Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Các nguồn và thương phẩm ở Đàng Trong thế kỷ XVI – XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 135 trang )



1
I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN




vũ thị xuyến



Các nguồn và th-ơng phẩm ở đàng trong
thế kỷ xvi - xviii




luận văn thạc sĩ lịch sử





H NI 2014


2
I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN





vũ thị xuyến


Các nguồn và th-ơng phẩm ở đàng trong
thế kỷ xvi - xviii

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60 22 03 11


luận văn thạc sĩ lịch sử


Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Mạnh Dũng


H NI 2014


3
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với quá trình Nam tiến, mở rộng lãnh thổ,
tầm ảnh hưởng văn hóa về phương Nam. Ngay từ khi giành được độc lập vào thế kỷ
X, các chính thể phong kiến Việt Nam luôn có ý thức sâu sắc mở rộng không gian

lãnh thổ trên cả đất liền và trên biển [45, tr. 31-59], [139]. Tuy nhiên, quá trình Nam
tiến chỉ thực sự nổi bật, thu được kết quả to lớn và để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến
trình phát triển của dân tộc khi có sự ra đi của Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất
Thuận Hóa
1
. Khởi nghiệp trên một vùng đất vốn được coi là nơi “Ô châu ác địa”,
chốn dung chứa muôn vàn khó khăn. Tuy nhiên, với tầm nhìn vượt thời đại, chính
sách phát triển đúng đắn, Nguyễn Hoàng (CQ:1558-1613) đã mang đến sự hồi sinh,
một diện mạo mới cho vùng đất cực Nam của tổ quốc thời bấy giờ.
Sự hưng thịnh của hoạt động kinh tế ngoại thương, sự xuất hiện tấp nập của
những đoàn thuyền buôn ngoại quốc đã mang lại cho vương quốc của chúa Nguyễn
một mô hình phát triển hoàn toàn khác so với vùng đất Đàng Ngoài của họ Trịnh.
Được thiết lập trên mảnh đất của người Chăm trước đây, với cái nhìn cởi mở với
biển, người Chăm đã xây dựng và phát triển vương quốc của mình trên nền tảng
kinh tế hải thương và trở thành một đế chế biển phát triển trong nhiều thế kỷ, có tầm
ảnh hưởng mạnh mẽ trong khu vực và thế giới. Để có được các nguồn thương phẩm
phục vụ cho hoạt động buôn bán và bang giao khu vực, người Chăm đã triệt để khai
thác sản vật ở phía Tây lãnh thổ đặc biệt là nguồn gỗ quý và các sản vật từ rừng [50,
180], biến những nguồn hàng này trở thành thương phẩm buôn bán mang giá trị to
lớn
2
. Những thành tựu rực rỡ ấy của người Chăm dường như đã được những người
đến sau là các chúa Nguyễn kế thừa và phát triển. Thực hiện chính sách trọng
thương, triệt để khai thác nguồn lực của đất nước, chúa Nguyễn cũng đặt vương
quốc của mình trên nền tảng kinh tế ngoại thương, phát triển Đàng Trong trở thành


1
Chính sử chép rõ sự kiện này như sau: “Anh Tông, năm Chính Trị thứ 1 (1558), Mậu Ngọ, Thế Tổ thái
vương (Trịnh Kiểm) sai Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng đem quân bản dinh đi trấn thủ Thuận Hóa để

phòng giữ giắc phía Đông, cùng với trấn thủ Quảng Nam Trấn quốc công (Bùi Tá Hán) cứu giúp lẫn nhau,
việc địa phương không cứ lớn nhỏ, quân dân thuế khóa đều giao cho cả. Họ Nguyễn có đất Thuận Hóa từ đấy
[16, tr. 57].
2
Trong sự đa dạng các nguồn hàng ấy, hoạt động buôn bán trầm hương dường như là minh chứng rõ nhất
cho sự liên kết chặt chẽ nhất giữa biển và nội địa của người Chăm [120, tr. 107 – 125]


4
một thể chế biển, triệt để phát huy truyền thống khai thác, phát triển giao thương và
giao lưu văn hóa trên biển [41, tr. 22]. Sự phát triển rực rỡ của kinh tế thương mại,
chúa Nguyễn đang mang đến sự phục hưng, một diện mạo mới cho các cảng thị của
miền Trung Việt Nam [99, tr. 31]. Không thể phủ nhận rằng sự bùng nổ của những
hoạt động thương mại tại xứ Thuận – Quảng là sự tích hợp của yếu tố nội sinh và
ngoại sinh. Chúa Nguyễn đã triệt để khai thác các sản vật để biến chúng thành
thương phẩm mang giá trị kinh tế cao. Các sản vật từ rừng, sản phẩm của ngành
nông nghiệp, thủ công nghiệp….thông qua nhiều chặng khác nhau sẽ được chuyển
đến các cảng thị dọc bờ biển Đàng Trong để cung cấp cho thuyền buôn ngoại quốc.
Xuất phát từ mục đích làm rõ những mặt hàng được buôn bán trong nền thương mại
của họ Nguyễn, cũng như những địa điểm Nguồn – nơi gặp gỡ, buôn bán, trao đổi
của thương nhân với cư dân bản địa, tôi đã chọn đề tài “Các nguồn và thương
phẩm ở Đàng Trong thế kỷ XVI – XVIII” làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
Mảnh đất Đàng Trong nói riêng và thương mại của xứ Thuận – Quảng nói
chung đã thu hút được nhiều nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Những kết quả
nghiên cứu từ các công trình này đã góp phần rất lớn phác dựng, làm rõ và gợi mở
nhiều vấn đề của lịch sử xứ Quảng. Kế thừa kết quả nghiên cứu của những nhà khoa
học đi trước, thực hiện đề tài này chúng tôi mong muốn làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, khi khảo cứu về thương mại của họ Nguyễn, các nhà nghiên cứu
thường nhắc nhiều đến vai trò của Nguồn, vốn được biết đến là nơi thương nhân có
thể thu mua nguồn hàng và thương phẩm từ thị trường bản địa. Mặc dù luôn khẳng

định rằng chức năng kinh tế là vô cùng quan trọng, nhưng hầu như chưa có một
công trình nào nghiên cứu về Đàng Trong làm rõ thuật ngữ này cũng như khảo cứu
và luận giải chi tiết về chức năng kinh tế của Nguồn. Trong công trình nghiên cứu
của mình, chúng tôi cố gắng làm rõ những chức năng của Nguồn, hẳn là cùng với
chức năng kinh tế thì nguồn còn giữ nhiều vai trò khác nữa như chức năng hành
chính, quân sự và chức năng thu thuế.
Thứ hai, trong những nhân tố nội sinh góp phần tạo nên nội lực của thương
mại Đàng Trong thì nguồn thương phẩm đóng vai trò then chốt. Những mặt hàng
mang giá trị kinh tế cao như nguồn lâm, thổ sản, khoáng sản, mặt hàng thủ công
nghiệp…không chỉ là cơ sở để chúa Nguyễn thiết lập các mối giao thương, mời gọi


5
thuyền buôn các nước đến xứ Quảng buôn bán mà còn là điều kiện để chính quyền
Thuận Hóa mở rộng, tăng cường các mối bang giao trong khu vực và quốc tế. Trong
ý nghĩa đó, luận văn cố gắng làm rõ những mặt hàng được buôn bán, trao đổi trong
nền thương mại của chúa Nguyễn cũng như cách thức để thương nhân có được
nguồn hàng mang giá trị kinh tế cao từ thị trường bản địa.
Cuối cùng, thông qua việc phân tích những mối liên hệ thương mại giữa
miền ngược, miền xuôi, giữa những tộc người, thành phần cư dân trong nền
thương mại xứ Quảng, luận văn cũng đi sâu vào khảo cứu những liên kết thương
mại mật thiết giữa thượng nguồn và hạ nguồn, giữa biển và lục địa. Trong sự bùng
nổ của các mối giao thương và các hoạt động chuyên chở, thương mại đã mang
đến cho Đàng Trong một diện mạo mới, một mô thức phát triển đặc biệt trong lịch
sử Việt Nam
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguồn tƣ liệu
Là một bộ phận tự nhiên của lãnh thổ Việt Nam, biển từ rất sớm đã đóng vai
trò vô cùng quan trọng đối với sự hình thành, phát triển của dân tộc Việt. Biển khơi
nơi hàm chứa nhiều rủi ro, nguy hiểm nhưng đồng thời cũng là mạch nguồn để cố
kết không gian lãnh thổ của người Việt. Biển không chỉ đóng vai trò tự nhiên là cân

bằng hệ sinh thái mà còn mang lại nguồn lợi lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội cho các
cộng đồng cư dân sống gần biển và dựa vào biển. Nếu như nhiều thập kỷ trước, lịch
sử Việt Nam chỉ được biết đến với hằng số nông dân/ nông nghiệp/ nông thôn thì
hiện nay với những thành tựu nghiên cứu liên ngành, đa ngành chúng ta ngày càng
chứng minh được truyền thống chinh phục và khai thác biển của người Việt. Trong
ý nghĩa đó, hải sử và hải thương ngày càng thu hút được sự quan tâm, khảo cứu của
nhiều học giả trong nước và quốc tế.
Để góp phần phác dựng lại diện mạo tự nhiên, kinh tế, xã hội của xứ Đàng
Trong, nguồn thư tịch cổ là nguồn tài liệu rất quan trọng được luận văn triệt để khai
thác và sử dụng. Những bộ sử được biên soạn dưới thời kỳ cầm quyền của vương
triều Nguyễn như: Đại Nam thực lục tập 1, 2, 3, 4, 5 (Nxb Giáo dục, 2007); Khâm
định Việt sử thông giám cương mục (Nxb Giáo Dục, 2007)….đã cung cấp cho luận
văn cái nhìn khái quát về bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của xứ Thuận Hóa dưới
thời chúa Nguyễn. Cùng với nguồn tư liệu thư tịch cổ thì các công trình như Ô châu


