Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.14 KB, 92 trang )

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm qua, cơ cấu ngành kinh tế của nước ta đã chuyển
dịch mạnh theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố, cụ thể: cơ cấu ngành
công nghiệp – xây dựng năm 2000 là 36,77% tăng lên 41,52% năm 2006. Đạt
được kết quả đó có sự đóng góp một phần của ngành CNCBTP, ngành luôn
chiếm tỷ trọng trên 20% giá trị ngành công nghiệp – xây dựng.1
So với các ngành công nghiệp khác, CNCBTP nước ta là ngành có
truyền thống lâu đời nhưng sự phát triển của ngành còn này rất chậm, chưa
tương xứng với tiềm năng của đất nước và tầm quan trọng của ngành trong
nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, sự đóng góp của ngành vào sự phát triển
kinh tế đất nước và cải thiện nhu cầu thực phẩm cho nhân dân là khơng
nhỏ, có thể kể đến đó là việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu nói
chung, kim ngạch xuất khẩu nơng sản nói riêng (mặc dù chỉ dừng lại ở việc
sơ chế) cụ thể: xuất khẩu gạo, cà phê và hạt điều đứng thế hai thế giới; hạt
tiêu đứng thứ nhất thế giới,..Bên cạnh những thành quả của ngành chế biến
nông sản, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển còn khá khiêm
tốn so với tiềm năng của đất nước. Lý do thì có nhiều, song tựu trung lại
bao gồm: liên kết lỏng lẻo từ khâu sản xuất thu gom đến giết mổ, chế biến;
cơng nghệ sản xuất lạc hậu; máy móc thiết bị lỗi thời; đầu tư vào lĩnh vực
này còn nhiều bất cập, hạn chế; giết mổ, chế biến nhỏ lẻ, phân tán; đầu vào
có chất lượng khơng cao, thiếu ổn định. Một lý do không thể không kể đến
là tập tục tự giết mổ, chế biến các sản phẩm chăn nuôi tận dụng phục vụ
cho tiêu dùng của của gia đình còn phổ biến. Trước khi dịch cúm gia cầm

1

TCTK (2006), Niên giám thống kê, Nxb Thống Kê, Hà Nội.



xảy ra, cả nước có 28 cơ sở lớn chế biến thịt, nhưng chủ yếu mới chỉ dừng lại
ở chế biến thịt lợn, thịt bò, còn chế biến gia cầm thì chưa đáng kể.2
Là nước nơng nghiệp, hàng năm, Việt Nam sản xuất ra khối lượng
nông sản rất lớn. Tuy nhiên, đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là
sản phẩm tươi sống, khó bảo quản, dễ hư hỏng, tính mùa vụ cao, vì vậy, tình
trạng thất thốt sau thu hoạch là rất đáng kể (lúa: dao động trong khoảng 12%
đến 20%; rau quả trung bình 20%) 3, sản phẩm tiêu hao nhiều, chất lượng suy
giảm do thiếu công cụ bảo quản, chế biến. Đối với chăn nuôi, do tập qn
chăn ni phân tán, nhỏ lẻ cùng với tình trạng giết mổ, chế biến thủ công, thô
sơ, tràn lan, nên khi có dịch bệnh xảy ra, một mặt chúng ta khơng kiểm sốt
chặt chẽ được nguồn lây bệnh và cơng tác vệ sinh an tồn thực phẩm. Mặt
khác, do tâm lý e ngại bệnh tật, khơng có cơng nghiệp chế biến mà thị trường
sản phẩm này gần như đóng băng cịn người chăn ni thì điêu đứng. Hơn
nữa, Nhà nước phải chi ra lượng tiền hàng ngàn tỷ đồng để phịng và chống
dịch nhằm đảm tính mạng cho con người và khơi phục lại tình trạng sản xuất.
Mặc dù, hàng năm ngành chăn nuôi nước ta sản xuất ra tổng sản lượng
thịt hơi xuất chuồng lớn (năm 2006 đạt 3,1 triệu tấn) 4, song tỷ lệ qua chế biến
mới đạt khoảng 8%. Đây là con số rất thấp, phản ánh thực trạng công nghiệp
chế biến thực phẩm của nước ta còn rất sơ khai, cũng như tập quán tiêu dùng
của người dân về thực phẩm tươi sống còn phát triển.
Với dân số trên 84 triệu người, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình
khoảng 7,5%/năm trong những năm qua, làm cho nhu cầu vật chất và tinh
thần của mỗi người dân Việt Nam từng bước được nâng lên cả về số và chất
lượng, nhất là các sản phẩm sạch, các sản phẩm qua chế biến thậm chí qua
chế biến nhiều lần, đạt trình độ tinh tế cao. Hơn thế nữa, do yêu cầu sản xuất,
do đòi hỏi của nhịp độ sản xuất công nghiệp thời gian dành cho nội trợ, tự chế
Nguyễn Anh Tuấn (2006), “Đổi mới ngành giết mổ, chế biến gia cầm theo hướng tập trung, hiện đại”, Tạp
chí NN & PTNT, Kỳ 1-Tháng 6, trang 8.
3 Hồng Thị Tuyết (2004), “Thực trạng Cơng nghệ Sau thu hoạch ở Việt Nam”, Tạp chí NN & PTNT, (Số 2),
trang 161.

