Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đảng lãnh đạo quá trình chuẩn bị lực lượng đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.75 KB, 22 trang )


Họ và tên : Nguyễn Thị Ngọc Lan
Lớp : K50 - Hải Dương Học
Chủ đề 17: Đảng lãnh đạo quá trình chuẩn bị lực lượng đi từ khởi nghĩa
từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa
Cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945
Tình hình thế giới vào những nǎm 1939-1945, nổi bật là cuộc Chiến tranh
thế giới tân thứ hai bùng nổ, chi phối đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của
các nước. Chiến tranh gây tổn thất, đau thương cho nhân dân, đồng thời đẩy
nhanh quá trình "cách mạng hoá quần chúng". Đảng cách mạng của giai cấp
vô sản nhân cơ hội đó tập hợp lực lượng, đẩy nhanh quá trình phát triển
phong trào cách mạng tiến lên từng bước vững chắc.
Chính phủ phản động Pháp là một trong những bên gây ra chiến tranh.
Sau khi tham chiến, chúng thi hành chính sách phátxít, giải tán Đảng cộng
sản và các tổ chức dân chủ tiến bộ ở nước Pháp cũng như các thuộc địa của
Pháp. Tại Đông Dương, chúng thi hành chính sách cai trị thời chiến trên tất
cả các mặt đời sống xã hội, ra lệnh tổng động viên, bắt lính, bắt phu, tǎng
cường áp bức, bót lột.
Nhận rõ những biến động to lớn của tình hình thế giới và trong nước, tiền
đề của cách mạng thế giới và cách mạng Đông Dương, Đảng ta quyết định
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược: giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng
dân tộc, đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc cao hơn nhiệm vụ
chống phong kiến, giành ruộng đất cho nông dân, coi nhiệm vụ trung tâm
của cách mạng là chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
1
Đảng ta hiểu rằng, thắng lợi của cách mạng không tự đến mà phải chủ
động chuẩn bị giành lấy và giữ vững. Muốn vậy phải có lực lượng, có sức
mạnh toàn dân đoàn kết.
Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời chủ
trương đoàn kết hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu,
nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị nhằm


đấu tranh giải phóng dân tộc.
Mặt trận Việt Minh ra đời đã thu hút ngày càng nhiều các tầng lớp nhân
dân. Từ cuối nǎm 1941 đến đâu nǎm 1942, các hội Công nhân cứu quốc,
Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, đội tự vệ cứu
quốc đã được thành lập ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và
các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Mặt trận Việt Minh thực sự đã đánh thức
được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân.
Đặt vấn đề khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm, đòi hỏi
Đảng ta phải xây dựng lực lượng về mọi mặt, vừa có lực lượng chính trị, vừa
có lực lượng vũ trang.
Tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy hình thức đấu tranh vũ trang
lên khi cần thiết, kết hợp xây dựng lực lượng chính trị với lực lượng vũ
trang, chú ý xây dựng, bố trí lực lượng trên các địa bàn chiến lược, ở cả
nông thôn và thành thị là nội dung mới về xây dựng lực lượng cách mạng
của thời kỳ 1939-1945.
Quá trình xây dựng lực lượng cách mạng đồng thời là quá trình phát triển
cao trào đánh Pháp đuổi Nhật. Mặt khác, qua đấu tranh, lực lượng không
ngừng lớn mạnh.
Trong hai nǎm 1943-1944, thực hiện Nghị quyết của Ban thường vụ
trung ương Đảng tháng 2-1943, hầu hết các đảng bộ địa phương vùng động
bằng Bắc Bộ, sau những đợt chống khủng bố, đã đẩy mạnh việc xây dựng và
2
củng cố các đoàn thể Việt Minh ở nông thôn và thành thị.
Ở Hà Nội, tổ chức Việt Minh được phát triển mạnh trong nhiều nhà máy,
trường học. ở các tỉnh đồng bằng và ven biển miền Trung, nhiều tổ chức cơ
sở của Đảng và Việt Minh đã đi vào quần chúng công nhân, nông dân, dân
nghèo, đồng thời phát triển vào các tầng lớp tiểu tư sản, trí thức ở thành thị.
Ở Nam Bộ, cùng với sự phục hồi một số cơ sở công hội, tổ chức Việt
Minh được xây dựng ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh và một số tỉnh khác.
Hoạt động của các đội tuyên truyền xung phong và vũ trang ở nhiều thành