6
cận lục của tác giả Dương Văn An, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn là những
nguồn tư liệu vô cùng quý giá được chúng tôi triệt để khai thác. Không chỉ sử dụng
thông tin từ các bộ sử biên niên, trong luận văn chúng tôi cũng tập trung khảo cứu tỉ
mỉ những biên chép từ các bộ địa chí như: Đại Nam nhất thống chí, Lịch triều hiến
chương loại chí, Gia định thành thông chí… Những bộ địa chí biên chép về các
tỉnh như Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam… cũng được luận văn sử dụng làm
tư liệu.
Thế kỷ XVII – XVIII, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều là những địa điểm
lui đến thường xuyên của những thương nhân, những nhà truyền giáo. Những biên
chép khách quan của thương nhân người Hoa, người Nhật, người châu Âu đã trở
thành nguồn tư liệu mang giá trị cao khi phác dựng lại lịch sử xứ Quảng. Các công
trình như Hải ngoại kỷ sự, (Viện đại học Huế, 1963) của nhà sư Thích Đại Sán đến
Đàng Trong năm 1695; Xứ Đàng Trong năm 1621, (Nxb TPHCM) của nhà truyền

giáo Cristophoro Borri; Một chuyến du hành tới xứ Nam Hà (1792 – 1793) của
J.Barrow, cùng các công trình của Alexadre Dhode, Hành trình và truyền giáo (Tủ
sách đại kết Thành phố Hồ Chí Minh, 1994), Những người châu Âu ở nước An Nam
(Nxb Thế giới, 2006) của tác giả Chales Maybon… là một trong những nguồn tư
liệu tham khảo chính yếu phục vụ cho luận văn.
Bên cạnh nguồn thông tin từ các bộ sử biên niên, ghi chép của những nhà
truyền giáo, luận văn cũng khai thác, kế thừa nhiều thành tựu của các học giả trong
nước và quốc tế về vị trí của Đại Việt nói chung, Đàng Trong nói riêng trong mạng
lưới thương mại khu vực giai đoạn này. Các công trình như, Thử phác dựng cấu
trúc lịch sử của khu vực Đông Nam Á (thông qua mối quan hệ giữa biển và lục địa)
(Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 6/1994) của học giả Sakurai Yumio , Vai trò
của các cảng thị vùng ven biển Đông Nam Á từ thế kỷ 2 TCN đến đầu thế kỷ 19,
(trong Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học Xã hội, 1991) của tác giả Shigeru Ikuta….
Các bài nghiên cứu về thương mại của người Việt thời cổ trung đại như: Truyền
thống và hoạt động thương mại của người Việt thực tế lịch sử và nhận thức của tác
giả Nguyễn Văn Kim và Nguyễn Mạnh Dũng, chuyên luận Vị trí của Việt Nam
trong hệ thống thương mại biển Đông thời Cổ Trung đại, của tác giả Hoàng Anh
Tuấn (tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 9+10 (389 + 390), 2008), Một cách nhìn từ


7
biển: Bối cảnh vùng duyên hải miền Bắc và Trung Việt Nam của Li Tana

(Nguyễn
Tiến Dũng dịch, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7&8, 2009)…
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo những bài nghiên cứu được đăng trên các
tạp chí chuyên ngành như tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Nghiên cứu Đông
Nam Á, tạp chí Xưa và Nay, những bài nghiên cứu đã cung cấp nhiều thông tin thiết
yếu cho luận văn. Trong đó phải kể đến bài viết của tác giả Nguyễn Phước Tương
(2000), Nguồn hàng xứ Quảng dưới thời chúa Nguyễn (Tạp chí Huế xưa và nay, số

39 & 40), đây được coi là một trong những công trình sớm nhất đề cập đến các mặt
hàng của xứ Quảng được buôn bán, trao đổi trong nền thương mại của họ Nguyễn.
Cũng tập trung khảo cứu về chủng loại nguồn hàng mang lại giá trị thương mại cao
cho chính quyền Thuận Hóa, bài viết Các nguồn hàng và thương phẩm của Đàng
Trong của tác giả Nguyễn Văn Kim trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 4 năm 2011
cũng tập trung khảo cứu chi tiết về nguồn hàng của Đàng Trong. Những kết quả
nghiên cứu từ các công trình này đều được luận văn tham khảo và kế thừa. Bên
cạnh đó, chúng tôi cũng tham khảo nhiều công trình như: Xứ Đàng Trong và các
mối tương tác quyền lực khu vực, (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.2006), bài viết
Ứng đối của chính quyền Đàng Trong với các thế lực phương Tây, (Tạp chí Khoa
học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân Văn, số 26 (2010) của tác giả Nguyễn
Văn Kim; cùng các bài nghiên cứu Chính sách hướng biển của chính quyền Đàng
Trong (thế kỷ XVI – XVIII), (Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 8/2007) của
Dương Văn Huy, hay bài viết Miền trung Việt Nam và văn hóa Champa (một cái
nhìn địa – văn hóa), (Tạp chí Nghiên cứ Đông Nam Á, số 4/1995) của tác giả Trần
Quốc Vượng; Nguyễn Hoàng và bước khởi đầu cuộc Nam tiến (tạp chí Xưa và Nay,
số 104, (11/2002) của học giả Keith W.Taylor,… cũng là những nguồn tài liệu phục
vụ cho luận văn. Ngoài ra, chúng tôi còn khai thác các bài nghiên cứu, những
chuyên khảo tại các Hội thảo khoa học về Đàng Trong của các học giả trong nước
và quốc tế như: Kỷ yếu hội thảo khoa học Hội thảo Cù lao Chàm; Hội thảo về Đô
thị cổ Hội An; Hội thảo chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt
Nam;Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á (thế kỷ XVI-XVII),…
Ngoài những nguồn tư liệu trên, thừa hưởng kết quả từ những nghiên cứu
liên ngành, luận văn cũng triệt để khai thác nguồn tư liệu dân tộc học, nhân học về


8
Đàng Trong, những công trình như: Rừng người Thượng của tác giả Henri Maitre
(2008), Những kẻ săn máu của tác giả Le Pichon (2011), Dam Bo với công trình
Miền đất huyền ảo, các công trình do tác giả Nguyễn Hữu Thông chủ biên như: Ka

Tu kẻ sống đầu nguồn ngọn nước, Văn hóa làng miền múi Trung Bộ giá trị truyền
thống và những bước chuyển lịch sử (Dẫn liệu từ miền núi Quảng Nam)…
Cùng với nguồn tư liệu tiếng Việt, luận văn cũng tham khảo nhiều công trình
bằng tiếng anh của các học giả quốc tế viết về Đàng Trong nói riêng và Đông Nam
Á thế kỷ XVI – XVIII nói chung. Một trong những cuốn sách đó là, Southern
Vietnam under the Nguyen, Documents on the Economic History of Cochinchina
(Đàng Trong) 1602 – 1777, (Institute of Southeast Asia Studies, 1993), của Li Tana
và Anthony Reid; cuốn Viet Nam Boderless Histories, (the University of
Wisconsin press) của tác giả Nhung Tuyet Tran và Anthony Reid; hay cuốn, Water
Frontier Commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750 – 1880,
(Rowman and Littlefield, Singapore, 2004) của tác giả NoLa Cooke và Li Tana.
Học giả Alastair Lamb (1970) với The Mandarin to Road to Old Hue Narratives of
Anglo – Vietnamese Diplomacy from the 17th century to the eve of the French
Conquest. Gerald Cannon Hickey với Sons of the Moutains Enthnohistory of the
Vietnamese Central Highlands to 1954……Những tập du ký của các nhà du hành
như: John Crawfurd (1830), Journal of an embassy from the Governor – General of
India to the courts of Siam and Cochinchina; Olga Dror – K.W. Taylor (2006),
Views of Seventeenth – Century Vietnam Christoforo Borri on Cochinchina and
Samuel Baron on Tonkin, Cornell University Ithaca, New York,….Các công trình
về bối cảnh của Đại Việt như: Victor Lieberman (2003) với Strange Parallels
Southeast Asia in Global Context, c. 800 – 1830, Nicholas Tarling (1992) với The
Cambridge History of Southeast Asia, Cambridge University Press, C.R. Boxer
(2004) với South China in the Sixteenh Century, Orchid Press Bangkok…
Các bài nghiên cứu khác như, Re-thinking the Sea in Vietnamese History:
Littoral Society in the Integration of Thuận – Quảng Seventeenth – Eighteenth
centuries, (Journal of Southeast Asian Studies, 37) của tác giả Charles wheeler; hay,
An alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the Seventeenth and Eighteenth
centuries, Journal of Southeast Asian Studies của học giả Li Tana; công trình A



