Tải bản đầy đủ (.pdf) (223 trang)

Đảng lãnh đạo quá trình thiết lập quan hệ Việt Nam với tổ chức diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (1989 - 1998

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 223 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

ĐINH XUÂN LÝ






ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUÁ TRÌNH THIẾT LẬP
QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI TỔ CHỨC DIỄN ĐÀN
HỢP TÁC KINH TẾ CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG
(1989 - 1998)





LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ












HÀ NỘI 2002

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

ĐINH XUÂN LÝ




ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUÁ TRÌNH THIẾT LẬP
QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI TỔ CHỨC DIỄN ĐÀN
HỢP TÁC KINH TẾ CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG
(1989 - 1998)


Chuyên ngành: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 5.03.16


LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ



Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS. PHÙNG HỮU PHÚ








HÀ NỘI 2002



3





Mục lục


Trang

Trang phụ bìa
1

Lời cam đoan
2

Mục lục
3

Danh mục các chữ viết tắt

4

Danh mục các bảng
5

Mở đầu
6

Chương 1
Những cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định thiết lập
quan hệ Việt Nam - APEC
17
1.1
Bối cảnh thế giới, khu vực (1989-1998) và nhận thức của Đảng ta
17
1.2
Sự thành lập APEC và vai trò, vị trí của APEC đối với quốc tế và
Việt Nam
33
1.3
Nhu cầu tăng cường đối ngoại của nước ta với các nước khu vực
châu á - Thái Bình Dương
49

Chương 2
Quá trình thiết lập quan hệ Việt Nam - APEC theo đường lối chủ
trương của Đảng (1989-1998)
58
2.1
Đường lối đổi mới chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt

Nam
58
2.2
Chủ trương đối ngoại của Đảng ta trong quan hệ với khu vực châu á -
Thái Bình Dương
67
2.3
Quá trình thiết lập quan hệ Việt Nam - APEC
76

Chương 3
ý nghĩa và kinh nghiệm của quá trình thiết lập quan hệ
Việt Nam - APEC
124
3.1
ý nghĩa của quá trình Việt Nam tham gia APEC
124
3.2
Một vài kinh nghiệm
143

Kết luận
157

danh mục công trình của tác giả đã công bố
162

Danh mục tài liệu tham khảo
163


Phần phụ lục
178

4





danh mục các chữ viết tắt
1.
adb
Ngân hàng phát triển châu á
2.
anzerta
Hiệp định Mậu dịch tự do giữa ôxtrâylia và Niu Dilân
3.
apec
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á - Thái Bình Dương
4.
afta
Khu vực Mậu dịch tự do Đông Nam á
5.
asean
Hiệp hội các nước Đông Nam á
6.
asem
Diễn đàn Hợp tác á - Âu
7.
arf

Diễn đàn khu vực ASEAN
8.
ec
Cộng đồng Kinh tế châu Âu
9.
eu
Liên minh châu Âu
10.
fdi
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài
11.
gatt
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
12.
gdp
Tổng sản phẩm trong nước
13.
gnp
Tổng sản phẩm quốc dân
14.
imf
Quỹ tiền tệ Quốc tế
15.
jim1
Hội nghị không chính thức Giacacta về Cămpuchia lần thứ nhất
16.
jim2
Hội nghị không chính thức Giacacta về Cămpuchia lần thứ hai
17.
mia

Mất tích trong chiến tranh
18.
nafta
Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ
19.
nic
s
Các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới Đài Loan, Hàn
Quốc, Hồng Kông, Xingapo
20.
oda
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
21.
pow
Tù nhân chiến tranh
22.
wb
Ngân hàng Thế giới
23.
wto
Tổ chức Thương mại Thế giới


5







danh mục các bảng biểu

Bảng 3.1.
Đồ thị diễn biến kim ngạch buôn bán Việt – Trung (1991-2000)
Bảng 3.2.
Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ (1993 - 1999)
Bảng 3.3.
Kim ngạch buôn bán Việt Nam – APEC (1991 - 2000)


6





mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến hành các cuộc
kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, hoạt động đối ngoại Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp phần làm nên những thắng
lợi vẻ vang của dân tộc.
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, trước những biến động to lớn và
toàn diện của tình hình thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, Đảng
và Nhà nước ta đã kịp thời có những đổi mới nhận thức về thế giới, khu vực
và quan hệ chính trị quốc tế, từ đó "điều chỉnh chiến lược đối ngoại sáng
suốt đề ra đường lối, chủ trương đối ngoại thích ứng, nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới thắng lợi" [44, tr 14]. Thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối
ngoại theo tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng

đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, Nhà nước ta đã phát
triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, tham gia tích cực vào đời sống quốc tế. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đánh giá cao hoạt động đối
ngoại trong sự nghiệp đổi mới là đã “phá được thế bị bao vây cấm vận, mở
rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế" [73, tr 19].
Thành tựu của hoạt động đối ngoại là một trong những nhân tố quan
trọng đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, củng cố và nâng cao
vị thế của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (the Asia Pacific
Economic Cooperation - APEC) được thành lập tháng 11/1989. Trong một
thời gian ngắn, APEC đã phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Từ 12 thành

