_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
MỤC LỤC
Mục lục 1
Lời ngỏ 2
Phần I. Mở đầu 3
Lí do chọn đề tài 3
Phương pháp – Nhiệm vụ nhiên cứu 3
Đóng góp của quá trình nghiên cứu 4
Phần 2. Nội dung 4
Khái quát văn hóa người Nguồn ở Minh Hóa 4
Lịch sử hình thành 4
Đặc điểm không gian văn hóa 7
Chủ thể văn hóa 8
Những nét cơ bản về văn hóa người Nguồn 9
Rằm tháng 3 – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn 24
Kết luận 30
Tài liệu tham khảo 32
LỜI NGỎ
“Ai lên Minh Hóa quê mình
Chè xanh mật ngọt thắm tình quê hương”
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
1
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Đó là lời mời gọi thân thương từ Minh Hóa, nơi có Hội rằm tháng ba – Lễ hội tìm
duyên của người Nguồn trên quê hương Minh Hóa.
Rằm tháng ba, ai dẫu chỉ một lần đến thôi cũng sẽ không bao giờ quên được
những ấn tượng đặc biệt của nó. Đó là vẻ huyền ảo của ánh trăng rằm miền sơn cước
quyện trong tiếng hát đúm, sắc bùa, làn điệu hôi lên (những điệu hát giao duyên của
người Nguồn) những là điệu thân thương để bày tỏ tình yêu đôi lứa
Chơi đêm trăng, bạn sẽ thấy những nam thanh nữ tú với những bộ áo quần đẹp
nhất với những chiếc ô thổ cẩm đủ sắc màu, dưới ánh trăng thanh, hiu hiu gió quạt, họ
trao nhau nụ cười, lúng liếng ánh nhìn, chênh chao câu hát đúm. Và đã có biết bao cặp
ở cách xa nhau hàng ngày đường núi, đêm hội rằm đã bén duyên nên vợ nên chồng
Ánh trăng của đêm Rằm tháng ba bây giờ vẫn thanh trong như dát bạc lên những
cánh rừng. Những người con Nguồn dù có ở xa vẫn xao xuyến nhớ đến ngày hội
“Xa rừng xa rú lâu nay
Vẫn không quên được ngày rằm tháng ba”
Đó là lời mời gọi bàn bè bốn phương, là lời nhắc nhở những người Nguồn xa quê,
hãy nhớ và về với hội rằm như là hướng về nguồn cội.
Cuốn tiểu luận này là quá trình tìm hiểu, nghiên cứu. Nhóm chúng tôi hi vọng
rằng đó là món quà ý nghĩa cho những ai thích tìm hiểu, thích nghiên cứu, thích khám
những nét đặc sắc của văn hóa dân gian người Nguồn.
Xin chân thành cảm ơn
Nhóm tác giả: Đinh Ngọc Tú
Trần Thị Kim Hòa - Đinh Thị Tuyết Nhung
Cao Mạnh Thành - Trương Thị Hoa Lí - Đặng Phúc Như
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xa xưa, người dân Minh Hóa đã dặn lòng với nhau rằng:
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
2
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
“Thà rằng đau ốm mà nằm,
Ai mà nỡ bỏ chợ rằm tháng ba ”.
Ai đã từng đến dự lễ hội rằm tháng ba ở Minh Hóa, dẫu chỉ một lần thôi cũng sẽ
không bao giờ quên được những ấn tượng đặc biệt của nó. Đó là vẻ huyền ảo của ánh
trăng rằm miền sơn cước quyện trong tiếng hát đúm, sắc bùa và làn điệu hôi lên
(những điệu hát giao duyên của người Nguồn), những làn điệu bày bày tỏ tình yêu đôi
lứa
Là những người Nguồn, sinh ra và lớn lên nơi vùng đất đầy nắng và gió lào, giữa
bốn bề núi đá. Hội rằm tháng ba từ lâu đã là thành niềm tự hào của mỗi chúng tôi, một
lễ hội chỉ có riêng tại Minh Hóa.
Tự hào về quê hương, hướng về cội nguồn và mong muốn được “khoe khoang”
nét văn hóa địa phương với mọi người, đồng thời cũng là cơ sở để chúng tôi được tìm
hiểu thêm về văn hóa nguồn cội, làm tư liệu cho dạy học văn hóa – lịch sử địa
phương… Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài: Rằm tháng 3 – Nét đặc sắc trong văn hóa
truyền thống người Nguồn.
2. Phương pháp – Nhiệm vụ nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tiểu luận này, chúng tôi đã tìm hiểu, điều tra thực tế, tiếp xúc lấy
thông tin từ những người lớn tuổi. Đặc biệt chúng tôi được tham khảo các tài liệu
nghiên cứu của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Đinh Thanh Dự, tác giả Hoàng Mai,
diễn đàn Minhhoa Info.com. Sau đó dùng phương pháp thống kê, phân tích tài liệu,
so sánh đối chiếu giữa tài liệu và thực tế hiện nay…
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu khái quát đặc điểm tự nhiên – xã hội của người Nguồn
- Đi sâu vào nghiên cứu hội rằm tháng ba, các nét văn hóa đặc sắc của người
Nguồn trong hội rằm
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
3
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
3. Đóng góp mới của quá trình nghiên cứu.
Đây là Tiểu luận nghiên cứu về hội rằm tháng ba ở Minh Hóa. Đi sâu vào những
nét văn hóa đặc sắc của người Nguồn trong lễ hội. Hy vọng đó sẽ là tư liệu tham khảo
cho mọi người tìm hiểu, nghiên cứu, là món ăn tinh thần cho những ai đam mê văn
hóa địa phương và là tư liệu cần thiết cho quá trình giảng dạy văn hóa – lịch sử địa
phương.
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Vài nét khái quát văn hóa người Nguồn ở huyện Minh Hóa.
a. Lịch sử hình thành.
Người Nguồn là tên gọi cộng đồng người gồm 3,5 vạn nhân khẩu, sinh sống ở
huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Hiện vẫn còn chưa có sự thống nhất về
việc người Nguồn có phải là một sắc tộc riêng hay không.
Trên vùng đất hai tổng Cơ Sa và tổng Kim Linh xưa (thuộc châu Bố Chính, trấn
Nghệ An ngày xưa) của huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình đã có người Nguồn sinh
sống. Người Nguồn có ngôn ngữ riêng bền vững, có các sinh hoạt văn hoá riêng biệt
và các giá trị văn nghệ dân gian khá phong phú.
Người Nguồn sống xen kẽ với người Sách và người Rục ở Thượng Hóa, Hóa Sơn,
người Mày, người Khùa, và người Arem ở xã Dân Hóa và xã Trọng Hóa.
Người Nguồn sống ở tất cả 16 xã và thị trấn của huyện Minh Hóa, trong đó sống
tập trung chủ yếu các xã Hồng Hóa, Yên Hóa, Xuân Hóa, Tân Hóa, Trung Hóa, Hóa
Phúc, sống xen kẽ với người Kinh ở thị trấn Quy Đạt, xã Quy Hóa, Hóa Thanh, sống
xen kẽ với người Sách, người Rục ở xã Thượng Hóa, Hóa Sơn, Hóa Hợp, Hóa Tiến,
với người Mày và người Khùa ở xã Dân Hóa và xã Trọng Hóa.
