đứng vững và là những đối thủ cạnh tranh mạnh
trong thị trường đồ gỗ thế giới những năm tới. Cần phải nhấn mạnh rằng giá trị mới là chủ
yếu chứ không phải là số lượng.
Một chiến lược phát triển ngành là rất cần thiết khi mà Bộ Thương mại đã đặt ra mục tiêu xuất
khẩu là 5.56 tỉ đô la Mỹ vào năm 2020 và Thủ tướng cũng đặt ra mục tiêu là 7 tỉ đô la Mỹ vào
năm 2020.
1.2 Phương pháp
Chiến lược xuất khẩu ngành gỗ hướng tới việc đưa ra một cơ cấu để đạt được các mục tiêu xúc
tiến xuất khẩu và cải thiện tình hình phát triển của ngành. Xây dựng trên những đánh giá tổng
thể về chuỗi giá trị hiện tại, hiện trạng xuất khẩu, khả năng cạnh tranh xuất khẩu, các yếu tố
thiết yếu để thành công, các chính sách và chiến lược liên quan của chính phủ và mạng lưới hỗ
trợ ngành. Chiến lược này đề ra tầm nhìn dài hạn cùng với các biện pháp và hành động đề xuất
cần được triển khai trong vòng 5 năm tới.
Phương pháp chính được áp dụng là Phân tích chuỗi giá trị và Khung Bốn bánh xe tương tác
(Four - Wheel Gear Interactive Frame) của ITC. Một chuỗi giá trị bao gồm tất cả các cá nhân
và doanh nghiệp mua và bán lẫn nhau để cung cấp một sản phẩm hay một bộ sản phẩm gồm có
các liên kết dọc và ngang.
Trong ngành gỗ, chuỗi giá trị có thể được mô tả như một sự kết nối giữa những nhà cung cấp
nguyên liệu thô (cả gỗ và phụ liệu), nhà sản xuất, nhà xuất khẩu ở phía trong nước và các nhà
nhập khẩu, nhà bán buôn, bán lẻ, người tiêu dùng cuối cùng ở phía quốc tế trong.
Khung Bốn bánh xe tương tác được dùng để tạo ra một chiến lược xuất khẩu tổng thể bằng
cách đưa ra cái nhìn gần hơn với 4 hạng mục của vấn đề phát triển chuỗi giá trị là:
5
Nội biên: phần này giải quyết các vấn đề liên quan đến:
(1) Phát triển nguồn lực liên quan đến khả năng sản xuất của ngành. Nó giải quyết các vấn
đề liên quan đến sản lượng, tăng số lượng, cải tiến chất lượng và quan trọng nhất là
tăng giá trị;
(2) Đa dạng hoá và phát triển sản phẩm như sản xuất dòng sản phẩm mới và/hoặc các sản
phẩm liên quan;
(3) Phát triển nguồn nhân lực bao gồm phát triển và đào tạo nguồn nhân sự và khuyến
khích, thúc đẩy sự liên kết trong ngành.
Biên: phần này giải quyết các vấn đề liên quan đến:
(1) Cải thiện cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự phát triển ngành;
(2) Các ưu đãi về thương mại cần thiết để cải thiện tính cạnh tranh và nắm bắt giá trị;
(3) Giảm chi phí kinh doanh để đảm bảo và cải thiện tính cạnh tranh của ngành.
Ngoại biên: phần này giải quyết các vấn đề liên quan đến:
(1) Thâm nhập thị trường bao gồm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan và các vấn đề
thâm nhập thị trường khác;
(2) Hỗ trợ trong thị trường như thiết kế, phát triển sản phẩm, triển lãm, vv.
(3) Xúc tiến và xây dựng thương hiệu củng cố hình ảnh của ngàh tại các thị trường mục
tiêu.
Phát triển: phần này giải quyết các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế và xã hội tại đất
nước mà ngành công nghiệp gỗ đang đóng góp.
2 Hiện trạng ngành
2.1 Các nhóm sản phẩm
Theo bảng hệ thống mã số hàng hoá (HS), ngành gỗ Việt Nam có thể chia ra làm 8 nhóm cơ
bản là:
HS940161: Ghế bọc (khung gỗ)
HS940169 : Ghế không bọc, làm từ gỗ
HS940180 : Các loại ghế khác
HS940190 : Các bộ phận của ghế
HS940330 : Đồ gỗ văn phòng, làm từ gỗ
HS940340 : Nội thất nhà bếp và các đồ gỗ nhà bếp khác, làm từ gỗ
HS940350 : Nội thất phòng ngủ, làm từ gỗ
HS940360 : Nội thất phòng ăn và phòng khách, làm từ gỗ
6
Các sản phẩm cũng có thể được chia ra thành nội thất trong nhà và ngoài trời. Trong nhiều
trường hợp, có thể chia ra theo các kiểu như Cổ điển, Sang trọng, Nông thôn, Hiện đại…
Việc sản xuất đồ gỗ tại Việt Nam được tiến hành cả tại các làng nghề và tại các xưởng sản xuất
công nghiệp (nhà máy). Có 4 trung tâm sản xuất đồ gỗ chính là Đồng bằng sông Hồng, tỉnh
Bình Dương, Tây Nguyên (Gia Lai, Đak Lak) và Miền Nam Việt Nam (Bình Dương, Tp.
HCM, Đồng Nai và Long An)
Tại đồng bằng sông Hồng thì Hà Tây, Bắc Ninh và Hà Nội là những trung tâm hàng đầu về sản
xuất đồ gỗ theo kiểu truyền thống. Những trung tâm nổi tiếng là làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh),
Vạn Điểm (Hà Tây), Vân Hà (Hà Nội)… Còn có rất nhiều làng nghề sản xuất đồ gỗ tại các
tỉnh Hải Dương, Vĩnh Phúc, Nam Định, Hưng Yên. Tổng cộng có 342 làng nghề thủ công làm
đồ gỗ tạ Việt Nam, tạo việc làm cho 99,904 người lao động
2
. Hầu hết các đồ gỗ trạm khảm
được dùng trong nước hoặc xuất khẩu sang các thị trường như Trung Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông.
Các sản phẩm gỗ công nghiệp sản xuất theo quy mô lớn tại Việt Nam, không phải đồ gỗ truyền
thống, tập trung ở 3 khu vực chính là tỉnh Bình Dương, Tây Nguyên (Gia Lai, Dak Lac) và
phía Nam (TP.HCM, Đồng Nai, Long An). Đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là từ 3 khu
vực này, đặc biệt là tại các tỉnh miền Nam và Bình Dương. Từ những tỉnh này, các sản phẩm
như đồ gỗ trong nhà và ngoài trời làm từ gỗ tự nhiên, gỗ trồng hoặc gỗ hỗn hợp, gỗ dán và các
vật liệu khác được sản xuất. Thường thì chúng được sản xuất theo yêu cầu và đơn đặt hàng của
khách hàng. Ngoài ra, khu vực này cũng xuất khẩu một khối lượng lớn vỏ bào và gỗ vụn.
Có sự đa dạng rất lớn về các doanh nghiệp trong ngành, từ những tập đoàn, công ty lớn với
nhiều máy móc, dây chuyền hiện đại sản xuất hàng loạt tới những hộ gia đình sản xuất nhỏ hầu
hết với máy móc lạc hậu và phụ thuộc chủ yếu vào lao động thủ công. Việc sản xuất đồ gỗ tại
các gia định trong các làng nghề rất phổ biến ở Việt Nam. Những sản phẩm gia đình này có
nhưng lợi thế lớn vì hầu hết các công đoạn sản xuất đều được thực hiện bởi những người có
tay nghề cao. Họ sử dụng những máy móc rất đơn giản. Nhưng rất khó để họ thực hiện được
các đơn đặt hàng lớn.
Điều này cho phép có sự linh hoạt trong việc tìm kiếm các sản phẩm đa dạng về mẫu mã trang
trí và nó phù hợp cho những ai tìm kiếm các sản phẩm chuyên về thủ công tinh xảo. Một vấn
đề nảy sinh là khi số lượng đơn hàng lớn thì không có đủ nhân lực để làm. Chất lượng có thể
bị giảm, nhà sản xuất giao hàng không đúng hẹ, khách hàng thất vọng và hình ảnh của nhà sản
xuất có thể bị phá hỏng.
2
JICA, 2004
7
Tuy nhiên cũng có rất nhiều công ty có chứng nhận chất lượng và họ có thể điều hành việc sản
xuất để đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng của khách hàng. Những nhà máy được điều
hành tốt hơn thì có tổ chức tốt và mức độ đầu tư vào sản xuất cũng lớn hơn. Công nhân được
đào tạo lành nghề tại những vị trí chuyên môn. Những người quản lý biết cách tổ chức các tiện
nghi sản xuất sao cho hiệu quả và năng suất. Nhiều nhà sản xuất hàng loạt tại Việt Nam không
tập trung vào một số sản phẩm nhất định, thay vào đó họ trải nguồn lực vào nhiều mặt hàng.