7





viên (1989)
*
lên 21 thành viên (năm 1998)
**
, bao gồm các nước phát triển; các
nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới; các nước đang phát triển. Về thực
lực, APEC là thị trường sản xuất và tiêu thụ rộng lớn với “tổng sản phẩm quốc
dân (GNP) chiếm khoảng 1/2 tổng sản phẩm của toàn thế giới, tổng kim ngạch
mậu dịch hàng hoá chiếm tới 46% tổng kim ngạch mậu dịch toàn cầu APEC
là một đối tác quan trọng trong hệ thống kinh tế - thương mại quốc tế” [34, tr
7], và là một thực thể của khu vực châu á - Thái Bình Dương đi đầu trong việc
thúc đẩy tự do hoá mậu dịch, đầu tư và hợp tác kinh tế - kỹ thuật.

Nhận thức sâu sắc sự cần thiết phải cải thiện và thiết lập quan hệ với các
nước châu á - Thái Bình Dương, trực tiếp là với Tổ chức Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế châu á - Thái Bình Dương nhằm tạo môi trường khu vực thuận lợi và
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, Đảng và Nhà nước ta đã coi việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trong khu vực này là một định hướng quan trọng trong chính
sách đối ngoại đổi mới của mình.
Hoạt động đối ngoại của Việt Nam với khu vực châu á - Thái Bình
Dương ngày càng thu được những kết quả tốt đẹp. Cho đến giữa thập kỷ 90,
Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với tất cả các thành viên APEC, khép
lại quá khứ nặng nề, thù địch, ra khỏi thế bị biệt lập với khu vực. Sự kiện quan
trọng đánh dấu bước phát triển mới trên con đường Việt Nam hội nhập quốc tế
là việc Việt Nam được kết nạp làm thành viên chính thức của tổ chức APEC
(11/1998).

*
Mười hai thành viên đó là: Mỹ, Canađa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brunây, Inđônêxia, Xingapo,
Malaixia, Philippin, Thái Lan, ôxtrâylia và Niu Dilân.
**
21 thành viên đó là: Mỹ, Canađa, Mêhicô, Chilê, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Brunây, Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Xingapo, Thái Lan, ôxtrâylia, Niu Dilân, Papua Niu
Ghinê, Việt Nam, Nga và Pêru


8






Chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là một chủ trương nhất
quán của Đảng và Nhà nước ta, là con đường tất yếu của tiến trình phát triển
đất nước. Những thành công trong việc mở rộng quan hệ với các nước nói
chung, thiết lập quan hệ Việt Nam - APEC nói riêng, đã khẳng định sự đúng
đắn của đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới được đề ra từ Đại hội Đảng
lần thứ VI, đồng thời là những kinh nghiệm quý báu, những cơ sở quan trọng
cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước trong thời gian tới.
Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình thiết lập quan hệ Việt Nam - APEC
trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng là rất cần thiết, vừa mang
ý nghĩa khoa học, vừa có giá trị thực tiễn lâu dài, nhất là trong thời điểm hiện
nay, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của APEC và đang phấn
đấu để gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tiếp tục hội nhập nền
kinh tế thế giới. Với lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: Đảng lãnh đạo quá
trình thiết lập quan hệ Việt Nam với tổ chức Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu
á - Thái Bình Dương (1989-1998) làm luận án tiến sĩ Lịch sử.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm trước đổi mới, vấn đề quan hệ song phương và đa phương
giữa Việt Nam với khu vực châu á - Thái Bình Dương hầu như chưa được giới
nghiên cứu quan tâm.
Từ cuối thập kỷ 80, khu vực châu á - Thái Bình Dương ngày càng được
dư luận chú ý bởi tiềm năng phát triển và vai trò, vị trí to lớn của nó đối với
đời sống kinh tế, chính trị và an ninh thế giới. Xuất phát từ nhu cầu tìm hiểu
về khu vực, các học giả trong và ngoài nước đã công bố những công trình
nghiên cứu về các nước, các nhóm nước hoặc các tổ chức khu vực. Đáng chú
ý là một số công trình như: Vương quốc Thái Lan lịch sử và hiện tại, do
Giáo sư Vũ Dương Ninh biên soạn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ấn