Hiện nay, các văn bằng chứng chỉ ghi ông thủy tổ của người Nguồn là người họ
Trương, họ Thái ở "Lang Ni thôn, Kim Linh nguyên, Bố Chính châu, Tiên Bình phủ,
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
4
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Đại Việt Quốc", là người họ Đinh, họ Cao ở "Quy Đạt thôn", hoặc Phôốc Lác thôn,
Cơ Sa nguyên, Bố Chính châu, Tiên Bình phủ, Đại Việt Quốc.
Theo những người già của người Nguồn kể lại: Trước khi ông thủy tổ của họ đến
Cơ Sa nguyên và Kim Linh nguyên thì tại đây đã có người bản xứ là người Cọi sinh
sống: một bộ phận ở trong các hang lèn là người Rục, một bộ phận ở trong các dãy lèn
là người Sách, một bộ phận ra ở ngoài làng trên các bồn địa nhỏ và thung lũng hẹp hai
bên bờ khe suối gọi là người ngoài làng. Hiện nay chưa có tài liệu nào chắc chắn về
ông thủy tổ của người Nguồn. Người già của người Chứt cũng kể lại: Quê hương tổ
tiên của họ trước ở Cá Tràu, Cha Nghét, Hung Đèng, Hung La Ken, Hung Thón, Sạt,
Xét, Trem Sau đó bị người Nguồn ép nên lên Chôông Cún, Gia Óc Sách ở làm ăn
cho đến nay.
Người Nguồn và người Chứt đều kể lại cho con cháu mình nghe câu chuyện dân
gian "Người Nguồn và người Mày là hai anh em con trai một nhà mà ra". Chuyện kể
rằng: Ngày xưa cha mẹ sinh ra hai người con trai, hỏi vợ, lập gia đình cho con xong
thì cha mẹ chết cả. Vợ chồng người anh chiếm hết tài sản của cha mẹ, ở lại vùng đất
bằng làm ăn già có, sinh con cháu thành người Nguồn. Vợ chồng người em chỉ lấy
được một cuốn sách của cha, đem nhau lên núi cao ở làm ăn, sinh con, sinh cháu
thành người Mày, tức là người Chứt. Từ đó, họ cho rằng, Người Chứt và người Nguồn
có quan hệ huyết thống giòng tộc với nhau. Trong dân gian người Nguồn còn lưu
truyền những câu ca dao đầy tình nghĩa:
Mạ khinh con Cọi ở hung
Thiếng ăn, thiếng chốn cúng chung ngoài làng
Nghĩa là
Chớ khinh con Cọi ở hung
Tiếng ăn, tiếng nói cùng chung ngoài làng
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
5
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Và
Mạ khinh con Cọi ở hung
Thiếng ăn, thiếng chốn cúng ngoài làng thua xa
Nghĩa là
Chớ khinh con Cọi ở hung
Tiếng ăn, tiếng nói cùng ngoài làng thua xa
Như vậy, có thể nói từ xa xưa, tại vùng Cơ Sa và Kim Linh này đã có người bản
xứ mà người địa phương gọi là người Cọi sinh sống. Có lẽ trong quá trình biến đổi
lịch sử đã phân hóa thành người Rục tiếp tục ở hang lèn, người Mày ở trên các sườn
núi đầu ngọn nước các khe suối, dưới chân núi Giăng Màn, người Sách ở trong các
hung dưới chân các dãy lèn và người ngoài làng là người Nguồn ở trên các bồn địa
nhỏ và thung lũng hẹp. Rồi người Tàu, người Lào, và chủ yếu là người Kinh từ các
nơi đến đây đã cộng hôn, cộng cư, cộng canh sinh sống với người Cọi, đem "họ" và
văn hóa giòng họ “người cha đẻ” đến cho người Cọi – “người mẹ đẻ” - được người
Cọi tiếp thu và đồng hóa văn hóa các dòng họ của người cha đẻ từ các nơi khác đến ở
Cơ sa và Kim Linh về tiếng nói, sinh hoạt văn hóa và đổi cả họ gốc thành họ người
Nguồn ở Cơ Sa và Kim Linh, làm thành khối người Cọi - người tiền sử Cơ Sa - Kim
Linh phân hóa thành một bộ phận là người Chứt, dân tộc Chứt (Rục, Mày, Sách) và
một bộ phận người Nguồn.
Tìm hiểu các truyện dân gian của người Nguồn như: Sự tích sinh ra các dân tộc,
Ôông Đùng, Mầy thằng Sắt, Thương con xóc côốc ăn vô lóc rọt, Pụt chộ tha, tha
khôông chộ Pụt cho ta thấy "bóng dáng lịch sử" nguồn gốc tổ tiên người Nguồn
cùng sinh ra từ cội nguồn nguyên thủy (Proto Việt - Mường) tại Sa Cơ - Kim Linh với
người Sách, Mày, Rục thuộc dân tộc Chứt. Chính người Nguồn gốc bản địa đã tiếp thu
Nguồn hóa người Kinh từ các nơi đến qua các thời kì lịch sử khác nhau về tiếng nói,
văn hóa kể cả họ tên nữa, nếu có giữ được tên họ thì cũng bị Nguồn hóa hoàn toàn về
tiếng nói là tiếng Nguồn, về văn hóa mẹ đẻ là văn hóa Nguồn.
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
6
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
b. Đặc điểm, không gian văn hóa người Nguồn
Minh Hóa là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Bình. Bắc
và Đông giáp huyện Tuyên Hoá. Nam giáp huyện Bố Trạch. Tây giáp Lào. Vùng đất
này nổi tiếng với chè xanh mật ngọt thắm đượm tình quê như trong lời ca Khúc
"Đường lên Quy Đạt" của nhạc sĩ Trần Hoàn.
Với diện tích: 1.412,71km
2
và dân số: 46.851 người. Trong đó người Nguồn
chiếm đa số, số còn lại có khoảng 3.000 người Kinh, 1.000 người Khùa, Mày, Rục,
Sách. Mật độ: khoảng 29 người/km
2
.
Huyện có đường Hồ Chí Minh, đường Xuyên Á, quốc lộ 12A chạy qua. Từ thành
phố Đồng Hới bạn có thể đến huyện Minh Hóa bằng hai con đường: Con đường thứ
nhất từ Đồng Hới chạy theo quốc lộ 1A về thị trấn Ba Đồn huyện Quảng Trạch, sau
đó chạy theo quốc lộ 12A lên Minh Hóa. Con đường thứ hai chạy theo đường Hồ Chí
Minh, xuất phát từ Cộn chạy hướng Bắc khoảng 120 km là tới nơi, với con đường này
sẽ thật hấp dẫn cho những ai đi du lịch. Dọc theo đường xuyên Á, bạn sẽ lên cửa khẩu
Cha Lo nơi có chợ biên giới giao thương với nước bạn Lào.
