Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Hà Nam từ năm 2001 đến năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.94 KB, 111 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGÔ THỊ HƢỜNG






CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011







LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ













Hà Nội - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGÔ THỊ HƢỜNG





CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011




LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ




Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Đoàn Ngọc Hải







Hà Nội - 2014


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM (2001 - 2005) 8
1.1. Những nhân tố tác động đến công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng của
Đảng bộ tỉnh Hà Nam 8
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hà Nam tác động đến công
tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng 8
1.1.2. Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Tỉnh Hà
Nam trước năm 2001 15
1.1.3. Yêu cầu mới về xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh
Hà Nam (2001 - 2005) 19
1.2. Quá trình xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Hà Nam
(2001-2005) 25

1.2.1. Chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Nam về xây dựng tổ chức cơ
sở đảng (2001 - 2005) 25
1.2.2. Đảng bộ Tỉnh Hà Nam chỉ đạo xây dựng Tổ chức cơ sở đảng
(2001- 2005) 32
Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG (2006-2011) 42
2.1. Hoàn cảnh lịch sử 42
2.1.1. Tình hình thế giới 42
2.1.2. Tình hình trong nước 45
2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về đẩy mạnh xây dựng tổ chức cơ
sở đảng (2006-2011) 48
2.2.1. Chủ trương của Đảng của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng
Tổ chức cơ sở đảng (2006 - 2011) 48


2.2.2. Đảng bộ Tỉnh Hà Nam vận dụng chủ trương của Đảng về xây
dựng tổ chức cơ sở đảng vào thực tiễn địa phương 56
2.3. Sự chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Hà Nam
(2006-2011) 59
2.3.1. Chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng về chính trị, tư tưởng 59
2.3.2. Chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng về tổ chức 62
2.3.3. Kết quả xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Tỉnh Hà Nam
(2006- 1011) 65
Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU 71
3.1. Nhận xét về quá trình Đảng bộ Tỉnh Hà Nam xây dựng tổ chức cơ sở
đảng (2001- 2011) 71
3.1.1. Ưu điểm, nguyên nhân 71
3.1.2. Hạn chế, nguyên nhân 77
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu 81
3.2.1. Đảng bộ luôn luôn nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của công

tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh 81
3.2.2. Luôn coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, gắn kết chặt
chẽ xây dựng đội ngũ cán bộ với phát triển đảng viên 83
3.2.3. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng 85
3.2.4. Dựa vào quần chúng, thông qua phong trào cách mạng của quần
chúng làm tốt công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng 85
KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
PHỤ LỤC 98



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
TCCS : Tổ chức cơ sở đảng
TW : Trung ương
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam hơn 80 năm qua (1930 - 2012) đã chứng minh rằng, cách mạng muốn
thắng lợi trước hết phải có Đảng lãnh đạo. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 2011) khẳng định: Sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Không có sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng không thể giành

được thắng lợi. Thực tế lịch sử đã khẳng định: “Đảng có vững, cách mệnh
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Trong hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, tổ chức cơ sở đảng có vị trí,
vai trò cực kỳ quan trọng. Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa các cơ quan lãnh đạo của
Đảng với quần chúng nhân dân, nơi trực tiếp tổ chức vận động quần chúng
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, trực tiếp tạo nguồn và phát triển đảng viên, đào tạo cán bộ các cấp cho
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Đảng chỉ vững mạnh khi được xây
dựng trên nền tảng là các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh. Vì thế,
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và trong công tác xây dựng Đảng,
Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn coi việc xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng là một trong những
nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng.
Trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hoá
là nền tảng tinh thần của xã hội”. Trong công tác xây dựng Đảng, củng cố,
xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cho tổ chức cơ sở
2

đảng là vấn đề then chốt của nhiệm vụ then chốt. Các Nghị quyết Trung ương
3 khoá VIII, Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, Nghị quyết Trung
ương 5 khoá IX, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X “Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”, Nghị quyết
Trung ương 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI “Một số vấn đề
cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay” đã khẳng định vai trò và tầm quan
trọng của việc xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các tổ chức cơ sở đảng trước yêu cầu nhiệm vụ mới.

Trước yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của đất nước, của Đảng bộ tỉnh
Hà Nam, tình hình Đảng bộ và công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ còn bộc
lộ những yếu kém, khuyết điểm, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các
tổ chức cơ sở đảng chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ; một bộ phận đảng viên
tinh thần trách nhiệm chưa cao, năng lực công tác còn hạn chế v.v Do đó,
việc tập trung xây dựng,củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các TCCS đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, thực sự có bản lĩnh
chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao, có tinh
thần trách nhiệm, có năng lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được phân
công… là một nhiệm vô cùng quan trọng và cấp bách hiện nay.
Do vậy, nghiên cứu quá trình xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ
tỉnh Hà Nam, nhằm tổng kết công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đúc rút
những kinh nghiệm góp phần tham mưu cho Đảng bộ tỉnh về công tác xây
dựng Đảng trong thời gian tới là việc làm cần thiết. Với những lý do trên, tôi
chọn đề tài “Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Hà
Nam từ năm 2001 đến năm 2011” làm luận văn thạc sỹ Lịch sử, chuyên
ngành Lịch Sử Đảng Cộng sản Việt Nam
3

