Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 LÀM TỐT VĂN TẢ NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.34 KB, 12 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 LÀM TỐT VĂN TẢ NGƯỜI
PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU:
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như chúng ta đã biết miêu tả nói chung ,tả người giúp các em dùng từ ngữ ,hình
ảnh,lời văn sống động để tả lại hình dáng ,tính tình và hoạt độn của con người.
Hơn nữa khi tiềm ẩn vốn kiến thức làm văn tả người tức là các em đã nhận thức
được rõ hơn về con người trong xã hội .Đó là :Tình cảm đối với thầy cô ;là công
việc vất vả của anh công nhân ;la sự tất bật của người nông dân trên đồng ruộng
lòng biết ơn kính trọng của ông bà hay là tình yêu và công lao nuôi dưỡng của
mẹ…
Nói cách khác tả người không chỉ đơn thuần giúp học sinh biết cảm thụ văn học
biết dùng từ ngữ để vẽ lên một con người như thực mà còn hình thành ở các em
tình cảm yêu thương con nười ,yêu cái thiện ,yêu cuộc sống .
Học sinh lớp 5 dù đã khá quen với văn miêu tả song bây giờ các em mới bắt đầu
thực hiện làm văn tả người .Qua việc tìm hiểu thực tế của học sinh Trường Tiểu
học Bắc Hà hầu hết các bài văn tả người của các em thường rập khuôn theo một
dạng quen thuộc .lời văn của các em còn nhợt nhạt xơ cứng ,thiếu hình ảnh và rất
nghèo nàn .Có những học sinh chưa biết sử dụng các phương pháp trong văn
miêu tả làm cho nhân vật trở nên vô nghĩa méo mó.Giáo viên dạ thường coi nhẹ
lý thuyết ,coi nhẹ kỷ năng và các tiết dạy giáo viên nói nhiều vì vậy các em ít
khai thác và sáng tạo trong bài viết .Là một giáo viên tôi nghĩ rằng :cần phải rèn
luyện và hướng dẫn cho các em biết tả người ngay từ khi còn là học sinh Tiểu
học để phần nào hình thành và phát triển trí thức văn học ,khoa học là nền cho sự
phát triển toàn diện .Với thực trạn và mục đích đó ttooi đã chọn cho mình đề tài
này .Chỉ mong rằng với những suy nghĩ nhỏ bé của bản thân tôi sẽ nhận được
những ý kiến đóng góp từ phía đồng nhiệp.
1
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng là học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Bắc Hà năm học 2011-2012;năm
học 2012-2013


Đề tài này chỉ trình bày về kinh nghiệm dạy văn tả người
III. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NHIÊN CỨU
-Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là tìm ra phươn pháp để giảng dạy nhăm
giúp học sinh làm văn tả người tốt hơn ,góp phần học tốt phân môn tập lam văn.
-Nhiệm vụ nghiên cứu là nghiên cứu tình hình học tập của học sinh về làm văn tả
người .Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa hiện hành để từ đó xây dựng biện
pháp thích hợp .Nghiên cứu hệ thống các biện pháp để thực hiện .
IV. XÂY DỰNG GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU
Nếu áp dụng một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt văn tả người thì sẽ tạo
cho học sinh có kỷ năng tốt khi làm văn tả người ,bài viết của học sinh sẽ sinh
động ,giàu hình ảnh hơn ,bài viết của các em sẽ tạo cho người đọc hình dung
được một con người cụ thể có tâm hồn, tình cảm.
V. PHƯƠNG PHÁP NHIÊN CỨU
-Phương pháp thống kê mô tả
-Phương pháp chọn lọc chi tiết
-Phương pháp độc lập suy nghĩ
-Phương pháp thảo luận nhóm
VI. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
-Góp phần mở rộn vốn sống ,bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ ,hình thành
nhân cách cho học sinh
-Tưng bước nâng cao chất lượng học tập của học sinh lớp 5 ở phân môn tập làm
văn nói chung và kiểu bài văn tả người nói riêng .
PHẦN THỨ HAI
2
NỘI DUNG
I CƠ SỞ KHOA HỌC:
Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác góp phần giáo dục và phát
triển toàn diện cho học sinh. Qua các bài học, học sinh hiểu biết thêm về thiên
nhiên, cuộc sống xung quanh, đất nước, con người Việt Nam . . . . Bên cạnh,
thông qua học Tập làm văn, học sinh có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người,

của thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề Tập làm
văn, học sinh lại có dịp hướng tới cái chân - thiện - mĩ được định hướng trong các
đề bài. Những cơ hội đó làm nảy nở tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên,
với con người và những việc xung quanh của các em, giúp cho tâm hồn, tình cảm
của các em thêm phong phú. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần hình
thành nhân cách tốt đẹp của các em.Trong văn miêu tả nói chung ,kiểu văn tả
người vừa quan trọng lại vừa khó.Quan trọng vì nó giúp học sinh quan sát, khắc
họa và đánh giá một con người mà các em tiếp xúc trong cuộc sống; đánh giá
chung tỏ thái độ yêu ghét đúng mức tức là tự bồi dưỡng được những tình cảm đạo
đức tốt đẹp của con người mới. Tả người khó vì phải biết chọn lọc những chi tiết
thật nổi bật, cho biết người đó ở lứa tuổi nào, làm nghề gì và tính nết ra sao…
Hơn thế nữa, bài văn tả người thành công nhất là ở chỗ nó tô đậm một vài nét đặc
sắc làm cho người ta phân biệt rõ người được tả với những người khác.Chính vì
vậy việc hình thành và rèn luyện kỷ năng “làm tốt văn tả người cho học sinh là
một yêu cầu rất cần thiết.”
II THỰC TRẠNG
1 Về phía giáo viên:
Qua nghiên cứu tham khảo dự giờ và trao đổi với bạn bè đồng nghiệp của Trường
Tiểu học Bắc Hà trong 2 năm 2011-2012;2012-2013;dự giờ giáo viên giỏi về
môn Tập làm văn tôi thấy hầu hết giáo vien và học sinh đều cho là môn học
3
“khó”,phải chăn cái “khó” ở đây là cái ngại.Một số iaos viên rất ngại dự giờ môn
Tập làm văn …và cứ như thế môn Tập làm văn nói chung và văn tả người ở lớp 5
nói riêng kết quả đều chưa mĩ mãn và tiến triển.Qua tìm hiểu tôi thấy cách dạy
của giáo viên ảnh hưởng và tác động rất nhiều đến chất lượng bài làm văn của
học sinh .
Giáo viên dạy thường chú trọng lý thuyết, coi nhẹ kỹ năng.Việc dạy thường tiến
hành theo quy trình nói và viết mà quên mất các kỹ năng bộ phận đặc trưng cho
văn miêu tả như sử dụng từ ngữ hình ảnh,chi tiết…ở các tiết học, giáo viên nói
nhiều, hướng dẫn lý thuyết là chính sau đó đưa ra bài văn mẫu để các em tham

khảo và học tập.Giáo viên chưa biết huy động vốn hiểu biết, khả năng sử dụng từ
ngữ của học sinh vào bài làm của mình.
Giáo viên thường rập khuôn máy móc.Các giờ làm văn miệng giáo viên thường
cho học sinh đọc dàn bài cũng như câu hỏi gợi ý rồi trả lời và tìm dàn ý.
Do quá trình học hỏi,nghiên cứu của một số giáo viên còn hạn chế.Việc nhiên
cứu bài dạy chưa sâu,chưa kỹ.Người giáo viên không thể cung cấp vốn từ,vốn
ngữ cho học sinh một cách dồi dào khi mà “vốn ” đó thực sự ở giáo viên rất ít ỏi.
1 Về phía học sinh:
Mặt hạn chế lớn nhất của các em trong làm bài văn miêu tả nói chung và
kiểu văn tả người nói riêng là bệnh công thức, khuôn sáo, máy móc, thiếu tính
chân thực và cả nghệ thuật nữa. .Vì vậy bài văn của các em thường có các biểu
hiện sau :
-Vay mượn ý ,tình của ngươi khác thường là một bài văn hay một đoạn văn
mẫu nào đó.Có em dựa quá nhiều vào phần dàn bài gợi ý nên khi làm chỉ sao
chép ra và biến thành bài của riêng mình không cần biết đến đối tượng miêu tả cụ
thể không quan sát và chẳng có cảm xúc.
4
-Nếu không dựa vào bài mẫu hoặc gợi ý dàn bài thì bài làm của các em
miêu tả hời hợt,nghèo nàn không có sự sáng tạo.Đặc biệt là cách sử dụng từ ngữ
để diễn đạt,dùng từ láy,từ tượng thanh,tượng hình có tính chất gợi còn rất nghèo
nàn,khôn bộc lộ được sắc thái riêng biệt của đối tượng miêu tả.Những bài văn
như vậy thường nặng về liệt kê,kể lễ dài dòng,câu văn lủng củng rườm rà…
-Học sinh thường dựa vào dàn bai cũng như những câu hỏi gợi ý rồi trả lời
và tìm dàn ý .Kết quả bài làm là những tác phẩm giống nhau theo một bố cục và
bài làm nhất định.
Ví dụ:Khi tả người học sinh thường theo một dàn bài nhất định ;
-Tả hình dáng:+ tả bao quát tuổi tác,tầm vóc khuôn mặt dáng điệu
+ tả chi tiết :khuôn mặt.mái tóc,hàm răng…
-Tả tính tình : + Dẫn chứng cụ thể về lời nói việc làm,thái độ cư xử…
Nhìn chun lại bài văn của các em còn nhiêu hạn chế,từ việc nắm vữn và