Thị trấn Quy Đạt là trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của huyện, hàng năm
vào hội rằm tháng ba, nhân dân khắp các xã của huyện và người dân ở các huyện khác
trong tỉnh tập trung về đây để thưởng thức không khí lễ hội nhộn nhịp với những trò
chơi dân gian, những điệu hôi lên đằm thắm mượt mà, ẩm thực đặc sắc cơm pồi và ốc
đực, chè xanh và mật ong rừng của huyện bởi thế mới có câu ca:
"Thà rằng đau ốm mà nằm.
Ai lại nở bỏ hội rằm tháng ba.”
Tuy dân số không đông, nhưng Minh Hoá lại có nhiều dân tộc anh em cùng chung
sống. Họ đã góp phần làm nên nét phong phú và độc đáo trong đời sống văn hoá
huyện nhà. Năm 2002, một đoàn sưu tầm gồm 5 cán bộ Viện Âm nhạc, kết hợp với
một số cán bộ sở Vǎn hóa Thông tin tỉnh Quảng Bình đã bắt đầu chuyến điền dã từ
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
7
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
ngày 24/4 đến ngày 1/5/2002 tại nhiều xã của huyện Minh Hóa. Với sự phong phú về
làn điệu, độc đáo về thể loại và phong cách diễn xướng, đoàn sưu tầm đã tìm hiểu kỹ
về từng thể loại, đồng thời tổ chức thu thanh và ghi hình tại chỗ những thể loại âm
nhạc dân gian của người Nguồn và phân loại ra đó là các làn điệu: Hôi lên, sắc pùa, hò
thuốc cá, hát đúm…
c. Chủ thể văn hóa người Nguồn.
Theo các tài liệu nghiên cứu thì người Nguồn ở huyện Minh Hóa sống xen kẻ với
người Kinh và một số dân tộc khác như Vân kiều, Bru, Khùa, Mày, Rục, Sách. Người
nguồn có khoảng 3,5 vạn người và phân bố khắp 16 xã thị trấn trong huyện.
Với tỷ lệ đông, văn hóa người Nguồn có những bản sắc riêng và nó ảnh hưởng đến
các dân tộc khác trong huyện. Rằm tháng 3 – nét văn hóa đặc sắc truyền thống của
người Nguồn đã ảnh hưởng và trở thành lễ hội truyền thống của huyện Minh Hóa.
2. Những nét cơ bản về bản sắc văn hóa người Nguồn.
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
8
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
a. Cách thức sản xuất
Người Nguồn sống bằng nghề làm rẫy, đánh cá, săn bắt, lấy mật ong. Ngoài các
nghề này, cho đến nay vẫn còn phổ biến các nghề hái lượm tự nhiên để có cái ăn hàng
ngày của người nguồn như bắt ốc, pách (hái) quả cà lào, hái rau rừng, đào khoai mài. .
b. Làm rẫy
Người Nguồn gọi công việc làm rẫy là "Mần mùa dộn" (trực dịch là "ở rẫy").
Người Nguồn định cư thành từng bản, từng làng. Ngoài định canh cày bừa làm lúa
vãi, lúa nước ít ỏi tại bản làng, thì bộ phận lớn người Nguồn còn du canh phát rừng
làm nương rẫy, Họ trồng khoai, ngô (trỉa sậu), v.v cứ ở chỗ này năm bảy năm lại
chuyển đi chỗ khác. Cứ như thế đi hết hung (thung lũng núi hẹp) này sang hung. Tập
quán "mần mùa dộn" này được ghi lại khá đầy đủ trong văn học dân gian người
Nguồn bằng câu chuyện "Thương con xóc côốc, ăn vôn lóc rọt " và trong bài "xẻ nát"
của bài hát "sắc bùa"
c. Đánh cá
Người Nguồn có phương pháp đánh cá tập thể. Họ dùng rễ cây Tèng làm cá ngộ
độc, say rồi bắt. Vài ba người trở lên có khi cả một bản, một làng cùng nhau vào rừng
lấy rễ cây tèng về, lên đầu thác ghềnh của khe suối lấy đá đắp thành cối bỏ rễ tèng vào
cùng nhau dùng cây gỗ vát dẹt hai đầu giã cho nước tèng chảy ra giữa vực sâu làm
cho cá chết rồi bắt lấy chia nhau về ăn. Chính từ nghề thuốc cá này mà người Nguồn
đã sáng tạo cho mình điệu hò thuốc cá (đánh cá bằng thuốc), một điệu hò độc đáo chỉ
có người Nguồn mới có.
d. Săn bắt thú rừng
Người Nguồn săn bắt thú rừng bằng đủ mọi cách: Dùng ná (nỏ), dùng tên độc bắn,
dùng bẫy vòng, bẫy tó ho Đặc biệt người Nguồn có cách săn bắn thú rừng tập thể
bằng lưới đày còng, mác, chó săn. Một bản một làng lập thành phường săn sắm một
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
9
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
vàng lưới gồm năm bảy chục tay lưới cùng nhau vào rừng tìm nơi hiểm yếu căng lưới
ra, lấy đày chống lên, chọn chục chàng trai đem chó săn đuổi, còn tất cả ngồi nấp kín
ở hai đầu lưới. Khi đoàn săn vừa đánh cồng, vừa đuổi chó săn đuổi con thú chạy vào
vàng lưới, thì cả làng xông ra đuổi con thú khiến cho nó chỉ có cách đâm thẳng vào
lưới, lưới sập, người chỉ dùng mác (giáo) đâm chết con thú, đốt lửa nướng, mổ thịt
chia nhau đem về ăn. Nghề đi săn này cũng được ghi lại trong bài dân ca "Ti mán" (Đi
săn) của văn học dân gian người Nguồn.
e. Nghề lấy mật ong rừng
Vào mùa tháng 3 đến tháng 6 âm lịch hàng năm, nam giới người Nguồn vào rừng
tìm oong mạch (ong mật) đánh lấy mật. Ong mật làm tổ dưới các cành cây cao như
cây ngá, cây trôi, cây seng Nếu tổ ong mới ở chưa có mật thì lấy dây buộc vào cội
cây, nhét một cành cây vào làm nêu, báo cho người sau biết, tổ ong trên cây đã có chủ.
Khi tổ ong đã có mật, dùng dây bắc đày, dùng bối lá bó ỏn (đuốc) đốt lấy khói đuổi
con ong đi mà lấy mật.
Làm nghề này hay gặp tai nạn do đứt dây, gẫy cành gây chế người. Điều này cũng
được ghi lại trong các câu chuyện dân gian người Nguồn như truyện "Sự tích hang mụ
tá Pạc" (Sự tích động bà đá Bạc)
f. Công cụ sản xuất
Ngoài cày, bừa, cưa, đục tiếp thu kỹ thuật tiến bộ của người Kinh ra, người Nguồn
dùng các công cụ sản xuất phù hợp với nghề sản xuất của họ, đó là rựa rìu, chày trỉa,
ống trỉa lúa rẫy, chày giã tèng bằng gỗ tạp, dùng xong là vứt ngay tại rẫy, chôống
chôồng, troi, pài, v.v
Về đồ đong đựng thì có oi, teo, típ, gié,(dụng cụ đựng), giôống (nông), thúm cúm
(nia)…
g. Văn hóa vật chất
*Ẩm thực
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
10
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Người Nguồn thường ăn cơm Pồi, thau lang (rau khoai), ôốc tực (ốc đá vặn), cà
lào
Cơm pồi là món ăn hàng ngày của người Nguồn. Nguyên liệu chủ yếu ngày xưa là
sậu (ngô) hoặc là "thoóc" (lúa), sắn; ngày nay có thêm đậu (đỗ). Dụng cụ làm cơm pồi
gồm cối, chày, mẹt, sảy, dần, nồi nân, chõ đồ.