9






hành năm 1990; Năm 1994, Cơ quan Thông tin Hải ngoại Hàn Quốc xuất bản
bằng tiếng Anh cuốn Hàn Quốc lịch sử và văn hoá. Cuốn sách này được
Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội phối hợp
với nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia dịch và xuất bản năm 1995. Năm 1997,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia cho ra mắt bạn đọc cuốn Lịch sử Đông Nam
á của tác giả D.G.E.Hall, Giáo sư danh dự trường Đại học Luân Đôn
Các cuốn sách trên đã giới thiệu những nét cơ bản về đất nước, con
người, và các giai đoạn lịch sử của một số quốc gia thuộc châu á - Thái Bình
Dương. Đồng thời có đề cập đến mối quan hệ giữa các nước trong khu vực.
Từ khi quan hệ Việt Nam - ASEAN được cải thiện, nhất là thời kỳ nước
ta trở thành thành viên chính thức của tổ chức này, việc nghiên cứu về
ASEAN và quan hệ Việt Nam - ASEAN ngày càng khởi sắc: năm 1993, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành cuốn sách Một số vấn đề về sự phát
triển của các nước ASEAN của Giáo sư Vũ Dương Ninh; Năm 1996, Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội phát hành cuốn Việt Nam - ASEAN do Phó tiến sĩ
Phạm Đức Thành chủ biên Đáng chú ý là, trong năm 1998, có nhiều cuốn
sách, bài báo viết về quan hệ Việt Nam -ASEAN: ASEAN và sự hội nhập
của Việt Nam do Đào Huy Ngọc chủ biên; Việt Nam-ASEAN: cơ hội và
thách thức, Phạm Đức Thành chủ biên. Hai cuốn sách này đều do Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia xuất bản.
Các công trình trên, ngoài việc cung cấp những thông tin về tổ chức
ASEAN - quá trình ra đời, phát triển và các vấn đề đặt ra, còn giúp người đọc
hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khối ASEAN và
tổ chức ASEAN.
Sau khi tổ chức APEC ra đời (1989), đáp ứng nhu cầu hiểu biết về tổ
chức này, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã xuất bản nhiều cuốn sách của

các tác giả trong và ngoài nước viết về APEC như: APEC những thách thức

10





và cơ hội của Viện Nghiên cứu Đông Nam á (Xingapo) năm 1997; năm 1998,
Bộ Thương mại và Bộ Ngoại giao đã biên soạn hai cuốn sách có cùng một tiêu
đề APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á - Thái Bình Dương. Cũng
trong năm 1998, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành cuốn: APEC với
Trung Quốc và các thành viên chủ yếu khác, do Giáo sư Lục Kiến Nhân,
Tổng thư ký Trung tâm nghiên cứu chính sách APEC thuộc Viện Khoa học
Xã hội Trung Quốc chủ biên Những ấn phẩm trên đã làm rõ sự ra đời, mục
tiêu, nguyên tắc hoạt động và tiến trình vận động phát triển của tổ chức APEC
từ khi thành lập đến năm 1998. Đặc biệt hơn, tác giả Lục Kiến Nhân còn giới
thiệu những nét cơ bản về chính sách APEC của các thành viên chủ yếu thuộc
tổ chức này, giúp người đọc hiểu được thực trạng hoạt động và chiều hướng
phát triển tương lai của APEC.
Vấn đề quan hệ giữa Việt Nam với các thành viên APEC cũng được giới
nghiên cứu ngày càng quan tâm hơn, được phản ánh qua những công trình
chuyên khảo đăng tải trên các báo, tạp chí, luận văn, luận án và các đề tài
khoa học Có thể kể đến một số bài viết tiêu biểu như: 25 năm quan hệ Việt
Nam - Nhật Bản của Dương Phú Hiệp, đăng trên tạp chí nghiên cứu Nhật
Bản số 1/3, năm 1993; Vài nét về quan hệ kinh tế, văn hoá Việt Nam - Đài
Loan của Nguyễn Thị Cẩm, Nghiên cứu Quốc tế số 3, 9/1994; Quan hệ Việt
- Mỹ: điều gì đang ở phía trước của Tiến sĩ Allan E.Goodman, giáo sư khoa
Đối ngoại Trường Đại học George Town, in trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế
số 4/6, tháng 12/1994; Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc của Hoa Hữu

Lân, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế Thế giới số 6, tháng 6/1995; Bạn đọc
còn có thể tìm thấy những thông tin về quá trình quan hệ ngoại giao và quan
hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam với các thành viên APEC qua các cuốn
sách: Việt Nam và các nước châu á - Thái Bình Dương các quan hệ kinh
tế hiện nay và triển vọng của Nguyễn Xuân Thắng, Nhà xuất bản Khoa học

11





Xã hội ấn hành năm 1996; Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, tập 2, của
Lưu Văn Lợi, Nxb Công an Nhân dân, H.1998; Ôxtrâylia ngày nay do Vũ
Tuyết Loan chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1998
Trong khi quan hệ song phương Việt Nam với các thành viên APEC đã
được nhiều ấn phẩm đề cập, thì cho đến nay hầu như chưa có công trình nào
chính thức viết về quan hệ đa phương Việt Nam - APEC. Mối quan hệ đa
phương Việt Nam - APEC chỉ mới được bàn đến trong một số bài viết về
APEC và chủ yếu được bàn dưới góc độ những thuận lợi và thách thức khi
Việt Nam tham gia tổ chức này, ví dụ như: Đánh giá chung về APEC:
Những thuận lợi và khó khăn trong tiến trình hội nhập của Việt Nam của
Bùi Thanh Sơn, Nghiên cứu Quốc tế số 5, (20), 10/1997; APEC: Một số vấn
đề cơ bản của Lê Thu Hằng, Tạp chí Kinh tế châu á - Thái Bình Dương, số 3
(20), 9/1998
Việc nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng,
Nhà nước thời kỳ đổi mới nói chung, về quan hệ Việt Nam với tổ chức APEC
nói riêng còn rất hạn chế. Vấn đề này được đề cập trong các bài tạp chí, dưới
dạng giải thích, hoặc phân tích một số quan điểm, chủ trương, chính sách đối
ngoại của Đảng. Cụ thể như các bài: Trên đường triển khai chính sách đối