9
view from the mountain: A Critical History of Lowland - Highlander Relations in
Vietnam (2010 International Conference on VietNamese and Taiwanese Studies,
National ChenKung University) của tác giả Oscar Salemink, Bennet Bronson
(1977) với Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Notes toward a
Functional Model of the Coastal State in Southeast Asia, Jams Kong Chin (2004),
The Junk trade between South China and Nguyen Vietnam in the later Eighteenth
and Early nineteenth centuries, Dr. Gutzlaff (1849), Geography of the Cochi –
Chinese Empire, cũng là những nguồn tư liệu quan trọng được luận văn sử dụng.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi tuyệt đối tuân thủ các nguyên
tắc của khoa học lịch sử. Cùng với cái nhìn lịch đại chúng tôi cũng đặt Đàng Trong
dưới dòng chảy đồng đại để đưa ra những nhận định sâu sắc và khách quan. Đồng
thời, chúng tôi cũng áp dụng triệt để phương pháp khu vực học nhằm có cái nhìn hệ
thống, các mối quan hệ thương mại của Đàng Trong với thị trường Đông Nam Á.
Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu Hệ thống cấu trúc cũng được áp dụng trong
luận văn, nhằm đặt các nhân tố cấu thành nên nền hải thương Đàng Trong trong sự
tác động, qua lại lẫn nhau, cũng như sự tương tác của thị trường Đàng Trong với thị
trường thương mại khu vực và quốc tế. Ngoài ra, Phương pháp so sánh, Phương
pháp phân tích, cũng được chúng tôi sử dụng để nghiên cứu ngoại thương Đàng
Trong. Nhằm đi đến những nhận định, đánh giá về kết quả trong hoạt động thương
mại Đàng Trong, chúng tôi cũng triệt để áp dụng Phương pháp nghiên cứu liên
ngành, như những kết quả nghiên cứu về Đàng Trong từ quan điểm khảo cổ học,
dân tộc học, nhân học và văn hóa học…
4. Giải thích khái niệm
4.1. Cochinchina và Đàng Trong
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Cochin china, từ giữa thế kỷ XIX trở về
trước, chỉ miền Trung của Việt Nam hiện nay, và từ giữa thế kỷ XIX trở về sau, để
nói đến miền Nam Việt Nam. Lần đầu tiên chúng ta bắt gặp tên gọi Cochinchina này
có lẽ là trong tác phẩm The Suma Oriental của Tom Pires năm 1515. Đất nước ông

muốn ám chỉ chính là Việt Nam [67, 19]. Trong tiến trình lịch sử có thể thấy sau gần
nửa thế kỷ giao tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn (1627 – 1672),


10
cục diện phân cắt Đàng Ngoài (Tonkin) và Đàng Trong (Cochinchina) đã được xác
lập với sông Gianh làm giới tuyến. Trong luận văn, chúng tôi sử dụng thuật ngữ Đàng
Trong hay Cochinchina là để chỉ vương quốc của chúa Nguyễn tồn tại khi có sự ra đi
của Nguyễn Hoàng đến khi quân Tây Sơn chiếm được Thăng Long (1786), chấm dứt
sự chia cắt hai miền. Như vậy, khung niên đại mà luận văn quan tâm đó là vùng đất
Đàng Trong trong các thế kỷ XVI, XVII, XVIII.
4.2. Người Thượng, người Man
Trong nghiên cứu về vùng đất Đàng Trong, các nhà nghiên cứu thường bắt
gặp những thuật ngữ như “người Thượng”, “người Man” hay “người Mọi”. Theo
ghi chép của nhiều thương nhân ngoại quốc, nhiều nhà du hành khi có mặt ở Đàng
Trong thế kỷ XVII – XVIIII thì tên gọi này dùng để nói về những cư dân sinh sống
ở vùng núi phía Tây xứ Thuận Hóa, thuộc dãy núi Trường Sơn. Theo miêu tả của
một vị nữ tu người Pháp có mặt ở Đàng Trong năm 1686 thì: Xứ Đàng Trong, ở
phía đông của nó là biển, phía bắc là Đàng Ngoài, phía tây là những người man di
Ké-moi, và phía nam là vương quốc Chiampa [ ]. Xứ Đàng Trong dài một trăm
dặm kể từ phía bắc xuống phía nam, và mười, hai mươi hay hai mươi lăm dặm bề
rộng. Cách những người man di Ké-moi mười hay mười hai dặm, những người này
vẫn dâng cống vật cho nhà Vua Đàng Trong [11, 31] Chia sẻ với nhận định này, tác
giả Phan Khoang cũng cho rằng, “Những giống người ở miền cao nguyên, dọc theo
dãy núi Trường Sơn Trung Việt và ở cao nguyên Nam Việt, trước kia người ta
thường gọi chung là Mọi [36, 399]. Trong khuôn khổ nghiên cứu của mình, chúng
tôi sử dụng thuật ngữ “người Thượng”, “người Man” cũng để chỉ những cư dân
sống ở vùng núi thuộc dãy Trường sơn ở phía tây xứ Thuận – Quảng. Để tôn trọng
tính nguyên bản của tư liệu nên trong các dẫn chứng chúng tôi vẫn giữ nguyên cách
gọi “người Mọi”, hay “người Man”. Tuy nhiên, những thuật ngữ này đều mang ý

nghĩa chung là người Thượng.
4.3. Những khái niệm khác
Ngoài ra, trong luận văn, chúng tôi còn sử dụng một số khái niệm liên quan
đến cấu trúc thương mại như: Trung tâm liên thế giới, Trung tâm liên vùng….
Những khái niệm này, chúng tôi sử dụng theo định nghĩa của GS. Sakurai Yumio.


11
- Trung tâm liên thế giới: là nơi giao thương giữa hai thế giới phương Đông
và phương Tây, đồng thời là nơi gặp gỡ của những trung tâm liên vùng với thị
trường thế giới.
- Trung tâm liên vùng: là trung tâm thu gom và phân phối hàng hóa với chức
năng trung chuyển giữa trung tâm liên thế giới và các vùng.
- Trung tâm vùng: là trung tâm thu gom và phân phối hàng hóa với chức
năng trung chuyển giữa các vùng với các địa phương.
-Trung tâm địa phương: là cầu nối thu gom và phân phối phục vụ địa phương
5. Các phần của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương
Chƣơng 1: Vai trò, vị thế và tiềm năng của Đàng Trong
Chƣơng 2: Nguồn trong kinh tế thƣơng mại Đàng Trong.
Chƣơng 3: Thƣơng phẩm tại Đàng Trong.



12
Chương 1
VAI TRÒ, VỊ THẾ VÀ TIỀM NĂNG CỦA ĐÀNG TRONG

1.1. Đàng Trong trong bối cảnh khu vực thế kỷ XVI-XVII
1.1.1. Đàng Trong trong Kỷ nguyên thương mại châu Á

Biển khơi từ rất sớm đã hiện hữu trong tâm thức của người Việt. Biển ở về
phía đông nơi cư trú của con người nên người Việt gọi vùng biển ấy là Biển Đông.
Từ thủa hồng hoang của dân tộc, cùng với việc khai phá, bao chiếm những vùng
trên non thì những người dân con lạc cháu hồng đã ý thức tới việc khai phá không
gian, nguồn lợi của biển [45, tr. 95-137, tr. 31-59]. Truyền thống hướng biển và
khai thác biển đã sớm xuất hiện ở những cộng đồng cư dân từng tồn tại trên lãnh
thổ Việt Nam. Nhờ kết quả nghiên cứu khảo cổ học, nhân học….cùng với những
nguồn tư liệu mới, chúng ta ngày càng khẳng định được một cách chắc chắn về
một truyền thống khai thác và buôn bán trên biển trong lịch sử Việt Nam [87],
[68]; [30]; [45, tr. 200-224] . Thực tế đã cho thấy, với vị trí quan trọng trên con
đường thương mại quốc tế, từ rất sớm, các cảng thị Việt Nam đã đóng vai trò như
một trung tâm liên vùng, thậm chí có thời điểm được coi như trung tâm liên thế
giới [33, tr. 257], [63, tr. 37-55]
Hoạt động thương mại sôi nổi của thương nhân người Hoa, Ảrập, Ấn Độ,
Đông Nam Á đã như một chất xúc tác đưa Việt Nam dự nhập mạnh mẽ vào thị
trường khu vực và thế giới. Sự hưng thịnh của các thương cảng dọc bờ biển Việt
Nam như Vân Đồn ở vùng Đông Bắc, Thanh - Nghệ Tĩnh ở Bắc Trung Bộ; Vijaya
của người Chăm ở Nam Trung Bộ đã cho thấy hoạt động thương mại sôi nổi của
người Việt trong nhiều thời kỳ lịch sử. Sang thế kỷ XVII – XVIII, nhờ tích hợp
những yếu tố ngoại sinh và nội sinh, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều nhanh
chóng dự nhập và trở thành những mắt xích trọng yếu trong mạng lưới hải thương
khu vực [81]. Trong bối cảnh hoạt động giao thương giữa phương Đông và phương
Tây diễn ra mạnh mẽ, cùng cái nhìn cởi mở về biển, chúa Trịnh và chúa Nguyễn
đều thực thi nhiều chính sách khuyến thương mạnh mẽ. Với Đàng Trong, thương
mại không chỉ mang lại thế đứng chân vững chắc cho chúa Nguyễn trên vùng đất