Người Nguồn nấu nước sôi lên thì bắc xuống, cho ngô vào ngâm vài ba tiếng đồng
hồ, rồi vớt ra để ráo nước, bỏ vào cối giã, dần lấy bột, thấm nước lã, nhồi kỹ, đánh tơi
ra, bỏ vào "nghè hôông" (một dạng chõ) cùng với nước gọi là "nồi nân", lấy mo chuối
vấn quanh miệng, rồi bỏ chõ đồ có bột ngô lên, bắc lên bếp đun lửa đồ chín thành
"cơm pồi".
Nếu là lúa, thì xay bỏ bớt trấu, vò nước nóng, để ráo, giã dần lấy bột rồi rồi làm
tiếp như "Pồi" bột ngô. Nay thêm sắn thì ngoài việc giã ngô, giã lúa thì sắm thêm bàn
mài, bàn ép. Đào sắn tươi về rửa sạch, bóc lấy vỏ mài sắn, ép sắn, rồi trộn bột ngô
hoặc lúa vào nhồi kỹ. Cứ mỗi ngày hai bữa ăn thì phải hai lần "tâm pồi", bóc sắn, mài
sắn ép sắn và "xôi pồi".
Đây là một công việc vất vả và chủ yếu là việc của người phụ nữ, của người vợ.
Ca dao người Nguồn có câu chan chứa tình yêu nam nữ:
Trời mưa dác chẳn queng hồi.
Eng khôông lế cấy, ai tâm pồi cho eng ăn.
Nghĩa là
Trời mưa nước chảy quanh hồi.
Anh không lấy vợ, ai giã bồi cho anh ăn.
Hoặc là
Lo xi cái xuyện tâm Pồi
Dún lên, dún xuống một hồi ăn sức ăn
Nghĩa là
Lo chi cái chuyện đâm bồi
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
11
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Nhún lên, nhún xuống một hồi ăn sức ăn
Các món ẩm thực khác được nhắc đến như sau.
Trôông cho mau tếng mùa pồi
Nhớ con ôốc tực tang ngồi trên vâm
Nghĩa là.
Trông cho mau đến mùa pồi
Nhớ con ốc vặn đang ngồi trên mâm
Và
Mặt trời tá các tôộng ngồi
Ti nô cúng nhớ cơm pồi, thâu lang.
Nghĩa là
Mặt trời đã gác bên đồi
Đi đâu cũng nhó cơm pồi, rau khoai.
* Ở
Người Nguồn định cư thành từng bản, từng làng. Những địa danh quen thuộc là:
Phôốc Lác, Sạt, Lang Cầu, Ang, Pắt Nàng, Lim, Cụng, Phôốc Dứa, Lang Ni, Xét, Lồ
Hang, Trem, Pộôc, Thón, Sẩm, Pặt, Gieo, Các bản này hợp thành tổng Cơ Sa và
Kim Linh ở trên cao nguyên Quy Đạt . Nhưng người nguồn có tập quán du canh du cư,
thích thì ở, không thích thì bỏ bản, bỏ làng đến nơi khác lập bản, lập làng làm ăn sinh
sống.
Trước Cách mạng tháng Tám, trừ một số nhà giàu làm nhà cặp còn đa số ở nhà pè.
Nhà pè là loại nhà nền đất, toàn bộ cột trồng xuống nền nhà sâu từ 50 đến 60 cm và
nện chặt. Nếu nhà 3 căn thì có 4 vài (vì), còn nhà 2 căn thì có 3 vài. Mỗi vài có 2 cột
chái (trước và sau), 2 cột mê (trưóc và sau), và một cột doóc (cột nóc), và một páng sa
(băng ngang) gác lên hai đòn tay mệ ngay hai đầu cột mệ. Có hai mái chính (trưóc và
sau) hình thang cân, mỗi mái có ba đòn tay: một đòn tay trái gác lên đầu các cột mệ,
một đòn tay chồng 9 chồng 10 gác lên đầu các páng sao cho song song với đòn tay
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
12
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
mệ, cả hai mái chung nhau một đòn tay doóc 9 nóc tức là tòn tôông; hai mái hồi hình
tam giác cân ở hai đầu hồi, mỗi mái có ba đòn tay: một đòn tay chái gác lên cột chái
hồi ở hai đầu buộc vào hai đầu đòn tay trái của hai mái chính, một đòn tay doóc buộc
vào ran 2 mái chính, một đòn tay mệ buộc vào 2 đòn tay chôồng của hai mái chính.
Trình tự lắp đặt ngôi nhà pè như sau. Trước tiên trồng hai cây cột mệ trước và cột
mệ sau, rồi gác đòn tay mệ lên đầu các cột mệ, rồi gác páng sa lên đầu các cột mệ, rồi
gác đòn tay chôồng lên đầu các páng sa song song với đòn tay mệ. rồi tiếp trông cột
doóc, gác tòn tôông, và trồng hai hàng cột chái, gác hai đòn tay chái. Xong bộ khung,
lợp lèng (tranh), hoặc là lá tro (lá cọ). Chung quanh nhà, hai phía đầu hồi và phía sau
rào kỹ, trét đất hoặc thưng lá tro, liếp nứa thật kín, phía trước làm của, dùng liếp nứa
thưng kín, tối lại đóng chặt của chống thú dữ. Tri huyện Trần Mạnh Đàn đã viết:
Năm là nhà của bịt bùng
Tứ bề sinh khí không thông chút nào
Đó là kiểu nhà pè theo truyền thống của người Nguồn. Ngày nay kiểu nhà pè này
hầu hết được thay thế bằng nhà lợp ngói. Một số ít được thay thế bằng nhà xây
* Mặc
Trước Cách mạng tháng Tám, người Nguồn trồng bông kéo sợi, dệt vải, cắt may
đồ đạc. Nam giới mặc áo dài thân ngắn hoặc áo bốn thân cổ đứng, may quần đũng
chè. Chỉ có chèn để vận túm ngang rốn, rồi dùng một dải vải hoặc lụa gọi là “chạc
lưng” buộc vào. Lúc đầu mặc trắng, sau đó nhuộm nu (nâu), hoặc chàm mà mặc cho
bền. Nữ giới mặc áo dài năm thân hoặc áo ngắn bốn thân cổ kiềng (tròn) và may váy
mặc. Váy của người Nguồn thường nhuộm chàm, không có chàm thì nhuộm bùn,
xong rồi nhuộm vải nâu cho đen, vận túm trước bụng để che rốn.