4 TCTK, Thơng cáo báo chí về sớ liệu thống kê kinh tế – xã hội 2006.
2


biến thực phẩm cũng giảm đi. Những tác động này làm thay đổi dần tập quán
và cơ cấu tiêu dùng nên nhu cầu về các sản phẩm thực phẩm chế biến sẵn trở
nên thiết yếu.
Việt Nam đã là thành viên của WTO, hàng hố nói chung, thực phẩm
chế biến nói riêng với giá rẻ, chất lượng cao, đa dạng về chủng loại đảm bảo
về vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ tràn vào nước ta gây khơng ít khó khăn cho
ngành cơng nghiệp cịn yếu ớt này. Vì thế, khiến cho chúng ta dễ “thua ngay
trên sân nhà” chứ chưa nói đến “chiến thắng trên sân người“ nếu như chúng ta
khơng có chiến lược phát triển và đầu tư thích hợp.
Nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của nước ta sử
dụng những nguồn lực quý giá có hiệu quả nhất, tận dụng được cơ hội, vượt
qua thách thức, phát triển nhanh, mạnh và vững chắc thì việc vạch hướng đi
cho ngành là địi hỏi tất yếu. Chính vì lẽ đó, việc chọn đề tài nghiên cứu “Lựa
chọn phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO” là việc làm cần thiết,
cấp bách, xuất phát từ địi hỏi thực tế khách quan của ngành.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Mợt Là, xác định vị trí, vai trị của ngành cơng nghiệp chế biến thực
phẩm;
Hai là, xác định thực trạng năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp chế
biến thực phẩm của Việt Nam; và
Ba là, đề xuất phương án chiến lược và khuyến nghị các điều kiện để
thực hiện phương án đó.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý thuyết và thực

tiễn về phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu


Phạm vi nghiên cứu là lĩnh vực chế biến sản phẩm từ thịt (thịt lợn, thịt
bò và thịt gia cầm) của Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau: phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp duy vật lịch
sử; phương pháp thống kê; phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp so
sánh tổng hợp.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Sự cần thiết lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành
công nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam.
Chương 2: Đánh giá thực trạng ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
của Việt Nam.
Chương 3: Phương án chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế
biến thực phẩm của Việt Nam.

CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN NGÀNH CƠNG NGHIỆP CHẾ BIẾN
THỰC PHẨM CỦA VIỆT NAM
1.1 VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA NGÀNH CƠNG NGHIỆP CHẾ BIẾN
THỰC PHẨM TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
1.1.1 Khái niệm và phân loại ngành công nghiệp chế biến thực phẩm



Công nghiệp chế biến thực phẩm là một bộ phận của ngành công
nghiệp, sử dụng phần lớn nguyên liệu do nông nghiệp cung cấp để chế biến
thành những sản phẩm cơng nghiệp có giá trị 5.
Trong Hệ thống Tài khoản Quốc gia, phân loại toàn bộ hoạt động sản
xuất ra làm ba nhóm ngành lớn: cơng nghiệp khai thác; cơng nghiệp chế biến;
và những ngành dịch vụ (sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước) 6. Trong
đó, CNCBTP là phân ngành của ngành CNCB.
Công nghiệp chế biến thực phẩm rất đa dạng về ngành nghề, sản phẩm,
về quy trình công nghệ, mức độ chế biến,..Căn cứ vào sự giống nhau về công
dụng cụ thể của sản phẩm cũng như nguyên liệu chế biến thì CNCBTP bao
gồm các ngành kinh tế – kỹ thuật sau:
+ Ngành chế biến lương thực: xay sát, sản xuất mì ăn liền, làm bánh,
bún;
+ Ngành chế biến thuỷ sản;
+ Ngành chế biến thịt, sữa và các sản phẩm từ thịt, sữa;
+ Ngành chế biến nước giải khát: bia, nước ngọt, nước khoáng, chè,..;
+ Ngành chế biến đường, bánh kẹo;
+ Đồ hộp rau, quả; và
+ Ngành chế biến dầu ăn, các loại nước chấm, các loại gia vị 7.
1.1.2 Vị trí của ngành cơng nghiệp chế biến thực phẩm
Cơng nghiệp có vị trí trọng yếu trong phát triển kinh tế của các quốc
gia. Do vậy, ngành này ln được các Chính phủ quan tâm đầu tư thích đáng.
Đối với nước ta, trong q trình phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước xác
định công nghiệp là ngành chủ đạo, phát triển công nghiệp sẽ tạo điều kiện
thúc đẩy các ngành khác phát triển. Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và X
của Đảng, trong “Chiến lược phát triển cơng nghiệp đến năm 2010, tầm nhìn
5

Ngơ Đình Giao (1998), Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, trang


5.
Lê Xuân Hoa (1997), Phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong Hệ thống Tài khoản Quốc gia
Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà nội, trang 28.
7 Ngơ Đình Giao (1998), Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, trang 10.
6


2020” và “Kế hoạch phát triển ngành công nghiệp 5 năm 2006 – 2010” đã
nêu rõ ngành công nghiệp nước ta tiếp tục giữ vai trò động lực, quyết định
trong phát triển kinh tế và “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”. Trên cơ sở quan điểm và mục tiêu đó,
ngành cơng nghiệp định hướng phát triển theo ba nhóm, đó là: nhóm ngành
cơng nghiệp đang có lợi thế cạnh tranh; nhóm ngành cơng nghiệp sản xuất tư
liệu sản xuất; và nhóm ngành cơng nghiệp tiềm năng. Như vậy, theo quan
điểm đó ngành CNCBTP nước ta được xếp vào nhóm ngành đang có lợi thế
cạnh tranh và cần được ưu tiên, hỗ trợ phát triển. Đồng thời, để tạo bước nhảy
vọt cho ngành công nghiệp, trên cơ sở các ngành công nghiệp đang có lợi thế
so sánh, cần có những chính sách phát triển phù hợp cho những ngành có hiệu
quả, trong đó có ngành CNCBTP, để ngành này trở thành ngành cơng nghiệp
trọng điểm, bởi vì: (i) CNCBTP là ngành thu hút nhiều lao động, tạo thêm
công ăn việc làm ở nơng thơn và thành thị. Nhờ đó, thu nhập của người lao
động tăng lên, cầu có khả năng thanh tốn cũng tăng theo, trong đó có cầu về
lương thực, thực phẩm. Điều này lại có tác động thúc đẩy sản xuất phát triển
mạnh hơn để có thu nhập quốc dân cao hơn; (ii) trong điều kiện nền kinh tế
nước ta cịn nghèo và kém phát triển, tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp, vốn
cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và đẩy mạnh CNH – HĐH cịn thiếu
thì vấn đề phát triển các ngành nơng, lâm, thuỷ sản, phát triển mạnh ngành
CNCBTP cả về số lượng, chủng loại và chất lượng xuất khẩu có ý nghĩa to
lớn trong việc tăng tích luỹ cho nền kinh tế; và (iii) sự phát triển của ngành