ngoại theo định hướng mới, Nguyễn Mạnh Cầm, Tạp chí Cộng sản 4/1993;
Mười năm đổi mới trên lĩnh vực công tác đối ngoại, Nguyễn Mạnh Cầm,
Tạp chí Cộng sản 9/2000; Châu á - Thái Bình Dương - một hướng lớn
trong chính sách đối ngoại của Nhà nước ta, Vũ Khoan, Tạp chí Cộng sản
7/1993; Đường lối đối ngoại của Đảng ta, Vũ Hiền, Tạp chí Cộng sản
12/1996. Tháng 7/2001, Nghiên cứu sinh: Nguyễn Đình Thực đã bảo vệ thành
công luận án tiến sĩ về đề tài: “Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về
quan hệ đối ngoại với ASEAN (1967-1995)” tại Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh. Các tài liệu này góp phần làm rõ đường lối đối ngoại của Đảng

12





ta và hoạt động đối ngoại Việt Nam nói chung với các nước trong khối
ASEAN nói riêng và những thành tựu, kinh nghiệm của lĩnh vực hoạt động
này trong thời kỳ đối mới.
Có thể nhận thấy một thực tế là, cho đến nay gần như chưa có công trình,
ấn phẩm nào được công bố nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về quá trình thiết lập quan hệ
Việt Nam - APEC.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích:
Luận án làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá
trình thiết lập quan hệ Việt Nam - APEC.
Thông qua đó, tác giả khẳng định hệ quả, ý nghĩa của những quan điểm,
chủ trương, chính sách đối ngoại rộng mở của Đảng, Nhà nước và rút ra một
vài kinh nghiệm cho tiến trình tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác khu vực và

quốc tế.
Nhiệm vụ:
Xuất phát từ mục đích trên, nhiệm vụ trọng tâm của luận án là đi sâu
phân tích quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về quá
trình: giải quyết những trở ngại trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước
châu á - Thái Bình Dương; Giải toả những mặc cảm lịch sử với các nước láng
giềng, khu vực, đặc biệt với những nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật; từng
bước cải thiện quan hệ song phương với các nước Đông Nam á, mở cửa giao
lưu hợp tác với khu vực, hội nhập tổ chức ASEAN; tạo tiền đề để cải thiện căn
bản quan hệ giữa Việt Nam với các thành viên của tổ chức APEC, mở đường
cho nước ta gia nhập tổ chức này.

13





Trình bày các bước phát triển trên thực tế quan hệ giữa Việt Nam với
một số thành viên APEC thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới; phân tích ý
nghĩa và một vài kinh nghiệm của quá trình thiết lập quan hệ Việt Nam –
APEC.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận án là quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về quá trình giải quyết các mặc cảm, trở
ngại để cải thiện quan hệ giữa Việt Nam với các thành viên APEC, tạo tiền đề
để Việt Nam thiết lập quan hệ với tổ chức APEC. Ngoài ra, luận án còn đề cập
đến một số hoạt động đối ngoại song phương và đa phương Việt Nam -
APEC, nhằm làm rõ kết quả thực tiễn của quá trình triển khai đường lối đối
ngoại của Đảng đối với khu vực.

- Phạm vi, thời gian nghiên cứu: Luận án tập trung giải quyết các vấn đề
trên từ năm 1989 - thời điểm Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á - Thái Bình
Dương ra đời, đến khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức
này - năm 1998. Đây là giai đoạn thể hiện tập trung bản lĩnh, trí tuệ, sự nhạy
cảm và khôn khéo của Đảng ta trong việc hoàn thiện đường lối đối ngoại và
phát triển khoa học, nghệ thuật ngoại giao, giành thắng lợi. Nghiên cứu sâu
giai đoạn này, có thể rút ra nhiều kinh nghiệm quý báu cho hoạt động đối
ngoại của Đảng trong thời kỳ mới.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm lý luận cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam về
quan hệ quốc tế.
Nguồn tài liệu

14





Để thực hiện luận án, tác giả sử dụng các nguồn tài liệu:
- Nguồn tài liệu liên quan đến đường lối đối ngoại của Đảng nói chung,
về quan hệ Việt Nam – APEC nói riêng, bao gồm:
Các Văn kiện Đại hội Đảng, Nghị quyết Trung ương các khoá đã được
công bố và các Nghị quyết Trung ương, Bộ Chính trị khác chưa được công bố.
Chỉ thị, ý kiến của Bộ Chính trị và Thường trực Bộ Chính trị, Ban Bí thư
Trung ương.
Các tác phẩm, bài viết hoặc phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng,
Nhà nước về lĩnh vực đối ngoại.