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài đã có nhiều công trình nghiên cứu của các cơ quan
và các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau. Tiêu
biểu là những nhóm chủ yếu sau:
- Nhóm thứ nhất: Các công trình nghiên cứu lý luận chung về xây dựng
tổ chức cơ sở đảng như: “365 câu hỏi và trả lời tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên” nhiều tác giả, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội năm 2003; “Tổ
chức cơ sở đảng với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng” công trình
nghiên cứu của Nguyễn Cúc, Lê Phương Thảo, Doãn Hùng, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004; “Tổ chức và hoạt động của chi bộ Đảng” của TS
Nguyễn Duy Hùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008; “ Về nâng

cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, Đảng Cộng Sản Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; “Nâng cao chất lượng tổ chức
cơ sở đảng”, Giáo trình xây dựng Đảng, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Viện xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2004.
Giá trị cơ bản của các nghiên cứu này là cung cấp cơ sở lý luận và cách tiếp
cận để hiểu biết sâu hơn những vấn đề về tổ chức và hoạt động của các loại
hình tổ chức cơ sở đảng. Tuy vậy do đặc thù của chuyên ngành xây dựng
Đảng, nên những công trình này không xem xét vấn đề xây dựng, củng cố tổ
chức cơ sở đảng theo cách nhìn lịch đại với những cơ sở hình thành, vận động
và phát triển của các Tổ chức cơ sở đảng.
- Nhóm thứ hai: Là một số công trình khoa học nghiên cứu về quá trình
xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các địa phương, ban ngành:
Luận án tiến sỹ: Nguyễn Minh Tuấn: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp Nhà nước ở Hà
Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH”; Luận văn thạc
sĩ: Nguyễn Đình Kỳ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng trong xí nghiệp Quốc doanh qua thực tiễn cũng như địa
4

phương Hà Nội”; Mô hình tổ chức Đảng trong tổng công ty 91,92, của ban
Tổ chức Trung ương, Hà Nội, 2000; Lệ Hồng “Nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở doanh nghiệp Nhà nước khu công
nghiệp Biên Hòa I”, Hà Nội, 2001; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh
Huyền “Đảng bộ Hà Tây thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng thời kỳ 1991 -
2000”… Các nghiên cứu trên đây đã tiếp cận vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở
đảng với tư cách là một bộ phận hợp thành của công tác xây dựng Đảng. Tuy
nhiên các công trình này thường đề cập đến vấn đề xây dựng Đảng trên những
địa bàn cụ thể, phản ánh tính đặc thù của mỗi địa phương.
- Nhóm thứ 3: Những nghiên cứu về công tác xây dựng Đảng của đảng
bộ tỉnh Hà Nam nói chung, xây dựng củng cố cơ sở đảng nói riêng. Đáng chú

ý là công trình của Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Hà Nam (2000), “Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Hà Nam (1927 - 1975), Tập 1; Ban Chấp Hành Đảng Bộ Tỉnh
Hà Nam (2010), “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Nam (1975 - 2005), Tập 2. Những
nghiên cứu này đã đề cập trực tiếp những vấn đề xây dựng Đảng ở Đảng bộ
tỉnh Hà Nam theo tiến trình lịch sử, cung cấp một số tư liệu, về điều kiện địa
lý tự nhiên, dân cư, kinh tế, văn hoá, xã hội, về xây dựng Đảng bộ. Tuy vậy,
đây là những quyển sách được xuất bản chủ yếu phục vụ cho mục đích tuyên
truyền giáo dục lịch sử, truyền thống ở địa phương. Hơn nữa, do phải đề cập
toàn diện các mặt lãnh đạo của Đảng, nên các công trình này chưa có điều
kiện nghiên cứu chuyên sâu các khía cạnh cụ thể của vấn đề xây dựng tổ chức
cơ sở đảng. Một số công trình nghiên cứu khác như: “Đề án nâng cao hiệu
quả công tác chính trị tư tưởng ở các Đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa
bàn tỉnh Hà Nam”, Ban tuyên giáo Tỉnh ủy (2009); “Nâng cao chất lượng tổ
chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Thành phố Phủ Lý - Tỉnh Hà Nam trong thời
kỳ hiện nay”, Nguyễn Thị Chương, (2011). Lê Khả Phiêu có bài "Xây dựng
Đảng là then chốt, là yếu tố quyết định đưa Hà Nam đến mục tiêu dân giàu,
văn minh” đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng số 3- 1998.
5

Cả 3 nhóm nghiên cứu trên, đã làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn
về công tác xây dựng Đảng, về các mặt chính trị, tư tưởng tổ chức. Một số
công trình đã đề cập đến công tác xây dựng Đảng ở một số vùng, địa phương
cụ thể trên cả nước. Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình khoa học lịch sử
Đảng nào đề cập đến công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh
Hà Nam từ năm 2001 đến năm 2011. Nhưng các công trình trên là nguồn tư
liệu quý, tác giả có thể tham khảo, vận dụng trong quá trình thực hiện luận
văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Làm sáng tỏ quá trình xây dựng Tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ

Tỉnh Hà Nam từ năm 2001 đến năm 2011; Nhận xét kết quả và rút ra một số
kinh nghiệm từ quá trình xây dựng Tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Tỉnh Hà
Nam để vận dụng vào công tác xây dựng Đảng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để đạt mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng, thực trạng xây dựng Tổ
chức cơ sở đảng của Đảng bộ Tỉnh Hà Nam trước năm 2001, và yêu cầu đặt
ra đối với Đảng bộ tỉnh Hà Nam về công tác xây dựng Tổ chức cơ sở đảng
trong thời kỳ mới (2001 - 2011).
- Hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng
của Đảng bộ tỉnh Hà Nam từ năm 2001 đến năm 2011.
- Nhận xét và rút ra những kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ Tỉnh Hà
Nam xây dựng tổ chức cơ sở đảng để vận dụng vào hiện thực.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu quá trình Đảng bộ Tỉnh Hà Nam thực hiện nhiệm
vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng ( 2001 - 2011).
6

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: đề tài nghiên cứu quá trình xây
dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Hà Nam (chủ trương và sự chỉ
đạo). Có nhiều loại hình Tổ chức cơ sở đảng, trong phạm vi luận văn, tác giả
tập trung vào xây dựng Tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn của Tỉnh.
- Phạm vi về thời gian: đề tài nghiên cứu từ năm 2001 đến năm 2011.
Nhưng trong quá trình thực hiện, tác giả có đề cập đến một số nội dung liên
quan đến đề tài trước năm 2001 và sau năm 2011.
- Phạm vi về không gian: nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng
Đảng, trong đó có xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử, phương
pháp logic và sự kết hợp hai phương pháp đó. Ngoài ra còn sử dụng một số
phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…Các phương
pháp này được sử dụng phù hợp với yêu cầu của từng nội dung luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống những quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo xây dựng tổ
chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Hà Nam (2001- 2011), rút ra một số kinh
nghiệm vận dụng vào công tác xây dựng Đảng hiện nay.
- Góp phần tổng kết công tác xây dựng Đảng về tổ chức ở cơ sở.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu,
giảng dạy lịch sử Đảng ở các trường đại học, cao đẳng, các cơ quan nghiên
cứu
7

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo xây dựng Tổ chức cơ sở đảng của
Đảng bộ Tỉnh Hà Nam (2001 - 2005).
Chương 2: Đấy mạnh xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của Đảng bộ tỉnh
Hà Nam (2006-2011).
Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm.
8

Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM (2001 - 2005)


1.1. Những nhân tố tác động đến công tác xây dựng tổ chức cơ sở
đảng của Đảng bộ tỉnh Hà Nam
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hà Nam tác động đến
công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
* Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Hà Nam, có bề dày lịch sử trên 120 năm, là mảnh đất giàu truyền
thống văn hiến và cách mạng. Tỉnh Hà Nam, nằm trong vùng đồng bằng sông
Hồng, thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Năm 1997, tỉnh Hà Nam được tái
lập, có 05 huyện và 01 thị xã (nay là thành phố) trực thuộc tỉnh với 116 xã,
phường, thị trấn (có 15 xã miền núi). Hà Nam có diện tích là 859,5 km², phía
Bắc giáp với thủ đô Hà Nội, phía Đông giáp với tỉnh Hưng Yên, tỉnh Thái
Bình, phía Nam giáp với tỉnh Ninh Bình, Đông Nam giáp tỉnh Nam Định, phía
Tây giáp tỉnh Hòa Bình. Hà Nam có điều kiện thời tiết, khí hậu mang đặc trưng
của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm ướt. Nhiệt độ trung bình hàng năm
vào khoảng 23-24 độ C, số giờ nắng trung bình 1300 -1500 giờ/năm, lượng
mưa trung bình khoảng 1900mm, độ ẩm trung bình hàng năm 85%.
Tỉnh Hà Nam có địa hình thấp dần từ Tây sang Đông, Phía Tây của tỉnh
là vùng đồi núi bán sơn địa với các dãy núi đá vôi với một số hang động thạch
nhũ, núi đất và đồi rừng, nhiều nơi có địa hình dốc Phía Đông tỉnh là đồi đất
thấp xen lẫn núi đá và chủ yếu là đồng bằng do phù sa bồi tụ từ những dòng
sông lớn chiếm khoảng 85-90% diện tích của tỉnh. Tỉnh Hà Nam, có một số
loại khoáng sản như: than bùn, đá vôi xi măng, sét xi măng, đôlômít, đá vôi
hóa chất, đá vôi xây dựng. Mạng lưới giao thông của tỉnh Hà Nam được đánh
giá là khá thuận lợi cho giao lưu, phát triển kinh tế - văn hóa với bên ngoài và
trong nội tỉnh bởi địa phận tỉnh nằm trên huyết mạch giao thông Bắc - Nam
9

với tuyến đường sắt, đường bộ, đường thủy. Trên địa bàn tỉnh Hà Nam có các
quốc lộ đi qua như: quốc lộ 1A, quốc lộ 21A, quốc lộ 21B, quốc lộ 38, đường

cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình; các tuyến đường nối các thị trấn với nhau và các
thị trấn với thành phố Phủ Lý đều là đường nhựa với quy mô từ 2 làn đến 4
làn xe ô tô; hệ thống giao thông nông thôn của tỉnh đã được đổ nhựa hoặc bê
tông nên khá thuận lợi cho việc đi lại giữa các vùng trong tỉnh, nối liền Hà
Nam với các tỉnh khác. Giao thông đường thủy của tỉnh cũng khá phát triển
do có nhiều con sông lớn chảy qua địa phận Hà Nam như sông Hồng, sông
Đáy, sông Châu Giang, sông Nhuệ,…
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, Hà Nam có 785.057 người, chiếm
5,6% dân số đồng bằng sông Hồng, mật độ dân cư là 954 người/km², 91,5% dân
số sống ở nông thôn, 8,5% dân số sống ở khu vực đô thị. Theo thống kê mới
nhất, tổng số người có hộ khẩu thường trú là 846.653 người (4-2013). Trình độ
kinh tế, dân trí và trình độ văn hóa xã hội của dân cư phát triển khá cao, thu
nhập và đời sống của đa số dân cư đã được cải thiện và nâng cao đáng kể. Đặc
điểm nổi trội của cư dân và nguồn lực con người Hà Nam là truyền thống lao
động cần cù, vượt lên mọi khó khăn để phát triển sản xuất, là truyền thống
hiếu học, ham hiểu biết, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng cao, giàu lòng
nhân ái, mến khách và giàu sức sáng tạo trong phát triển kinh tế, mở mang
văn hóa xã hội. Đây là một nguồn lực đặc biệt quan trọng đối với phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh.
Về trình độ dân trí, tính đến hết năm 2002 đã phổ cập giáo dục tiểu học
cho 6 huyện, thị xã với số xã là 116 xã, phường, thị trấn, trong đó số xã miền
núi có 15 xã chiếm 12,7%; tỷ lệ người biết chữ chiếm 96%. Số học sinh phổ
thông năm học 2002-2003 là 76.024 em; số giáo viên toàn tỉnh là 3.253 người
chủ yếu là dân tộc kinh. Số thầy thuốc có 1.723 người; bình quân số y, bác sĩ
trên 1 vạn dân là 4,4 người, trong đó y, bác sĩ là người dân tộc thiểu số chiếm
0,12% [63].
10

Trên địa bàn tỉnh có 27 dân tộc, đông nhất là dân tộc Kinh có 792.130

người, chiếm 99%; các dân tộc thiểu số như dân tộc Tày có 285 người, chiếm
0,03%; dân tộc Ngái có 136 người, chiếm 0,01%; dân tộc Thái có 115 người,
chiếm 0,01%; các dân tộc khác chiếm 0,05% (theo số liệu điều tra dân số
tháng 4 năm 2009).
Về tôn giáo, tỉnh Hà Nam có ba tôn giáo chính: đạo Phật, đạo Thiên
Chúa, đạo Tin lành. Hiện nay, trên toàn tỉnh có 491 chùa, 230 vị tăng ni, số
tín đồ 64.164 người, đạo Thiên Chúa có khoảng 101.000 giáo dân, đạo Tin
lành có 193 nhân khẩu [40], thực hiện tốt công tác tôn giáo, xem xét, giải
quyết kịp thời nhu cầu chính đáng, hợp pháp của các tổ chức và cá nhân theo
quy định, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, góp phần ổn định
tình hình trên địa bàn. Tuy nhiên, một số hoạt động tín ngưỡng và lợi dụng
tôn giáo có thời điểm còn diễn biến phức tạp.
Tình hình phát triển kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch tốt về cơ cấu kinh
tế, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đang trên đà phát triển. Công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp phát triển, đạt tốc độ tăng trưởng cao, có chuyển biến về cơ
cấu sản xuất, quy mô và chất lượng. Sản xuất vượt qua nhiều khó khăn về thời
tiết và dịch bệnh, mô hình xây dựng nông thôn mới bước đầu đạt hiệu quả. Về
tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh: Giai đoạn 2003 -
2012, Hà Nam luôn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Bình quân 10 năm
(2003 - 2012), kinh tế Hà Nam tăng trưởng 12,12%, trong đó giai đoạn 2006 -
2010 tăng 13,2%. Năm 2012, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) gấp 3,14 lần
năm 2003. 6 tháng đầu năm 2013, GDP tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2012;
phấn đấu GDP năm 2013 tăng 10,9% so với năm 2012. Thu nhập bình quân
đầu người năm 2012 là 26 triệu đồng, gấp 6,8 lần so với năm 2003; phấn đấu
năm 2013 là 30,55 triệu đồng, tăng 19,2% so với năm 2012. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch tích cực. Năm 2003, cơ cấu kinh tế là: Nông, lâm nghiệp, thủy
sản 33,7%, công nghiệp - xây dựng 34,5%, dịch vụ 31,8%. Năm 2012, cơ cấu
kinh tế là: Nông, lâm nghiệp, thủy sản 18,4%, công nghiệp - xây dựng 51,3%,
11


