Mục lục
Mở đầu
Chương I: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng trong tình hình hiện nay
1.1. Khái niệm.
1.1.1. Tổ chức cơ sở Đảng.
1.1.2. .
1.1.3. .
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng về tổ chức cơ sở đảng
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.3. Một số vấn đề về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Chương II: Thực trạng về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ thành phố Tuyên Quang
trong những năm qua
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội
của Thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang và tình hình tổ
chức cơ sở Đảng.
2.2. Thực trạng tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ Thành phố
Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang trong những năm 2007-2010.
2.2.1. Về tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên của Đảng
bộ thành phố Tuyên Quang.
2.2.2. Thực trạng năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
3
5
5
5
10
11
14
14
16
18
19
22
22
24
24
28
1
cơ sở đảng ở Đảng bộ thành phố Tuyên Quang.
2.2.3. Nguyên nhân và một số bài học kinh nghiệm.
Chương III: Phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng ở Đảng bộ thành phố Tuyên Quang trong những năm tới.
3.1. Phương hướng và nhiệm vụ.
3.2. Một số giải pháp cụ thể
3.2.1. Nâng cao hiệu quả quá trình xây dựng và tổ chức thực
hiện Nghị quyết.
3.2.2. Đẩy mạnh phong trào xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong
sạch, vững mạnh.
3.2.3. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát giữ nghiêm kỷ
luật Đảng.
3.2.5. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng
đối với chính quyền và các tổ chức chính trị- xã hội.
3.2.6. Tăng cường sự lãnh đạo của Thành uỷ đối với các chi,
Đảng bộ cơ sở.
3.3. Đề xuất và kiến nghị
Kết luận
Tài liệu tham khảo.
38
45
45
46
46
47
51
53
54
56
57
59
61
...................................................................................
MỞ ĐẦU
2
1. Lí do chọn đề tài:
Đảng cộng sản Việt Nam là đội quân tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong quá trình đấu tranh và
hoạt động của mình Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác xây
dựng đảng, thường xuyên chăm lo củng cố và phát triển Đảng về mọi mặt
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Vì vậy, Đảng ta không ngừng lớn mạnh và
trưởng thành, đáp ứng yêu cầu cơ bản của từng thời kỳ cách mạng, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Đảng ta đã từng bước được tôi
luyện, xây dựng nên những truyền thống quý báu. Dù trong tình thế nào,
thuận lợi hay khó khăn, Đảng ta vẫn kiên trì mục tiêu lý tưởng của Đảng,
trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc. Trong nhiều năm qua, để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, Đảng
bộ Thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đó thường xuyên lãnh đạo,
chỉ đạo xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Nhờ vậy, Đảng bộ Thành phố nhiều năm liền đạt danh hiệu “Trong
sạch, vững mạnh xuất sắc”, đội ngũ đảng viên phát triển cả về số lượng và
chất lượng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các Chi, Đảng bộ cơ sở và
toàn Đảng bộ ngày càng được nâng cao…
Thành phố Tuyên Quang là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh, các
tổ chức cơ sở đảng giữ vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo nhân dân thực
hiện đường lối Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Trong những năm vừa qua, các tổ chức cơ sở đảng của thành phố đã quán triệt
và cụ thể hóa đường lối của Đảng, từng bước thực hiện hóa trong đời sống
nhân dân, đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế phát triển,
củng cố khối đoàn kết toàn dân làm cho bộ mặt thành thị khởi sắc rõ nét.
3
Xứng đáng là trung tâm chính trị của tỉnh. Tuy vậy, trước yêu cầu nhiệm vụ
ngày càng cao của đơn vị, tình hình Đảng bộ và công tác xây dựng đảng của
Đảng bộ đang bộc lộ những tồn tại, khuyết điểm, năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Do đó, việc tập trung củng
cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ và của toàn
Đảng bộ là một nhiệm quan trọng hiện nay.