Các báo cáo, tờ trình của các Ban Đảng Trung ương, Ban Cán sự Đảng
Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại về đối ngoại (tài liệu chưa được công bố của
Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng).
Trên đây là nguồn tài liệu cơ bản không chỉ trang bị về mặt nhận thức
luận, mà còn cung cấp nội dung quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại
của Việt Nam với các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế để tác giả sử dụng
trong quá trình thực hiện luận án.
- Nguồn tài liệu liên quan đến hoạt động đối ngoại của Nhà nước nói
chung, trong quan hệ Việt Nam – APEC nói riêng.
Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước
viết về APEC; về quan hệ Việt Nam với các nước, các tổ chức khu vực châu á
- Thái Bình Dương; về cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã được in thành sách, được công bố trên báo, tạp chí
hoặc trong các hội thảo quốc tế.
Các Kỷ yếu Hội nghị khoa học, luận án Tiến sĩ, đề tài nghiên cứu khoa
học có liên quan đến đề tài luận án đều được tác giả trân trọng kế thừa.
- Phương pháp nghiên cứu

15





Phương pháp nghiên cứu chủ yếu để thực hiện luận án là phương pháp
lịch sử, lôgích, kết hợp với các phương pháp chuyên ngành như phân tích,
tổng hợp, thống kê và đối chiếu so sánh Những phương pháp này được sử
dụng phù hợp với yêu cầu của từng chương, tiết luận án.
Đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước về quá trình thiết lập quan hệ
Việt Nam với Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á - Thái Bình Dương được phân

tích một cách có hệ thống theo trình tự thời gian, được nhìn nhận theo quan
điểm lịch sử cụ thể và được đánh giá trên cơ sở đối chiếu với thực tiễn quan
hệ Việt Nam với một số thành viên APEC và với tổ chức APEC.
Hoạt động đối ngoại của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với APEC
được trình bày theo trình tự thời gian. Những sự kiện đối ngoại tiêu biểu được
phân tích, so sánh để làm rõ vị trí, ý nghĩa của nó trong tiến trình quan hệ Việt
Nam - APEC.
6. Đóng góp của luận án
- Về tư liệu: Luận án đã khai thác một khối lượng tư liệu khá phong phú,
đa dạng (có cả những tư liệu chưa được công bố) về đường lối, chủ trương,
chính sách đối ngoại và những ý kiến chỉ đạo cụ thể của Đảng và Nhà nước ta
trong quan hệ quốc tế và khu vực; mối bang giao và những kết quả đạt được
trong quá trình thiết lập, mở rộng quan hệ Việt Nam với các thành viên APEC
và tổ chức APEC. Nguồn tài liệu tham khảo và phụ lục của luận án có thể
đóng góp tư liệu cho công tác nghiên cứu về mảng đề tài đối ngoại của Việt
Nam với khu vực châu á - Thái Bình Dương.
- Về nội dung khoa học: Kết qủa của Luận án góp phần làm sáng tỏ đường
lối đổi mới trong chính sách đối ngoại nói chung và về chủ trương, chính sách
thiết lập quan hệ Việt Nam -APEC nói riêng của Đảng và Nhà nước ta.

16





Một vài kinh nghiệm được rút ra từ quá trình Đảng lãnh đạo việc thiết lập
quan hệ Việt Nam - ASEAN và những kiến nghị của luận án, hy vọng góp
một phần nhỏ vào việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế trong giai đoạn mới.

Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng
dạy và học tập các môn học liên quan đến đường lối, chủ trương đối ngoại của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Kết cấu luận án:
Ngoài danh mục công trình của tác giả, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
án có 161 trang gồm: phần mở đầu, 3 chương, 8 tiết và phần kết luận.

17





Chương 1
những cơ sở để đảng cộng sản việt nam quyết định thiết lập quan hệ
việt nam - apec
1.1. bối cảnh thế giới, khu vực (1989 - 1998) và nhận thức của đảng ta.
1.1.1. Khái quát tình hình thế giới, khu vực.
Từ cuối thập kỷ 80, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khủng
hoảng sâu sắc. Sang đến đầu thập kỷ 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
các nước Đông Âu sụp đổ, đã dẫn đến những biến đổi cơ bản nền chính trị thế
giới và quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Mỹ đứng đầu (trật tự hai
cực) tan rã, mở ra thời kỳ quá độ hình thành một trật tự thế giới mới.
Một đặc điểm lớn trên chính trường quốc tế sau khi Liên Xô tan rã là việc
Mỹ, với vị trí siêu cường duy nhất về kinh tế, chính trị và quân sự, có ý đồ
muốn thiết lập một trật tự thế giới mới dưới sự chi phối của họ (thế giới một
cực).Các nước lớn (kể cả những đồng minh của Mỹ) đấu tranh mạnh mẽ nhằm
xác lập vai trò, vị thế của mình đối với khu vực và thế giới nhằm ngăn cản Mỹ
thực hiện ý đồ xây dựng trật tự thế giới đơn cực. Xu hướng đa cực hoá chính

trị đang trở thành xu thế phổ biến của thế giới đương đại.
Trước những diễn biến mới của tình hình thế giới, các quốc gia, đặc biệt là
các nước vừa và nhỏ, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế đều thực hiện
điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù
hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và xu thế phát triển của thế giới, nhằm
giành được những lợi ích cao nhất, hạn chế sự thua thiệt, sự đối xử bất bình
đẳng. Biểu hiện nổi bật của xu thế điều chỉnh chiến lược là các dân tộc nâng
cao ý thức độc lập, tự chủ và tự lực tự cường, chủ động trong việc tìm kiếm
con đường phát triển của mình.