13
mới có nhiều khác biệt về văn hóa
3

, mà còn là bệ đỡ để chính quyền Thuận Hóa mở
rộng tầm ảnh hưởng về phương Nam. Những thuyền buôn tấp nập ở vùng biển
Đàng Trong đã mang đến sự phục hưng cho nhiều thương cảng như Thanh Hà
(Huế), Hội An (Quảng Nam), Nước Mặn (Bình Định)
4
Trong mối quan hệ tương
hỗ, hệ thống thương cảng cũng chính là cửa ngõ giao thương, đối ngoại của chính
quyền Thuận Hóa, mang lại sự vững mạnh cho vương quốc, nâng cao uy tín của
chúa Nguyễn trong khu vực [41].
Thực tế đã cho thấy thái độ cởi mở với thương mại của các chúa Nguyễn mà
khai mở là chúa Tiên Nguyễn Hoàng (cq: 1558 – 1613), cùng với nguồn thương
phẩm dồi dào cho giá trị cao, là những nền tảng nội sinh vững chắc cho kinh tế
thương mại Đàng Trong. Tuy nhiên, cũng giống như những thể chế biển đã tồn tại
trong lịch sử Việt Nam và trở thành một phần lãnh thổ của Việt Nam sau này như
Champa, Phù Nam, trong quá trình phát triển, bên cạnh việc phát huy sức mạnh nội
tại thì những nhân tố bên ngoài cũng là những trợ lực quan trọng. Không thể phủ
nhận rằng cùng với nguồn hàng và thương phẩm mang giá trị cao thì chính vị trí then
chốt trong hệ thống thương mại Biển Đông thời cổ - trung đại là nhân tố góp phần
vào sự hưng thịnh của hải thương Chăm Pa. Trong ý nghĩa đó, thì sự thay đổi của lộ
trình thương mại là nguyên nhân then chốt dẫn đến sự suy tàn của vương quốc Phù
Nam. Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn dường như cũng có được những thuận lợi
này khi xuất hiện kịp thời và nhanh chóng nắm bắt được vị thế của mình trong Kỷ
nguyên thương mại châu Á (The Age of Commerce).
Xung quanh quan niệm về thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của hải thương Châu
Á, dù còn nhiều ý kiến tranh luận
5
, nhưng nhiều nhà nghiên cứu đều chấp nhận niên


3

“Nhân dân Thuận Hóa bấy giờ gồm những thành phần rất phức tạp. Ngoài những người Chăm lo cày cấy, làm
ăn, còn những người còn theo họ Mạc, hoặc khuấy động cho họ Mạc, những người tù đày, những du đảng,
phiêu lưu, từ các miền Nghệ, Thanh hoặc xa hơn nữa xâm nhập qua các thời đại, đi tìm may mắn ở miền đất
mới, những quan, quân bất mãn họ Trịnh hoặc bị lầm lỗi bỏ chạy vào Nam, những thổ hào, thổ tù cường ngạnh,
nhũng nhiễu lương dân, những người Chàm còn ở lại. Bấy nhiêu hạng người, Đoan Quận Công phải khai hóa
họ, buộc họ phải yên ổn làm ăn, khiến họ phục tùng mình. Công việc ấy không phải dễ dàng”. [36, 110]
4
Các nhà sử học - khảo cổ học Việt Nam và nước ngoài đã nhận định rằng: thế kỷ XVI-XVII là buổi hồi sinh
của các cảng biển miền Trung và Nam Trung Bộ nước ta: Cửa Tùng (Tùng Luật), Cửa Việt (Việt Hải môn
hay Việt Khách, Quảng Trị), Cửa Eo (Thuận An) Thanh Hà, cửa Tư Hiền (Thừa Thiên Huế), cửa Hàn - cửa
Đại (Đà Nẵng - Hội An, Quảng Nam), Thị Nại (Quy Nhơn, Bình Định, Nha Trang (Khánh Hòa), Phan Rang,
Phan Thiết (Thuận Hải)… [99, tr. 31]
5
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, ở Đông Nam Á còn tồn tại một kỷ nguyên thương mại sớm, kéo dài từ
năm 900-1300, “Một trong những nhân tố tác động rất lớn và gần như xuyên suốt “kỉ nguyên sớm của
thương mại Đông Nam Á (900-1300)”, như Geoff Wade từng đề xuất, là những chính sách về thương mại và


14
đại từ 1450-1680 làm mốc phân chia. Quan điểm này được đưa ra bởi nhà nghiên
cứu Anthony Reid để chỉ thời kỳ hoàng kim của thương mại Đông Nam Á. Theo tác
giả, đây được coi là kỷ nguyên thương mại bởi hai lý do:
Thứ nhất, đó là sự kéo dài liên tục trong suốt thế kỷ thứ XVI, ảnh hưởng
không chỉ ở châu Âu và Địa Trung Hải mà còn ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,
trong số đó Đông Nam Á giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Những mặt hàng quan
trọng nhất (ngoại trừ vàng và bạc) của khu vực, được coi là những nhân tố thiết yếu
để tạo nên nguồn lợi cho các thương nhân đó là: hạt tiêu (pepper), hương liệu và hạt
nhục đậu khấu - có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Thứ hai, trong suốt giai đoạn này,
thương nhân, nhà cầm quyền, những đô thị và nhà nước ở Đông Nam Á đều có sự
tham gia vào dòng chảy thương mại tại khu vực. Các trung tâm thương mại nổi bật

thời kỳ này là: Pegu, Ayuthaya, Phnompenh, Hội An (Faifo), Melaka, Patani,
Brunei, Pasai, Acheh, Banten, Japara, Gresil, và Massar [126, tr. 1]
Tuy nhiên, khi nghiên cứu lịch sử thương mại nói chung và ngoại thương
Đàng Trong nói riêng thì cùng với việc hướng đến những đánh giá mang tính tổng
quan, chúng ta cũng cần có cái nhìn phân lập trong từng thời đại lịch sử. Bởi lẽ, có
một thực tế là, không phải tới thế kỷ XV, với sự xuất hiện của hàng loạt các cuộc phát
kiến địa lý thì những mối liên hệ giữa phương Đông và phương Tây mới được thiết
lập. Năm 618, nhà Đường (618-907) – một triều đại lớn và hùng mạnh của Trung
Hoa đã khai mở con đường tơ lụa (Silk road) trên biển, cùng với con đường tơ lụa
trên bộ đã tồn tại từ lâu để thiết lập nên những mối giao thương Đông – Tây. Dưới
thời đại nhà Đường và các triều đại sau đó, dòng chảy của con đường tơ lụa là mạch
nguồn truyền tải hàng hóa, văn hóa của phương Đông sang phương Tây. Mặc dù vậy,
chỉ tới thế kỷ XV, sau hệ quả của các cuộc phát kiến địa lý thì những mối liên hệ từ
chiều sâu lịch sử ấy mới diễn ra một cách sôi động và có sự thay đổi rất lớn về quy
mô và mức độ. Sự thay đổi dễ dàng nhận thấy nhất trong giai đoạn này là nếu như
trước đây, dòng chảy thương mại chủ yếu là từ phương Đông sang phương Tây thì
sau thế kỷ XV là từ phương Tây sang phương Đông. Khác với giai đoạn trước, những


kinh tế hết sức tích cực và chủ động của các vương triều Tống và Nguyên ở Trung Quốc. Nối tiếp chủ trương
coi trọng tiền tệ để phát triển thương mại của các chư hầu thời kì Ngũ Đại, dưới thời Tống, những chính sách
cụ thể về tiền tệ, trao đổi, thuế khoá… trong giao dịch với người nước ngoài đã được thực thi nhằm kích
thích sự mở rộng của ngoại thương. [87, tr. 7]


15
mối liên hệ buôn bán thường diễn ra một cách độc lập, nhỏ lẻ thì sau thế kỷ XV hầu
hết những quốc gia phương Tây đều xây dựng được cho mình một hệ thống các công
ty Đông Ấn, khiến hoạt động buôn bán diễn ra một cách quy củ và chặt chẽ.
Hoạt động thương mại mạnh mẽ của các công ty Đông Ấn, đặc biệt là Công

ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) đã như một cánh cửa mở ra thế giới phương Tây đối với
các quốc gia Đông Nam Á. Có thể nói “công ty Đông Ấn Hà Lan VOC là sự nối dài
đầu tiên của hệ thống thương mại châu Âu tại Đông Nam Á và có ảnh hưởng rất
nhiều tới lịch sử cận đại của Đông Nam Á. Batavia, trung tâm của mạng lưới VOC,
trở thành trung tâm liên thế giới vào thế kỷ XVII [63, tr. 52]. Sự xuất hiện của
người châu Âu tại thị trường Đông Nam Á đã phá vỡ cấu trúc thương mại truyền
thống tại đây. Một sự kết nối thị trường trực tiếp giữa phương Đông và phương Tây
được thiết lập. Các thuyền buôn của người châu Âu mà tiên phong là người Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, người Hà Lan… đã đảm nhận vai trò liên thế giới này. Hoạt
động của các thương thuyền phương Tây càng làm cho giá trị các sản phẩm hương
liệu của Đông Nam Á được nâng cao đáng kể. Trong ý nghĩa đó, nguồn thương
phẩm lâm thổ sản, khoáng sản, hải sản, sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp….
của Đàng Trong cũng là một trong những mặt hàng có sức hấp dẫn lớn với các
thuyền buôn ngoại quốc. Nguồn hàng này không chỉ được buôn bán ở thị trường
khu vực mà còn là nhu cầu rất lớn của thị trường quốc tế.
Bờ biển Đàng Trong là nơi cung cấp hàng hóa trực tiếp cho thuyền buôn
phương Tây. Không những vậy, Đàng Trong dường như còn là thị trường trung
chuyển những sản phẩm hương liệu của Đông Nam Á. Trong tác phẩm Công ty
Đông Ấn ở Quảng Nam, tác giả W.J.M.Buch cho rằng: “Lý do khiến có nhiều
thương gia như vậy hàng năm từ Trung Hoa đến Quảng Nam là vì có thể tìm thấy ở
đây một trung tâm buôn bán với các nước và vùng lân cận. Hồ tiêu được chở tới đây
từ Palembang, Pahang và các vùng khác; long não từ Borneo, gỗ vang và ngà
voi…., đồ sứ thô và các hàng hóa khác. Với những gì còn lại, họ có thể mua thêm
hồ tiêu, ngà voi, bột gia vị bạch đậu khấu của Quảng Nam… Do đó, thuyền của họ
trở về Trung Hoa thường là đầy hàng” [41, tr. 24]. Những thương phẩm từ rừng, từ
ngành nông nghiệp cũng như nguồn hàng từ thị trường khu vực đã tạo cơ sở cho
Đàng Trong dự nhập mạnh mẽ vào hệ thống thương mại khu vực.


16

Cũng theo nhiều nhà nghiên cứu, Hội An – thương cảng quốc tế quan trọng
nhất của xứ Quảng chỉ phát triển một cách mạnh mẽ sau năm 1600, khi chúa
Nguyễn đã thiết lập được ở đây một vương quốc độc lập với Đàng Ngoài mà người
phương Tây gọi là Cochinchina [126, tr. 19]. Có thể thấy, Nguyễn Hoàng (1524 –
1613) – vị chúa khai mở đất Đàng Trong đã xuất hiện kịp thời trong bối cảnh
thương mại khu vực có nhiều thay đổi đột phá. Phát huy tài năng và tầm nhìn hướng
biển của mình, Nguyễn Hoàng đã nhanh chóng nắm lấy cơ hội và biến các thương
cảng của Đàng Trong trở thành thị trường trung chuyển hàng hóa, địa điểm neo đậu
và giao thương lý tưởng cho các thuyền buôn ngoại quốc. Nhiều cảng thị của Đàng
Trong đã trở thành nơi giao thương, cư trú của thương nhân nước ngoài mà điển
hình là người Hoa và người Nhật. Cùng với đó hệ thống phố Khách và phố Nhật
cũng được thành lập ở nhiều cảng thị khác ở Đông Nam Á
6
, đã kết nối thị trường
khu vực, tạo nên sự hưng thịnh cho thương mại Đông Nam Á nói chung và Đàng
Trong nói riêng. Những đoàn thuyền buôn phương Tây xuất hiện đã thiết lập hoàn
chỉnh hệ thống thương mại Nội Á, bằng hàng loạt các công ty Đông Ấn. Có thể nói
mạng lưới giao thương của các công ty Đông Ấn đã gắn kết thị trường Đông Nam Á
với các trung tâm thương mại lớn của khu vực như Trung Hoa, Nhật Bản, đồng thời
thiết lập nên những mối liên hệ trực tiếp giữa phương Đông và Phương Tây. Hoạt
động thu mua, luân chuyển hàng hóa của các công ty Đông Ấn càng làm tăng giá trị
của các thương phẩm Đông Nam Á, lôi cuốn nhiều quốc gia vào hoạt động thương
mại. Trong sự tác động qua lại, Đàng Trong đã tận dụng mọi nhân tố nội sinh và
ngoại sinh để phát triển kinh tế hải thương.
1.1.2. Vai trò của thương nhân khu vực với thương mại Đàng Trong
Người Hoa
Trung Hoa từ rất sớm, là một trong những thị trường tiêu thụ chính hương
liệu, hàng hóa của khu vực Đông Nam Á. Thực tế đã cho thấy, mọi sự biến động
của thị trường này đều có ảnh hưởng to lớn tới thương mại khu vực. Những hoạt
động thương mại của Đàng Trong thế kỷ XVI - XVIII, cũng không nằm ngoài sự



6
“Trong thời kỳ Châu ấn thuyền (shuishen) (1591-1635) thuyền buôn của Nhật Bản đã tiến mạnh mẽ xuống
các thương cảng Đông Nam Á, buôn bán trực tiếp và cạnh tranh quyết liệt với thương nhân phương Tây cũng
như khu vực. Nhờ đó, Nhật Bản đã xác lập được vị trí kinh tế khá quan trọng trong hệ thống thương mại khu
vực Đông Nam Á, đặc biệt là ở Siam (Ayuthaya), Hội An (Faifo), Tonkin (Đàng Ngoài), Phnompenh,
Batavia, Manila Người Nhật đã lập nên các khu phố Nhật để sinh sống và buôn bán lâu dài [81, tr. 173].


17
chi phối của người Hoa. Nhằm đối phó với nạn cướp biển (Wako) hoành hành tại bờ
biển phía đông Trung Hoa, đồng thời thu nắm độc quyền hoạt động thương mại vào
tay triều đình, hoàng đế Hồng Vũ nhà Minh đã thi hành chính sách Hải cấm
7

(Haichin) (1371 - 1567). Chính sách này đã có ảnh hưởng to lớn tới thương mại
Đông Nam Á nói chung và thương mại Đàng Trong nói riêng. Đến năm 1567, trước
sức ép của nhân dân các tỉnh ven biển Trung Hoa, Minh Mục Tông đã bãi bỏ chính
sách “thốn bất hạ hải” và cho phép thuyền buôn Trung Hoa tới giao thương với các
nước Đông Nam Á. Mặc dù cổ vũ những đoàn thuyền buôn xuất dương, nhưng nhà
Minh đã rất thận trọng khi chỉ cho phép Hoa thương buôn bán tại các cảng thị của
Đông Nam Á mà nghiêm cấm mọi hoạt động giao thương với Nhật Bản.
Việc bãi bỏ chính sách Hải cấm của nhà Minh, đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các thương nhân người Hoa tới buôn bán chính thức tại các cảng phía Nam Trung
Hoa. Hoa thương sau một thời gian bị đình trệ, kiềm chế hoạt động thương mại đã
nhanh chóng nắm lại thị trường Đông Nam Á. Hơn nữa, mặc dù bãi bỏ chính sách
Hải cấm nhưng Minh Mục Tông chỉ cho phép các thuyền tới buôn bán tại các cảng
biển Đông Nam Á. Do đó, vai trò của Hoa thương ngày càng tăng lên trong hoạt
động thương mại khu vực, bởi họ không những là những người thu mua, cung cấp

hàng hóa cho thương nhân bản địa mà còn cung cấp thương phẩm cho các thuyền
buôn Nhật Bản, vốn chỉ có thể có được hàng hóa của người Hoa tại thị trường trung
gian là các cảng thị phía Nam mà thôi.
Trong bối cảnh ấy, Đàng Trong trở thành điểm kết nối thương mại phi quan
phương giữa người Nhật và người Hoa. Ở mạng lưới thương mại này, dường như
Hoa thương là những thương nhân giữ vị trí then chốt, đóng vai trò là người cung
cấp thương phẩm cho thị trường Nhật Bản. Không chỉ là thương nhân trung gian
kết nối thị trường, hay là những người thu gom hàng hóa bản địa cung cấp cho
những thuyền buôn ngoại quốc, người Hoa còn là những thương nhân hoạt động
tích cực khi là những nhà phân phối hàng hóa từ các thuyền buôn ngoại quốc về thị
trường địa phương. Hiển nhiên là, trong mối quan hệ thương mại đó, Hoa thương là
những người thu được lợi nhiều nhất, nhưng những hoạt động của họ cũng đáp ứng


7
Thực chất của chính sách này nhằm mục đích “Nhà nước giữ độc quyền về ngoại giao và ngoại thương; củng
cố vị thế, quyền lực của chính quyền trung ương trước muôn vàn khó khăn, sức ép chính trị, kinh tế từ bên trong
cũng như bên ngoài” [29, tr. 149 – 170].