phố, thị xã đã gây thanh thế cho Việt Minh, thúc đẩy việc phát triển các đoàn
thể cứu quốc.
Ở vùng rừng núi và trung du Bắc Bộ, có những dấu hiệu của cao trào cách
mạng. ở Cao Bằng, hệ thống Việt Minh được xây dựng khắp các cơ sở trong
tỉnh. Đội tự vệ vũ trang và du kích được thành lập ở các xã, các huyện. Các
lớp huấn luyện chính trị, quân sự mở ra liên tiếp. Phong trào chuẩn bị khởi
nghĩa sục sôi trong toàn tỉnh. Không khí chuẩn bị khởi nghĩa dâng lên mạnh
mẽ ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Phú Thọ,
Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Yên, Việt Trì.
Trong khi đó mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng phát triển gay gắt. Đúng
như dự đoán của Đảng, đêm 9-3-1945, Nhật đã nổ súng đánh Pháp cùng một
lúc trên toàn cõi Đông Dương.
Ngay đêm 9-3-1945, giữa lúc Nhật nổ súng đánh Pháp, Hội nghị mở rộng
của Ban thường vụ trung ương Đảng họp ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc
Ninh) do đồng chí Trường - Chinh chủ trì. Hội nghị quyết định phát động
một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi
nghĩa.
Giữa lúc ấy, nạn đói ở các tỉnh miền Bắc diễn ra rất nghiêm trọng. Chính
3
sách vơ vét, bóc lột của phát xít Nhật và thực dân Pháp đã làm cho hơn hai
triệu dân ta chết đói. Trước tình hình đó, Đảng nêu khẩu hiệu: "Phá kho
thóc, giải quyết nạn đói" Chủ trương đó của Đảng đã đáp ứng nguyện vọng
cấp bách nhất của quần chúng, đã dấy lên một cao tràn đấu tranh rộng lớn ở
nông thôn Bắc Bộ.
Cao trào kháng Nhật cứu nước càng dâng lên mạnh mẽ khi được tin thắng
lợi của Hồng quân Liên Xô và phátxít Nhật đầu hàng vô điều kiện.
Trong tình hình vô cùng khẩn cấp, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ
ngày 13 đến ngày 15-8-l.945, tiếp sau đó ngày 16-8-1945 Đại hội quốc dân
họp tại Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động toàn dân tổng khởi
nghĩa. Nhân dân cả nước, triệu người như một đã nhất tế đứng lên khởi

nghĩa giành chính quyền từ tay phátxít Nhật và chính quyền tay sai. Chỉ
trong vòng 12 ngày, từ ngày 14 đến ngày 25-8-1945, nhân dân ta đã giành
được chính quyền trong cả nước.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi "chẳng những giai cấp lao động và nhân
dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp
bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử
cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15
tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.
Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thắng lợi là kết quả hợp thành của các
nhân tố chủ quan và khách quan, trong và ngoài nước. Nhưng quyết định
trực tiếp, trước hết là các nhân tố chủ quan bên trong. Đó là sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng và tinh thần quật khởi mạnh mẽ của toàn dân ta.
Trong suốt 15 nǎm, kể từ khi ra đời đến Cách mạng Tháng Tám 1945,
qua ba cao trào, Đảng ta đã kiên trì xây dựng lực lượng cách mạng về mọi
mặt. Nhờ có lực lượng toàn dân đoàn kết được xây dựng rộng khắp, có tổ
chức chặt chẽ nên cách mạng Tháng Tám đã diễn ra nhanh, ít đổ máu và
4
thắng lợi vẻ vang.
Từng thời kỳ, Đảng định ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thề sát đúng đề tập
hợp quần chúng, xây dựng lực lượng cách mạng
Từ khi ra đời, Đảng đã xác định trong Cương lĩnh của mình con đường
phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam: trước làm cách mạng dân tộc
dân chủ, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, hai nhiệm vụ chống
đế quốc và chống phong kiến được kết hợp một cách khǎng khít, nhằm thực
hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng.
Phương hướng và mục tiêu cơ bản đó đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng thiết
tha nhất của toàn dân tộc, trước hết là công nhân, nông dân và nhân dân lao
động. Đường lối chiến lược đúng là ngọn cờ hiệu triệu, tập hợp lực lượng.
Nhưng cách mạng muốn thắng lợi, muốn đạt tới mục tiêu chiến lược phải có