CNCBTP khơng địi hỏi lượng vốn lớn như các ngành công nghiệp nặng,
song lại sớm đem lại kết quả và hiệu quả kinh tế – xã hội. Chính vì vậy, trong
chương trình phát triển kinh tế xã hội trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta đã coi trọng phát triển lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu là ba chương trình kinh tế lớn. Định hướng phát triển ba
chương trình này cũng là định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả
trong thời kỳ đổi mới kinh tế hiện nay. Đồng thời, Việt Nam có khả năng có


khả năng phát triển ngành CNCBTP thành ngành trọng điểm vì: (i) nước ta là
nước nơng nghiệp với khoảng gần 75% dân số sống ở nông thôn, hơn 55% lao
động xã hội làm việc ở khu vực nông nghiệp8, nguồn lao động dồi dào, phong
phú, chi phí lao động rẻ, trình độ văn hố của nhân dân được xếp vào loại khá
trong khu vực. Đây là điều kiện có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển
ngành CNCBTP cả ở thành thị và nông thôn, đặc biệt là nông thôn; (ii) tiềm
năng của nguồn nguyên liệu cho việc phát triển mạnh CNCBTP khá lớn. Nếu
tổ chức tốt, đầu tư thích đáng và có chính sách khuyến khích hợp lý cho phát
triển tập trung các vùng nguyên liệu, khuyến khích các thành phần kinh tế
phát triển thì sẽ đảm bảo cung cấp đầy đủ số lượng, đáp ứng tốt về chất lượng
nguyên liệu cho nhu cầu phát triển mạnh CNCBTP trong nước và xuất khẩu;
và (iii) các nước trong khu vực và thế giới đang có nhu cầu lớn về số lượng và
đòi hỏi chất lượng cao đối với thực phẩm chế biến, đặc biệt là trong thời điểm
dịch cúm ở gia cầm và virut ở gia súc đang bùng phát mạnh hiện nay, điều
này vừa là thách thức, song cũng là cơ hội nếu chúng ta khống chế và tiến tới
dập tắt được dịch để có điều kiện thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
1.1.3 Vai trị của ngành cơng nghiệp chế biến thực phẩm
Sự phát triển của CNCBTP có vai trị rất quan trọng khơng chỉ với bản
thân ngành công nghiệp mà đặc biệt đối với phát triển của nông nghiệp, nông
thôn: thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, hình
thành các vùng thâm canh, sản xuất tập trung, chuyển dịch cơ cấu nông

nghiệp, nông thôn và tạo điều kiện quan trọng cho thúc đẩy CNH – HĐH
nông nghiệp nông thôn. Thông qua chế biến, giá trị của sản phẩm nơng
nghiệp tăng lên gấp nhiều lần. Theo tính tốn của các chuyên gia trong ngành,
sau khi tinh chế, giá trị của nơng sản có thể tăng từ 4 đến 10 lần so với giá trị
trước khi chế biến9. Mặt khác, qua chế biến, từ một sản phẩm nơng nghiệp, có
thể tạo ra nhiều loại sản phẩm rất khác nhau, thậm chí tạo ra những đặc tính
TCTK, Thơng cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế – xã hội 2006.
Ngơ Đình Giao (1998), Cơng nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam Tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, trang
18.
8
9


mới, những giá trị sử dụng mới cho sản phẩm nơng nghiệp, từ đó đáp ứng
được nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân và là nguồn xuất khẩu quan trọng,
đẩy mạnh giao lưu hàng hố với các nước, đóng góp khơng nhỏ cho ngân
sách Nhà nước.
Phát triển CNCBTP góp phần rất quan trọng vào việc giải quyết vấn đề
việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn, đặc biệt là qua việc phát triển
hệ thống các cơ sở chế biến ngay tại nơng thơn. Từ đó, làm tăng thu nhập cho
dân cư. Ở khía cạnh khác, chính CNCBTP tạo ra khả năng mở rộng thị trường
tiêu thụ, làm giảm sự phụ thuộc của yếu tố thời gian, thời vụ và khoảng cách
đối với tiêu dùng các sản phẩm nơng nghiệp. Sự phát triển của CNCBTP cịn
làm tăng nhu cầu về sản phẩm nơng nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho nông
nghiệp phát triển mạnh mẽ hơn.
Phát triển CNCBTP góp phần nâng cao tiềm lực của nền kinh tế, tạo ra
cơ cấu kinh tế có khả năng cạnh tranh cao hơn do phát huy được lợi thế so
sánh của đất nước.
Phát triển CNCBTP góp phần vào phát triển nền công nghiệp sạch và
bền vững: trước yêu cầu của việc sản xuất tập trung, thâm canh, công tác quy

hoạch sẽ tránh được việc phân tán, manh mún trong chăn nuôi, giết mổ, chế
biến như hiện nay, hình thành nên các khu vực sản xuất tập trung, khép kín
giúp cho việc sử dụng hiệu quả sản phẩm phụ, xử lý triệt để ơ nhiễm mơi
trường.
Đối với những nước có trình độ phát triển kinh tế cịn thấp, phát triển
CNCBTP có ý nghĩa rất to lớn trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ những
ngành kém hiệu quả hơn sang ngành có hiệu quả cao hơn.
CNCBTP chiếm tỷ trọng về giá trị sản xuất khá cao trong ngành công
nghiệp, khoảng 25% đối với các nước đang phát triển; từ 10% đến 15% ở các
nước phát triển, còn ở nước ta năm 1998 là 24,5%10, năm 2005 là 20,95%.
Trương Đoàn Thể (2000), Đổi mới công tác quản lý chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp CBTP
ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, ĐH KTQD, Hà Nội, trang 61.
10