Kiểu sản xuất này cần có mức độ công nghiệp hoá cao hơn và được hưởng lợi việc ứng dụng
các thiết bị điều khiển bằng máy tính, các máy móc dây truyền và môi trường hoàn thiện.
2.2 Chuỗi giá trị của ngành
Chuỗi giá trị của ngành công nghiệp gỗ được tạo thành bởi sự tham gia của các đối tượng đa
dạng. Những đối tượng chính là gỗ và nguyên liệu tấm ( MDF, tấm nhỏ, lát mỏng, lớp gỗ dán
ngoài ) nguyên liệu hoàn thiện và keo dán, phần cứng và phần nối, đóng gói, cung cấp thiết bị,
chi nhánh bán hàng, công ty vận tải, các cơ quan nghiên cứu phát triển, nhà bán buôn, nhà bán
lẻ, khách hàng (Xem Chuỗi giá trị bên dưới)
2.2.1 Gỗ từ nguồn trong nước:
Gỗ từ nguồn trong nước tại Việt Nam bao gồm gỗ trong rừng tự nhiên, gỗ trồng và gỗ nhân tạo
(MDF, gỗ dán, gỗ mảnh...)
Tổng diện tích rừng tự nhiên của Việt Nam khoảng 8,2 triệu ha, trong đó chỉ có 2,9 triệu ha
được xếp loại là rừng sinh lợi
3
. Việc khai thác gỗ từ rừng tự nhiên được nhà nước quản lý rất
chặt chẽ. Khối lượng khai thác được phân bổ hàng năm tuỳ theo từng tỉnh và số lượng chặt hạ
đang giảm dần từng năm trên phạm vi cả nước. Nếu vào năm 1990, khối lượng khai thác hàng
năm là trên 1 triệu M3, thì sau đó đã giảm xuống 300,000 M3 vào năm 2000 và đến 2008 thì
hạn mức khai thác gỗ chỉ còn 120,000 M3 trên cả nước.
Bảng 1: Hạn mức khai thác gỗ tại Việt Nam
Năm 1990s 2000 2004 2005 2006 2007 2008
Hạn ngạch
khai thác (m3)
Trên 1
triệu.
300,000 200,000 150,000 130,000 120,000 120,000
3
Số liệu cập nhật 31.12. 2006 – MARD
8
* Các dịch vụ (Services) ở đây đề cập đến các dịch vụ sấy khô bằng lò, bảo dưỡng dụng cụ máy móc.
** Nguyên liệu hoàn thiện (finishing materials) là các nguyên liệu dùng để chuẩn bị và hoàn thiện sản phẩm ví dụ như băng dính, nguyên liệu mài mòn (đá mài, đánh giáp),
dung môi, sơn mài, sơn nước, vv. Bản thân việc sản xuất đồ gỗ với những công đoạn phức tạp của nó chỉ chiếm 25% giá trị tiêu dùng của sản phẩm. 75% giá trị còn lại nằm
trong chuỗi giá trị bên ngoài. Điều này nhấn mạnh vào cơ hội tăng phần giá trị còn lại cho sản phẩm.
Gỗ nhà
Gỗ nhập
khẩu cho
nhà máy xẻ
Gỗ và ván
nhập khẩu
Tre
Mây và sợi
tự nhiên
Gỗ tiện
Sx Vải
Thuộc da
Nguyên
liệu độn
Hàng thủ công
Dịch vụ*
Đóng gói
Thiết kế, Kỹ
năng
Nhà SX đồ gỗ
Nhà sx bàn ghế có
bọc đệm
Nguyên liệu
hoàn thiện**
Máy móc trong
nước
Máy móc nhập
khẩu
Đào tạo nghề và kỹ
năng quản lý
Đại học
Viện kỹ
thuật
Đào tạo tại
chỗ
Đại lý &
Hãng
mua
hàng
Chuỗi giá trị ngoài nước
Thị trường chính.1 (Tây Âu)
Thiết kế
Vận chuyển
Nhập khẩu
quốc gia
Bán buôn
Bán lẻ
Người tiêu dùng
Thị trường chính 2 (Mỹ, Nhật)
Vận chuyển Nhập khẩu Bán buôn
Người tiêu dung
Thị trường chính 3. Đông Nam Á
Nhập khẩu
Người hoàn
thiện
Xuất khẩu Bán buôn
Bán lẻ
Người tiêu dùng
9
Cần phải lưu ý rằng, số lượng gỗ tự nhiên khai thác hàng năm ở trên không phải chỉ để sản
xuất đồ gỗ mà còn dùng vào rất nhiều mục địch khác như xậy dựng và khai thác mỏ. Theo
ước tính chỉ khoảng 60% gỗ khai thác từ các khu rừng tự nhiên được dùng vào mục đích sản
xuất đồ gỗ (tương đương 72,000 M3 năm 2008).
Diện tích rừng trồng ở Việt Nam là 2.2 triệu ha, trong đó rừng sinh lợi là 1.45 triệu ha
(681,000 ha là rừng trưởng thành). Khối lượng khai thác từ các khu rừng trồng tăng dần mỗi
năm từ 800.000 M3 năm 2000 lên trên 2 triệu M3 năm 2008. Hầu hết gỗ từ nguồn rừng trồng
của Việt Nam được sử dụng để sản xuất giấy, làm giá đỡ để khai thác mỏ, các nguyên liệu ván,
tấm nhân tạo và sản xuất đồ dùng bằng gỗ.
Tổng khối lượng đồ gỗ sản xuất từ gỗ trồng chiếm khoảng 20% tổng khối lượng gỗ khai thác.
Tổng khối lượng gỗ trồng dùng để sản xuất đồ gỗ từ năm 2003-2006 là khoảng 1triệu M3.
Lượng tiêu thụ gỗ trồng để sản xuất đồ gỗ ước tính vào năm 2010 là khoảng 3.5 triệu M3.
Một khối lượng tương tự nguyên liệu ván, tấm nhân tạo cũng sẽ được sử dụng tới 2010
4
. Một
trong những điểm yếu của gỗ trồng tại Việt Nam là đường kính nhỏ. Điều này có nghĩa là sẽ
khó có thể sản xuất đồ gỗ một cách hiệu quả từ nguồn nguyên liệu này. Hẩu hết được dùng để
sản xuất ván ép nhân tạo và bột giấy. Thêm vào đó, ở Việt Nam không có sản phẩm gỗ được
chứng nhận đủ các tiêu chuẩn về kinh tế xã hội và môi trường do Tổ chức quốc tế về quản lý
rừng (FSC) cấp bất kể là gỗ tự nhiên hay gỗ trồng. (Chỉ có một công ty là OJI, nhà máy sản
xuất giấy với vốn đầu tư của Nhật Bản đạt được chứng nhận FSC cho rừng trồng của họ.
Nguyên liệu được dùng để làm bột giấy).
Để nỗ lực giảm sự khan hiếm của nguồn nguyên liệu gỗ tự nhiên, các nhà sản xuất dựa trên
nguyên liệu là gỗ đã thu hút được nhiều sự quan tâm, đầu tư từ chính phủ. Tuy nhiên, dù lý do
gì đi nữa, thì việc sản xuất vẫn không đáp ứng được mục tiêu đề ra. Điều này thể hiện ở việc
chỉ đạt được 20% tổng công suất chế biến, trong đó:
• Sản xuất gỗ dán: 12 nhà máy và 10 đơn vị sản xuất quy mô nhỏ với công suất thiết kế
150,000 m3 sản phẩm mỗi năm; thực tế chỉ đạt được 60.000 m3 sản phẩm mỗi năm.
• Sản xuất ván dăm, ván ép bột sợi: 6 nhà máy với công suất thiết kế là 88.000 m3 sản
phẩm mỗi năm và có công suất thực tế là 45.000 m3 mỗi năm.
• Sản xuất ván phủ giấy: 9 đơn vị sản xuất với công suất 26.000 m3 sản phẩm mỗi năm
nhưng công suất thực tế là 15.000 m3
Tính trung bình thì tình hình sản xuất chung chỉ đạt mức dưới 50% công suất và đòi hỏi phải
có sự phân tích, quyết định kịp thời để đưa ra các biện pháp hỗ trợ kỹ thuật nhằm cải thiện tình
hình. Từ nay đến 2020, chính phủ sẽ tập trung vào hai loại sản phẩm chủ yếu là gỗ tấm nhân
tạo, ván dăm và ván ép bột sợi tỉ trọng trung bình sử dụng nguồn gỗ trồng. Mục tiêu đặt ra là
công suất 540.000M3 sản phẩm, 320.000 m3 ván dăm và 220.000m3 ván ép bội sợi mỗi năm.
4
Theo kế hoạch trồng rừng 2006-2010
10
Tuy nhiên, chất lượng gỗ trồng tại Việt Nam còn rất thấp do giống kém và kỹ thuật chăm sóc
không đảm bảo, vì vậy hầu hết chỉ phù hợp để sản xuất giấy và làm nguyên liệu gỗ nhân tạo.