Là Bí thư chi bộ Đội Quản lí thị trường số 1 thành phố Tuyên Quang,
tỉnh Tuyên Quang trực thuộc Đảng bộ Thành uỷ Tuyên Quang, sau khi được
học tập và nghiên cứu chương trình lý luận Chính trị tại Học viện Chính trị -
Hành chính khu vực I năm học 2010-2011, bản thân được trang bị lý luận một
cách cơ bản, kết hợp với thực tiễn công tác tại địa phương tôi chọn đề tài :
"NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG Ở THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY"
làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài :
* Mục đích :
Đề tài làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Thông qua đó
đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng ở Đảng bộ thành phố Tuyên Quang đồng thời đề xuất giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở
Đảng bộ thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Phân tích những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tổ chức cơ sở đảng.
- Đánh giá thực trạng năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng ở Đảng bộ thành phố Tuyên Quang, nguyên nhân của thực trạng đó.
4
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ thành phố Tuyên Quang cho ngang tầm
yêu cầu nhiệm vụ mới.
3. Phạm vi nghiên cứu :
Trên cơ sở lý luận cơ bản về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Tổ chức cơ sở đảng nói chung luận văn đi sâu nghiên cứu một tổ chức cơ sở
đảng cụ thể là Đảng bộ thành phố Tuyên Quang từ năm 2007-2010 và đề ra
các giải pháp cho những năm tới.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận: Đề tài triển khai dựa trên cơ sở phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nội dung nghiên cứu.
Phương pháp cụ thể: Đề tài sử dụng phương pháp phân tích tài liệu
tổng hợp, so sánh, phân tích làm nổi bật vấn đề cần nghiên cứu.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
chính của luận văn được thể hiện trong 3 chương :
Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong tình hình hiện nay.
Chương II: Thực trạng về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng ở Đảng bộ thành phố Tuyên Quang.
Chương III:Một số giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ thành phố Tuyên Quang trong
những năm tới.
CHƯƠNG I.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIỄN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ
5
ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
1.1. Khái niệm.
1.1.1. Tổ chức cơ sở Đảng.
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X thông qua ngày 25/4/2006 đã ghi rõ: Tổ chức cơ sở đảng (chi
bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở,
được lập ra ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ
3 đảng viên chính thức trở lên…
Khái niệm trên chỉ rõ tổ chức cơ sở đảng được gọi chung cho cả chi
bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm
vụ cụ thể của từng cơ sở. Theo đó, hình thức tổ chức cơ sở Đảng cũng được
phân ra nhiều loại khác nhau, nhưng có 3 hình thức cơ bản sau:
- Cơ sở có từ 3 đảng viên chính thức đến dưới 30 đảng viên thành lập
chi bộ cơ sở, dưới chi bộ có thể lập các tổ Đảng.
- Cơ sở có từ 30 đảng viên trở lên thành lập Đảng bộ cơ sở và có các
chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở.
- Đảng bộ có số lượng đảng viên đông, có thể thành lập Đảng bộ, bộ
phận trực thuộc Đảng uỷ cơ sở, dưới Đảng bộ, bộ phận có các chi bộ trực
thuộc.
- Những nơi do đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ muốn thành lập Đảng bộ
cơ sở có dưới 30 đảng viên, chi bộ cơ sở có trên 30 đảng viên hoặc thành lập
Đảng bộ, bộ phận thì phải được cấp uỷ cấp trên đồng ý mới thực hiện.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương
khoá VIII “Về những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay” đã đề ra các nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn đảng; phải: "Kiểm tra, bổ
sung, hoàn thiện quy định chức năng, nhiệm vụ và quy chế hoạt động cụ thể
của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Chấn chỉnh nền nếp sinh hoạt chi bộ,
6
phân công và kiểm tra công tác đảng viên. Đảng viên đang công tác ở các cơ
quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ,
đảng uỷ cơ sở nơi cư trú theo quy định cụ thể của Bộ Chính trị và gương mẫu
thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Đổi mới công tác phân tích chất lượng
các tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên, khắc phục cách làm hình thức,
chiếu lệ, thành tích chủ nghĩa. Tiếp tục kiện toàn cấp uỷ, nhất là bí thư cấp uỷ.