1.2 YÊU CẦU LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN CHIẾN LƯỢC PHÁT
TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM CỦA VIỆT
NAM
1.2.1 Quan niệm về chiến lược phát triển ngành
Chiến lược phát triển là hệ thống các phân tích, đánh giá và lựa chọn về
quan điểm, mục tiêu tổng quát định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu của
đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản trong đó bao gồm các chính sách về
cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế – xã hội nhằm thực hiện mục tiêu
đặt ra trong khoảng thời gian dài11.
Chiến lược công nghiệp là một kế hoạch tổng thể dài hạn nhằm đạt
được mục tiêu phát triển cơng nghiệp có khả năng cạnh tranh trên quy mơ
tồn cầu, là định hướng và cách thức phát triển cơng nghiệp mang tính tồn
cục, làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, định hướng xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển trung và ngắn hạn nền kinh tế – xã hội của quốc
gia12.

Chiến lược phát triển cơng nghiệp giữ vị trí trọng yếu trong chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội, vì cơng nghiệp giữ vai trị chủ đạo trong cơ cấu
kinh tế. Nó xác định tầm nhìn của một quá trình phát triển dài hạn, với sự nhất
quán về con đường và các giải pháp cơ bản để thực hiện.
Hiện nay, thuật ngữ cạnh tranh đang được sử dụng một cách khá phổ
biến. Cạnh tranh có thể được hiểu một cách khá đơn giản là sự đấu tranh giữa
các nhà sản xuất, các doanh nghiệp, các tổ chức,..nhằm dành điều kiện sản
xuất và tiêu thụ có lợi hơn, đó là cuộc đấu tranh nhằm thu được lợi nhuận.
Cần có cạnh tranh, vì: (i) cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải
thường xuyên vươn lên về mọi phương diện trong kinh doanh, đồng thời nó
cũng làm phá sản các doanh nghiệp có phương thức làm ăn kém hiệu quả; và
(ii) cạnh tranh có tính huỷ diệt, với một nghĩa nào đó nó như quy luật tiến hố
Ngơ Thắng Lợi (Chủ biên-2006), Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Thống kê, Hà
Nội, tr. 61-62.
12 Lê Thế Giới, Xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp nhằm đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH ở Việt
Nam, trang 1.
11


của tự nhiên là loại thải những thành viên yếu kém khỏi thị trường, duy trì và
phát triển những thành viên tốt. Qua đó, hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát
triển tồn xã hội.
Sau nhiều năm khởi xướng xây dựng cơ chế thị trường và thực thi
chính sách cạnh tranh, ngày 03 tháng 12 năm 2004, Quốc hội Việt Nam mới
thơng qua Luật Cạnh tranh. Luật này có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2005.
Theo quan điểm truyền thống, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung
cạnh tranh bị coi như hiện tượng xấu xa, thiếu đạo đức, “cá lớn nuốt cá bé“,
là nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như: gây
khủng hoảng kinh tế, nhiều người bị thất nghiệp,..Một số phương tiện thông
tin đại chúng nhiều khi không khách quan, đã gán cho cạnh trạnh cả những

“tội lỗi“ mà khơng phải nó trực tiếp gây ra như: lừa đảo, hối lộ hoặc đưa ra
những thông tin không đúng sự thật làm giảm sức cạnh tranh của một sản
phẩm, một làng nghề. Bên cạnh đó, sự thiếu minh bạch trong thơng tin và
những quyết định của một vài cơ quan, cũng như hành vi của một số cơng
chức cịn mang nặng phân biệt đối xử, chẳng hạn trong phân bổ quota, đăng
ký kinh doanh,..đã làm hạn chế cạnh tranh, bóp méo các quan hệ cạnh tranh
trên thị trường13.
Từ khi nền kinh tế hội nhập với khu vực và quốc tế, khái niệm cạnh
tranh đã được nhìn nhận theo hướng tích cực hơn, cả Nhà nước lẫn doanh
nghiệp đã nhận rõ vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế, đặc biệt là trong
quá trình hội nhập. Những chức năng tích cực của cạnh tranh, như: thúc đẩy
đổi mới, phân bổ nguồn lực, chọn lọc, phân phối lại,.. đã dần được thừa nhận.
Sự chuyển biến này đã tác động tích cực đến chất lượng hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp cũng như nhiều chính sách của Nhà nước, hỗ trợ bước
đầu cho việc hình thành một mơi trường cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam.
Về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp: một doanh nghiệp được
coi là có năng lực cạnh tranh tốt khi nó đạt được các kết quả tốt hơn mức
Nguyễn Viết Tý (chủ biên, 2006), Giáo trình Luật thương mại Tập I, Trường ĐH Luật HN, Nxb Công An
nhân dân, Hà Nội, trang 339-340.
13


trung bình. Như vậy, đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh là khả năng
cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hiệu qủa hơn so với các đối thủ cạnh
tranh14. Một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh và có thể đứng vững trên
thị trường khi nó có mức giá thấp hơn sản phẩm tương tự với chất lượng
ngang bằng hoặc cao hơn. Theo lý thuyết thương mại truyền thống, năng lực
cạnh tranh được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất
lao động. Còn M.Porter cho rằng, năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả
năng khai thác các năng lực độc đáo của mình để tạo ra sản phẩm có giá thành