18





Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, thế giới tồn tại những điểm nóng, những
cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp Sau chiến tranh lạnh tình trạng
này vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình, hợp tác và phát
triển. Từ năm 1988, Đảng ta đã dự đoán đúng diễn biến của tình hình thế giới,
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khoá VI (5/1988) nhận định:
Các nước lớn, kể cả những nước có tiềm lực mạnh, buộc phải giảm
chạy đua vũ trang hạt nhân và chi phí quốc phòng, giảm cam kết về quân
sự ở bên ngoài và dàn xếp với nhau về các vấn đề khu vực để tập trung
vào củng cố bên trong, chạy đua ráo riết về kinh tế và khoa học kỹ thuật
nhằm tạo ra một nền kinh tế phát triển cao vào cuối thế kỷ này. Xu thế đấu
tranh và hợp tác trong cùng tồn tại giữa các nước có chế độ xã hội khác
nhau ngày càng phát triển [143, tr 7].
Thời kỳ chiến tranh lạnh, sự phân biệt, đối đầu, thù địch về ý thức hệ, về
chế độ chính trị - xã hội là cơ sở cho sự tồn tại của thế giới hai cực và là nhân

tố chi phối lớn đến quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ Bắc - Nam. Sau chiến
tranh lạnh, việc tập hợp lực lượng không còn cơ bản dựa trên lăng kính ý thức
hệ tư tưởng, chính trị mà chủ yếu dựa trên lợi ích chung của các quốc gia, của
khu vực và toàn cầu. Những vấn đề như ô nhiễm môi trường, buôn bán ma tuý,
hiểm hoạ SIDA và khủng bố quốc tế, đều ảnh hưởng đến an ninh, phát triển
của các nước, không kể là nước lớn hay nhỏ. Để giải quyết những vấn đề toàn
cầu, các quốc gia phải nỗ lực hợp tác cùng hành động. Cuộc chạy đua phát
triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển phải đổi mới
tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước tư bản phát triển
phương Tây để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập
kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.

19





Trên lĩnh vực kinh tế, việc Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
tan rã, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải tổ, đổi mới, từ bỏ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, xây dựng nền kinh tế thị trường. Như vậy, cho
đến đầu thập kỷ 90, kinh tế thị trường toàn cầu hoá dựa trên công nghệ cao
ngày càng trở thành xu thế phổ biến của nền kinh tế thế giới, là hành trang của
nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới.
Sau chiến tranh lạnh, các nước đã đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh,
vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự
bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế và khoa học công nghệ
được đặt ở vị trí quan trọng nổi bật. Và vì vậy, cuộc cạnh tranh giữa các quốc
gia chuyển từ hình thức chạy đua vũ trang, tăng cường sức mạnh quân sự

trong chiến tranh lạnh sang hình thức cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Quan hệ quốc tế từ thế đối đầu chuyển dần sang đối thoại, hợp tác và cạnh
tranh.
Khu vực châu á - Thái Bình Dương sau sự kiện Liên Xô tan rã và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ
Vài nét về khu vực châu á - Thái Bình Dương
Theo các công trình nghiên cứu thì thuật ngữ châu á - Thái Bình Dương
mới được sử dụng rộng rãi từ cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, để chỉ một
khu vực bao gồm các nước thuộc vành đai Thái Bình Dương
*
.

*
Theo quan điểm này thì gồm 39 nước và vùng lãnh thổ: Về phía Tây Bắc Thái Bình Dương có: nước Nga,
Trung Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, và vùng lãnh thổ Đài Loan, Hồng Kông.
Tây Nam Thái Bình Dương có: Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Mianma, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Xingapo,
Philippin, Brunây.
Nam Thái Bình Dương có: ôxtrâylia, Niu Dilân, Papua Niughinê, đảo Cúc, Phigi, Kiribati, Hipue, Xalômôn,
Tonga, Micronesia.
Đông Bắc Thái Bình Dương có Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Canađa.

20





Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng châu á - Thái Bình Dương là khu vực
gồm tất cả các nước châu á và các quốc gia thuộc lòng chảo Thái Bình Dương,
với tổng số 80 nước và vùng lãnh thổ [98, tr 3] và [107, tr 354-356]. Như vậy