* Văn hoá tinh thần
Người Nguồn đã tiếp thu nguồn văn hoá người Kinh và phát huy kho tàng ca dao
và làn điệu dân ca của mình như hát sắc bùa, hát bội, hát nhà trò tiếp thu cách làm
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
13
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
thầy cúng tế thần linh, tang lễ the "thọ mai gia lễ" Nhưng cơ bản cho đến nay,
người Nguồn vẫn bảo tồn và phát huy những phong tục tập quán sinh hoạt văn hoá
tinh thần của mình.
* Tín ngưỡng
Pụt: Là vị thần linh trên hết được người Nguồn thờ cúng để cầu tự tài lộc, cầu thọ.
Theo tâm linh người Nguồn được người già kể lại: Pụt là người tài giỏi đức độ biến
hoá không lường. Pụt đã tạo ra con người. Sau đó, ai không có con đến chỗ Pụt cầu
xin Pụt có thể biến thành người hiền từ giúp người lương thiện gặp hoạn nạn,trừng
trị kẻ tham lam độc ác. Pụt hoá thành tượng đá bên chóp lèn ông ngoi. Sau đó dược
người Nguồn mang xuống thác Dác Giòn, Lập bàn thờ Pụt tại đó. Cho đến nay thác
Dác Giòn được gọi là thác Pụt. Hằng năm, vào ngày rằm tháng ba âm lịch, hàng tổng
tổ chức làm chay tế cho Pụt, cầu cho mưa thuận gió hoà dân làng bình yên làm ăn.
Các thầy cúng tế dịch chữ Pụt thành Phật, với hiệu mời là "Thập nhị Đức Phật như
lai", rồi sau đó làm nhà thờ Pụt gọi là nhà Chùa (Tân Kiều – Yên Hóa), nên làm cho
nhiều nhà nghiên cứu lầm tưởng người Nguồn cũng theo đạo Phật như người Kinh.
Nhưng người Nguồn thờ Pụt như là vị thần tổ đã sinh ra người mình, luôn luôn ở bên
mình, giúp người mình mọi điều tốt lành.
Nhân thần: Là những người bản xứ - người Cọi - lương thiện, tài giỏi, có công
giúp vua đánh giặc như ông Đỏ mỏ, hoặc người đi làm ăn ngộ nạn như ông Lâm Vọ,
ông Lục Cục Họ chết hóa thành thần linh được người nguồn lập miếu thờ cúng
được vua
phong sắc thần "đương cảnh chi thần" hợp thành hệ thống thần giang sơn
bản mệnh của bản, làng, phù hộ cho mưa thuận gió hoà, dân làng bình yên làm ăn
thịnh vượng. Mỗi làng bản ngươi Nguồn đều lập miếu thờ các Nhân thần. Theo quan
niệm của người Nguồn, nơi nào có người ở làm ăn thì nơi đó có nhân thần. Có nhân
thần đựợc vua sắc phong, nhưng phần nhiều không được vua sắc phong mà vẫn được
người Nguồn thờ cúng như Mụ Tá Pạc, Mệ Ngó, Cha Ngan, Ôông Mo, Thằng Xích
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
14
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Sau Cách mạng tháng Tám tất cả các vị thần được lập miếu thờ ở Cơ Sa và Kim Linh,
đều làm lễ tập trung ở tại Cầu Púng, thuộc xã Yên Hoá.
Thần giang sơn: Mỗi bản làng người Nguồn đếu có hệ thống thần giang sơn (thần
khe núi) làm bản mệnh. Gồm các vị thần được lập miếu thờ và các thần trời đất, khe
núi trong bản làng. Nơi thờ các thần có miếu thờ thì thờ cúng tại miếu, các thần khác
được chọn một nơi rừng rậm um tùm của vùng đồi gọi là lùm thần hay miệu, đóng 13
bộ vì để gác mâm lễ vật lên mà cúng. Ở làng Sạt có lùm thần Dăm De, bản Cầu
Nghiêng có lùm thần Dổm Sòi, làng Quy Hợp có lùm thần Dổm Pầu Lễ cúng cầu
nguyện hàng năm gồm:
- Lễ khai sơn vào mồng 7 tết: Lễ vật cúng gồm mỗi mâm một hoặc vài chiếc péng
(bánh) rò to vuông vức do dân đem đến theo lệ bản làng đã quy định.
- Lễ xuống chôống: Tức lễ tra, vại giống đầu tiên trong vụ mùa vào tháng 4 âm
lịch.
- Lễ cho trâu vào kiệt, lễ cầu thóoc lỗ (Lúa trổ) vào tháng bảy.
- Lễ cuối năm chạp miệu vào 20 tháng chạp với lễ vật cúng của mỗi lễ này là là
xôi, gà do dân làng góp lại theo quy định của bản làng. Người đứng cúng những lễ này
là do ông Thủ từ do thần Giang sơn bản mệnh chọn trong buổi lễ sám tế thần bản làng
vào rằm tháng giêng bằng cầm keo, ai được 3 keo sấp, 1 keo ngã bạc là được làm cúng
bái. Lời cúng là lời cúng xạ tình cầu nguyện gì thì nói nấy.
Thờ cúng ông bà tổ tiên: Trước Cách mạng tháng Tám, người Nguồn ở Cơ Sa và
Kim Linh chỉ có họ Đinh của ông Lý Vị có nhà thờ họ tại làng Sạt, nhưng sau cách
mạng, nhà thờ đã hư hỏng, tất cả các họ khác không có nhà thờ họ, không có đất
hương hoả từ đường. Việc thờ cúng ông bà tổ tiên được con cháu trai đã có gia đình ở
nhà riêng lập bàn thờ tại nhà. Về bên nội, thờ từ ông cao tằng tổ, bà cao tằng tổ đến
cha mẹ (đã chết). Về bên ngoại chỉ có thờ ông bà ngoại và cha mẹ vợ. Việc cúng giỗ
ông bà tổ tiên vào các dịp: Tết nguyên Đán, rằm tháng ba, ăn cơm mới, ăn mừng con,
cưới hỏi, kỵ giỗ ông bà cha mẹ Trong đó đặc biệt là cúng tết nguyên đán, chiều 28
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
15
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
tết làm lễ "ngước ông vãi" mời ông bà tổ tiên về bàn thờ, bàn thờ được mở của cả đêm
ngày, trong các ngày 29, 30, mùng 1, 2 tết. Mỗi ngày 2 buổi trưa và chiều gác cơm
canh cho ông bà tổ tiên ăn bữa, đến chiều ngày mồng 2 tết làm lễ "Tưa ông vãi" tiễn
ông bà tổ tiên quy hồi phần mộ, quy hồi bổn sòng, của bàn thờ được đóng lại mới hết
cúng tết nguyên đán. Cho đến nay người Nguồn vẫn thờ cúng ông bà tổ tiên mình như
vậy, không cần có mâm ngũ quả trong ngày tết nguyên đán như các nơi khác.