2.2.2 Gỗ nhập khẩu
Lượng tiêu thụ gỗ của ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam từ 3-3,5 triệu m3 mỗi
năm nhưng lượng nguyên liệu trong nước mới chỉ đáp ứng được 20%, 80% còn lại là nhập
khẩu. Theo thống kê, Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu gỗ từ hơn 100 nước trên thế giới. Khối
lượng gỗ nhập khẩu tăng lên hàng năm từ 151,5 triệu đô la Mỹ năm 2000 lên 535,8 triệu đô la
năm 2004. Thông thường kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu nhập khẩu chiếm 42-49% tổng
kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ. Do giá dầu nguyên liệu gia tăng gần đây nên cước phí vận chuyển
từ các quốc gia xa xôi đang xuất khẩu gỗ về Việt Nam như Nam Phi, Nam Mỹ (Brazin…)
cũng tăng rất cao, nếu tính nguồn gỗ từ Nam Phi thì giá cước phí vận chuyển đã chiếm tới
27% giá gỗ nguyên liệu, và nếu tính từ Nam Mỹ thì cước phí vận chuyển đường biển lên tới
37%. Điều này thể hiện tính phụ thuộc cao vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu và là điểm yếu
của các nhà sản xuất đồ gỗ ngoài trời giá rẻ, thứ được làm hoàn toàn từ gỗ liền khối.
Bảng 2: Kim ngạch nhập khẩu gỗ
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2006 2007 2008
Trị giá nhập
khẩu (nghìn
USD)
151.48
6
160.91
5
249.34
7
344.69
2
535.76
7
720.00
0
1.020.00
0
1.010.00
0
Source: GSO and Trade Information Center
Các công ty chế biến gỗ nhập khẩu nguyên liệu đa dạng, từ gỗ khúc, gỗ xẻ, đến ván tấm, ván
dăm, ván ép bột sợi và gỗ dán… Nguồn gốc và chủng loại của các loại gỗ này từ rất nhiều
quốc gia trên thế giới
5
:
Bảng 3: Nguồn nhập khẩu gỗ
Loại gỗ nhập khẩu Trị giá (USD) % Xuất xứ gỗ
(*)
1.MDF
111,100,000
11%
Malaysia, Thailand, China, Indonesia,
Australia, Newzeland, Taiwan…
2. Bạch đàn 90,900,000 9% Urugoay, Brazil, Papua New Guinea,
South Africa, Australia, Spain, USA…
3.Thông 80,800,000 8% New Zealand, Chile, China, Findland,
Australia, Taiwan, Canada…
4.Teak (giá tỵ) 60,600,000 6% Myanmar, Ghana, Papua New Guinea
Solomon Island, Costa Rica …
5.Cao su 50,500,000 5% Cambodia, Malaysia, Thailand,
5
Nguồn: Tổng cục thống kê
11
Loại gỗ nhập khẩu Trị giá (USD) % Xuất xứ gỗ
(*)
Indonesia
6.Xylia
Dolabrifornus
50,500,000 5% Myanmar, Laos.
7.Ván dăm gỗ 50,500,000 5% Thailand, Malaysia, China
8. Bạch dương 50,500,000 5% America, Canada
9.Sồi 50,500,000 5% America, Germany, France, China,
Russia, Samoa, Denmark, Canada…
10.Gỗ vơ nia (gỗ
dán)
40,400,000 4% Taiwan, China, USA, Germany, Japan,
Cambodia…
11.Ván ép 30,300,000 3% China, Japan, Malaysia…
12.Chò chỉ 30,300,000 3% Laos, Malaysia…
13.Giáng hương 20,200,000 2% Malaysia, Laos
14.Dầu đen 20,200,000 2% Malaysia, Laos
15. Các loại gỗ khác 272,700,000 27% Myanmar, Ghana, Papua New Guinea,
Australia, New Zealand, Sweden, Brazil,
South Africa, Laos, USA, Canada…
Chi phí cho gỗ và các nguyên liệu nhân tạo chiếm một phần rất lớn trong kết cấu của sản phẩm
(40-65%), do đó việc tìm kiếm giải pháp để làm giảm tối đa chi phí cho vật liệu gỗ đóng một
vai trò rất quan trọng trong việc giảm giá thành sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh của các
nhà sản xuất. Thực tế là Malaysia cung cấp đến 50% gỗ sồi cắt khúc cho các nhà sản xuất Việt
Nam trong khi ở Malaysia không có cây sồi mà cây này bắt nguồn từ Mỹ, Đức, Nga và
Rumani. Điều này thể hiện sự yếu kém trong việc tiếp cận các nguồn cung phù hợp. Các nhà
buôn gỗ của Malaysia lại tìm được những nguồn cung tốt hơn để buôn bán với các nhà sản
xuất của Việt Nam. Điều tương tự cũng xảy ra khi các nhà trung gian cung cấp gỗ của Mỹ lại
tìm các nguồn cung từ Canada và bán cho các công ty Việt Nam. Việc có quá nhiều trung gian
tham gia vào quá trình cung cấp nguyên liệu cùng với việc giá nguyên liệu ngày càng tăng đã
làm cho đồ gỗ của Việt Nam càng ngày càng ít lợi thế và đe doạ nghiêm trọng đến khả năng
cạnh tranh. Đây là vấn đề chính cần được giải quyết.
Cùng lúc đó thì các nhà cung cấp truyền thống về đồ gỗ của Việt Nam là Lào, Myanmar,
Indonesia, đã cấm xuất khẩu gỗ khúc. Vì vậy, các công ty Việt Nam đang phải nhập khẩu gỗ
sơ chế với giá cao hơn. Ngoài ra, hầu hết các công ty nhập khẩu gỗ một cách độc lập với số
lượng nhỏ đã làm giá gỗ CIF Việt Nam cao hơn. Bên cạnh những áp lực này, nhu cầu về gỗ
và sản phẩm gỗ tại Trung Quốc đang tăng nhanh sẽ làm tăng áp lực lên việc kiểm kê tài
nguyên gỗ của các nước xuất khẩu lân cận. Việc này đã được nhấn mạnh bởi Quỹ Thiên
nhiên hoang dã thế giới (WWF) rằng nhu cầu tiêu dùng gỗ tại Trung Quốc sẽ tăng
nhanh.
12
Năm 2003, Trung Quốc nhập khẩi khoảng 42 triệu m3 gỗ, trong đó trên 50% đến từ Malaysia,
Indonesia và Nga. Theo dự báo, lượng tiêu thụ gỗ tại Trung Quốc có thể đạt tới 125 triệu
m3/năm vào năm 2010. Việc này chắc chắn sẽ có tác động nhiều đến giá cả.
Gỗ được nhập khẩu là cả hai loại có chứng nhận và không có chứng nhận FSC. Nhu cầu về gỗ
có chứng nhận FSC đang tăng lên ở tất cả các nước tuy nhiên giá của loại gỗ này thường cao
hơn từ 20-25% so với gỗ không có chứng nhận. Giá nguyên liệu thô thường chiếm 35-60%
trong chi phí của sản phẩm đối với đồ gỗ ngoài trời và còn cao hơn đối với đồ gỗ trong nhà
(50-70%). Gỗ nhập khẩu không phải chịu thuế, trừ 10%VAT, nhưng nếu sản phẩm để tái xuất
khẩu thì cũng không phải nộp. Tuy nhiên, chi phí vận chuyển sẽ làm tăng thêm 40-60% giá trị
thực tế của gỗ.
Chính phủ Việt Nam đã quyết định bảo tồn rừng tự nhiên vì các lý do môi trường. Điều này là
đúng. Khi những khu rừng tự nhiên và rừng trồng đến thời kỳ khai thác, Việt Nam sẽ có một
nguồn cung tốt hơn về nguyên liệu nhưng vẫn chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Trong
khi đó việc nhập khẩu gỗ thực sự là một trở ngại đối với các nhà sản xuất và cần phải có
một chiến lược để làm giảm gánh nặng này. Ví dụ tăng thêm lượng kim loại và giảm gỗ đối
với đồ nội thất ngoài trời, cải tiến thiết kế, thêm tre, thêm sợi, vv.
2.2.3 Các nguyên liệu khác
Sự sẵn có và nguồn cung của các nguyên liệu khác như tre, mây, cói, nhôm/kim loại, da, gốm,
sơn mài, kính, nhựa, vv cũng giữ vai trò quan trọng trong thiết kế, phát triển và đa dạng hoá
sản phẩm đồ gỗ. Điều này là đúng với tất cả các cấp độ thị trường.
Những nguyên liệu này đều có tại Việt Nam nhưng ở mức độ cạnh tranh khác nhau so với các
nước khác trên thế giới. Việt Nam đôi khi được gọi là “Đất nước của cây tre”, và có nguồn
tiềm năng lớn. Bản thân cây tre và các sản phẩm từ tre như nan tre, tre đan có thể kết hợp rất
tốt với gỗ trong quá trình thiết kế và sản xuất đồ nội thất. Tuy nhiên, cũng như cây mây, cây
tre ở Việt Nam cũng đang bị đe doạ cạn kiệt và cần có biện pháp triệt để để bảo tồn và trồng
mới . Giá cả ngày càng cao và giờ đây Việt Nam đang phải nhập khẩu mây tre từ Trung Quốc,
Lào và Indonesia.