trên thực tế, khái niệm châu á - Thái Bình Dương gắn liền với những biến
động về kinh tế, chính trị, nên có phạm vi rộng, hẹp khác nhau tuỳ theo góc độ
xem xét trên các lĩnh vực địa tự nhiên, địa kinh tế hay địa chính trị. Qua quá
trình tìm hiểu, chúng tôi cho rằng việc xác định khái niệm khu vực châu á -
Thái Bình Dương bao gồm các quốc gia và lãnh thổ thuộc vùng vành đai và
vùng lòng chảo Thái Bình Dương là hợp lý.
Châu á - Thái Bình Dương là khu vực địa lý rộng lớn với đại dương Thái
Bình Dương chiếm trên một nửa diện tích biển của trái đất. Biển Đông và Thái
Bình Dương có tiềm năng lớn về khoáng sản và hải sản, đặc biệt là về dầu mỏ
và khí đốt. Có trên một ngàn loài cá, có các ngư trường nước nóng (chiếm một
nửa ngư trường nước nóng thế giới). Đây là khu vực rất đa dạng về địa lý, diện
tích, dân số, và các điều kiện tự nhiên khác.
Các nước khu vực châu á - Thái Bình Dương, đặc biệt là các quốc gia châu
á thuộc vành đai Thái Bình Dương, thời cổ đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của
những nền văn minh lớn: Trung Hoa, ấn Độ Nơi đây sớm có mặt các tôn
giáo lớn: Phật giáo, ấn Độ giáo, sau đó là Hồi giáo (đạo ixlam), Thiên chúa
giáo và các tôn giáo ấy trở thành Quốc giáo ở một số nước như Thái Lan (Phật
giáo); Brunây (Hồi giáo); Philippin (Thiên chúa giáo). Sự tác động mạnh mẽ
của tôn giáo đã ghi dấu ấn sâu đậm vào đời sống cư dân, góp phần tạo nên sự
thống nhất trong đa dạng về văn hoá khu vực.

Đông Nam Thái Bình Dương có các nước thuộc Trung và Nam Mỹ là Mêhicô, Nicaragoa, Goatêmala,
ondurat, ensanvado, Panama, Côlômbia, Ecuado, Pêru, Chilê [89, tr 9].

21






Vào thời cận đại, phần lớn quốc gia trong khu vực bị các nước tư bản châu
Âu xâm lược. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc phát triển mạnh mẽ và nhiều quốc gia độc lập ra đời.
Về thể chế chính trị trong khu vực gồm hai nhóm sau: nhóm nước Xã hội
chủ nghĩa như: Việt Nam, Trung Quốc; nhóm nước Tư bản chủ nghĩa như:
Mỹ, Canađa, ôxtrâylia
Trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực châu á - Thái
Bình Dương hết sức đa dạng. Có những nước công nghiệp phát triển hàng đầu
thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, Canađa; các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp
mới như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo; những nước đang trong
quá trình công nghiệp hoá như: Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan, Philippin,
Trung Quốc, và có những nước trình độ phát triển thấp như các nước Đông
Dương và Mianma Bởi vậy, GDP bình quân đầu người giữa các quốc gia
trong khu vực cũng rất khác nhau

.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, châu á - Thái Bình Dương là nơi hội tụ các
mâu thuẫn lớn của thế giới, là khu vực nóng bỏng và xung đột vũ trang kéo
dài. Bước vào thập kỷ 80, khu vực châu á - Thái Bình Dương đi dần vào trạng
thái hoà bình, ổn định, được dư luận thế giới coi là khu vực tương đối yên tĩnh,
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, xu thế hợp tác trong khu vực ngày càng phát
triển. Trên cơ sở đó vai trò, vị trí của khu vực châu á - Thái Bình Dương ngày
càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Sự đa dạng về địa lý, tộc người, tôn giáo, văn hoá; sự khác nhau về lịch sử,
chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực
châu á - Thái Bình Dương, là cơ sở để các nước hoạch định chính sách đối


Xin xem thêm phụ lục 2


22





ngoại thích hợp nhằm bảo đảm hiệu quả cho tiến trình hợp tác kinh tế, giao lưu
văn hoá, xã hội với khu vực.

23





Khu vực châu á - Thái Bình Dương trong thập kỷ 90
Bước vào thập kỷ 90, tình hình khu vực châu á - Thái Bình Dương có
những diễn biến mới:
Trước hết là sự nổi lên của tam giác chiến lược mới Mỹ - Trung - Nhật trở
thành nhân tố chủ yếu chi phối an ninh chính trị của khu vực châu á - Thái
Bình Dương.
Hai là, Trong khu vực tuy vẫn tồn tại nhiều nguy cơ bùng nổ xung đột như
vẫn đề hạt nhân ở Bán đảo Triều Tiên; vấn đề Đài Loan; vấn đề tranh chấp
lãnh hải thuộc vùng biển Đông và việc các nước trong khu vực tăng cường vũ
trang, nhưng châu á - Thái Bình Dương sau chiến tranh lạnh vẫn được đánh
giá là khu vực yên tĩnh và ổn định nhất của thế giới.
Ba là, châu á - Thái Bình Dương trở thành khu vực có tiềm lực lớn và
năng động nhất về phát triển kinh tế. Xu thế hoà bình và hợp tác trong khu vực
phát triển mạnh, sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, quá
trình hợp tác phát triển kinh tế của khu vực cũng đang gặp phải những khó

khăn trở ngại. Đó là: sự chênh lệch về trình độ và tốc độ tăng trưởng kinh tế
giữa các nền kinh tế; khoảng cách quá lớn giữa nước giàu và nước nghèo. Sau
chiến tranh lạnh đã xuất hiện những nhân tố mới có thể gây mất ổn định khu
vực, trong đó có nhân tố xuất phát từ sự tranh giành lợi ích kinh tế, ảnh hưởng
chính trị giữa một số nước lớn (chủ yếu là giữa Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc).
Nhận định về tình hình khu vực châu á - Thái Bình Dương sau khi các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô tan rã, Đảng ta đã chỉ rõ: “Khu
vực châu á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động và tiếp tục phát triển
với tốc độ cao. Đồng thời khu vực này cũng tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây
mất ổn định” [71, tr 77].