vận dụn kiểu bài miêu tả tới việc bố cục hành văn,từ đặt câu tới lỗi chính tả,việc
sử dụn từ nữ và phươn pháp làm bài …
III.GIẢI PHÁP
1.Dùng từ ngữ gợi tả:
Như chúng ta đều biết “Tác giả”của bài làm văn miêu tả mới chỉ 11-12
tuổi .Vốn sống,vốn hiểu biết của các em chưa phong phú,các em còn trong
quá trình tìm hiểu thế giới xung quanh dù giáo viên có cố gắng rất nhiều trong
việc hướng dẫn,tổ chức quan sát đối tượng miêu tả,dù các em có quan sát kỹ đến
mấy nhưng do vốn từ nghèo nàn nên các em cũng chỉ biết đưa vào bài làm hàng
loạt các chi tiết quan sát được,khôn biết chọn lọc gọt giũa cho sát thực gợi tả.Để
cung cấp vốn từ cho học sinh trước tiên giáo viên phải dạy tốt các tiết từ ngữ,ngữ
pháp.Khi dạy cần chú ý xây dựng vốn từ cho học sinh.Ngoài những từ đã có
trong sách giáo khoa các em có trể tự bổ sun thêm một số từ ngữ khác đưa vào
hiểu biết của mình.
5
Các em có thể sử dụng từ ngữ để đặt câu đúng câu hay hoặc giáo viên ra bài tập
cho các em làm.Để các em nắm được giá trị gợi tả,sử dụng của từ,chúng ta có
thể cho các em tìm từ điền vào chỗ trống cho trước một số từ Cách làm này ở
cuộc thi bảy sắc cầu vồng thường có.
Ví dụ: em hãy điền những từ ngữ sau vào chỗ chấm sao cho câu thơ đúng và gợi
tả nhất: ríu rít,thánh hót,râm ran…
Muốn bài văn tả người được tốt cái giản đơn nhất nhưng cũng khó nhất là dùng
từ chính xác.Loại từ cần thiết và có giá trị nhất là từ láy,từ tượng thanh,tượng
hình.
Ví dụ: Khi miêu tả màu da của con người các em có thể sử dụng các từ láy: xanh
xao,hồng hào,trắng trẻo,nâu nâu…
Tả về đôi mắt có: lay láy,ngơ ngác,long lanh,mờ mờ,tháo láo…
Ví dụ: Từ câu “Em bé có đôi má tròn,có vài sợi tóc lơ thơ ở trán màu nâu”ta có
thể sửa lại “Đó là một em bé có khuôn mặt hồng hào,tròn quay,bầu bĩnh.Trên đầu
có mấy sợi tóc đen ngã màu nâu phất phơ xuống đỉnh trán rỗng trông thật ngộ