Căn cứ vào tình hình trên, chính phủ Việt Nam đã thông qua chiến lược phát triển các sản
phầm phi gỗ rừng tới năm 2015, trong đó tre và mây là hai thành phần quan trọng.
Gỗ kết hợp với kim loại đang ngày càng thu hút được sự chú ý của các nhà nhập khẩu nước
ngoài, nhưng chỉ có một số nhà máy tại Việt Nam có thể sản xuất các bộ phận kim loại như
khung đúc, khung lắp ghép. Chất lượng và thiết kế vẫn rất hạn chế và các nhà xuất khẩu đồ gỗ
vẫn phải nhập khẩu các bộ phận này từ Trung Quốc và một số nơi khác để đáp ứng đơn hàng.
Sự phát triển nguyên liệu kim loại và các nguyên liệu đầu vào khác cho ngành công nghiệp là
thiết yếu và có khả năng mang lại lợi nhuận để có thể nắm bắt được phần lớn hơn nữa trong
13
chuỗi giá trị.
2.2.4 Phần cứng và phụ kiện
Phần cứng, phần lắp ghép và các phụ kiện được sản xuất tại địa phương hoặc mua lại từ các
nhà buôn và các nguồn từ nước ngoài. Các phần cứng như bu-lông, ốc vít, đinh vít, đinh, vv
được sản xuất trong nước nhưng rất hạn chế về chất lượng và chủng loại. Việc cung cấp các
mặt hàng này là cơ hội lớn cho sự phát triển ngành công nghiệp phụ liệu. Đài Loan là một mô
hình hoàn hảo cho việc phát triển ngành này và cần được nghiên cứu cụ thể trong quá trình
hoạch định chiến lược phát triển ngành. Với những phụ kiện lắp ráp đặc biệt họ vẫn nhập khẩu
từ Đức, Ý, Nhật, Trung Quốc và Đài Loan. Trong nhiều trường hợp, nhà nhập khẩu sẽ cung
cấp những phần cứng thích hợp và/hoặc các phụ kiện mà nhà sản xuất cần để đảm bảo chất
lượng sản phẩm. Các phụ liệu này cần được cung cấp trong nước (Việt Nam) càng nhiều càng
tốt.
Các phụ kiên khác như sơn xịt, sơn nước, keo dán, lá kim loại, sợi, vv có thể được sản xuất tại
Việt Nam, nhưng vẫn cần nhập khẩu các nguyên liệu chất lượng cao.
Các phần cứng và phụ kiện này chủ yếu được bán tập trung tại TP.HCM và điều này có thể
gây khó khăn cho những nhà sản xuất tại miền Bắc khi mà hoạt động phân phối hàng hoá còn
yếu.
Trong nhiều trường hợp các công ty nước ngoài đã tự sản xuất phần cứng và phụ kiện tại Việt
Nam hoặc kết hợp với các công ty thương mại địa phương. Cần phải khuyến khích đầu tư vào
lĩnh vực này và trợ giúp các nhà sản xuất trong việc sản xuất tại địa phương vì mặt hàng này có
tiềm năng rất cao trong việc thay thế nhập khẩu. Một số công ty đã đặt các chi nhánh đại diện
ở nước ngoài để thúc đẩy bán hàng.
2.2.5 Máy móc
Máy móc và thiết bị đóng vai trò quan trọng trong việc tăng tính cạnh tranh trong ngành công
nghiệp đồ gỗ. Các máy chế biến gỗ cơ bản được sản xuất tại Việt Nam và cung cấp cho các
nhà sản xuất quy mô nhỏ trong nước hoặc các công ty lớn. Có một số công ty chuyên về lĩnh
vực này nhưng hầu hết đều ở quy mô nhỏ (80%) và trung bình (20%), sản xuất những thiết bị
rất cơ bản với công nghệ thấp. Các máy móc phức tạp hơn được nhập khẩu mới hoặc đã qua sử
dụng. Thiếu nguồn nhân lực lành nghề có khả năng sử dụng những thiết bị phức tạp và cơ sở
cung cấp phần mềm, công cụ và dịch vụ bảo dưỡng thì còn rất đơn giản. Thường thì khi mua
máy móc đã qua sử dụng người mua không được cung cấp đầy đủ hướng dẫn sử dụng và cách
bảo dưỡng thiết bị nên khi vận hành thường không được như mong muốn. Nhiều xưởng chế
biến gỗ được đặt gần các làng nghệ gỗ mỹ nghệ (tại Hà Tây và Bắc Ninh), những xưởng này
đôi khi chỉ ở quy mô gia đình và sản xuất bằng các dụng cụ đơn giản như cưa dài, cưa máy,
14
máy tiện, máy tạo khuôn có trục quay và máy khoan đơn giản. Những máy móc này làm tăng
năng suất của các làng nghề nhưng để sản xuất những sản phẩm cần độ chính xác cao và sản
xuất hàng loạt sản phẩm giống nhau thì những máy móc này không đáng tin cậy. An toàn lao
động cũng là vấn đề cần quan tâm. Nhiều máy kiểu này không được bảo hộ đầy đủ và rất nguy
hiểm khi sử dụng ngay cả đối với những thợ lành nghề.
Trung tâm sản xuất máy chế biến gỗ của Việt Nam là Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
Phần lớn tập trung ở Tp.HCM nơi các máy móc được sản xuất hoặc lắp ráp với một tỉ lệ nhất
định các linh kiện nhập khẩu từ Đài Loan, Trung Quốc và Nhật Bản. Về cơ bản, ccs nhà sản
xuất có thể đáp ứng yêu cầu của các công ty chế biến gỗ về các sản phẩm sơ chế và bán hoàn
thiện và họ đang cố gắng đầu tư vào các thiết bị để nâng cao hiệu quả sản xuất. Họ đầu tư vào
các máy công cụ CNC để thay thế các công nghệ cũ và để cải tiến chất lượng. Hiện giờ, các
công ty có thể sản xuất và cung cấp các máy móc như máy ghép (Finger Jointing Lines), máy
cắt mộng tự động hai đầu (Automatic double end tenoners), máy cắt khuôn hàng loạt cũng như
các dụng cụ cơ bản như cưa, máy bào, máy bào bàn, vv.
Chưa có số liệu chính xác về tỉ lệ máy chế biến gỗ nhập khẩu nhưng số lượng ứng tính khoảng
hơn 80%. Điều này, như đã nói ở trên, là một cơ hội lớn cho các nhà sản xuất trong nước.
Năm 2006, tổng giá trị máy móc chế biến gỗ nhập khẩu vào Việt Nam là 57 triệu đô la Mỹ.
Máy móc được mua chủ yếu từ Nhật, Ý, Đài Loan, Trung Quôc và Đức. Nhiều máy móc chất
lượng cao hơn sẽ được nhập khẩu khi số nhà sản xuất chuyển sang sản xuất đồ nội thất trong
nhà tăng lên.
Các máy móc nhập khẩu được cung cấp bởi mạng lưới các công ty thương mại. Hầu hết là các
công ty thương mại trong nước, một số là đại diện của công ty nước ngoài. Cũng có nhiều
trường hợp các nhà sản xuất đồ gỗ tự liên hệ và nhập khẩu trực tiếp từ các nhà sản xuất ngước
ngoài.
2.2.6 Đào tạo kỹ thuật, quản lý và hướng nghiệp
Ngành công nghiệp chế biến gỗ ở Việt Nam được hỗ trợ bởi một hệ thống các trường đào tạo
nghề và các cơ quan nghiên cứu để cung cấp các kiến thức chế biến cho những nhà quản lý và
công nhân. Có 3 kiểu cơ quan nghiên cứu và trường đào tạo nghề khác nhau (bao gồm đại học,
cấp 3, cấp 2, trường dạy nghề kỹ thuật và trường đào tạo cán bộ quản lý) trên cả nước. Hệ
thống đào tạo về rừng nằm trong phạm vi quản lý của Bộ NN&PTNT bao gồm Viện khoa học
tài nguyên rừng (đào tạo sau đại học), Cao đẳng lâm nghiệp ở Xuân Mai, Hà Tây, 2 trường đào
tạo cán bộ quản lý về nông nghiệp và phát triển nông thôn tại Hà Nội và Tp.HCM, 3 trường
trung cấp lâm nghiệp trung ương tại Quảng Ninh, Đông Nai và Gia Lai; trường hướng nghiệp
dạy nghề chế biến gỗ tại Hà Nam, trường công nhân lâm nghiệp trung ương Số 1 tại Lạng Sơn,
Số 2 tại Ninh Bình, Số 3 tại Bình Dương, số 4 tại Phú Thọ, 2 trung tâm đào tạo bảo vệ và
quản lý rừng ở phía Bắc và phía Nam cũng mới được thành lập. Nhìn chung, hệ thống đào tạo
15
đã cung cấp nguồn nhân sự đáng kể cho ngành nhưgn chất lượng đào tạo hiện nay, đặc biệt là
các ngành liên quan đến công nghệ, máy móc, thiết kế, marketing… vẫn rất kém.