18
phần nào nhu cầu hàng hóa của cư dân Đàng Trong, lôi cuốn thương nhân, xã hội
bản địa vào các hoạt động thương nghiệp.
Với truyền thống thương mại, lại là những thương nhân nhanh nhạy, giàu
kinh nghiệm trong hoạt động buôn bán, người Hoa đã tạo lập cho mình một vị thế
vững chắc tại nhiều cảng thị của Đàng Trong. Không thể phủ nhận rằng, sự phát
triển của thương cảng Hội An – thương cảng quan trọng nhất của Đàng Trong có sự
đóng góp rất lớn của cộng đồng người Hoa tại đây. Người Hoa đã được chúa
Nguyễn sử dụng trong những vị trí quan trọng [31] như người thông ngôn, những
bộ phận trong Ty tàu vụ…. Chính vị thế của Hoa thương cũng như những đóng góp

của người Hoa đối với kinh tế ngoại thương của Đàng Trong, người Hoa đã được
chúa Nguyễn hết sức ưu ái khi cho phép họ lập một thành phố riêng tại Hội An để
tiện cho việc lưu trú và buôn bán. Trong sự tác động qua lại thì chính những chính
sách mềm dẻo của chính quyền Thuận Hóa là cơ sở để Hoa thương thâm nhập mạnh
mẽ vào thị trường địa phương để thu mua các nguồn thương phẩm.
Khi nhà Minh sụp đổ (1644), nhà Thanh thay thế đã dẫn đến những làn sóng
di cư ồ ạt của người Hoa xuống Đông Nam Á, trong đó có các cảng thị phía Nam
của Thuận Hóa. Chúa Nguyễn với tư tưởng thoáng mở đã chấp nhận cho những
người Minh hương này được cư trú lâu dài tại Đàng Trong. Đại Nam thực lục cho
biết: chúa Nguyễn Phúc Tần (cq: 1648 – 1687) đã cho những người Hoa tị nạn,
đứng đầu là Trần Thượng Xuyên được cai quản vùng đất Nam Bộ: “Hy Tông, Vĩnh
Trị năm thứ 4 (1679), Kỷ Mùi, tháng 5, bề tôi vong mệnh của nước Đại Minh là
Long Môn tướng quân Dương Ngạn Địch đem hơn 50 chiến thuyền và hơn 3000
quân đến đóng ở ngoài cửa Tư Dung và cửa Đà Nẵng, sợ quân Thuận Hóa mạnh
giỏi không dám vào. Thủ tướng cửa Tư Dung cho người ra hỏi. Ngạn Dịch dựng cờ
trắng hàng. Phúc Tần khiến đến ở đất Cao Miên, bảo vua Cao Miên chia đất, cho
Ngạn Địch ở cửa biển Mỹ Tho, kết làm anh em, khiến hằng năm cống hiến” [16, tr.
76-77]. Thực tế đã cho thấy người Hoa có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của
vùng Gia Định – vùng đất được coi là trung tâm thương mại quang trọng của Đàng
Trong thế kỷ XVIII, theo Gia Định thành thông chí thì: “Quân lính thuyền ghe của
bọn tướng Long Môn họ Dương đi đến cửa biển Xoài Rạp (nay gọi là Soi Rạp) và
cửa Đại, cửa Tiểu (đều thuộc trấn Định Tường), đóng ở xứ Mỹ Tho (ở lỵ sở trấn


19
Định Tường ngày nay) lính thuyền ghe của bọn tướng Cao Lôi Liêm là họ Trần tiến
đến cửa bể Cần Giờ, đóng ở địa phương Bàn Lân xứ Đồng Nai (ở lỵ sở trấn Biên
Hòa ngày nay), vỡ đất phá hoang, dựng làm phố chợ, buôn bán giao thông với
người Trung Quốc, Tây Dương, Nhật Bản và thuyền buôn tấp nập, phong hóa
Trung Quốc đã dần dần thấm thía xanh tốt khắp đất Đông Phố [18, tr. 75-76] .

Vài thập niên sau đó, vào năm 1708, Mạc Cửu – một cựu thần của nhà Minh
đã nhận thấy sức mạnh đang lên về chính trị, cũng như sức mạnh trên biển của chúa
Nguyễn lúc này là chúa Nguyễn Phúc Chu (cq: 1691 – 1725), đã chủ động dâng
vùng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn, Đại Nam thực lục chép về sự kiện này như sau:
“Năm 1708, Lấy Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên. Cửu người Lôi Châu,
Quảng Đông. Nhà Minh mất, để tóc chạy sang phương Nam, đến nước Chân Lạp
làm chức Ốc Nha, thấy phủ Sài Mạt ở nước ấy có nhiều người buôn các nước tụ
họp, bèn mở sòng gá bạc để thu thuế gọi là hoa chi, lại được hố bạc chôn nên thành
giàu. Nhân chiêu tập dân xiêu dạt đến các nơi Phú Quốc, Cần Bột, Gia Khê, Luống
Cày, Hương Úc, Cà Mau (thuộc tỉnh Hà Tiên) lập thành 7 xã thôn. Thấy ở đất ấy
tương truyền có người tiên thường hay hiện ra ở trên sông nhân thế đặt tên là Hà
Tiên. Đến đấy Cửu ủy cho người bộ thuộc là Trương Cầu và Lý Xã dâng thư xin
làm Hà Tiên trưởng. Chúa nhận cho, trao cho chức Tổng binh. Cửu xây dựng dinh
ngũ, đóng ở Phương Thành, nhân dân ngày càng đến đông [95, tr. 122]. Có thể nói
hoạt động của những người Minh hương tại Hà Tiên là nhân tố then chốt tạo nên sự
sầm uất của cảng thị này. Hà Tiên trở thành thị trường trung gian kết nối thương
mại tại vùng biển Đông và vùng biển Tây (vịnh Xiêm). Chính vị trí của Hà Tiên đối
với sự hội nhập thương mại Đàng Trong thế kỷ XVIII, là cơ sở để học giả Li Tana
đưa ra nhận định: “những phát hiện này đã phủ nhận những quan điểm truyền thống
của các học giả, thường coi Malaca, Batavia và Ayuthaya như là những trung tâm
thương mại và rằng đồng bằng sông Mekong có vai trò không đáng kể” [131, 149]
Thương nhân Nhật Bản
Cùng với người Hoa, người Nhật cũng đóng vai trò nổi bật trong thương mại
xứ Đàng Trong. Như đã trình bày ở trên, sau gần hai trăm năm (1371 – 1567) thực
hiện chính sách Hải cấm, hoàng đế nhà Minh đã bãi bỏ chính sách này vào năm
1567, cho phép những thuyền mành của người Hoa vượt biển buôn bán với các


20
nước Đông Nam Á, nhưng vẫn nghiêm cấm mọi hoạt động giao thương với Nhật

Bản. Từ chiều sâu lịch sử, hàng hóa của người Hoa có vai trò quan trọng đối với
người Nhật, từ rất sớm những mối liên hệ thương mại giữa hai quốc gia gần gũi về
mặt địa lý này đã được xác lập. Thương phẩm như tơ lụa, gốm sứ của người Hoa có
sức hấp dẫn lớn và là mặt hàng được ưa chuộng trong nhiều thế kỷ tại thị trường
quốc đảo. Sự ngăn cấm thương mại giữa hai quốc gia đã làm gián đoạn, thiếu hụt
hàng hóa tại thị trường Nhật Bản. Trong bối cảnh khan hiếm những mặt hàng quan
trọng của người Hoa, người Nhật buộc phải dong thuyền tới các cảng thị Đông Nam
Á để thu mua hàng hóa mà Hoa thương mang tới. Xuất phát từ mục đích đó, từ năm
1592, Mạc phủ Toyotomi rồi Tokugawa đã cấp giấy phép cho thuyền buôn của
người Nhật, gọi là Châu ấn thuyền (Shuisen), nhằm thừa nhận, mở rộng quan hệ
buôn bán hợp pháp với các nước Đông Nam Á và tiến hành mua hàng của người
Hoa tại thị trường phương Nam.
Được hậu thuẫn bởi giấy thông hành của chính quyền Mạc phủ, các tàu Nhật
bắt đầu tới nhiều cảng thị khác nhau ở vùng ven biển Đông Nam Á, chủ yếu là tới
các cảng nằm phía bắc vĩ tuyến 10 như Hà Nội, Hội An, Phnom Pênh, Ayutthaya và
Manila, nơi các thuyền bè của người Hoa cũng đến để trao đổi, buôn bán” [33, tr.
256]. Thị trường Đông Nam Á đã đáp ứng được nhu cầu của người Nhật thông qua
những Hoa thương hoạt động tại đây. Thương nhân Hà Kiều Viễn buôn bán tại
Đàng Trong cho rằng: “Vì luật pháp cấm, không ai dám thông với Nhật Bản, nhưng
có bọn thương gia gian tham đem những hàng hóa trốn đi các nước Giao Chỉ (tức
Quảng Nam), người Nhật lại từ đó chuyển vận sang Nhật Bản, như vậy thì (người
Nhật) không khác gì trực tiếp mậu dịch với Trung Quốc vậy” [31, tr. 35].
Như vậy, khó khăn trong hoạt động thương mại giữa người Nhật và người
Hoa vô hình chung đã tạo điều kiện cho thị trường các nước Đông Nam Á có cơ hội
phát triển sôi động, Đàng Trong, chính vì vậy, càng có điều kiện dự nhập vào mạng
lưới thương mại với Nhật Bản. Hệ thống này xuất phát hoặc từ Hirado hay
Nagasaki ở Nhật hoặc thẳng tới Macao, hay qua một số cảng thị nằm ở vĩ tuyến 10
tới bắc Trung Hoa. Các cảng thị như Ayutthaya, Pinhalu, Phnongpenh hay Hội An
và các cảng kề cận khác đều nằm ở rìa bắc của mạng lưới hàng hải quốc tế, và đóng
vai trò trung gian giữa vùng ven biển Đông Nam Á và Trung Hoa. Trong mạng lưới