dịch vụ 30,3%; mục tiêu hết năm 2013, cơ cấu chuyển dịch như sau: Nông,
lâm nghiệp, thủy sản 17,1%, công nghiệp - xây dựng 52,2%, dịch vụ
30,7%.Thu ngân sách đạt kết quả tốt, năm 2005 đạt 340,5 tỷ đồng, năm 2010
đạt 1.200 tỷ đồng, năm 2012 đạt 1.853 tỷ đồng [59, tr. 3].
Hà Nam là một trong những tỉnh có mạng lưới cơ sở y tế, giáo dục, văn
hóa và phúc lợi xã hội phát triển. Về giáo dục, hiện nay, có khoảng 56,3%
tổng số trường được công nhận trường chuẩn quốc gia (228/405 trường),
trong đó có 50/120 trường mầm non, 131/140 trường tiểu học, 41/120 trường
trung học cơ sở,6/25 trường trung học phổ thông đạt chuẩn Quốc gia; 75% số
phòng học được kiên cố hoá [10, tr. 7]. Hệ thống các trường đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề trên địa bàn được mở rộng nâng
cấp; tổ chức liên kết đào tạo, từng bước đáp ứng yêu cầu đào tạo và nhu cầu
học tập nâng cao tay nghề của người lao động. Trên địa bàn tỉnh Hà Nam có
các trường: Đại học Hà Hoa Tiên, Cao đẳng Sư phạm Hà Nam, Cao đẳng
Phát thanh - Truyền hình Trung ương I, Cao đẳng Y tế, Cao đẳng Thuỷ lợi
Bắc bộ và một số trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Chất lượng
giáo dục toàn diện có nhiều chuyển biến, tiến bộ rõ rệt, nhất là trí dục. Về y
tế, trên địa bàn tỉnh hiện có 12 bệnh viện, 04 phòng khám khu vực và 116
trạm y tế xã/phường thuộc hệ thống nhà nước và hàng trăm cơ sở khám chữa
bệnh đông y, khám chữa bệnh tư nhân, cơ sở, đại lý bán thuốc phục vụ chữa
bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tổng số y, bác sĩ hiện có khoảng 980
người. Hàng năm đã khám, điều trị cho hàng trăm nghìn lượt người, đảm bảo
làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, không có dịch
bệnh lớn xảy ra trên địa bàn. Hệ thống y tế từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được đầu
tư, phát triển cả về nhân lực và trang thiết bị y tế, cơ bản đáp ứng được yêu
cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân địa phương và góp phần giảm
tải cho bệnh viện tuyến trên. Các chương trình y tế được triển khai kịp thời,
thực hiện có hiệu quả, không để xảy ra dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm lớn
trên địa bàn. Đến năm 2012, có 91,3% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia
12


về y tế xã, 72,4% trạm y tế xã có bác sỹ, 88,8% trạm y tế xã khám chữa bệnh
bảo hiểm y tế.
Công tác thông tin, phát thanh, truyền hình có nhiều đổi mới về nội
dung và phương pháp hoạt động, đóng góp tích cực vào việc đưa chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, của tỉnh nhanh
chóng đi vào cuộc sống. Phong trào rèn luyện thân thể, thực hiện nếp sống
mới trong việc cưới, việc tang, lễ hội được đông đảo nhân dân, cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp hưởng ứng. Các chính sách xã hội, chính sách đối với người
có công, thực hiện mục tiêu giảm nghèo được triển khai kịp thời, nghiêm túc,
đúng đối tượng, có hiệu quả. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,7% (năm 2012).
Phong trào xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, thu hút đông đảo doanh
nghiệp, cán bộ đảng viên, nhân dân tham gia, từng bước phát triển sản xuất
nâng cao đời sống người dân, thực hiện hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Các huyện đều có nhà văn hóa khang trang, nhiều xã đã có nhà văn hóa xã,
thư viện hoặc nhà truyền thống phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân.
1.1.2. Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Tỉnh Hà
Nam trước năm 2001
1.1.2.1. Tổ chức cơ sở đảng - Khái niệm, loại hình, vị trí, vai trò
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI thông qua ngày 19 tháng 1 năm 2011 đã ghi rõ: "Tổ chức cơ sở đảng
là tổ chức đảng được lập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc
công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy quận, huyện, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh ". Tổ chức cơ sở đảng gồm đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở. Điều
21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành quy định rõ:
Ở đơn vị xã, phường, thị trấn có từ 3 đảng viên chính thức trở lên, lập
tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp,
hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có
từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc
chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở). Cấp ủy cấp trên trực tiếp xem xét, quyết

13

định tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa
đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên
sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ
đảng trực thuộc. Tổ chức cơ sở đảng có từ 30 đảng viên trở lên, lập đảng bộ
cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ. Trong những trường hợp khác, cấp uỷ
cấp dưới phải báo cáo và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực
hiện: Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên; Lập
chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có hơn ba mươi đảng viên; Lập đảng bộ bộ
phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng nói chung được thành lập
theo ba hình thức: Chi bộ cơ sở, dưới chi bộ cơ sở có các tổ đảng; Đảng bộ cơ
sở, dưới đảng bộ cơ sở có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ; Đảng bộ cơ sở, dưới
đảng bộ cơ sở là các đảng bộ bộ phận và các chi bộ trực thuộc đảng uỷ. Dưới
đảng bộ bộ phận là các chi bộ, dưới các chi bộ có thể có các tổ đảng. Đại hội
đại biểu hoặc đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở đảng do cấp uỷ cơ sở triệu
tập năm năm một lần; có thể triệu tập sớm, hoặc muộn hơn nhưng không quá
một năm. Đảng uỷ, chi uỷ cơ sở họp thường lệ mỗi tháng một lần; họp bất
thường khi cần. Đảng bộ cơ sở họp thường lệ mỗi năm hai lần; họp bất
thường khi cần. Chi bộ cơ sở họp mỗi tháng một lần, họp bất thường khi cần.
Các loại hình tổ chức cơ sở đảng gồm có 5 loại hình tổ chức cơ sở
đảng cơ bản là: Tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; tổ chức cơ sở đảng
trong doanh nghiệp (trong đó có nhiều loại hình doanh nghiệp); tổ chức cơ sở
đảng trong cơ quan hành chính; tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị sự nghiệp và
tổ chức cơ sở đảng trong lực lượng vũ trang (Xem phụ lục 1).
Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
xây dựng tổ chức cơ sở đảng và luôn khẳng định: “Mỗi chi bộ của Đảng phải
là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật
thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần

14

chúng”. “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt” [30, tr.
210].
Tổ chức cơ sở đảng, là nền tảng của Đảng. Đây là cấp thấp nhất trong
hệ thống tổ chức của Đảng, là nơi tổ chức đảng và đảng viên gắn bó mật thiết
với quần chúng nhân dân, hoạt động trong lòng nhân dân. Tổ chức cơ sở đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao được năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của mình sẽ là yếu tố quyết định đến sức mạnh của toàn
Đảng, đến thành công của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng trong
từng giai đoạn cách mạng.
Tổ chức cơ sở đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, lãnh đạo tất cả các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị cơ sở nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động ở
cơ sở theo đúng định hướng chính trị của Đảng. Tổ chức cơ sở đảng là nơi
quán triệt, chấp hành chủ trương, đường lối, nhiệm vụ chính trị của cấp trên;
cụ thể hóa, đề ra nhiệm vụ của cấp mình và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện nhiệm vụ đó, biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện
thực cuộc sống.
Tổ chức cơ sở đảng, là nơi quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân
dân; là nơi tổng kết thực tiễn, bổ sung vào chủ trương, đường lối của Đảng
ngày càng hoàn thiện và đúng đắn, có lý có tình, hợp với ý đảng, lòng dân.
Tổ chức cơ sở đảng, là cầu nối liền các cơ quan lãnh đạo của Đảng đối
với quần chúng nhân dân. Mọi tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân
thông qua tổ chức cơ sở đảng mà được phản ánh lên tổ chức đảng cấp trên.
Tổ chức cơ sở đảng, là nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào quần chúng và tổ chức cho
quần chúng thực hiện thắng lợi trong thực tiễn.
Tổ chức cơ sở đảng, là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng
nội bộ Đảng: giáo dục, rèn luyện, kết nạp, sàng lọc đảng viên; nơi đào tạo cán

bộ cho Đảng; nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, Nhà
15

nước và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Tổ chức cơ sở đảng là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng, nơi bảo đảm
tính tiên phong, tính trong sạch của Đảng; là nơi mà mọi hoạt động xây dựng
nội bộ Đảng được tiến hành; là trung tâm đoàn kết nội bộ Đảng và tập hợp
đoàn kết quần chúng nhân dân.
1.1.2.2. Kết quả Xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Tỉnh Hà
Nam trước năm 2001
Đảng bộ tỉnh Hà Nam, trực tiếp là Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã
cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ra nhiệm
vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở địa phương. Trong hai năm (1999-2000),
Đảng bộ xác định trọng tâm của công tác xây dựng Đảng là tổ chức triển khai
thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII Về một số vấn đề cơ bản
và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Đảng bộ tỉnh Hà Nam
chỉ rõ, đây là Nghị quyết quan trọng gắn liền với cuộc vận động và chỉnh đốn
Đảng, nhằm xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; thực
hiện nghị quyết phải đảm bảo phương châm đoàn kết, tự phê bình và phê bình
có hiệu quả, thấu tình đạt lý, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng bộ, củng cố niềm tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong
đó đặc biệt chú trọng đến sửa chữa khuyết điểm, tăng cường đoàn kết thống
nhất, tạo ra những chuyển biến cụ thể, thiết thực trong tổ chức thực hiện
nhiệm vụ chính trị. Coi việc sửa chữa khuyết điểm sau tự phê bình và phê
bình là mấu chốt đánh dấu sự chuyển biến.
Sau khi tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2)
khóa VIII, toàn Đảng bộ triển khai tự phê bình và phê bình. Sau hai năm
(1999-2000), cơ bản đảng viên trong toàn Đảng bộ đã có nhận thức đúng về
tầm quan trọng của cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng trước yêu
cầu, nhiệm vụ cách mạng mới. Đa số cán bộ, đảng viên thấy rõ trách nhiệm,

phấn khởi, tin tưởng và quyết tâm thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng và
chỉnh đốn Đảng. Kết quả nổi bật của cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn
16

Đảng đã góp phần củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên.
Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo các tổ chức cơ sở đảng thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng. Các tổ chức cơ sở đảng đã quán
triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, thực hiện nghiêm túc nghị quyết
Đại hội Đảng cấp trên, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu của đại hội cấp mình
đề ra về lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, cải thiện đời
sống nhân dân, thực hiện tốt chính sách xã hội ở cơ sở, tạo chuyển biến mới
trong công tác giáo dục, y tế, xây dựng nếp sống văn hóa. Các tổ chức cơ sở
đảng thuộc Đảng bộ tỉnh Hà Nam coi trọng công tác giáo dục ý thức quốc
phòng toàn dân, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Các tổ
chức cơ sở đảng đã lãnh đạo chính quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, xây dựng chính quyền vững mạnh; lãnh đạo đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Các tổ chức
cơ sở đảng đã lãnh đạo nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị, chống
tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, thực hiện tiết kiệm đồng thời tăng cường
công tác quản lý, kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, đề cao vai trò
trách nhiệm của cấp ủy cơ sở, của cán bộ chủ chốt và phát huy dân chủ rộng
rãi trong đảng, trong quần chúng nhân dân với nhiều hình thức phong phú để
tham gia góp ý, phê bình cán bộ đảng viên. Các tổ chức cơ sở đảng đã lãnh
đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, củng cố và tăng cường được lòng
tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Các tổ chức cơ sở đảng đã lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác xây
dựng Đảng. Tổ chức cơ sở đảng được kiện toàn và củng cố qua các kỳ đại hội
đảng các cấp, xây dựng quy chế làm việc của cấp ủy, hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ của từng loại hình tổ chức cơ sở đảng, xây dựng đảng bộ, chi