Hàng năm, các đơn vị đào tạo thuộc Bộ NN&PTNT tuyển sinh 5.170 sinh viên trong đó 70 là
thạc sĩ, 800 là cử nhân chính quy, 450 tại chức, 50 sinh viên cao đẳng, 850 học sinh trung học
chính quy và, 400 học sinh trung học tại chức, và 2.550 học sinh tại các trường hớng nghiệp.
Bênc cạnh các trường đại học và cơ sở đào tạo thuộc Bộ NN&PTNT, còn có trường Cao đẳng
Nông Lâm Thủ Đức, Đại học Tây Nguyên, Đại học Nông nghiệp Thái Nguyên và Đại học
Lâm Nghiệp thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo. Uỷ ban nhân dân tỉnh đang quản lý 10 cơ sở đào
tạo bao gồm 1 trường đại học (Đại học Hồng Đức, tỉnh Thanh Hoá), 8 trường trung học và 1
trường dạy nghề. Những trường học này đang đào tạo 800 sinh viên cả chính quy và tại chức
tại các trường đại học cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật.
Số lượng cán bộ và công nhân lâm nghiệp được đào tạo bởi các đơn vị này là hơn 80.000 trong
đó đào tạo sau đại học là 13.000 (tiến sĩ 110, thạc sĩ 200), đào tạo trung học là 27.000 và công
nhân lành nghề là 40.000.
Tuy nhiên, đầu ra của các khoá đào tạo này thường không liên quan đến sanr xuất đồ gỗ trừ
một số trường dạy nghề. Bên cạnh đó, rõ ràng là các kiến thức đào tạo tổng hợp không được
đưa đến tận các thợ kỹ thuật lành nghề. Dưới áp lực của việc khan hiếm nguồn lao động, một
số mô hình hợp tác đã được đưa vào hoạt động rất hiệu quả. Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ
Chí Minh đã mời các nhà sản xuất đồ gỗ đặt trụ sở trong khu vực thuộc phạm vi của trường và
thuê sinh viên làm tập sự để tham gia vào các hoạt động sản xuất. Ngoài ra, mô hình Công-Tư
liên danh đào tạo công nhân ngành gỗ đã được triển khai tại Đak Lak dưới sự hỗ trợ về kỹ
thuật và tài chính của tổ chức GTZ (Đức).
2.2.7 Các nhà sản xuất đồ gỗ
Theo số liệu của Bộ NN& PTNT, có khoảng 2562 doanh nghiệp chuyên về sản xuất kinh
doanh đồ gỗ trên cả nước. Trong số đó có 374 công ty nhà nước, 421 công ty có vốn đầu tư
nước ngoài với số vốn đăng ký là 1,2 tỉ đô la Mỹ (tính đến 14/12/2006) và còn lại là các
doanh nghiệp tư nhân địa phương.
Tổng công suất chế biến của các doanh nghiệp này là khoảng 3 triệu m3/năm (bao gồm gỗ
nguyên khối và ván nhân tạo). Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gỗ đều đặt tại
Bình Định, Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai ... Quy mô của các công ty chế biến gỗ có
thể chia làm 3 nhóm:
Nhóm 1. Công ty quy mô lớn với công suất hàng tháng khoảng 100 đến 350 công-ten-nơ 40ft
Nhóm 2. Công ty quy mô vừa với công suất hàng tháng khoảng 20 đến 100 công ten nơ 40ft.
16
Nhóm 3. Công ty quy mô nhỏ với công suất hàng tháng nhỏ hơn 20 công ten nơ 40ft.
Trong số các công ty này đã có 99 công ty đạt được Chứng nhận Chuỗi hành trình sản phẩm
(COC ) và số lượng các công ty đạt chứng nhận sẽ còn tăng trong tương lai. Hầu hết các công
ty lớn và một số công ty vừa cũng đã đạt tiêu chuẩn ISO 9001-2000 và SA 8000.
Nhìn chung hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến gỗ còn thấp. Lợi
nhuận trước thuế so với tổng vốn đầu tư năm 2008 của toàn ngành là 2,5% trong đó lợi nhuận
của các công ty ở phía nam là 5,48%, 14 lần cao hơn so với các doanh nghiệp ở phía Bắc
(0,04%).
Các công ty chế biến đồ gỗ cũng đang trong quá trình tập hợ lại để thúc đẩy tăng trưởng thông
qua việc hợp tác và đồng minh chiến lược. Mới đây, một số nhà sản xuất đã đóng vai trò nhà
thầu phụ cho các công ty với năng lực giới hạn hoặc sản xuất các chi tiết đặc biệt. Các nhà sản
xuất đã dần nhận ra rằng mỗi công ty phải tìm ra yếu tố cạnh tranh chủ chốt của mình và tập
trung vào đó. Cùng lúc đó, một số công ty đang cố gắng chính thức hội nhập vào khu vực sản
xuất ván và lớp dán bề mặt để có thêm sức mạnh trong việc điều chỉnh chi phí và giá cả. Thêm
vào đó, họ cũng đang là nhà cung cấp cho các công ty sản xuất đồ gỗ nhỏ.
Các công ty chế biến gỗ có vốn đầu tư nước ngoài đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển của ngành công nghiệp gỗ Việt Nam, không chỉ trong lĩnh vực xuất khẩu mà còn trong
lĩnh vực trình độ công nghệ, đào tạo nhân lực, đa dạng hoá sản phẩm và thậm chí là nâng cao
hình ảnh về ngành công nghiệp gỗ trên thị trưòng thế giới. Vì giá lao động ngày càng tăng và
khan hiếm nguôn nhân công trong nước nên các nhà sản xuất nước ngoài từ Mỹ, Châu Âu,
Nhật Bản đang tìm kiếm một môi trường sản xuất kinh doanh phù hợp hơn ở Malaysia,
Singapore, Thailand, Philippines, và gần đây là Việt Nam. Đây là thời cơ rất tốt để thúc đẩy
sản xuất ở Việt Nam khi các doanh nghiệp Đài Loan xây dựng và mở rộng quy mô nhà máy tại
đây, đặc biệt là tại Tp.HCM vì họ đang tăng tốc để đối đầu với Trung Quốc trong cuộc chạy
đua xuất khẩu vào thị trường Mỹ và Châu Âu. Có cở sở để đặt niềm tin và sự lạc quan vào
tiềm năng ở đây và vì vậy một nguồn vốn khổng lồ đã được đầu tư để đặt dấu ấn chắc chắn
vào thị trường sản xuất đồ nội thất đang lên này. Những nhà máy mới này được trang bị máy
móc mới với các loại thiết bị mới nhất trong một số công đoạn – như hoàn thiện.
2.2.8 Các đại lý và công ty môi giới
Đây là các cá nhân hoặc công ty đóng vai trò đàm phán và xác lập mối làm ăn theo chỉ dẫn của
người uỷ nhiệm hoặc đóng vai tròn trung gian giữa người mua và người bán. Họ không mua
bán cho mình mà làm việc vì hoa hồng. Hầu hết các đại lý làm đại diện cho hơn một nhà sản
xuất mặc dù tránh cạnh tranh lẫn nhau. Thông thường đại diện của bên mua thường đặt văn
phòng tại đất nước của bên bán.
17
Có rất nhiều đại lý và công ty môi giới về mua bán gỗ hoạt động tại Việt Nam. Hầu hết là các
công ty môi giới mua hàng như Carrefour, Ikea, Diamond Keystone Associates nhưng cũng có
một số liên quan đến cả tìm kiếm nguồn hàng và sản xuất như Scancom. Các đại lý mua hàng
cũng giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển ngành, gần đây, Carrefour đã nhập khẩu 20 triệu
đô la Mỹ đồ gỗ trong năm 2006, trong khi Scancom đã xuất khẩu khỏi Việt Nam hơn 40 triệu
đô.
2.2.9 Vận tải và giao hàng
Các công ty vận tải đường biển và chuyên chở nội địa và nước ngoài thường cung cấp một số
dịch vụ kèm theo như thủ tục hải quan, thuê công-ten-nơ, thuê tàu, vận tải nội địa, vv. Sự cạnh
tranh giữa các công ty vận tải rất khốc liệt. Mỗi công ty thường mạnh trong một khu vực vận
tải nhất định. Vận tải hàng hoá tại Việt Nam thường cao hơn ở Trung Quốc vì mật độ giao
thông đông và cơ sở hạ tầng cảng biển còn yếu kém.
2.2.10 Nhà nhập khẩu/ Nhà bán buôn/ Nhóm mua hàng
Bằng việc tự đứng ra mua hàng bằng tiền của mình, các nhà nhập khẩu hoặc bán buôn có
quyền quyết định đối với hàng hoá của mình và chịu trách nhiệm cho các hoạt động bán hàng
tiếp theo và phân phối trên đất nước/thị trường của mình. Họ rất quen thuộc với thị trường
trong nước và có thể cung cấp nhiều thông tin cho các nhà sản xuất nước ngoài bên cạnh hoạt
động kinh doanh mua bán, như các thủ tục xuất nhập khẩu hoặc gửi hàng, giữ kho. Sự phát
triển mối quan hệ giữa nhà sản xuất và nhà nhập khẩu có thể đưa đến mức độ hợp tác cao hơn
trong việc đưa ra các mẫu thiết kế phù hợp cho thị trường, các xu thế mới, sử dụng nguyên liệu
và các yêu cầu chất lượng.