Các cấp uỷ phân công bí thư, phó bí thư và uỷ viên thường vụ phụ trách các cơ
sở trọng điểm”
1
.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001), trên cơ
sở tổng kết hai năm thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiếp
tục đưa việc tự phê bình và phê bình trong các cấp uỷ và tổ chức đảng từ Trung
ương đến cơ sở thành nền nếp thường xuyên và theo định kỳ, không qua loa,
chiếu lệ, hình thức; vận động nhân dân góp ý phê bình cán bộ, đảng viên
2
. Đại
hội IX đã yêu cầu: "Tất cả các đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều nắm vững và thực
hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đoàn
thể, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở
cơ sở, nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông lỏng
vai trò lãnh đạo. Cấp uỷ cấp trên tập trung chỉ đạo củng cố các đảng bộ, chi bộ
yếu kém, kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở những nơi cú nhiều
khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ.
Phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát huy vai trò
tiên phong gương mẫu trong công tác, học tập và lối sống; giữ mối liên hệ với
quần chúng nơi công tác, với chi bộ và nhân dân nơi cư trú. Phát triển đảng
viên theo đúng tiêu chuẩn quy định, chú ý những người ưu tú trong công nhân,
tri thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, những nơi còn ít hoặc chưa có đảng viên. Đổi mới việc
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) khoá VIII Ban Chấp hành Trung ương khoá
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 32-33.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.139-140.
7
phân tích, đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên”
3
. “Cấp ủy
viên, nhất là cán bộ chủ chốt, có chương trình công tác ở cơ sở, tiếp xúc, lắng
nghe ý kiến và trả lời chất vấn của đảng viên và nhân dân”
4
.
Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX tổng kết nửa
nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, đề ra giải pháp thực hiện thắng lợi
các mục tiêu, nhiệm vụ trong nửa nhiệm kỳ còn lại. Về công tác xây dựng
Đảng, Hội nghị đã yêu cầu: Trung ương, các cấp uỷ và tổ chức đảng phải
hướng về cơ sở, tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố cơ sở, coi đây là công
tác trọng tâm từ nay đến cuối nhiệm kỳ, nhằm tạo sự chuyển biến rõ rệt, góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đặc
biệt là chi bộ. . Thực hiện tốt chính sách chế độ, tạo điều kiện cho cán bộ cơ
sở hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Xây dựng và thực hiện hệ thống quy
chế hoạt động của tổ chức đảng; làm tốt nhiệm vụ lãnh đạo phát triển kinh tế,
chăm lo đời sống của nhân dân; thực hành dân chủ rộng rãi, nghiêm túc duy
trì kỷ luật, kỷ cương của Đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt trong từng chi bộ,
từng tổ chức cơ sở đảng và trong toàn Đảng
5
.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục xác định: Xây
dựng tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ
quan trọng và cấp thiết trong tình hình mới. Đại hội yêu cầu: “Mỗi tổ chức cơ
sở đảng phải có trách nhiệm tổ chức và qui tụ sức mạnh của toàn đơn vị hoàn
thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, quản lý và giám sát đảng viên; đấu tranh chống những biểu hiện tiêu
cực, suy thoái trong Đảng. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đảng… Xây
dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức
cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên
định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr.142-143.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr. 145.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.155-158.
8
Đảng; năng động, sáng tạo, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách”
6
.
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” đó khẳng định: “Tổ chức cơ sở
đảng là nền tảng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với dân, có vị trí rất quan
trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng. Toàn Đảng phải tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng;
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội ở cơ sở, nhất là những địa bàn, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó
khăn”
7
.
Những nghị quyết của Đảng về xây dựng tổ chức cơ sở đảng đó thể
hiện rõ quan điểm của Đảng ta về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc
xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng. Đây là vấn đề then chốt của nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết
định đến sự sống còn của Đảng và sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết Đại hội
Đảng đã đề ra và đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, Đảng phải có những biện pháp phát huy ưu điểm, kiên
quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, nâng cao hơn
nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình để ngày càng vững mạnh về
mọi mặt, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, coi
trọng tổng kết công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ,
tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, ngăn
chặn khuynh hướng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới phương thức
hoạt động, nâng cao trình độ hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
6
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.2006, tr. 132-133.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.94.
9
chính trị và toàn xã hội.