21
ấy, cảng thị Hội An đã cung cấp một vị trí trung gian kết nối thị trường giữa người
Hoa và người Nhật.
Không chỉ có tìm thấy tại Đàng Trong những thương phẩm do người Hoa
mang tới, người Nhật có thể thu mua tại đây nhiều mặt hàng có giá trị như tơ lụa,
gốm sứ được sản xuất tại thị trường bản địa. Trong đó, tơ lụa được coi là mặt hàng
có sức hấp dẫn lớn nhất với Nhật thương. Để có được nguồn hàng này, người Nhật
đã định cư tại Hội An để tiện cho việc thu mua tơ lụa cung cấp cho những thuyền
buôn đến vào vụ gió mùa. Thực tế đã cho thấy, thương cảng sầm uất nhất của chính
quyền Thuận Hóa, Hội An là nơi thu hút số lượng lớn nhất thuyền Châu ấn khi tới
giao thương tại thị trường phương Nam. Trung bình hàng năm Nhật Bản cử ra nước
ngoài 14 chuyến tàu. Vào thời gian đó, Nhật Bản có quan hệ buôn bán với khoảng
18 khu vực, lãnh thổ nhưng địa bàn chủ yếu vẫn là các nước Đông Nam Á. Từ giữa
thế kỷ XVI, đã có nhiều cộng đồng người Nhật sống định cư ở nước ngoài và lập
nên những cảng Nhật, phố Nhật. Một số chuyên gia về thương mại Nhật Bản cho
rằng, trong khoảng thời gian 30 năm (từ năm 1604 - 1634), Mạc Phủ Tokugawa đã
cấp tổng cộng 354 giấy phép. Trong đó, những địa điểm thuộc khu vực Đông Nam
Á là 331, chiếm tỉ lệ 93,5 %. Số thuyền Nhật đến buôn bán ở các thương cảng thuộc
lãnh thổ Việt Nam hiện nay là 130, chiếm 39,27%, thuyền đến Hội An là 86 chiếc,
chiếm 66,15% [37, tr. 121]. Có thể thấy, Đàng Trong là một trong những địa điểm
dừng chân, bạn hàng quan trọng nhất đối với người Nhật.
Thu mua tơ lụa là một trong những mục đích lớn nhất lôi cuốn người Nhật
tới buôn bán tại Đàng Trong. Nhật thương không chỉ mua được tơ lụa do người Hoa
mang tới, mà còn có được một số lượng lớn tơ lụa từ thị trường bản địa. Thực tế thì,
sự xuất hiện của người Nhật có tác động to lớn tới tình hình sản xuất tơ lụa Đàng
Trong. Bên cạnh đó, người Nhật có thể tìm thấy ở đây những mặt hàng khác như
gốm sứ, cũng như hàng hóa của một số thị trường lân cận đều được đưa đến các
cảng biển của Đàng Trong, do đó những thuyền buôn của người Nhật khi trở về

thường đầy hàng hóa giá trị đáp ứng cho thị trường trong nước.
Xuất phát từ những lợi ích thương mại, cũng như thể hiện thái độ cởi mở với
ngoại thương, chúa Nguyễn có sự ưu ái đặc biệt đối với người Nhật [23, tr. 205-
215]. Cùng với người Hoa, người Nhật được phép thành lập phố Nhật tại Hội An để


22
tiện cho sự cư trú và buôn bán lâu dài, chúa Nguyễn Phúc Nguyên (cq:1613 – 1635)
còn gả con gái của mình cho một thương nhân Nhật Bản… Những chính sách
khuyến thương đối với người Nhật đã cho thấy tầm quan trọng của thuyền Châu ấn
đối với thương mại Đàng Trong, nguồn thu thuế từ những tàu buôn, cũng như lợi
nhuận từ những nguồn thương phẩm xuất cảng sang Nhật đã đóng góp lượng của
cải lớn vào ngân sách của họ Nguyễn.
Trong sự tác động qua lại, không chỉ có chúa Nguyễn thể hiện thịnh tình với
người Nhật mà Mạc Phủ cũng cho thấy tinh thần mong muốn được giao thương với
Đàng Trong, thái độ đó của Mạc Phủ thể hiện qua những bức thư trao đổi qua lại
giữa những nhà cầm quyền của hai quốc gia, đặc biệt trong bức thư của Tokugawa
Ieyasu gửi cho chúa Nguyễn Hoàng vào năm 1601 có viết: “thương gia Nhật bản
khi vượt biển đi buôn bán xa xôi, không được vi phạm chính trị ở những quốc gia đi
đến. Vì tôi suy nghĩ như thế nên xin ngài yên tâm. Thương thuyền của quốc gia
chúng tôi, khi đến Quý quốc đều mang theo văn thư có áp dấu Châu ấn. Đây là bằng
chứng mà tôi công nhận là thương thuyền. Thương thuyền nào không mang thư
Châu ấn thì không nên cho thông thương. Tôi muốn gửi một số vũ khí của nước tôi.
Đây cũng giống như vật nhỏ mọn từ phương xa nghàn dặm xin gửi đến, xin Ngài
bảo trọng” [40, tr. 123]. Nội dung bức thư đã cho thấy sự kiểm soát chặt chẽ của
Mạc Phủ với những hoạt động thương mại, đồng thời cho thấy tinh thần cầu thị
muốn được giao thương với Đàng Trong của người Nhật. Thực tế đã chứng minh,
mối quan hệ thương mại giữa chính quyền Thuận Hóa và những nhà buôn người
Nhật diễn ra tốt đẹp trong suốt thế kỷ XVII.
1.1.3. Vai trò của thương nhân phương Tây trong thương mại Đàng Trong

Những mối liên hệ thương mại, văn hóa giữa phương Đông và phương Tây
đã diễn ra từ rất sớm trong lịch sử. Sự xuất hiện con đường tơ lụa trên bộ và trên
biển của nhà Đường (618 - 907) cho thấy mạng lưới thương mại phương Đông và
phương Tây đã được thiết lập một cách có hệ thống. Trong lộ trình thương mại đó,
một số cảng thị khu vực Bắc Bộ của Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng, là những
điểm dừng chân của thuyền buôn các nước. Hấp dẫn bởi những sản phẩm của hệ
sinh thái phổ tạp, vào thế kỷ XV - XVI, người châu Âu luôn muốn tìm con đường
phương Đông để mang về sản phẩm đặc trưng của xứ nhiệt đới. Những hiểu biết về


23
một phương Đông giàu có, xứ sở của hương liệu, của vàng đã thúc đẩy người châu
Âu tiến hành hàng loạt các cuộc phát kiến địa lý. Những cố gắng của người châu Âu
đã được đền đáp một cách xứng đáng khi thuyền buôn người Bồ Đào Nha chiếm
được eo Malacca, một thương cảng quan trọng trong mạng lưới thương mại Đông
Nam Á vào năm 1511.
Có thể thấy, sự xuất hiện của những thương nhân phương Tây đã phá vỡ cấu
trúc thương mại truyền thống tại Đông Nam Á. Nếu như trước đây, khoảng thế kỷ
VIII, các thương nhân người Hoa bắt đầu thâm nhập mạnh vào khu vực thương mại
Đông Nam Á và dần thay thế vai trò của các thương nhân Ả Rập, Ba Tư hoạt động
tại đây. Sự thâm nhập thị trường trực tiếp đó của người Hoa đã khiến cho vai trò
thương mại của các quốc gia Đông Nam Á ở vị trí thứ yếu và thụ động. Nhiều cảng
thị thực tế chỉ là các trung tâm buôn bán địa phương, nơi lưu trú, thu gom, cung cấp
hàng hóa cho các thuyền buôn ngoại quốc do thương nhân Hoa kiều chi phối [38, tr.
47]. Thì nay sự xuất hiện của người phương Tây tại các cảng thị Đông Nam Á đã
tác động lớn tới mạng lưới thương mại khu vực, bởi lẽ: “do có tàu đi biển có trọng
tải lớn, tốc độ nhanh và thủ đoạn buôn bán tinh vi mà những thương nhân phương
Tây đã phá vỡ được vai trò độc quyền của người Hoa trong hệ thống buôn bán ở
biển Đông… những chuyến tàu buôn phương Tây đã nối liền thị trường Đông Nam
Á với mạng lưới thương mại thế giới” [38, tr. 49].