nghĩnh,thông minh và dễ thương”.
Để đưa từ láy vào làm văn tả người thì khi dạy từ ngữ giáo viên phải cung cấp
kiến thức về từ láy,ý nghĩa giảm nhẹ, và mạnh thêm của từ láy đó.v.v…
Từ đó hình thành kỹ năng cho các em khi làm văn chúng ta nên sử dụng từ
láy.Đặc biệt hơn nữa là tượng thanh,tượng hình.
Ví dụ:Khi miêu tả hình dáng:
Lênh khênh,mập mạp,thon thả,gầy gầy …
6
Tiếng cười giọng nói:
Thỏ thẻ,the thé,khúc khích,thì thao,oang oảng…
Ngoài việc sử dụng từ láy để àm cho bài văn tả người sinh động, giàu hình ảnh
thì học sinh còn phải biết chọn từ ngữ để khắc đậm nội dung,hình dáng và tính
tình người được tả.Muốn vậy giáo viên cần cung cấp cho học sinh từ và ngữ khi
làm văn miêu tả sao cho phù hợp.
Ví dụ:Khi miêu tả tính nết tùy thuộc vào lứa tuổi .
*Một đứa trẻ có thể:
-Hiền lành,thông minh,sáng trí
-Một đứa trẻ chậm chạp,lười biếng
-Một đứa trẻ hiếu thảo,đáng thương
-Một đứa trẻ tinh nghịch,xấc xược
*Một cụ già hoặc thanh niên có thể:
-Có tính hòa đồng –thích sống giản dị-một người hiền lành,khoan dung,rộng
lượng,hiền hòa.Một thanh niên khôn ngoan tháo vát,từng trải…Một người thật
thà,chất phác.
*Một bà mẹ có thể:
-Một người mẹ hiền lành,dịu dàng.Một người mẹ bao dung.Một người mẹ có cái
nhìn âu yếm.Một người mẹ đảm đang…
7
Ngoài ra ở mức độ cao của văn tả người,thông qua hành độn việc làm người viết
cần bộc lộ suy nghĩ tình cảm của nhân vật.

Ví dụ: Thanh đi,người thẳng mạnh.Cạnh bà lưng đã còng .Tuy vậy Thanh cảm
thấy chính bà che chở cho mình như những ngày còn nhỏ…
Còn về phần ngôn ngữ pháp .Muốn viết được một câu văn hay cũng cần phải có
đầy đủ các bộ phận trạng ngữ,sử dụng các biện pháp tu từ và những câu ca
dao,tục ngữ.
Ví dụ:Mặt anh ta đỏ như gấc cứ lừ lừ nhìn tôi
Cô ấy nói ngọt như mía lùi
Một số câu ca dao các em có thể ứng dụng vào làm văn tả người:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào …
Khẳng định lại một lần nữa muốn học sinh làm tốt một bài văn miêu tả thì giáo
viên phải cung cấp vốn từ ngữ,các biện pháp tu từ cho các em thông qua mọi hình
thức.
2.Các phương pháp khác sử dụng trong văn tả người:
Để khắc phục sự rập khuôn,máy móc của học sinh thì khi hướng dẫn làm bài ở
tiết Tập làm văn miệng giáo viên nên khơi dậy cho học sinh một sự sáng tạo.
*Tìm một số nét riêng biệt để tả.
8
Tả người không cần thiết bao giờ cũng phải tả đẹp,tả những nét tốt,những nét tiêu
biểu mà có thể chỉ tả một nét riêng biệt của người đó.
Ví dụ: Tả một chị bán hàng ở phố em
Hầu như bài làm của học sinh đều tả một chị bán hàng đẹp đẽ,khỏe mạnh.Cửa
hàng luôn nhộn nhịp đông vui,tay chị đếm tiền thoăn thoắt,môi chị luôn cười …
Vì như vậy nên khi chấm bài hầu hét giáo viên chúng ta thường gặp những chị
bán hàng giống nhau,đều là những chị có “ khuôn mặt trái xoan” có “ hàm răng
trắng”… “ Lấm tấm mồ hôi”…
Với những thực trạng đó giáo viên cần hướng dẫn cho các em biết, chọn một nét
riêng biệt để tả.
Ví dụ: Cùng tả về người mẹ một em học sinh viết: “ Mẹ cảu em phải làm việc vất