sự chỉ đạo chiến lược đúng.
Kinh nghiệm cho thấy, đề ra mục tiêu chiến lược và kiên định mục tiêu
chiến lược đó đã khó, thì việc đề ra mục tiêu trước mắt sát hợp với từng thời
kỳ, kết hợp đúng đắn mục tiêu trước mắt với mục tiêu lâu dài còn khó khǎn,
phức tạp hơn. ở đây, có thể phạm sai lầm "hữu khuynh" hoặc "tả khuynh".
Nóng vội, chủ quan hay do dự, bảo thủ cũng dễ bị tổn thất. Phải kết hợp
nhiệt tình cách mạng với tri thức khoa học, phải có quan điểm lịch sử cụ thể
mới xác định được mục tiêu trước mắt sát đúng và do đó mới tập hợp và xây
dựng được lực lượng cách mạng đồng đảo, vững mạnh.
Đồng chí Đỗ Mười, Tổng bí thư đã nói: "Trong việc xác định mục tiêu,
tuy có chú ý tính toàn diện, nhưng cần tập trung vào những trọng điểm và
5
thể hiện tính khả thi, không đề ra cao quá, vì sẽ không có khả nǎng thực
hiện, gây nghi ngờ trong quần chúng, cũng không hạ thấp vì sẽ kìm hãm
phong trào cách mạng của nhân dân. Phải đặc biệt tính toán các giải pháp,
phương tiện để thực hiện mục tiêu".
Thực tiễn lịch sử chứng tỏ, Đảng ta từng bước bổ sung, cụ thể hoá đường
lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhận thức và giải quyết ngày càng
đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến. Quá trình đó đồng thời là quá trình giác ngộ, tổ chức quần chúng và
xây dựng lực lượng cách mạng
Trong thời kỳ 1940-1945, Đảng nhận thức đầy đủ hơn và chỉ đạo kết hợp
một cách khéo léo giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến,
coi nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến
phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và được rải ra thực hiện từng bước.
Đảng chỉ rõ: "trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc
giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng
những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi
bộ phận của giai cấp đến vạn nǎm cũng không đòi lại được". Trong giai
đoạn hiện tại nếu không đánh đuổi được Nhật -- Pháp thì vận mạng của dân

tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không làm
sao giải quyết được"
Tập trung mũi nhọn đấu tranh đánh đổ đế quốc phát xít Nhật - Pháp và bè
lũ tay sai, thực hiện mục tiêu chủ yếu là giải phóng dân tộc, song Đảng
không quên nhấn mạnh, cách mạng vẫn mang tính chất dân tộc dân chủ,
nghĩa là không được tách rời hai nhiệm vụ chiến lược mà phải coi đánh đổ
đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến là nhiệm vụ khǎng khít, vấn đề dân
tộc và vấn đề dân chủ không thể tách rời. Nhưng, không tiến hành song song
nhất loạt ngang nhau.
6
Tập trung giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc không phải là Đảng thủ
tiêu vấn đề đấu tranh giai cấp và bỏ nhiệm vụ điền địa, cũng không phải lùi
một bước mà chỉ bước một bước ngắn hơn, để có sức mà bước một bước dài
hơn. Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất mà thay bằng
khẩu hiệu tịch ký ruộng đất của đế quốc Pháp và của những địa chủ phản bội
quyền lợi dân tộc, tức là chưa đánh vào toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến.
Đây là một chủ trương khôn khéo, nhằm tập trung lực lượng giải quyết
nhiệm vụ chủ yếu Chủ trương đó nhằm tạo ra sức mạnh to lớn, tập hợp đồng
đảo các tầng lớp nhân dân tham gia cách mạng, đồng thời củng cố khối liên
minh công nông thêm vững chắc.
Lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với trình độ giác ngộ và khả nâng
đấu tranh của các tầng lớp, giai cấp
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
coi trọng vấn đề tổ chức. Đảng hiểu rằng, sức mạnh của cách mạng bắt
nguồn từ sức mạnh của quần chúng, mà sức mạnh của quần chúng phải là
hành động tự giác có tổ chức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền
mới thành công". Chỉ thị về công tác to chức của Ban chấp hành trung ương
Đảng (ngày 1-2-1941) chỉ rõ: "Biết tổ chức thì dù bọn phát xít quỷ quyệt, tàn
nhẫn đến đâu cũng không làm gì nổi. Biết tổ chức tức là có thêm cán bộ, có

vũ khí có tài chính, có chiến đấu lực, tất cả những điều kiện cần thiết cho
cuộc cách mạng dân tộc giải phóng".
Ở mỗi thời kỳ lịch sử, do mục tiêu đấu tranh, trình độ quần chúng, đối
tượng cách mạng, lực lượng đối sánh, đặc điểm thời cuộc mà có những hình
thức tổ chức thích hợp.
7
Đảng và quần chúng sáng tạo ra các hình thức tổ chức phổ thông gắn liền
với đời sống sinh hoạt bình thường hàng ngày như hội cấy, hội gặt, hội lợp
nhà, hội hiếu hỉ, phường đi sǎn, hội hát kịch v.v.. Những hình thức tổ chức
"biến tướng" đó thích hợp với nhân dân ta ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến, mọi quyền tự do dân chủ bị kẻ thù bóp nghẹt và nhất là nhân dân vừa
trải qua một thời kỳ bị kẻ thù đàn áp đẫm máu. Do đó, nhiều hình thức tổ
chức vừa làm, sát hợp với quần chúng, nên đã lôi kéo được đồng đảo quần
chúng tham gia vào các phong trào đấu tranh công khai, bán công khai, rầm
rộ, sôi nổi hiếm thấy dưới thời Pháp thống trị và hiếm có ở một nước thuộc
địa.

Việc tổ chức quần chúng phải có nhiều hình thức thích hợp với từng giai
cấp, tâng lớp nhân dân và từng lứa tuổi. Thông thường, quần chúng có ba
loại: tiên tiến, trung bình, chậm tiến, lại còn có sự khác biệt về giai cấp, tôn
giáo, dân tộc, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp ... Cho nên, ngoài các đoàn thể
cứu quốc, Đảng còn tổ chức nhiều đoàn thể đơn sơ, không điều lệ, công khai
hoặc nửa công khai để thu hút đông đảo dân chúng.
Trong khi tổ chức đảng hết sức chặt chẽ, thì tổ chức quần chúng phải hết
sức rộng rãi, nhẹ nhàng, thậm chí có khi không thành hình thức tổ chức; phải
biết tận dụng mọi khả nǎng hợp pháp, nửa hợp pháp, dù là đơn sơ, nhỏ hẹp.
Phải biết nắm lấy mọi hoạt động của xã hội, kể cả các tổ chức do thực dân
Pháp lập ra, các hoạt động vǎn hoá, kinh tế trong sinh hoạt hàng ngày của
quân chúng để tập hợp quần chúng đồng đảo và che giấu tổ chức không hợp
pháp. Từ cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ cụ thể hàng ngày

mà tập hợp quần chúng, từng bước đưa quần chúng tham gia phong trào
cách mạng.
Khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, chuẩn bị khởi nghĩa giành
8

×