Những thương nhân châu Âu nhanh chóng thiết lập được mạng lưới buôn
bán của mình tại Đông Nam Á thông qua hàng loạt các công ty Đông Ấn, chi phối
mọi hoạt động buôn bán tại đây. Trong ý nghĩa đó, nhà nghiên cứu Sakurai đã cho
rằng: “công ty Đông Ấn Hà Lan VOC là sự nối dài đầu tiên của hệ thống thương
mại châu Âu tại Đông Nam Á và có ảnh hưởng rất nhiều tới lịch sử cận đại của
Đông Nam Á. Batavia, trung tâm của mạng lưới VOC, trở thành trung tâm liên thế
giới vào thế kỷ XVII. Đặc trưng nổi bật của mạng lưới này là các thương thuyền
đồng thời là những hạm đội có vũ trang và có chi nhánh đại diện (thương điếm) ở
hầu khắp các vùng ven biển của khu vực Đông Nam Á. Ngay cả ở Đông Á, VOC
cũng có thương điếm đại diện ở Hirado, Nagasaki, Formosa… tất cả các thương
điếm này đều chịu sự chỉ huy nhất quán từ Amsterdam nhưng lại rất năng động
trong những hoạt động theo cơ chế thị trường” [63, tr. 52].


24
Với thị trường thương phẩm phong phú, những thương cảng Đàng Trong đã
trở thành địa điểm có sức thu hút lớn với thương nhân phương Tây. Người Bồ Đào
Nha được cho là những thương nhân có mối quan hệ thương mại sớm nhất với chúa
Nguyễn, người Anh, người Hà Lan cũng từng bước thiết lập quan hệ thương mại
với Đàng Trong
8
. Nguồn lợi mà các tập đoàn thương mại phương Tây thu được
chính là việc nhập và tái xuất một số sản phẩm thị trường Đông Nam Á đến khu vực
Đông Bắc Á hoặc đem về châu Âu tiêu thụ. Những lợi nhuận to lớn thu được từ
thương mại, khiến các nước phương Tây luôn tìm cách thiết lập những mối giao
thương với Đàng Trong. Thực tế thì, sự canh tranh gay gắt giữa các công ty Đông
Ấn, đều xoay quanh mục tiêu giành lấy thị trường thương mại tại đây.
1.2. Tiềm năng của thƣơng mại Đàng Trong
1.2.1. Hệ sinh thái phổ tạp và những nguồn thương phẩm.
Một trong những nhân tố góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng nguồn

thương phẩm Đàng Trong, đó là vùng đất này nằm trọn vẹn trong hệ sinh thái phổ
tạp (với ba đặc tính cơ bản: chỉ số đa dạng giống loài cao, khả năng tái sinh nhanh
và số lượng trên mỗi giống loài thường thấp). Do đó, Đàng Trong dường như có
đầy đủ điều kiện, khả năng đáp ứng nhu cầu về hương liệu cho thuyền buôn ngoại
quốc. Thực tế đã cho thấy, trong những thương phẩm xuất khẩu từ Đàng Trong thì
những sản phẩm nông nghiệp (hồ tiêu, đường, quế, lúa gạo…) và lâm nghiệp
(phong phú các loại gỗ quý như trầm hương, kỳ nam, gỗ vang…) chiếm số lượng
rất lớn và có sức thu hút kỳ diệu với những người châu Âu ngay cả khi kỷ nguyên
thương mại Đàng Trong đã đi qua thời kỳ hưng thịnh.
Đến Đàng Trong năm 1621, nhà truyền giáo Christopho Borri không khỏi
ngạc nhiên về sự trù phú của xứ Đàng Trong. Ông cho rằng, đây là “lãnh thổ có khí
hậu và các mùa khác nhau rất dễ chịu để ở. Lãnh thổ có rất nhiều đồng ruộng thênh
thang và phì nhiêu, với mọi thứ lương thực, lúa thóc, trái cây, chim chóc và thú vật,
biển thì vố số các loài cá rất thơm ngon. Lãnh thổ có rất nhiều vàng, bạc, tơ lụa, kì


8
Thương nhân và giáo sĩ Bồ Đào Nha đã đến Đàng Trong sớm nhất (khoảng những năm 1520), tiếp theo người
Bồ, sau một thời gian thăm dò, các thương nhân phương Tây khác cũng đến thiết lập quan hệ với Đàng Trong.
Từ năm 1613, nhận thấy khó có thể thâm nhập, cạnh tranh với các thế lực khác tại các cảng ven biển, cửa sông,
người Anh đã tập trung xây dựng thương điếm ở Côn Đảo. Năm 1633, VOC đã thiết lập một thương quán ở Hội
An với tham vọng mua tơ lụa ở đây để đưa sang Nhật Bản… do luôn bị các thương nhân phương Tây đặc biệt là
Bồ Đào Nha phản đối mạnh mẽ nên năm 1654, người Hà Lan rút khỏi Hội An để tập trung ra Đàng Ngoài và
hoạt động liên tục ở Thăng Long – Phố Hiến trong 63 năm ( 1637 – 1700) [43, tr. 77-80].


25
nam và các thổ sản khác rất có giá trị [5, tr. 128]. Đồng thời, tác giả cũng khẳng
định cơ sở của sự giàu có của cư dân Đàng Trong “đất màu mỡ và phì nhiêu nên
mỗi năm có ba vụ lúa, đầy đủ và dồi dào đến nỗi không ai phải lam lũ vất vả để sinh

sống, ai cũng sung túc” [5, tr. 19]
Chúng ta biết rằng, những đồng bằng ở Đàng Trong thường là đồng bằng
nhỏ, hẹp, do phù sa sông bồi đắp. Nhưng khác với đồng bằng Sông Hồng ở Đàng
Ngoài, đây là những đồng bằng mới được khai thác và hẳn là vẫn có khả năng cho
năng suất cao. Có mặt ở Đàng Trong trước khi Nguyễn Hoàng khai mở đất Đàng
Trong, tác giả của Ô châu cận lục cũng chia sẻ về những điều kiện thuận lợi này:
“Đồng bằng lấy nông tang làm cơ nghiệp. Bờ biển sống bằng nghề cá muối. Thổ
nghi chẳng thiếu một thứ gì. Rượu tăm rất ngon. Hải vị sơn hòa, của nhiều chan
chứa. Cá tôm sẵn ở hồ, ở biển, xứ nào cũng có. Gỗ cây lấy ở núi, ở rừng, tùy ý mà
dùng đủ cả… đất đai phì nhiêu nên được thóc mà không cần dùng công khó nhọc”
[1, tr. 41]. Tương đồng với những ghi chép của Dương Văn An, nhà sư người Trung
Hoa, Thích Đại Sán đến Đàng Trong năm 1695 cũng cho thấy sự phì nhiêu trên
những cánh đồng của Đàng Trong: “Hai bờ lúa ruộng xanh xanh chờ trổ bông hỏi
thăm, nghe nói ruộng không bỏ phân, một năm làm đến ba mùa cũng khá tốt” [64,
tr. 32]. Những đặc tính của khí hậu nhiệt đới, sự phì nhiêu của vùng đất mới được
khai phá dường như là điều kiện lý tưởng cho sự đa dạng những nguồn hàng từ
nông nghiệp. Có thể thấy, tiềm năng tự nhiên của xứ Thuận – Hóa đã tạo nên nguồn
thương phẩm dồi dào, không chỉ đảm bảo cho cư dân một cuộc sống ấm no mà còn
dư thừa phục vụ cho những hoạt động xuất khẩu.
Sự giàu có ấy của Đàng Trong còn được Lê Quý Đôn ghi chép tỉ mỉ: “Thuận
Hóa không có nhiều của cải, đều lấy ở Quảng Nam, vì xứ Quảng Nam là đất phì
nhiêu nhất thiên hạ. Người Thăng Hoa, Điện Bàn biết dệt vải lụa vóc đoạn lĩnh là,
hoa màu khéo đẹp chẳng kém Quảng Đông, ruộng đồng rộng rãi, lúa gạo tốt đẹp,
trầm hương, tốc hương, sừng tê, ngà voi, vàng bạc, đồi mồi, trai ốc, bông, sáp,
đường, mật, dầu sơn, cau, hồ tiêu, cá muối, gỗ lạt, đều sản xuất ở đấy. Ba Phủ Quy
Nhơn, Quảng Ngãi, Gia Định thì thóc gạo không xiết kể, khách Bắc buôn bán quen
khen bao không ngớt. Các xứ Hòn Lãng, Thu Bồn, Phường Tây thuộc về hai phủ
Thăng, Điện sản voi, như trâu ngựa, nhà dân đều có chăn nuôi. Quy Nhơn và Quảng

×