vả, các ngón tay của mẹ gầy gầy, xương xương. Mái tóc của mẹ đã điểm bạc và
làn da đã có nhiều nếp nhăn”.
Có em học sinh khác chỉ chọn nét đặc trưng đó là đôi vai của mẹ và em viết.
Để viết được một câu văn hay,học sinh phải quan sát đối tượng miêu tả một cách
tinh tế .Do vậy giáo viên luôn chú ý đến phương pháp tổ chức cho học sinh quan
sát,chỉ trên cơ sở có sự thu nhận trực tiếp các nhận xét,các ấn tượng,các cảm xúc
của mình các em mới bắt tay vào làm bài.Để thực hiện yêu cầu trên giáo viên
phải dạy tốt các tiết dạy quan sát,ra các đề bài miêu tả người để học sinh có khă
năng tiếp xúc chuẩn bị làm bài đông thời giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học
sinh có kỷ năng quan sát cần thiết,biết lựa chọn các chi tiết tiêu biểu,những ấn
tượng nổi bật để đưa vào bài văn.Có một điều cần chú ý nữa là khi hướng dẫn các
em tập quan sát luôn khéo léo khêu gợi để các em huy động vốn hiểu biết,khả
9
năng liên tưởng,cảm xúc và vốn ngôn nữ giúp cho việc quan sát được tốt
hơn.Song ở lớp 5 tả bà,tả mẹ hay tả bất kỳ một người nào thì các em phải sử dụng
hồi ức,phải huy động vốn hiểu biết,nhận xét,cảm xúc…đã có trong quá khứ về
đối tượn miêu tả để làm bài.Hồi ức tưởng tượng là cách nhìn gián tiếp của con
người phục hồi sự nhìn nhận bằng cách ợi nhớ là “nhìn thầm”.Bài miêu tả sẽ tốt
khi hình ảnh một người nào đó được hiện lên trong tâm trí các em khá hoàn chỉnh
cho nên tron các tiết học giáo viên cần sở dụn những hệ thống câu hỏi.Đặc biệt
hơn là thôn qua các bài tập đọc có tính miêu tả người trong sách giáo khoa của
chươn trình.
Ví dụ: -Cô giáo em có dáng người như thế nào ?
-Nên dùng từ ngữ để miêu tả sát thực?
-Dáng người cô giáo giống dáng người bà không?
Khi miêu tả một em bé ngủ.Một nhà văn đã dùng biện pháp tưởng tượng viết lên
hình ảnh hàng mi và nụ cười em bé như sau:
“Giấc ngủ chập chờn trên hàng mi em bé.Ai biết giấc ngủ từ đâu đến?Nghe nói
giấc ngủ từ trong bóng cây rừng có đom đóm lập lòe dìu dịu có hai nụ hoa thần
kỳ níu cạnh e lệ.Ấy giấc ngủ từ nơi đó hôn lên hàng mi ”

Hay khi miêu tả đôi vai một người mẹ: “Đôi vai của mẹ thành chai từ bao giờ con
khôn biết,chỉ thấy cái u chai đẫ dày cộm lên do suốt đời mẹ chỉ biết gánh và
gánh.Mấy khi chiếc đòn gánh rời vai mẹ.Mẹ gánh đá,gánh củi,gánh thóc,gánh
gạo,gánh đến lúc mấy da rớm máu,dính cả vào đòn gánh.
10
Đôi vai ấy con tin rằng suốt đời mẹ không bao giờ trở lại lành lặn như đôi vai
nười thườn đâu mẹ ạ.Nhưng chính đôi vai xương xẩu,bé nhẹ mỏng manh ấy lại
gánh được bao nhiêu thứ mà nười thường không thể gánh nổi.”
Chỉ tả đôi vai nhưng với đoạn văn thứ hai chúng ta thấy hiện lên hình ảnh một bà
mẹ vất vả chịu thương,chịu khó.Dù khôn một lời nói yêu thương mẹ nhưn chúng
ta lại thấy tác giả bài viết yêu mẹ đến nhường nào.
*Sử dụng các biện pháp tu từ:
-So sánh:Muốn biết được nhữn câu văn miêu tả chứa đầy hình ảnh và giàu cảm
xúc chúng ta không thể không sử dụng các biện pháp như so sánh,tưởng
tượng,điệp từ,điệp ngữ…
Nhưng cái khó ở đây là hướng dẫn các em so sánh tưởng tưởng sao cho khôn trở
thành côn thức như những câu:
“Mái tóc của bà trắng như cước ”.
“Em bé có đôi mắt như hai hạt nhãn”…
Khi miêu tả cùng với biện pháp so sánh nhưng nếu biết :
“Cặp mắt đen của bà vẫn mờ đục, hồi ức không làm cho cặp ấy linh hoạt lên.Da
cổ,da tay,da mặt chằng chịt những nếp nhăn như những nếp cứa.Mỗi khi bà lão
cử động tôi tưởng như làn da khô héo ấy sẽ rách tả tơi rơi xuống từng mảng ”.
Qua cách viết trên ta thấy bài làm hiện rõ một bà lão già nua tội nghiệp hơn là
một cách viết khác.
Quan sát và tưởng tượng .
11
Ví dụ:Mi em bé! Nụ cười khẽ rung lên đôi môi bé ngủ ai biết nụ cười từ đâu
đến ,đó là nụ cười hé nở đầu tiên.Trong giấc ngủ dầm sương ấy, nụ cười khẽ
rung đôi môi em bé ngủ.

12

×