thấp và sự dị biệt sản phẩm. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh
nghiệp cần phải xác định lợi thế cạnh tranh của mình. Lợi thế cạnh tranh được
hiểu là những lợi thế mà sản phẩm có hoặc có thể huy động để chiến thắng
trong cạnh tranh. Thơng thường, việc xác định khả năng cạnh tranh của sản
phẩm dựa vào bốn tiêu chí: (i) tính cạnh tranh về chất lượng và mức độ đa
dạng hoá sản phẩm; (ii) tính cạnh tranh về giá cả; (iii) khả năng thâm nhập thị
trường mới; và (iv) khả năng khuyến mãi, lôi kéo khách hàng và phương thức
kinh doanh15.
Về năng lực cạnh tranh ngành: đối với ngành, năng lực cạnh tranh là
khả năng đạt được những thành tích bền vững của các doanh nghiệp (của
quốc gia) trong ngành so với các đối thủ nước ngồi, mà khơng dựa vào sự
bảo hộ hoặc trợ cấp. Năng lực cạnh tranh ngành được đánh giá thông qua khả
năng sinh lời của các doanh nghiệp trong ngành, cán cân ngoại thương ngành,
cán cân đầu tư nước ngồi và những thước đo trực tiếp về chi phí và chất
lượng ở cấp ngành16.
1.2.2 Yêu cầu lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành công
nghiệp chế biến thực phẩm của Việt Nam
Bùi Đức Tuân (2006), “Phân tích năng lực cạnh tranh ngành: tiếp cận thơng qua mơ hình kim cương”, Tạp
chí Kinh tế và Phát triển, trường ĐH KTQD, (Số 10), trang 57.
15 Nguyễn Trần Quế, Nghiên cứu phương pháp phản ánh và phân tích về năng lực cạnh tranh, Viện Kinh tế
và Chính trị Thế giới, trang 1.
16 Bùi Đức Tuân (2006), “Phân tích năng lực cạnh tranh ngành: tiếp cận thơng qua mơ hình kim cương”, Tạp
chí Kinh tế và Phát triển, trường ĐH KTQD, (Số 10), trang 57.
14


Mợt là, sản phẩm nơng nghiệp là ngun liệu chính của CNCBTP. Việt
Nam là nước nông nghiệp, hàng năm, chúng ta sản xuất ra khối lượng nông
sản thực phẩm rất lớn (năm 2006 sản lượng lương thực có hạt khoảng 39,65
triệu tấn, tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 3,1 triệu tấn)17. Mặc dù vậy,

do đặc điểm của nông phẩm là: sản phẩm tươi sống, khó bảo quản, dễ hư
hỏng, mang tính mùa vụ cao, giảm chất lượng nếu khơng được bảo quản và
chế biến kịp thời. Do đó, phát triển CNCBTP sẽ tạo điều kiện nâng cao chất
lượng và giá trị sản phẩm, đồng thời, thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo
hướng sản xuất hàng hoá và thúc đẩy CNH – HĐH đất nước;
Hai là, sự phát triển của CNCBTP sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày
càng tăng cũng như nhu cầu mới phát sinh của dân cư, đặc biệt là những sản
phẩm có chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm;
Ba là, hiện nay, phương thức chăn nuôi, giết mổ nhỏ lẻ phân tán ở các
gia đình, các chợ, hè phố,.. chiếm tỷ lệ rất cao. Đây là nguyên nhân gây ô
nhiễm môi trường, không đảm bảo VSATTP, giễ phát sinh dịch bệnh, đồng
thời gây khó khăn cho cơng tác phịng chống dịch. Thực tế thấy rằng, khi dịch
cúm gia cầm xảy ra (từ năm 2003) và sau đó là dịch LMLM ở gia súc, do
CNCBTP nước ta còn quá sơ sài, lạc hậu đã làm cho thị trường thực phẩm
chế biến bị đóng băng, cịn người chăn ni thì điêu đứng;
Bớn là, sự phát triển của CNCBTP góp phần đáng kể vào việc đẩy
mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế so sánh của đất nước, tăng nguồn thu ngoại
tệ, khả năng sản xuất phục vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố;
Năm là, phát triển CNCBTP mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao, có
những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Sự phát
triển đó khơng chỉ đem lại hiệu quả cao cho chính bản thân ngành mà còn
thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành có liên quan. Đặc
biệt, điểm nhấn mạnh ở đây là CNCBTP khơng địi hỏi vốn đầu tư lớn, khơng

17

TCTK, Thơng cáo báo chí về sớ liệu thống kê kinh tế – xã hội 2006.