Nhóm mua hàng được hình thành để hỗ trợ các nhà bán lẻ có điều kiện tốt hơn. Họ thường
mua cho một bộ sưu tập của các công ty nhỏ. Nhóm mua hàng vận hành kiểu như một hợp tác
xã và tìm kiếm giá cả tốt hơn và dịch vụ tốt hơn bằng ưu thế về số lượng mua của họ. Tuy
nhiên họ thường không có kho chứa hàng và yêu cầu hàng hoá phải được chuyển đến thẳng
những cửa hàng bán lẻ. Điều này đòi hỏi phải thêm một chút phức tạp cho nhà sản xuất là phải
làm các giấy tờ cần thiết và điều hành khâu vận chuyển.
2.2.11 Nhà bán lẻ
Bán lẻ là khâu cuối cùng trong chuỗi phân phố từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Các nhà
bán lẻ với quy mô khác nhau từ quy mô nhỏ được biết đến ở Mỹ như chuỗi cửa hàng ‘Mom &
Pop’ đến các đại gia bán lẻ như Walmart, IKEA và Carrefours.
Các cửa hàng nhỏ thường là chuyên gia hoặc về sản phẩm hoặc về dịch vụ. Họ mua từ nhà bán
buôn và thường không kèm theo dịch vụ lưu kho. Nhà bán buôn đã tính họ cả chi phí nhập
khẩu, lưu kho và phân phối. Giá cả có thể tăng nhưng thường trong khoảng từ 80 đến 100%,
18
đôi khi có thể hơn so với giá FOB. Nhà bán lẻ sau đó cũng thêm vào khoảng 100% công với
thuế và vì vậy khi đồ gỗ đến tay người tiêu dùng cuối cùng thì giá cả đã cao gấp 4 lần so với
giá FOB.
Đối tượng tiếp theo là nhóm mua hàng, người mua đại diện cho một số nhà bán lẻ mua hàng
với số lượng lớn. Họ lấy một tỉ lệ phần trăm nhất định trong giá sản phẩm trả công cho dịch vụ
tìm kiếm và lựa chọn của mình. Thường thì tỉ lệ đó khoảng 10% đến 12% nhưng các nhà bán
lẻ đã chịu tất cả các chi phí từ nhà máy đến cửa hàng nên giá cuối cùng của sản phẩm cũng chỉ
tương đương với giá mua từ nhà bán buôn và các nhà bán lẻ có thể đạt được mức tăng giá lớn
hơn 100%.
Tiếp đến là các chuỗi cửa hàng nhỏ. Đây là nhóm cửa hàng thuộc cùng một chủ sở hữ hoạt
động trong một thành phố hoặc một địa phương nhưng thường không phân bố rộng khắp cả
nước. Họ thường hoạt động như những nhà bán buồn thu mua hàng về một trung tâm chứa
hàng và phân phối đến các cửa hàng của mình. Và khi hàng đến tay người tiêu dùng thì giá cả
cũng gấp 4 lần giá FOB.
Nhóm tiếp theo là các nhà phân phối bán lẻ lớn như IKEAs, Walmarts, Carrefours, vv. Nhóm
này là ông chủ trên khắp thế giới và có quyền năng chi phối biệc mua bán hàng. Họ mua trực
tiếp từ nhà sản xuất và bán trực tiếp cho các khách hàng cuối cùng. Họ tìm kiếm lợi nhuận từ
các nền kinh tế và rất cứng rắn trong quá trinh đàm phán mua hàng. Họ thường yêu cầu số
lượng lớn với giá rất rẻ. Họ thường bán háng với giá ưu việt thấp hơn 20 –22% trong các cửa
hàng của mình do đó để cung cấp hàng cho họ các nhà sản xuất cần phải hết sức năng suất để
có thể thu được lợi nhuận. Ngày càng nhiều nhóm mua hàng lớn đang trở thành độc quyền
trong thị trường của họ. Do quá trình toàn cầu hoá, các nhà phân phối lớind đang nắm bá
quyền trong thị trường và các nhà cung cấp của họ bị ngập trong các đơn hàng khối lượng lớn
và không cso thời gian để tìm kiếm cơ hội giá cao hơn ở những người mua hàng khác.
Những nhóm mua hàng này có chi phí khổng lồ và những bất cập trong hệ thống. Trong khi họ
thường bán với giá khuyến mại cho khách hàng thì mức giá khuyến mại đó là đạt được từ
những thực tế mua hàng tàn khốc. Thực tế này có thể khốc liệt với các nhà sản xuất. Cần phải
hiểu rằng cung cấp hàng cho các đại gia phân phối bán lẻ đòi hỏi nhà sản xuất phải có hiệu
suất tối ưu hoặc lợi nhuận phải bị hy sinh cho số lượng và công ty sản xuất có thể sẽ hoàn toàn
thất bại. Việc cung cấp số lượng lớn như vậy có thể mang lại những kinh nghiệm quý báu và
khả năng cọ sát trong ngành tuy nhiên mục tiêu vẫn là tiến gần hơn tới khách hàng cuối cùng.
Bên cạnh đó để cung cấp cho các công ty lớn, các nhà sản xuất cần phải có chiến lược tiến đến
việc hình thành chuỗi cung cấp độc lập.
2.2.12 Khách hàng
Khách hàng là người tiêu dùng cuối cùng, người chi tiền để mua sản phẩm về nhà. Đây là khâu
19
cuối cùng của chuỗi giá trị. Khách hàng bị thuyết phục mua hàng bằng kiểu dáng thiết kế, địa
điềm và chất lượng sản phẩm tại cửa hàng, bởi xu hướng mốt, bởi áp lực từ những người xung
quanh và bởi sự cần thiết về chức năng sử dụng. Giá mà khách hàng sẽ trả được chi phối bởi
tính sẵn có, khả năng chi trả, chất lượng và phương thức thanh toán.
2.3 Đánh giá hoạt động kinh doanh đồ gỗ
Kim ngạch xuất khẩu gỗ và đồ gỗ đã tăng nhanh trong những năm gần đây, từ 344.940.000 đô
la Mỹ năm 2000 đã đạt 1,1 tỉ đô la năm 2004, 1,98 tỉ năm 2006 và 2,72 tỷ năm 2008. Việt Nam
cũng đặt mục tiêu cho kim ngạch xuất khẩu năm 2010 là 5.5 tỉ đô la với tỉ lệ tăng trưởng hàng
năm là 29.8%.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu gỗ và đồ gỗ tại Việt Nam
Đơn vị: Triệu USD
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
345 385 533 711 1,101 1,560 1,980 2,400 2,721
Nguồn: Tổng cục thống kê (2007)
EU, Nhật Bản, Mỹ và Úc là các thị trường lớn nhất cho các sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam.
Chuyên chở sang thị trường Mỹ nói riêng đạt trên 1 tỷ đô la năm 2008, chiếm 39% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên thị phần của đồ gỗ Việt Nam tại những thị trường trên còn rất nhỏ
so với thực tế tiêu thụ.
Bảng 5: Thị trường xuất khẩu chính các sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam năm 2008
TT
Thị trường Kim ngạch
(USD)
TT
Thị trường Kim ngạch
(USD)
1
Achentina 1.354.214
26
Italia 46.786.705
2
CH Ailen 18.887.030
27
Látvia 1.255.407
3
Aixơlen 1.240.423
28
Lítva 299.708
4
Ấn Độ 5.766.892
29
Malaixia 15.474.250
5
Anh 197.651.285
30
Nauy 7.793.383
6
Áo 4.254.227
31
CH Nam Phi 3.185.934
7
Arập Xê út 1.907.175
32
Niu Zilân 13.672.212
8
Ba Lan 14.997.762
33
Liên bang Nga 4.524.758
9
Bỉ 33.312.913
34
Nhật Bản 378.839.382
10
Bồ Đào Nha 4.204.565
35
Ôxtrâylia 6.007.055
11
Braxin 418.406
36
Phần Lan 15.687.742
12
Tiểu vương quốc
Arậpthống nhất
7.268.826
37
Pháp 101.316.259
13
Cămpuchia 2.487.548
38
Philippin 584.339
14
Canada 67.900.481
39
CH Séc 3.327.199
15
Đài Loan 56.455.576
40
Xingapo 6.587.306
20
TT
Thị trường Kim ngạch
(USD)
TT
Thị trường Kim ngạch
(USD)
16
Đan Mạch 30.725.278
41
CH Sip 768.282
17
CHLB Đức 152.002.406
42
Slôvakia 1.076.910
18
Extônia 421.399
43
Slôvenhia 446.442
19
Hà Lan 95.466.020
44
Tây Ban Nha 32.078.255
20
Hàn Quốc 101.521.432
45
Thái Lan 3.623.931
21
Hoa Kỳ 1.063.989.680
46
Thổ Nhĩ Kỳ 6.724.027
22
Hong Kong 13.520.066
47
Thuỵ Điển 24.944.156
23
Hungari 2.636.391
48
Thuỵ Sĩ 4.419.832
24
Hy Lạp 12.925.026
49
Trung Quốc 145.632.784
25
Indonesia 1.758.694
50
Ucraina 3.078.303
Tổng USD2,721,208,276
Các thị trường xuất khẩu cho từng nhóm sản phẩm đồ gỗ như sau (từ cao đến thấp):
Bảng 6: Thị trường xuất khẩu đô gỗ Việt Nam
Ghế bọc (khung gỗ) Anh, Đan Mạch, Đức, Úc, Đài Loan, Canada, Hà Lan, Bỉ
Ghế không bọc, làm từ gỗ Đức, Anh, Hà Lan, Bỉ, Úc, Đan Mạch...