24





Trước những động thái mới của thế giới, các nước và nhóm nước trong
khu vực châu á - Thái Bình Dương đã điều chỉnh chiến lược đối nội và đối
ngoại của mình cho phù hợp với tình hình và xu thế quốc tế.
Về một số nước thành viên của APEC (1989 – 1998)
Các nước ASEAN
Từ cuối thập kỷ 80, trước xu thế khu vực hoá, quốc tế hoá và chạy đua về
phát triển kinh tế, ASEAN trong khi vẫn coi trọng hợp tác an ninh, chính trị đã
chú trọng hơn đến vấn đề hợp tác kinh tế. ASEAN khuyến khích việc tìm đối
tác bên ngoài, nhất là đối với các cường quốc kinh tế và những tổ chức kinh tế
lớn của thế giới. Hợp tác giữa các thành viên ASEAN ngày càng thoát ra khỏi
sự mặc cảm về ý thức hệ.
Hội nghị cấp cao lần thứ tư của ASEAN tổ chức tại Xingapo (1/1992) đã
đánh dấu bước ngoặt quan trọng về hợp tác của Hiệp hội các nước Đông Nam

á - chuyển mạnh sang hợp tác kinh tế trong nội bộ ASEAN và với bên ngoài.
Hội nghị quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và ký
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế Trong quan hệ với khu vực, ASEAN
kêu gọi các nước Đông Nam á tham dự và ký kết Hiệp ước Bali. Đối với ngoài
khu vực, các nước ASEAN chủ trương tăng cường hợp tác với các nước đối
thoại và các tổ chức quốc tế, phát triển cơ chế mới thúc đẩy hơn nữa quan hệ
kinh tế với bên ngoài. Sự nỗ lực phấn đấu của khối ASEAN đã đưa đến những
kết quả to lớn: "Kim ngạch thương mại giữa các nước ASEAN tăng từ 10 tỷ
đôla Mỹ năm 1967 lên tới 620 tỷ đô la Mỹ vào năm 1995 nền kinh tế của các
nước thành viên có sự chuyển đổi. Một số nước đang thực hiện công nghiệp
hoá với tốc độ cao trong bối cảnh khu vực Đông Nam á là một trong những
khu vực có tốc độ phát triển cao nhất thế giới [130, Tr 19].

25





Cùng với việc tăng cường hợp tác khu vực, ASEAN rất coi trọng việc mở
rộng quan hệ với các nước và các tổ chức ngoài khu vực. Chính vì vậy, đã
nâng cao vị thế của Hiệp hội các nước Đông Nam á trong cộng đồng quốc tế.
Hoa Kỳ
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc và đặc biệt là sau sự thất bại của Irắc
trong chiến tranh vùng vịnh, Tổng thống Mỹ George Bush tuyên bố về trật tự
thế giới một cực (cực đó là Mỹ). Tuy nhiên, mong muốn về thế giới một cực
của Tổng thống Bush đã không trở thành hiện thực, bởi Mỹ không còn đủ sức
mạnh cả về chính trị và kinh tế để các nước, kể cả các nước đồng minh chịu sự
chỉ huy của Mỹ như trong chiến tranh lạnh. Về kinh tế, vào thập kỷ 90, tổng
sản phẩm quốc dân của Mỹ chỉ còn chiếm từ 23-25% GDP thế giới (so với

40%, sau chiến tranh thế giới lần thứ 2). Mặt khác, sau khi chủ nghĩa xã hội
sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, các đồng minh Mỹ đều cho rằng mối đe doạ
cộng sản đã không còn nặng nề như trước, vì vậy, sự hấp dẫn về sức mạnh
quân sự, sức mạnh hạt nhân và sự bảo hộ của Mỹ cũng bị suy giảm đáng kể.
Tuy nhiên, tham vọng xác lập địa vị lãnh đạo thế giới của Mỹ vẫn rất lớn.
Trong tuyên bố nhận chức ngày 20/1/1993, Clintơn đã khẳng định lại mục tiêu
nhất quán của nước Mỹ là "Mỹ vẫn có trách nhiệm trên khắp thế giới Dân
tộc chúng ta (Mỹ) sẵn sàng lãnh đạo một thế giới đang bị thách thức ở khắp
mọi nơi" [162, tr 35].
Về quân sự, Mỹ đã bố trí một lực lượng lớn nhằm bảo đảm sẵn sàng chiến
đấu và tiếp tục ký kết các hiệp ước an ninh với Nhật Bản, Hàn Quốc,
Philippin, Thái Lan, ôxtrâylia và Niu Dilân.
Về kinh tế, Mỹ chủ trương thúc đẩy việc thành lập các tổ chức kinh tế,
thương mại như: NAFTA ở Bắc Mỹ, FTAA cho toàn châu Mỹ và APEC cho
châu á - Thái Bình Dương. Thông qua các tổ chức này, Mỹ muốn mở rộng thị

×