địi hỏi cơng nghệ phức tạp nhưng có khả năng thu hút được nhiều lao động

và tạo ra tích luỹ lớn;
Sáu là, Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, thuận lợi thì
nhiều, song cũng khơng thể tránh được những thách thức, có thể kể đến như:
hàng hố của các nước phát triển hơn ta có chất lượng, giá rẻ, đa dạng chủng
loại, đảm bảo VSATTP sẽ tràn vào khi hàng rào bảo hộ từng bước được dỡ bỏ
(chúng ta gần như phải mở cửa ngay mọi thị trường với mức thuế nhập khẩu
giảm còn dưới 15%)18. Trong khi đó, ngành CNCBTP nước ta với máy móc,
thiết bị cịn thơ sơ, cơng nghệ lạc hậu, cơng suất nhỏ, phát triển manh mún, tự
phát, khơng có quy hoạch, cùng với đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý doanh
nghiệp cịn thờ ơ, chậm “hồ nhập” với dịng chảy của thị trường, chưa đáp
được yêu cầu của hội nhập. Ngoài ra, việc quan tâm đầu tư của Nhà nước vào
ngành cịn chưa được trú trọng đúng mức. Do đó, giá thành sản phẩm cao,
chất lượng không đảm bảo, VSATTP chưa đáp ứng được yêu cầu của hội
nhập, làm cho hàng hoá thiếu khả năng cạnh tranh;
Bảy là, theo dự báo của các nhà khoa học dinh dưỡng thì, tương lai của
ngành CNCBTP sẽ “biến thực phẩm thành dược phẩm”19. Chế biến các món
ăn phù hợp với bộ gien dinh dưỡng của con người, để từ đó ngăn ngừa hoặc
trì hỗn sự khởi đầu của một số căn bệnh có thể xảy ra; và
Tám là, CNCBTP châu Á sẽ tăng trưởng 12% đến 15%/năm trong 5
năm tới, song hành cùng với tốc độ CNH – HĐH và đơ thị hố nhanh chóng
trên tồn cầu, thói quen tiêu dùng của người dân châu Á cũng thay đổi, đòi
hỏi ngày càng cao của VSATTP 20. Vì vậy, các nhà sản xuất và chế biến thực
phẩm đang tập trung sản xuất ra những loại sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu
“tiện ích” của người tiêu dùng và như vậy các hãng chế biến, đóng gói khắp
khu vực, khơng loại trừ Việt Nam, ngày càng phải quan tâm nâng cao công
nghiệp chế biến hơn nữa.
Bộ Thương mại.
/>20 />18
19



Như vậy, từ nội dung phân tích trên đây, ta thấy rằng đối với Việt Nam,
việc lựa chọn phương án chiến lược phát triển ngành CNCBTP là vấn đề quan
trọng góp phần thực hiện CNH – HĐH đất nước nhanh, bền vững và có hiệu
quả.
1.3 CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ CƠNG CỤ LỰA CHỌN CHIẾN
LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH
Hiện nay, để đánh giá năng lực cạnh tranh ngành, có nhiều mơ hình
được áp dụng để phân tích như: mơ hình SWOT, mơ hình “kim cương“, mơ
hình PEST. Luận văn sử dụng mơ hình “kim cương“ và mơ hình SWOT làm
cơng cụ lý thuyết để phân tích.
1.3.1 Mơ hình “kim cương” – cơng cụ phân tích thực trạng năng lực
cạnh tranh ngành
Mơ hình “kim cương“ được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1990. Mơ
hình này là một trong những phương pháp mới và phù hợp cho việc tiếp cận
năng lực cạnh tranh của một ngành cụ thể.
Sự gia tăng mức sống và thịnh vượng của mỗi quốc gia phụ thuộc vào
khả năng đổi mới, khả năng tiếp cận nguồn vốn và hiệu ứng lan truyền của
cơng nghệ của nền kinh tế. Nói tổng quát hơn, cạnh tranh của một quốc gia
phụ thuộc vào sức cạnh tranh của các ngành trong ngành kinh tế. Sức cạnh
tranh của một ngành lại xuất phát từ năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong ngành: khả năng đổi mới công nghệ, sản phẩm, cung cách quản
lý của ngành và môi trường kinh doanh. Các đầu vào quan trọng đối với sản
xuất của nền kinh tế không chỉ đơn thuần là lao động, vốn, tài nguyên thiên
nhiên mà cịn là những đầu vào do chính doanh nghiệp hoặc Chính phủ tạo ra.
Sơ đồ 1.1: Mơ hình “kim cương“

Chính phủ

Chiến lược doanh nghiệp,

cơ cấu và sự cạnh tranh


Nhu cầu trong nước

Các yếu tố đầu vào

Các ngành công nghiệp phụ trợ

Nguồn: M. PORTER (1990), The Competitive Advantage of Nation,
Macmillan.
1.3.1.1 Phân tích đầu vào
Dựa theo lý thuyết kinh tế truyền thống (lao động, đất đai, tài nguyên
thiên nhiên, tư bản, hạ tầng kỹ thuật) để xác định hoạt động sản xuất kinh
doanh của một quốc gia đơn lẻ. Theo Porter, điều quan trọng không phải là
các yếu tố sản xuất mà quốc gia được thừa hưởng mà là những yếu tố nào có
thể tạo ra trong thời gian ngắn và triển khai có hiệu quả.
Ngun liệu: sản xuất khơng thể tiến hành được nếu khơng có ngun
liệu, nguồn ngun liệu ổn định về số lượng, chất lượng và giá cả hợp lý tạo
điều kiện cho hoạt động sản xuất diễn ra bình, do đó nó là yếu tố đầu vào
quan trọng luôn được các nhà sản xuất quan tâm.
Lao động: nguồn lao động và lực lượng lao động là những khái niệm có
ý nghĩa quan trọng làm cơ sở cho việc tính tốn cân đối lao động – việc làm
xã hội. Trong đó, nguồn lao đợng là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao
động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham
gia lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên tuổi lao động) đang
làm việc trong các ngành kinh tế. Nguồn lao động được xem xét trên ở hai