Các loại ghế khác Anh, Đức, Đan Mạch, Đài Loan, Pháp...
Các bộ phận của ghế Mỹ, Đài Loan, Malaysia...
Đồ gỗ văn phòng, làm từ gỗ Mỹ, Nhật, Pháp, Anh, Hàn Quốc, Đan Mạch. (hầu hết các
thị trường này không tăng trưởng trong những năm qua)
Nội thất nhà bếp và các đồ gỗ
nhà bếp khác, làm từ gỗ
Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Anh.... (các thị trường Mỹ,
Nhật và Hàn Quốc tăng trưởng nhanh)
Nội thất phòng ngủ, làm từ
gỗ
Mỹ, Nhật, Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc, Úc... (thị trường
Mỹ và Nhật tăng trưởng nhanh, các thị trường khác tăng
trưởng ổn định với tỉ lệ cao)
Nội thất phòng ăn và phòng
khách, làm từ gỗ
Mỹ, Nhật, Pháp, Hà Lan, Anh, Đức, Úc... (thị trường Mỹ
tăng trưởng từ 100-300%/năm, thị trường Nhật cũng tăng ổn
định)
Kim ngạch xuất khẩu mang lại do các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chiếm một phần rất
lớn trong xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam. Hơn một nửa lợi nhuận từ xuất khẩu năm 2006 (1,93
tỉ đô la Mỹ) là từ các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Tỉnh Bình Dương, nơi chiếm khoảng
40% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, hiện nay có 542 doanh nghiệp chế biến gỗ, bao gồm
200 công ty có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư lên tới hơn 700 triệu đô la. Cũng
vậy, dựa vào số liệu thống kê của một công ty tư vấn tại thành phố Hồ Chí Minh chuyên về
21
xúc tiến xuất khẩu đồ gỗ vào thị trường Mỹ, khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt
Nam vào thị trường Mỹ là từ các công ty có vốn đầu tư của Đài Loan và Trung Quốc tại thành
phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai cũng như các nhà buôn khác từ nước thứ ba. Số
liệu thống kê này càng củng cố sự cần thiết phải đảm bảo rằng các công ty này phải hoạt động
ổn định và lâu dài ở Việt Nam.
Từ khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới vào năm 2007, đã có
nhiều nhà đầu tư hơn quan tâm đến công nghiệp chế biến gỗ trong nước và các công ty có vốn
đầu tư nước ngoài cũng có kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Ví dụ một
công ty của Đài Loan đã tăng gấp 4 lần công suất chế biến để có thể xuất khẩu 1.000 công-ten-
nơ mỗi tháng, và mục tiêu xuất khẩu là 60 triệu đô la một năm. Trường hợp mở rộng của công
ty này trông có vẻ tốt nhưng nhìn dưói góc độ tính toán người ta thấy giá trị mỗi công ten nơ
dựa trên những chỉ số này là rất thấp và thực sự không kinh tế đối với Việt Nam cho dù là công
ty nào. Tất cả những gì đáng nói là việc này duy trì việc làm với mức lương rất thấp khi mà cái
cần được cải thiện là giá trị kinh tế cho nền kinh tế Việt Nam chứ không phải là số lượng.
Các mặt hàng đồ gỗ (bao gồm nội ngoại thất) cũng như các ngành xuất khẩu lớn khác như dệt
may, hải sản đều có nguy cơ bị kiện bán phá giá. Mỹ có thể áp mức thuế chống phá giá cho các
mặt hàng đồ gỗ của Việt Nam do giá trị xuất khẩu hàng đồ gỗ vào thị trường Mỹ tăng nhanh
chóng.
6
Mỹ có xu hướng mua đồ nội thất từ Việt Nam nhiều hơn do hiện tại chính sách xuất
khẩu đồ gỗ của Việt Nam thông thoáng hơn. Chính vì vậy, Bộ Công thương yêu cầu các doanh
nghiệp tạm dừng mua đồ nội thất sẵn có từ các nước khác để nhập khẩu lại cho Mỹ, điều này
không chỉ tránh việc vận chuyển trái phép mà còn giúp bảo vệ “uy tín” hàng hoá của Việt Nam
trên thị trường thế giới
7
Một lý do khác khiến hàng đồ gỗ Việt Nam có nguy cơ bị kiện chống phá giá: Hàng đồ gỗ
nhập khẩu vào Mỹ có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất so với các nước khác; các nhà sản xuất đồ gỗ
nước ngoài chuyển đến sản xuất tại Việt Nam để tận dụng các ưu thế cho hàng hoá của họ vì
Việt Nam có giá nhân công rẻ và hàng đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ chỉ
xếp thứ hai, đứng sau Trung Quốc
8
2.4 Triển khai các hoạt động hỗ trợ
Có một số nhân tố thành công thiết yếu quyết định đến tính cạnh tranh trong ngành công
nghiệp gỗ:
2.4.1 Cấp Chính phủ:
6
Bộ Thương mại, Tháng 6, 2005
7
Việt Nam: Vietnam: Anti-dumping duty: Wood products eyed, Thai News Service, Jun 20, 2005
8
HCM City, Hiệp hội Gỗ HCM, Dec 2005
22
• Chính phủ phải gắn bó với ngành, tạo cơ hội phát triển cho ngành và cung cấp một nền
móng mà ở đó có thể triển khai các biện pháp tiếp cận thị trường tiên tiến. Một yếu tố tất
yếu cho sự thành công của ngành công nghiệp chế biến gỗ là các công ty tiến đến càng gần
với người tiêu dùng cuối cùng càng tốt.
• Việc đào tạo phải được thưc hiện ở mọi cấp độ, kỹ năng thủ công, kỹ năng công nghệ, thiết
kế, cải tiến và quản lý marketing.
• Cần phải phát triển nguồn cung cấp gỗ nội địa lâu dài để đảm bảo nguồn nguyên liệu thô
trong thời gian dài cũng như đảm bảo tính bền vững của ngành.
• Cần phải có một đội ngũ cán bộ được lựa chọn/tuyển dụng để dẫn dắt và lãnh đạo ngành
trong quá trình tiếp cận với thị trường thế giới, xây dựng hình ảnh và giá trị tăng trưởng
của ngành.
• Các công ty cần phải được khuyến khích mua vào các sản phẩm cải tiến được marketing và
có thương hiệu của Việt Nam và họ phải được chuẩn bị để đóng góp vào quá trình hoạt
động của ngành.
2.4.2 Cấp độ ngành:
2.4.2.1 Nguyên liệu sẵn có
Hiện tại, 42-49% giá trị xuất khẩu của Việt Nam phải dùng để chi trả cho việc nhập khẩu gỗ và
ván. Đây là tỉ lệ quá cao và đòi hỏi cần có sự quan tân vì sự tồn tại lâu dài của ngành.
Trong khi các nguồn cung cấp nguyên liệu cho thị trường Việt Nam ở các nước lân cận là Lào,
Campuchia đang cạn kiệt. Giá gỗ ở Malaysia, thị trường nguyên liệu lớn nhất của Việt Nam,
đang tăng lên nhanh chóng và các nhà xuất khẩu khác như Nga đã tăng thuế xuất khẩu nguyên
liệu gỗ. Giá nguyên liệu nhập khẩu vào Việt Nam tăng từ 40 đến 100% so với năm 2003.
Ngoài ra, không có một kế hoạch nhập khẩu nguyên liệu hiệu quả. Việt Nam cũng chưa có các
thoả thuận cấp chính phủ nào với các nhà xuất khẩu lớn như Nga, Niu Di Lân và các nước
Nam, Bắc Mỹ.
Theo chương trình “trồng mới 5 triệu hecta rừng”, Việt Nam sẽ có 2 triệu hecta rừng bảo hộ và
3 triệu hecta rừng sản xuất vào năm 2010. Ngành lâm nghiệp Việt Nam sẽ khó để đạt được
mục tiêu này nên khả năng là Việt Nam sẽ vẫn phải nhập khẩu khoảng 75% nguyên liệu gỗ
trong những năm tới. Không có thuế nhập khẩu gỗ ngoại trừ 10% VAT, nhưng sẽ không phải
nộp nếu sản phẩm là để tái sản xuất. Tuy nhiên, chi phí vận chuyển sẽ làm tăng giá gỗ lên
khoảng 60%.