bộ trong sạch vững mạnh theo đơn vị sản xuất, các cấp ủy xã, phường, thị trấn
đã thành lập tổ chức cơ sở đảng theo địa bàn dân cư thôn, xóm, tổ dân phố.
Các cấp ủy đảng đã có nhiều hình thức, biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ
17

trong sạch, vững mạnh đi đôi với củng cố, khắc phục các tổ chức cơ sở đảng
yếu kém, đề ra các nghị quyết chuyên đề về xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong sạch, vững mạnh, tiến hành đánh giá, phân loại tổ chức cơ sở đảng một
cách nghiêm túc. Đặc biệt, Đảng bộ tỉnh Hà Nam quan tâm chỉ đạo, xây dựng
tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố những tổ chức cơ sở đảng yếu
kém, tập trung giải quyết những vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài. Chất
lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được nâng lên. Số tổ chức cơ sở đảng
đạt trong sạch, vững mạnh ngày càng tăng: 76% năm 1997, 77% năm 1998,
82,28% năm 2000, vượt chỉ tiêu Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam đề ra.
Toàn tỉnh chỉ còn 5 tổ chức cơ sở đảng yếu kém, chiếm 1,26%. Bình quân
trong 3 năm (1998-2000), số đảng viên tủ tư cách đạt 78,7%, số đảng viên đủ
tư cách nhưng còn hạn chế từng mặt là 19,9%, số đảng viên vi phạm và không
đủ tư cách còn 1,4% [2, tr. 363].
Một số cấp ủy, tổ chức đảng yếu kém đã vươn lên sau khi được kiện
toàn và tiến hành xử lý những cán bộ vi phạm. Đến năm 2000, hầu hết tổ chức
đảng cấp trên cơ sở và 90% tổ chức đảng cơ sở đã xây dựng, bổ sung quy chế
làm việc, đảm bảo đúng nguyên tắc và Điều lệ Đảng.
Công tác kết nạp đảng viên mới được quan tâm, từ năm 1997 đến năm
2000, toàn Đảng bộ mở gần 100 lớp cho 6.500 quần chúng ưu tú học tập, tìm
hiểu về Đảng nhờ đó, đã kết nạp được 3000 đảng viên.
Dân chủ trong Đảng bộ tỉnh, trong tổ chức cơ sở đảng được phát huy
gắn liền với giữ vững kỷ cương, kỷ luật và đoàn kết nhất trí nhờ đó nâng cao
được sức mạnh và hiệu lực trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công việc.
Hoạt động kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra các cấp thuộc Đảng bộ tỉnh
Hà Nam đã có nhiều tiến bộ, đạt hiệu quả tốt. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã trực

tiếp chỉ đạo các cuộc kiểm tra chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Trung
ương, của tỉnh ủy, thành lập các tổ công tác trực tiếp xuống cơ sở kiểm tra
công tác tiếp dân, chỉ đạo việc giải quyết đơn thư khiếu nại, góp phần ổn định
tình hình chính trị- xã hội của tỉnh. Trong hai năm 1999-2000, Ủy ban kiểm
18

tra các cấp đã phối hợp kiểm tra 164 tổ chức đảng và 1.761 đảng viên về việc
chấp hành nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng và việc thực hiện nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, gắn với kiểm tra Quy định số 55-QĐ/TW về những
điều đảng viên không được làm và giải quyết đơn, thư tố cáo của đảng viên.
Đã xử lý kỷ luật 11 tổ chức đảng và 857 đảng viên, có 37% cấp ủy viên các
cấp, khai trừ khỏi đảng 119 người [2, tr. 364]. Các cấp ủy đảng xử lý kịp thời,
nghiêm minh những cán bộ đảng viên vi phạm, kể cả cán bộ đã và đang giữ
chức vụ chủ chốt trong cấp ủy và các cơ quan từ tỉnh đến cơ sở.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ tỉnh Hà
Nam trước năm 2001 vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm:
Một số chi bộ, đảng bộ cơ sở chưa làm tốt vai trò lãnh đạo toàn diện ở
địa phương, chưa làm tốt công tác quản lý, rèn luyện, phân công đảng viên
làm nhiệm vụ. Việc bồi dưỡng giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân quán
triệt sâu sắc đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa
được các tổ chức cơ sở đảng thực hiện thường xuyên. Năng lực lãnh đạo của
một số tổ chức cơ sở đảng còn yếu, lúng túng trong cơ chế mới, nhất là quản
lý kinh tế, quản lý xã hội; chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước
triển khai ở một số nơi còn chậm, có tổ chức đảng còn lúng túng trong việc
xác định phương hướng, nhiệm vụ chính trị.
Một số cấp ủy chưa làm tốt việc cụ thể hóa tiêu chuẩn trong sạch, vững
mạnh cho phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ địa phương và đối với loại hình tổ
chức cơ sở đảng. Việc củng cố tổ chức cơ sở đảng yếu kém làm chưa triệt để,
có cơ sở đảng yếu kém kéo dài, nhất là ở một số xã.
Việc phân tích chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên tuy có sự