mặt chất lượng và số lượng; lực lượng lao động là một bộ phận dân số đủ 15

tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp.21
Lao động là yếu tố đầu vào đặc biệt không thể thiếu trong bất kỳ q
trình sản xuất nào, nó là một yếu tố có vai trị quyết định đến tăng trưởng kinh
tế. Một mặt, lao động là tiềm lực sản xuất chính, mặt khác là điều kiện mở
rộng giới hạn của tăng trưởng kinh tế thông qua hành vi tiêu thụ thúc đẩy sự
tăng lên của cầu bằng chính thu nhập có được từ hoạt động sản xuất. Tác
động của yếu tố lao động không chỉ thể hiện về mặt số lượng, mà quan trọng
hơn là về mặt chất lượng của nó, biểu hiện ở trình độ, năng suất lao động
ngày càng cao22.
Vớn: vốn là yếu tố quan trọng trong q trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế của mọi hình thái kinh tế – xã hội. Nó là một yếu tố đầu vào quan
trọng trong bất kỳ quá trình sản xuất kinh doanh nào. Dưới dạng tiền tệ, vốn
được định nghĩa là khoản tích luỹ, là phần thu nhập thường có chưa được tiêu
dùng. Về mặt hiện vật, đó là tồn bộ của cải vật chất do lao động sáng tạo ra
mà nền kinh tế tích luỹ được trong suốt quá trình lịch sử đến thời điểm xem
xét và được gọi là tài sản quốc gia.
Vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được dùng làm phương tiện
trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, gồm: vốn cố định và vốn
lưu động. Vốn đầu tư là tồn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng
vốn sản xuất. Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố
định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Đến lượt mình, vốn đầu tư vào tài
sản cố định chia thành vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư sửa chữa lớn. Vốn đầu
tư cơ bản làm tăng khối lượng thực thể tài sản cố định, đảm bảo bù đắp tài sản
cố định hao mòn và tăng thêm phần xây lắp dở dang. Vốn sửa chữa lớn không
làm tăng thêm khối lượng thực thể tài sản, do đó, nó khơng có trong thành
phần của vốn đầu tư cơ bản. Nhưng vai trò kinh tế của vốn sửa chữa lớn tài
Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, Đại học KTQD, Nxb Lao động - Xã hội, Hà
Nội, tr.167-168.
22 Lê Huy Đức (Đồng cb-2003), Giáo trình Dự báo phát triển KT-XH, Đại học KTQD, Nxb Thống kê, HN,
tr359.

21


sản cố định cũng giống như vai trò kinh tế của vốn đầu tư cơ bản là đảm bảo
thay thế tài sản bị hư hỏng23.
Như vậy, có thể nói rằng vốn là yếu tố quan trọng của quá trình sản
xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản
xuất của doanh nghiệp, của ngành và của nền kinh tế, mà còn là điều kiện để
nâng cao trình độ khoa học – cơng nghệ, góp phần đáng kể vào đầu tư chiều
sâu, hiện đại hố q trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào
vịêc giải quyết cơng ăn việc làm cho người lao động khi quy mô sản xuất
được tăng lên cả chiều rộng và chiều sâu.
1.3.1.2 Phân tích nhu cầu trong nước
Dân số, thu nhập, thị hiếu, sở thích, hàng hố thay thế, hàng hố bổ
sung, định hướng tiêu dùng của Chính phủ là bản chất nhu cầu thị trường
trong nước về các sản phẩm và dịch vụ của ngành. Nhu cầu trong nước có vai
trị hết sức quan trọng trong việc tạo ra khả năng cạnh tranh tồn cầu. Thị
trường nội địa khó tính, khắt khe và tinh tế sẽ là một nhân tố quan trọng tạo
nên năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào phải
tồn tại trên thị trường này sẽ có khả năng sản suất và bán được những mặt
hàng cao cấp vì khách hàng khơng những địi hỏi hàng hố chất lượng cao mà
cịn địi hỏi cả các yếu tố xã hội kết tinh trong hàng hoá, đồng thời việc tiếp
xúc với những khách hàng khó tính sẽ giúp doanh nghiệp hiểu biết hơn về
nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng. Nếu những giá trị riêng biệt của
hàng nội địa được thị trường nước ngoài thừa nhận, các doanh nghiệp trong
nước sẽ có khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Mặt khác, nhu cầu
trong nước cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước một bức tranh rõ ràng
hơn về sự thay đổi nhu cầu của khách hàng và tạo áp lực buộc các doanh
nghiệp phải đổi mới, phải có chiến lược sản phẩm, chiến lược thu hút khách
hàng,..nhờ đó tạo ra nhiều lợi thế hơn trước đối thủ nước ngoài trong cạnh

tranh.
Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, Đại học KTQD, Nxb Lao động – Xã hội, Hà
Nội, tr.230-231.
23


1.3.1.3 Phân tích các ngành cơng nghiệp phụ trợ
Ngành cơng nghiệp phụ trợ cung cấp các đầu vào cần thiết phụ vụ cho
ngành cơng nghiệp chính. Đồng thời, cũng là những ngành mà doanh nghiệp
có thể phối hợp hoặc chia sẻ trong hoạt động kinh doanh. Sự phát triển của
ngành công nghiệp phụ trợ và mối liên hệ chặt chẽ giữa chúng tạo điều kiện
đổi mới và nâng cao trình độ cơng nghệ để duy trì các lợi thế cạnh tranh bền
vững hơn.
Những nhà cung cấp tự thất bại khi họ khơng có được sự khuyến khích
thực sự hay khơng đủ sức ép để tạo ra sáng kiến mới. Việc phục vụ những
khách hàng tồn cầu có nghĩa phải có được thông tin rộng khắp và khả năng
truyền tải thông tin đó cho thị trường trong nước. Những cơng ty sẵn sàng
cung ứng nguồn lực của họ cho nghiên cứu và phát triển sẽ giúp họ tiến vào
thị trường mới.
1.3.1.4 Phân tích chiến lược của doanh nghiệp và sự cạnh tranh
Trong thực tế, các doanh nghiệp trong cùng một ngành cũng có những
chính sách khác nhau về kênh phân phối sản phẩm, phân đoạn thị trường tiêu
thụ, chất lượng sản phẩm, trình độ cơng nghệ sản xuất, dịch vụ sau bán hàng,
chính sách giá, chính sách quảng cáo và khuyếch trương sản phẩm. Trong hầu
hết các ngành, các công ty có thể phân theo nhóm, trong đó các thành viên
của nhóm có thể đi theo một chiến lược tương tự như nhau và có những điểm
khác biệt cơ bản với các cơng ty thuộc nhóm khác trong ngành.
Về sự cạnh tranh, M.Porter đưa ra những vấn đề cốt lõi nhất để giúp
cho các nhà quản lý phân tích mơi trường ngành. Ông đưa ra năm lực lượng
tác động vào ngành, đó là: (1) cạnh tranh giữa các đới thủ tiềm ẩn: đối thủ