Thành Hoàng làng: Từ xa xưa người Nguồn chỉ chỉ thờ Pụt bằng bàn thờ ở thác
Pụt và ở nhà Chùa, thờ nhân thần và thờ Giang sơn bản mệnh tại miếu và lùm thần,
thờ ông bà tổ tiên tại nhà thờ con cháu. Còn văn hoá đình làng và thờ thành hoàng
làng thì mới có khoảng năm 1920 về sau, như đình làng Quy Đạt, Yên Đức, và Kim
Bảng khánh thành năm 1925. Theo văn bản văn tế bằng chữ Hán có được thì thần thờ
tại các đình làng đó là: Đức vua Cao Các Mạc Sơn, Đức vua Cao Sơn tằng phong
phúc, đức đại vương và các ông "Sung hậu thần", là ông thuỷ tổ của các họ trong làng.
h. Phong tục
Tang chế, ma chay
Người Nguồn lập bàn thờ đặt phục vị người chết thờ cúng cơm ngày hai buổi cho
người chết "ăn bữa" suốt 24 tháng, con cháu để tang khó cho tới khi làm lễ mãn tang,
hết khó, cho người chết nhập tổ, lên bàn thờ cúng ông bà tổ tiên mới thôi cúng cơm.
Cưới xin
Ngày xưa, sau lễ sế cấy (lễ ăn hỏi), con trai phải đi làm rể ba năm mới xin cưới,
cưới xong phải làm rể thêm một thời gian nữa mới xin được rước du (rước dâu). Đến
lúc đó, nhà trai mới làm lễ ngước cấy (đón vợ) về nhà chồng. Từ đó vợ chồng mới thật
sự ăn ở với nhau. Nay người Nguồn đã bỏ làm rể, mà vừa cưới và ngước cấy vào một
ngày luôn.
Sinh đẻ
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
16
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Hầu hết người Nguồn sinh để không có tục "bán phong long", không có tục "sinh
con so nhà mẹ, sinh con gái nhà chồng", mà người đẻ phải được hơ náng kỹ lưỡng bảy
đến chín ngày, được nghỉ ngơi kiêng cữ đi xa, kiêng cữ làm việc nặng, kiêng cữ sinh
hoạt vợ chồng trong ba tháng mười ngày để cho người mẹ có điều kiện chăm sóc con
trong ba tháng non yếu.
i. Các lễ hội, phong tục khác
Pơng thết (bưng tết): Người Nguồn có những phong tục và lẽ hội văn hoá đặc
sắc đặc trưng văn hoá của mình.
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Câu ca ấy như nhắc nhở mỗi thế hệ con cháu người Nguồn phải biết “uống nước
nhớ nguồn”. Đạo làm con phải biết công ơn sinh thành, dưỡng dục, hiếu lễ với cha
mẹ. Đó không chỉ là một đức tính cần có mà còn là nét đẹp truyền thống trong văn hóa
ứng xử của người Việt Nam ta.
Trong tiết trời se lạnh của mùa xuân, lòng người cảm nhận được sự ấm áp, nồng
nàn của tình yêu thương, sự kính trọng, lòng biết ơn của các con cháu đối với cha mẹ,
bởi đây là dịp để những người con có cơ hội được bày tỏ tấm lòng của mình đối với
bậc sinh thành. Theo truyền thống, hàng năm, từ ngày 23 tháng 12 âm lịch, ngày tiễn
ông Táo lên chầu trời, cũng là thời gian bắt đầu chuỗi ngày con cháu người Nguồn sửa
soạn một mâm cơm thật chu đáo để dâng lên cha mẹ như một lời tri ân. Lễ Pơng (theo
tiềng Nguồn) sẽ bắt đầu từ ngày 23 đến 28 tết. Mâm cơm được chuẩn bị một cách chu
đáo, cẩn thận từ khâu chọn nguyên vật liệu tới công đoạn chế biến. Các món được
chọn có thể là cây nhà lá vườn, hay là cao lương mỹ vị thì tùy thuộc vào khả năng
kinh tế của mỗi người để chuẩn bị. Nó không ảnh hưởng tới giá trị và ý nghĩa sâu sắc
của lễ này. Các món thường thấy như một đĩa trái cây (chuối, cam, quýt ), thịt gà, thịt
lợn, thị bò, xôi, bánh, được chuẩn bị từ sáng sớm và thường sẽ dâng lên mời cha mẹ
dùng vào bữa trưa.
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
17
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Đây cũng là dịp để con cái ở xa nhà trở về báo hiếu cha mẹ, là dịp để anh em gặp
nhau trò chuyện, hàn huyên. Mặc dù, theo thời gian và nhịp sống sôi động và hiện đại
của xã hội, nhưng cứ mỗi độ xuân về không ai bảo ai vẫn nhớ và thực hiện đạo hiếu
của mình, điều này thể hiện ý thức cũng như một hành động đẹp mang đầy giá trị
nhân văn sâu sắc. Lễ này không biết có từ bao giờ, nhưng trải qua bao đời nay người
Nguồn coi đó là một nét đẹp ứng xử, là thước đo đạo đức của cá nhân trong cộng đồng
làng xã mình. Dù nhịp sống có nhiều đổi thay song trong ý thức mỗi người dân nơi
đây luôn coi đó là một truyền thống tốt đẹp, lâu đời cần được bảo tồn, lưu giữ và phát
huy.
Tục lễ ăn tết, rằm và hội chợ rằm tháng Ba: Đây là một lễ hội chỉ có ở người
Nguồn, được ghi lại sâu sắc trong văn học dân gian người nguồn:
Trôông cho tếng rằm tháng pa.
Tở Kinh Lim cầu đảo, Cơ Sa lệ chùa.
Nghĩa là
Trông cho đến rằm tháng ba.
Để Kim Linh cầu đảo, Cơ Sa lễ chùa.
Và
Chẳng thà tau ốm má nằm.
Khôông ai má lác chợ rằm tháng Pa.
Nghĩa là
Thà rằng đau ốm mà nằm.
Không ai mà bỏ chợ rằm tháng ba.
Tục chữa bệnh: Người Nguồn chữa bệnh cho người và gia súc bằng thổi phù
phép và cỏ nam cũng là một phong tục văn hoá đẹp của người Nguồn, được ghi lại
trong dân ca "Tón thí ăn thâu, tâu thí óong cỏ"
Nghĩa là: Đói thì ăn rau, đau thì uống cỏ
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
18
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Phong tục tập quán lễ hội mới: Chỉ có người Nguồn mói có, là lễ ăn tết Độc lập
mồng 2/9, người Nguồn gói bánh rò, bánh chưng, sắm cỗ bàn cúng tổ tiên, cho con
cháu ăn Tết và tổ chức vui chơi mừng ngày Độc lập.
K. Ngôn ngữ
Người Nguồn đã gìn giữ và phát huy được tiếng mẹ đẻ của mình là tiếng Nguồn.