1.1.2. Vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở đảng
Đảng cộng sản Việt Nam là một khối thống nhất ý chí và hành động
được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở theo nguyên tắc tập chung
dân chủ.
Tổ chức cơ sở đảng là cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức 4 cấp của
Đảng, được gắn trực tiếp với dân và được lập ra ở các đơn vị hành chính, sản
xuất hoặc công tác. Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng là nơi nối liền
các cơ quan lãnh đạo của Đảng với nhân dân chi bộ và các tế bào cơ bản của
Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp giáo dục, sàng lọc và kết nạp đảng
viên làm cho Đảng luôn trong sạch vững mạnh, không ngừng phát triển về
mọi mặt. Tổ chức cơ sở đảng còn là nơi đào tạo rèn luyện cán bộ, đảng viên,
chính quyền và đoàn thể nhân dân và đề cử cán bộ cho các cơ quan lãnh đạo
Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi nối liến các cơ quan lãng đạo của đảng với
nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều được tổ chức
thực hiện ở cơ sở. Mặt khác, mọi chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng
cũng đều được hình thành và kiểm nghiệm từ cơ sở.
Đối với toàn Đảng, tổ chức cơ sở đảng có vị trí là nền tảng của Đảng.
Đối với bản thân tổ chức cơ sở đảng và với cơ sở thì tổ chức cơ sở đảng lại có
vai trò là hạt nhân chính trị lãnh đạo ở cơ sở, các đảng bộ cơ sở phải chịu
trách nhiệm lãnh đạo về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng.
Tổ chức cơ sở đảng có vai trò quan trọng ở chỗ, mọi hoạt động của
Đảng từ công tác lãnh đạo tổ chức, kiểm tra, giám sát, cán bộ đảng viên và
vận dụng quần chúng đều thực hiện ở nơi đây.
Toàn Đảng cũng như từng đơn vị có mạnh hay không đều được phản
10
ánh và thể hiện ở các tổ chức cơ sở đảng .
1.1.3. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
Là tổng hợp các thuộc tính cơ bản của người lãnh đạo, nhằm đáp ứng
những yêu cầu và hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, đảm bảo hoạt động đạt
hiệu quả cao. Đó là khả năng đề ra chủ trương, đường lối và nhiệm vụ chính
trị sát thực với thực tế ở địa phương và là khả năng thực hiện chủ trương thực
hiện công tác kiểm tra. Năng lực lãnh đạo gồm hai yếu tố: năng lực hiểu biết
và năng lực tổ chức thực hiện.
Năng lực hiểu biết. là tri thức toàn diện, khả năng nhận thức quan
điểm, đường lối chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước để vận dụng sáng tạo, khoa học, phù hợp thực tiễn, có hiệu quả cao.
Năng lực tổ chức. là khả năng đề ra chủ trương, phương hướng công
tác đúng của Đảng bộ, tổ chức thực hiện chủ trương, phương hướng đó tại cơ
sở đạt hiệu quả cao: kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn
thiện các chủ trương công tác của Đảng bộ.
Để có được năng lực lãnh đạo, người cán bộ, đảng viên phải có trình
độ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ tốt, phải nắm vững, quán triệt chủ trương
đường lối, nghị quyết của Đảng, Nhà nước và cấp trên. Hiểu biết sâu sắc về
công nghệ tiến tiến để áp dụng vào công việc của mình. Đồng thời, nắm vững
tình hình đặc điểm của đơn vị, khai thác thế mạnh, tiềm năng và tổ chức vận
dụng sáng tạo, biết tổ chức, vận động quần chúng thực hiện nghị quyết của
Đảng.
Biết tổ chức bộ máy hoạt động có hiệu quả, tích cực áp dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào công tác và đời sống. Năng lực lãnh đạo còn thể
hiện ở năng lực kiểm tra các tổ chức, đoàn thể và mỗi người thực hiện nghị
quyết trên cơ sở đó, rút ra kinh nghiệm, phát huy ưu điểm, khắc phục nhược
điểm để tổ chức thực hiện nghị quyết sau tốt hơn.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng thể hiện trước hết ở năng
lực ban hành nghị quyết; năng lực tuyên truyền cổ động, đưa đường lối của
11
Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống; ở năng lực tổ chức,
tập hợp, vận động quần chúng thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của
nhà nước và ở năng lực kiểm tra, giám sát và xử lý các tình huống trong thực
tế lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động ở cơ sở. Đây là 4 nội dung cơ bản, quan trọng
thể hiện năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng nói chung.