chỉ đạo của các cấp ủy, nhưng chưa làm tốt việc hướng dẫn, kiểm tra bám sát
tiêu chuẩn bình xét, phân loại chất lượng đảng viên, tổ chức đảng.
Kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn của một bộ phận cán bộ,
đảng viên còn hạn chế so với yêu cầu đổi mới. Một số cán bộ, đảng viên giảm
sút ý chí phấn đấu, nặng về vun vén cá nhân, xa rời quần chúng. Có tình trạng
19

một số đảng viên thấy đúng không bảo vệ, thấy sai trái không đấu tranh, chưa
thật sự tiên phong, gương mẫu. Đặc biệt nghiêm trọng là có cán bộ, đảng viên
ở cương vị lãnh đạo cố ý gây chia rẽ, bè phái, tham nhũng, quan liêu, làm sai
chế độ chính sách, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Trong tổ chức sinh hoạt đảng có nơi vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ
cương; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng tuy có tiến bộ
nhưng vẫn còn biểu hiện quan liêu, dân chủ hình thức; đấu tranh tự phê bình
và phê bình chưa thường xuyên, nghiêm túc; chưa thẳng thắn chân tình. Ở
một số tổ chức cơ sở đảng còn biểu hiện mất đoàn kết, tư tưởng cụ bộ địa
phương, cá nhân chủ nghĩa. Tình trạng phát tán đơn thư mạo danh, nặc danh
với động cơ xấu có lúc diễn ra rất nghiêm trọng ở một số tổ chức cơ sở đảng
nhưng chưa được ngăn chặn kịp thời.
1.1.3. Yêu cầu mới về xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh
Hà Nam (2001 - 2005)
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Hà Nam trong
thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế phải đáp ứng được những yêu cầu, đòi
hỏi mới.
Bước vào thế kỷ XXI, tình hình thế giới tiếp tục có nhiều biến đổi to
lớn đã trực tiếp, hoặc gián tiếp tác động đến sự lãnh đạo của Đảng và công tác
xây dựng Đảng, trong đó có công tác xây dựng tổ chức đảng.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có những bước tiến nhảy vọt,
tác động rất lớn đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội thế giới. Cùng với

cách mạng khoa học và công nghệ là quá trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, tác động đến tất cả các nước, các khu vực, các vùng lãnh thổ. Toàn
cầu hóa, nhìn chung vừa đem lại những lợi ích to lớn cho nhân loại, vừa chịu
sự chi phối của các nước tư bản, do đó có sự không công bằng, thậm chí bất
bình đẳng trong phân chia các lợi ích mà toàn cầu hóa đem lại Toàn cầu hóa
tạo ra những thuận lợi đồng thời tạo ra những thách thức đối với các nước
20

như: nguy cơ mất độc lập, tự chủ về kinh tế, nguy cơ tụt hậu trong cuộc cạnh
tranh quốc tế, Toàn cầu hóa trực tiếp đặt ra thách thức đối với độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
Hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc
của các quốc gia dân tộc. Do đó, cuộc đấu tranh vì hòa bình độc lập, dân chủ,
dân sinh, tiến bộ và công bằng xã hội sẽ có những bước tiến mới.
Trong một vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới,
nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy
đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố còn xảy ra ở nhiều nơi trên
thế giới với tính chất phức tạp ngày càng tăng.
Tình hình thế giới và khu vực có tác động mạnh đến tình hình Việt
Nam. Công cuộc đổi mới của Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách
thức lớn. Thế và lực của cách mạng Việt Nam mạnh lên rất nhiều sau 15 năm
đổi mới toàn diện đất nước. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế được
tăng cường, tình hình chính trị - xã hội ổn định, đời sống nhân dân từng bước
được cải thiện. Bên cạnh đó, môi trường hòa bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế
và những xu thế tích cực trên thế giới tạo thuận lợi để Việt Nam phát huy nội
lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lưc về nguồn vốn, công nghệ tiên tiến,
kinh nghiệm quản lý hiệu quả, thị trường thế giới để đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện; sự nghiệp văn hoá
giáo dục, chăm sóc sức khoẻ dân cư và một số lĩnh vực khác có những tiến bộ

đáng kể. Tính ra, thu nhập bình quân một người một tháng theo giá thực tế
năm 2003-2004 đã tăng 64,2% so với năm 1999. Thu nhập tăng đã tạo điều
kiện tăng tiêu dùng cho đời sống và tăng tích luỹ.
Sự nghiệp giáo dục đào tạo có những mặt tiến bộ. Đến cuối năm 2005
đã cơ bản hoàn thành chương trình kiên cố hoá trường học, lớp học. Tỷ lệ trẻ
em từ 3-5 tuổi đi học mẫu giáo năm 2005 đạt 58,9%, vượt mục tiêu đề ra là
đạt 58%; tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học tăng từ 92,7% năm học 2000-

×