Với vốn tiếng mẹ đẻ là tiếng Nguồn, người Nguồn sáng tạo cho mình kho tàng văn
học dân gian phong phú đặc sắc gồm truyện dân gian, thơ ca dân gian, phản ánh sâu
sắc hiện thực lịch sử cuộc sống người nguồn từ xa xưa cho dến nay. Báo Quảng Bình
và báo Văn hoá đời sống Quảng Bình đã đăng tải, giới thiệu một số bài văn học dân
gian người Nguồn Người Nguồn cũng sáng tạo ra những làn điệu dân ca đặc sắc
gồm hò thuốc cá, đàn đúm, hát ru các làn điệu dân ca đó phản ánh cung cách sinh
hoạt, khiếu thẩm mỹ và trình độ văn hoá của người Nguồn. Đặc biệt, điệu hò thuốc cá
với cặp từ láy nhịp "hôi lên là hôi lên", là điệu hò bắt nguồn từ nghề lao động thuốc cá
tập thể bằng rễ cây tèng của người Nguồn, gắn bó keo sơn với nghề thuốc cá tập thể
của người nguồn từ xa xưa cho đến nay. Không những phát huy trong nghề thuốc cá,
mà cả trong việc đào đât đấp đê trên các công trường thuỷ lợi có người Nguồn tham
gia, trong các cuộc hội hè và cả trong một số bài hát của những nhà sáng tác ca khúc
ca ngợi quê hương như bài "Minh Hóa -Buônlapha" và bài "Âm vang điệu hò quê
hương " của Đinh Văn Chiểu, "Vấn vương Minh Hóa quê mình" của Ngọc Lí Người
Nguồn rất tự hào về điệu hò thuốc cá này, coi đó là điệu hò độc đáo, chỉ có người
Nguồn mới có. Cùng với kho tàng văn học dân gian và các làn điệu đàn, đúm, ru
con của người Nguồn là niềm tự hào không chỉ của đồng bào Nguồn, mà còn là
niềm tự hào cho cả đồng bào các dân tộc sinh sống ở huyện Minh Hóa từ xưa đến nay.
l. Văn hoá – xã hội
Thị trấn Quy Đạt là trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của huyện, hàng năm
vào hội rằm tháng 3 (15/3 Âm lịch) còn gọi là hội chợ tình, nhân dân khắp các xã của
huyện và người dân ở các huyện khác trong tỉnh tập trung về đây để thưởng thức
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
19
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
không khí lễ hội nhộn nhịp với những trò chơi dân gian, những điệu hôi lên đằm thắm
mượt mà, ẩm thực cơm pồi và ốc tực, chè xanh và mật ong rừng của huyện bởi thế
người Nguồn mới có câu ca:
"Thà rằng đau ốm mà nằm.
Ai lại nở bỏ hội rằm tháng ba.”
Tuy dân số không đông, nhưng người Nguồn lại có nhiều dân tộc anh em cùng
chung sống. Họ đã góp phần làm nên nét phong phú và độc đáo trong đời sống văn
hoá huyện nhà đồng thời sáng tạo ra những thể loại âm nhạc dân gian mang dấu ấn
riêng của người Nguồn đó là:
Hò thuốc cá
Đây là loại dân ca phổ biến ở các xã Quy Hóa, Trung Hóa, Tân Hóa, Minh Hóa và
Xuân Hóa. Họ ca hát khi giã, hoặc đâm nhỏ cây tèng chế thành thuốc thả xuống khe
suối để bắt cá.
Hò thuốc cá có nhịp điệu linh hoạt, khẩn trương theo nhịp chày giã thuốc. Khi hò
thường có người hò cái và người hò con. Hò cái hát vế xướng, hò con hát vế xô, vế xô
bao giờ cũng kết thúc bằng câu “Hôi lên là hôi lên”, còn vế xướng chứa đựng tất cả
nội dung của cuộc hát.
Hò kéo Dôốc (Nốôc)
Cũng như “hò thuốc cá” hò kéo Dôốc gắn với công việc lao động của người dân
vùng làng Cổ Liêm xã Tân Hóa. Nơi đây vào mùa mưa hàng nǎm thường bị nước lũ
tràn ngập cả vùng. Để chống chọi với thiên tai người dân phải vào rừng chặt cây làm
thuyền mà địa phương gọi là cái Dôốc. Khi Dôốc đã đẽo xong phần mộc, họ nhờ vào
sự giúp đỡ của dân làng để kéo Dôốc từ trên rừng về nhà. Họ vừa kéo vừa hò suốt dọc
đường bằng những lời thơ ứng tác, những câu đố vui, châm chọc nhau, những lời đối
đáp nam nữ
Hát Đúm - Ví.
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
20
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Hát Đúm - Ví là hình thức hát giao duyên phổ biến ở người Nguồn. Người Nguồn
không phân tách bạch giữa hát Đúm và hát Ví mà họ cho rằng đúm có nghĩa là đàn
đúm, trong quá trình đàn đúm họ hát nhiều bài ví với nội dung lời ca khác nhau. Hát
Đúm - Ví diễn ra ở nhiều nơi, có thể vào những đêm trǎng sáng, vào những ngày nhàn
rỗi hoặc vào những ngày cấy gặt.
Hát Sắc Pùa
Sắc bùa hoặc sắc pùa là hình thức sinh hoạt nghệ thuật dân gian mang tính nghi lễ
phong tục lâu đời của người Nguồn và một số nơi khác của tỉnh Quảng Bình. Hát Sắc
pùa của người Nguồn tổ chức hát từ ngày 30 tết đến mùng 3 tết âm lịch hàng nǎm,
phường pùa đi đến từng nhà với mục đích chúc tụng, chúc cho nǎm mới mọi gia đình
gặp nhiều may mắn, làm ǎn phát đạt, chúc cho người yên vật thịnh
Một tốp hát Sắc pùa của người Nguồn thường có từ 5 đến 6 người nam giới đảm
nhiệm. Một ông hát chính đồng thời là người chỉ đạo phường pùa, một người hát phụ,
một đánh trống cơm, một trống bản, một xụp xoảng (xủm xỏa) và một người chơi mõ
(những người chơi dàn nhạc nhiều khi cũng kiêm cả phần hát). Tùy theo từng cuộc hát
ở từng gia đình mà thời gian và nội dung bài hát có thể thêm bớt khác nhau. Theo các
nghệ nhân già thì ngày xưa một cuộc hát sắc pùa có tới 62 bài. Ví dụ như:
Mở ngõ
Xưng danh
Chúc nhà mới
Giáo trống
Giáo Pháo
Chúc nǎm mới
Đóng pùa
Hát Chúc trò
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
21
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Hát Chúc trò phổ biến ở làng Tân Kiều, xã Yên Hóa, Minh Hóa. Hát Chúc trò có
nhiều bài hát mang nội dung giống hát sắc pùa. Đã có người cho rằng hát chúc trò là
sự bổ sung cho hát sắc pùa. Nhưng khác với đoàn hát sắc pùa, hát Chúc trò ngoài hát
vào dịp tết, còn hát chúc vào những dịp mừng nhà mới, ngày cưới xin và còn có
những bài nhạc buồn dành riêng cho đám hiếu. Tốp hát Chúc trò thường khoảng từ 4
đến 5 người vừa hát vừa đảm nhiệm phần nhạc cụ. Nhạc cụ tốp chúc trò gồm: 2 đôi
xụp xoảng (xủm xỏa), 1 mõ, 1 tiu và 1 trống con.