tiềm ẩn là các công ty hiện không ở trong ngành nhưng có khả năng nhảy vào
hoạt động trong lĩnh vực đó. Đối thủ mới tham gia trong ngành có thể là yếu
tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do họ đưa vào khai thác các năng lực
sản xuất mới với mong muốn dành được một phần thị trường. Do đó, những
cơng ty đang hoạt động trong ngành tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ cạnh


tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của họ. Như vậy, để bảo vệ vị trí
cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp thường quan tâm đến việc duy trì
hàng rào hợp pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài. Nhà kinh tế học Joe
Bain đưa ra 3 yếu tố trở ngại chủ yếu đối với việc nhảy vào một ngành kinh
doanh, đó là: sự ưa chuộng sản phẩm của người mua, các ưu thế về chi phí
thấp và tính hiệu quả của sản xuất lớn; (2) cạnh tranh giữa các sản phẩm thay
thế: sản phẩm thay thế là những sản phẩm của các công ty trong ngành khác
nhưng thoả mãn những nhu cầu của người tiêu dùng giống như các công ty
trong ngành. Các công ty này thường cạnh tranh gián tiếp với nhau. Như vậy,
sự tồn tại những sản phẩm thay thế hình thành một sức ép cạnh tranh rất lớn,
nó giới hạn mức giá một cơng ty có thể định ra và do đó giới hạn mức lợi
nhuận của công ty. Ngược lại, nếu sản phẩm của một cơng ty có rất ít sản
phẩm thay thế, cơng ty có cơ hội để tăng giá, và kiếm được lợi nhuận tăng
thêm; (3) sức ép về giá của người mua: người mua được xem như là đe doạ
mang tính cạnh tranh khi họ đẩy giá cả xuống hoặc khi họ yêu cầu chất lượng
sản phẩm và dịch vụ tốt hơn làm cho chi phí hoạt động của cơng ty tăng lên
và ngược lại. Người mua có thể gây áp lực với công ty đến mức nào phụ
thuộc vào thế mạnh của họ trong mối quan hệ với công ty; (4) sức ép về giá
của người cung cấp: người cung cấp được coi là đe doạ với công ty khi họ có
thể đẩy mức giá hàng cung cấp cho công ty lên, ảnh hưởng đến mức lợi nhuận
của công ty. Các công ty thường phải quan hệ với các tổ chức cung cấp các
nguồn hàng khác nhau như: vật tư thiết bị, nguồn lao động, tài chính; và (5)
sự cạnh tranh của các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành: sự cạnh

tranh của các doanh nghiệp trong ngành là yếu tố quan trọng tạo ra cơ hội
hoặc đe doạ cho các công ty. Nếu sự cạnh tranh là yếu, các cơng ty có cơ hội
để tăng giá để thu lợi nhuận cao. Nếu sự cạnh tranh này là gay gắt sẽ dẫn tới
cạnh tranh quyết liệt về giá cả và thế lợi nhuận của họ sẽ giảm. Sự cạnh tranh
của các công ty trong ngành thường chịu tác động tổng hợp của 3 yếu tố: cơ
cấu ngành, mức độ cầu và những trở ngại ra khỏi ngành.


Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sự thể hiện thực lực
và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn
tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu được lợi nhuận ngày càng cao.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết được tạo ra từ thực lực của
doanh nghiệp. Nó khơng chỉ được tính bằng các tiêu chí về cơng nghệ, tài
chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,..một cách riêng biệt mà cần
được đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng
lĩnh vực, cùng một thị trường. Cạnh tranh càng khốc liệt bản lĩnh của doanh
nghiệp càng cao.
Nước ta, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của doanh
nghiệp còn rất thấp, điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Qua nghiên
cứu thấy rằng, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước không chỉ
chịu ảnh hưởng bởi chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp mà cịn chịu
ảnh hưởng bởi các yếu tố vĩ mơ và mơi trường kinh doanh tổng thể của quốc
gia. Phí kinh doanh là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng lực kinh doanh
của các chủ thể. Theo nghiên cứu của CIEM thơng qua VACO (Cơng ty
TNHH Kiểm tốn Việt Nam) và Cơng ty Tư vấn Tài chính Âu Lạc, cho thấy
hầu hết các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đều
liên quan đến chi phí kinh doanh của quốc gia. Chi phí thấp đồng nghĩa với
việc có được khả năng cạnh tranh cao, do đó, để nâng cao khả năng cạnh
tranh cần phải nghiên cứu để giảm chi phí. Tuy nhiên, chi phí thấp chỉ là bước
khởi đầu để có cạnh tranh. Sự phát triển kinh doanh năng động sẽ tận dụng

được lợi thế so sánh về chi phí, từ đó nâng thêm khả năng cạnh tranh về chất.
Các kỹ năng tổ chức, quản lý của nhà kinh doanh trong chu trình sản xuất
kinh doanh: từ giai đoạn trước sản xuất (chẳng hạn, thiết kế sản phẩm, mua
công nghệ, nguyên liệu,..) đến bản thân quá trình sản xuất (sử dụng lao động,
đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng,..) và sau sản xuất (bao gói, nhãn hiệu, ký hợp
đồng, tiếp cận thị trường,..) cũng là những yếu tố quan trọng góp phần cải
thiện và nâng cao thêm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo báo cáo



×