23
Việc cung ứng nguyên liệu gỗ trong nước thì không theo kịp và trong nhiều trường hợp các
cây lấy gỗ không được trồng đủ độ dài để có thể sử dụng. “Cây keo được thu hoạch quá sớm
(6 năm) nên chưa đạt độ trưởng thành và do đó sản lượng không hiệu quả và chi phí thu hoạch
lại cao. Nhà cung cấp được khuyến khích nên để gỗ đạt được đường kính lớn hơn từ 10 đến 12
năm tuổi. Vấn đề là ở chỗ người trồng rừng và chính phủ muốn thu tiền về nhanh và không
muốn chờ đợi. Không có gỗ đường kính lớn thì các sản phẩm chất lượng cao sẽ không thể
được sản xuất tại Việt Nam”
9
Các loại cây lấy gỗ trồng ở Việt Nam hiện nay như bạch đàn uro (bạch đàn urophylla) thường
cho chất lượng thấp trong khi ở các nước khác có điều kiện tương tự như nước ta như quần
đảo Solomon, Nam Phi, Uruguay và Brazil trồng các giống bạch đàn khác là Deglupta, Saligna
and Grandis. Những loại này cho chất lượng gỗ tốt hơn nhiều. Giống cây, loại cây trồng và kỹ
thuật canh tác vẫn là những điểm yếu của ngành lâm nghiệp tại Việt Nam.
Nhu cầu về các loại gỗ có chứng nhận đang ngày càng tăng và sẽ nhanh chóng trở thành tiêu
chuẩn do áp lực từ các nhà bảo vệ môi trường và thực tế ấp lên của trái đất. Tuy nhiên, không
có các khu rừng được chứng nhận ở Việt Nam là được chuyên trồng để lấy gỗ. Chính phủ
đang tiến tới việc chứng nhận rừng quốc gia và có một ý kiến chung là việc khai thác gỗ một
cách bền vững là cách tốt nhất để bảo tồn rừng khỏi nạn khai thác trái phép và cải thiện thực
tiễn quản lý nhưng như vậy các khu rừng tự nhiên sẽ không cho sản lượng cần thiết.
42-49% giá trị xuất khẩu đồ nội thất ngoài trời là chi trả cho nguyên liệu thô. Điều này có
nghĩa là một phần giá trị còn lại rất nhỏ được dành cho nhân công, This leaves very little value
to be distributed to labour, chi phí sản xuất và lợi nhuận. Với một tỉ lệ nguyên liệu thô nhập
cao như vậy, các doanh nghiệp không thể đạt được lợi nhuận cao hay đầu tư vào sự phát triển
bền vững của doanh nghiệp. Hiện trạng này chỉ có thể được cải thiện bằng cách cải tiến tiếp
thị, thiết kế, phát triển sản phẩm và chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt đồng đều. Đây là
nhưng yếu tốt thiết yếu của sự thành công.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hiện đang có 5.300 héc ta rừng giống phục vụ cho
việc tuyển chọn cây giống cho trồng rừng ở trong nước, rừng giống này hiện mới chỉ đủ năng
lực cung cấp giống một số loại cây như keo, bạch đàn, thông, còn các chưa có loại cây rừng có
giá trị cao mà thị trường thế giới ưa chuộng như teak, lát Mehico. Năng lực nhân giống cây
bằng hạt, bằng cấy mô của cả nước hiện chỉ 128 triệu cây giống mỗi năm, chưa thể đáp
ứng nếu các doanh nghiệp ngành lâm nghiệp có nhu cầu sử dụng nhiều cây giống tốt.
Một số công ty chế biến gỗ đã bắt đầu quan tâm và tiến hành trồng rừng nguyên liệu để lấy gỗ
phục vụ sản xuất, tuy nhiên việc đầu tư trồng rừng cũng không dễ, vì vốn đầu tư lớn, vòng
quay vốn lại kéo dài nên ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Ngoài chuyện
trồng rừng, doanh nghiệp còn phải lo chuyện bảo vệ rừng do lâm tặc và hiện trạng phá rừng
làm nương rẫy của dân địa phương.
9
Ý kiến của một nhà nhập khẩu đồ gỗ lớn của Việt Nam
24
Nhu cần gỗ có nguồn gốc xuất xứ hợp pháp ngày càng tăng và sớm trở thành nhu cầu bắt buộc
của các quốc gia nhập khẩu để chống lại tình trạng phá rừng bất hợp pháp – là một trong
những nguyên nhân làm biến đổi khí hậu toàn cầu. Gần đây, cộng đồng Châu Âu đã chuẩn y
Hiệp định “Tăng cường thực thi Luật Lâm nghiệp, quản trị rừng và buôn bán gỗ” (FLEGT)
nhằm đưa ra các biện pháp phối hợp giữa người sản xuất và người tiêu thụ để thúc đẩy thương
mại các nguồn gỗ hợp pháp, đồng thời loại bỏ các nguồn gỗ bất hợp pháp trong các hoạt động
thương mại với EU. Mỹ cũng đã chuẩn y đạo luật Lacey nhằm thắt chặt hơn việc kiểm soát
nguồn gốc sản phẩm gỗ. Căn cứ đạo luật này, hành động lấy gỗ, khai thác, sở hữu, vận chuyển,
bán hoặc xuất khẩu không tuân thủ quy định của luật pháp ở bất cứ quốc gia nào cũng được
xem là vi phạm tại Mỹ. Khi xuất khẩu vào Mỹ, nhiều khả năng những nhà sản xuất, xuất khẩu
và bán lẻ đồ gỗ có nguồn gốc đáng nghi ngờ có thể bị chính phủ nước này tịch thu hàng, phạt
tiền hoặc thậm chí bị bỏ tù theo luật mới sửa đổi của Mỹ.
Nguồn gỗ có nguồn gốc xuất xứ được phê chuẩn bởi FSC đáp ứng được các yêu cầu luật pháp
về xã hội và môi trường hứa hẹn một tiềm năng rất tốt để thâm nhập vào các thị trường nước
ngoài, không chỉ hiện tại mà còn trong tương lai lâu dài. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có nguồn
gỗ sản xuất trong nước được cấp chứng chỉ này (ngoại trừ một công ty liên doanh của Nhật
Bản trồng rừng để sản xuất nguyên liệu giấy. Chính phủ Việt Nam đang xúc tiến xây dựng bộ
tiêu chuẩn mang tính quốc gia, phù hợp với các thông lệ quốc tế (FSC) để cấp các chứng chỉ
quản lý rừng cho các đơn vị trồng rừng của Việt Nam, tuy nhiên hiện tại bộ tiêu chuẩn của
Việt Nam vẫn chưa được phê chuẩn ở cấp quốc gia, và vẫn còn một số sự khác biệt trong bộ
tiêu chuẩn của Việt Nam và bộ tiêu chuẩn của FSC được thừa nhận..
2.4.2.2 Phát triển nhóm và các ngành công nghiệp phụ trợ
Ngành công nghiệp chế biến gỗ hiện nay đang đối mặt với một vấn đề phổ biến là thiếu các
ngành công nghiệp phụ trợ. Mặc dù có sự tăng trưởng ấn tượngt trong những năm gần đây
nhưng ngành công nghiệp chế biến gỗ tại Việt Nam không phát triển hài hoà với các ngành
công nghiệp liên quan sản xuất các vật liệu, phụ kiện cho các sản phẩm gỗ. Các phụ kiện và
vật liệu phụ chiếm từ 5-10% (đôi khi lên tới 15-19% - trường hợp của công ty Forexco,
15-25% trường hợp của công ty Savimex) trong giá trị sản phẩm (nhưng theo báo cáo của
một số công ty thì ở Trung Quốc nguyên liệu phụ chỉ chiếm 3-5% ).
Hầu hết các phần kim loại của sản phẩm đồ gỗ đều được nhập khẩu, thậm chí cả khi đã có
một số nhà máy sản xuất ở phía Nam. Các nguyên liệu khác như pôliurêtan (PU), chất dính,
sợi, da, vv... đều đang được phân phối bởi các công ty thương mại trung gian, những công ty
này cũng nhập khẩu nguyên liệu từ các nước khác nhau. Sơn PU và keo dính gỗ là hai sản
phẩm được tiêu thụ khá nhiều bởi cả các nhà sản xuất đồ nội thất trong nhà và ngoài trời.
Chúng được nhập về từ Akzo Nobel (Hà Lan), Jowat (Đức), Kony Bond (Nhật Bản) và một số
nhà sản xuất khác tại địa phưong như Inchem (Malaysia), Duy Hoàng... Các phụ liệu ngành
gỗ không những giá cao, chất lượng thấp và đôi khi khó đựơc giao hàng đúng hẹn. Ví dụ riêng
việc cung cấp nguyên liệu dệt cũng gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp chế biến và
xuất khẩu đồ gỗ. Ví dụ, một doanh nghiệp dệt đồng ý sản xuất lớp bọc theo màu sắc và kiểu
25