Hát Chúc trò gồm nhiều bài bản như: Giáo trống, giáo trò, chúc nǎm mới, mừng
nhà mới, ba hồi nhạc vui, bài nhạc đi đường họ có thể hát kéo dài hay rút ngắn, hát
nhiều bài hay ít bài còn tùy thuộc vào sự hứng khởi, sự tiếp đón và nhu cầu thưởng
thức của gia chủ. Chẳng hạn như:
Ba hồi nhạc vui
Chúc nǎm mới
Mừng nhà mới
Bài nhạc đi đường
Hát Kiều
Đây là lối hát kể truyện Kiều với làn điệu âm nhạc rất riêng của vùng Yên Hóa.
Thường người hát vừa tự đệm đàn đáy vừa hát và có một người đệm trống con. Hát
Kiều được hát vào những dịp lễ hội, giỗ, tết hoặc những lúc nhàn rỗi, bạn bè, làng
xóm cùng ngồi hát chơi. Hát Kiều tính chất thư thái, ngâm ngợi, tiết tấu thay đổi
phong phú.
Hát ru con (tư con)
Người Nguồn cũng như nhiều tộc người khác ở Việt Nam đều có tiếng ru riêng
mang đậm sắc thái của dân tộc mình, tiếng ru của người Nguồn thiết tha, tình cảm,
trong sáng, ngoài sự kết hợp lời ca gần gũi với trẻ nhỏ, những bài đồng dao để dỗ
dành cho trẻ ngủ, còn có những lời ru giãi bày tâm tư tình cảm của người phụ nữ xưa.
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
22
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Hát Bội.
Hát Bội là hình thức hát múa dân gian phổ biến của người Nguồn ở xã Tân Hóa.
Người dân ở đây có quan niệm rằng, những lời hát những điệu múa trong hát bội là
tượng trưng cho tiên trên trời xuống trần gian, ban cho trần gian những điều may mắn,
đồng thời dạy cho dân cách làm ǎn, làm điều thiện Hình thức hát này thường được
tổ chức hát múa ở nhiều nơi vào những ngày rằm, ngày tết, ngày lễ hội. Hát bội gồm
nhiều bài bản, là hình thức diễn xướng hát múa và có trống đệm, giai điệu âm nhạc
trong hát bội đơn giản gần với hát nói.
Hát Nhà Trò
Là hình thức hát múa dân gian của người Nguồn. Trước đây hát nhà trò được tổ
chức vào những ngày rằm tháng 3, tháng chạp, ngày lễ tết tại đình làng Kim Bảng
hoặc ở các nhà khá giả. Dâng hương, dâng rượu, chúc tổ tiên ông bà, sau đó mới
chuyển sang các bài mang tính sinh hoạt thường ngày như: Công cha ngãi mẹ, ru con
may áo, chúc nǎm mới
Tốp hát nhà trò đều do nữ giới hát, người hát khi thì tay cầm quạt, khi thì cầm
sanh vừa múa vừa hát. Phần nhạc đệm đơn giản, chủ yếu là đàn gẩy (đàn đáy) và gõ
(trống chầu, phách). Lời hát là lời chúc:
Dâng hương
Dâng rượu
Chúc tổ tiên ông bà
Chúc nǎm mới
Công cha ngãi mẹ.
Ru con may áo
Những hình thức sinh hoạt âm nhạc dân gian kể trên, có thể nói rằng, âm nhạc dân
gian của người Nguồn phong phú về thể loại, về hình thức sinh hoạt âm nhạc, hấp dẫn
trong phong cách diễn xướng.
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
23
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
l. Cuộc sống của người Nguồn hiện nay
Hiện nay, mức sống của người Nguồn đã cao hơn trước nhiều, không còn cảnh du
canh, du cư mà ổn định làm ăn, trồng lúa nước, trồng rừng, trồng cao su, Thu nhập
(GDP) đạt mức trung bình, đã có nhiều ngôi nhà cao tầng, chợ thường xuyên buôn bán
tấp nập. Tuy có lối sống gần với người Kinh nhưng nét riêng của người Nguồn vẫn
còn trong cuộc sống cũng như trong công việc thường ngày.
3. Rằm tháng 3 – Nét đặc sắc trong văn hóa người Nguồn.
Từ xa xưa, người dân Minh Hóa đã dặn lòng với nhau rằng:
Thà rằng đâu ốm mà nằm
Ai mà nở bỏ chợ rằm tháng ba
Ai đã từng đến dự lễ hội rằm tháng ba ở Minh Hóa, dẫu chỉ một lần thôi cũng sẽ
không bao giờ quên được những ấn tượng đặc biệt của nó. Đó là vẻ huyền ảo của ánh
trăng rằm miền sơn cước quyện trong tiếng hát đúm (một điệu hát giao duyên của
người Nguồn) bày tỏ tình yêu lứa đôi
Từ sớm tinh sương của ngày rằm, các đoàn đại diện cho các làng, xã cùng nhau
đến vùng thác Pụt (Dác Giòn) ở Dốc Cáng, xã Yên Hóa. Tại đây họ dâng hương cúng
Pụt (như ông Bụt trong truyện cổ tích). Chính từ nơi đây đã xuất hiện lễ hội rằm tháng
ba Minh Hóa.
Người già còn kể lại: Ngày xưa có ba anh em nhà nọ lên lèn ông Ngoi tìm mật
ong. Họ đi lạc vào một hang động. Trong đó có cơ man nào là tượng Pụt bằng đá
Ba anh em họ mỗi người vác một tượng về. Đến thác Dác Giòn họ xuống suối
tắm. Nhưng khi vác tượng lên lại để trở về nhà thì không tài nào vác được nữa. Mãi
sau họ mới vác được một tượng về đến Hón Chàn (Hói Tràn) và đặt ở đó. Từ đó đến
nay dòng thác mà ba anh em nhà kia tắm và để tượng Pụt lại, được gọi là thác Pụt.
Vậy là mỗi năm, cứ đến lễ hội rằm tháng 3 mọi người lại đến đây cúng Pụt cầu tự, cầu
tài, cầu lộc chuẩn bị cho một lễ hội rằm mới.
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
24
_____________ Rằm tháng ba – Nét đặc sắc trong văn hóa truyền thống người Nguồn
Người già ở Minh Hóa cho biết ngày xưa, lễ hội rằm tháng ba của đồng bào người
Nguồn ở Cơ Sa, Kim Linh gồm ăn tết rằm tháng 3, hội chợ rằm tháng 3 vào ngày 6
(tức là ngày 16-3 âm lịch). Ngày rằm đó, tất cả mọi nhà của người Nguồn đều làm cỗ
bàn, xôi thịt cúng ông bà tổ tiên. Dân làng ở tổng Cơ Sa đem xôi oản lên chùa cúng
Bụt cầu tự, cầu tài, cầu lộc cho mọi nhà yên vui, thịnh vượng.
Thực hiện: Đinh Ngọc Tú – Th PHú Nhiêu_______________________________
Lễ cúng Bụt trước khi mở hội rằm tháng ba
25