Biểu hiện về năng lực lãnh đạo của Đảng, Đại hội X Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khái quát như sau:
- Năng lực cụ thể hoá đường lối, chính sách của Đảng các cấp.
- Năng lực tổ chức và chỉ đạo thực hiện nghị quyết, nhiệm vụ chính
trị.
- Năng lực tổng kết lý luận-thực tiễn.
- Năng lực lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở và sự gắn bó với nhân
dân.
Thước đo năng lực lãnh đạo là hiệu quả thực tế được thể hiện ở hiệu
quả phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng. Cho nên không
thể nói tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh khi địa bàn đó xảy ra
khiếu kiện tràn lan, tệ nạn xã hội, tình trạng quan liêu, tham nhũng,...
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng được thể hiện ở sự đoàn kết
thống nhất ý chí và hành động; ở chất lượng đội ngũ, đảng viên trong đảng
bộ; ở việc cụ thể hoá các nghị quyết của cấp trên thành nhiệm vụ chính trị của
đơn vị; ở việc xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh và ở khả năng
lãnh đạo quần chúng thực hiện nghị quyết của Đảng.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng không phải tự
nhiên mà có, nó phải được phấn đấu, rèn luyện và xây dựng thông qua chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên và của từng tổ chức đảng. Phải từ hiệu quả công tác lãnh
đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị để tạo dựng uy tín, lòng tin. Vị trí, vai trò lãnh
đạo của tổ chức cơ sở đảng chỉ có thể được khẳng định trên cơ sở kết quả cụ thể đó
đạt được và qua thực tiễn kiểm nghiệm. Nghị quyết của Đảng chỉ đi vào cuộc sống
và được cuộc sống đón nhận, nếu nó phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị và
12
đáp ứng được những nguyện vọng, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đông đảo quần
chúng.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được thể hiện ở việc thực hiện
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; ở kết quả xây dựng tổ chức cơ
sở đảng trong sạch vững mạnh và chất lượng đội ngũ đảng viên.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X khái quát như sau:
- Ý chí phấn đấu quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ chính trị;
- Phẩm chất đạo đức, tác phong lối sống của cán bộ, đảng viên;
- Tinh thần tự phê bình và phê bình, sự đoàn kết thống nhất nội bộ.
* Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng:
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là hai yếu tố tạo nên sự lãnh đạo
của Đảng. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì Đảng không giữ được vai trò
lãnh đạo cách mạng và Đảng không thể tồn tại được. Năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng là mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ, chúng thâm nhập vào
nhau, tác động thúc đẩy nhau, làm tiền đề để tồn tại và phát triển của nhau.
Đó là mối liên hệ nhân quả trong sự lãnh đạo cách mạng của Đảng. Năng lực
lãnh đạo của Đảng càng được nâng lên bao nhiêu thì sức chiến đấu của Đảng
càng được củng cố bấy nhiêu, ngược lại sức chiến đấu càng được củng cố,
nâng cao thì năng lực lãnh đạo của Đảng càng được nâng lên.
Khi năng lực lãnh đạo của đảng được nâng lên, đảng có nhận thức lý
luận sâu rộng, có tư duy khoa học, nắm bắt được quy luật vận động của sự
vật, đủ kiều kiện vận dụng tri thức khoa học và tổ chức thực tiễn, đưa ra chủ
trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của quần chúng, cổ vũ
phong trào cách mạng, thì khối đoàn kết trong đảng được củng cố, sức chiến
đấu trong đảng được tăng cường.
Việc nâng cao năng lực lãnh đạo luôn gắn với việc nâng cao sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị là yêu cầu quan
13
trọng trong giai đoạn hiện nay. Sự kiện sụp đổ LiênXô và các nước Đông Âu
là một thực tế chứng minh cho sự thành công hay thất bại của cách mạng là
tùy thuộc vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
Khi Đảng giảm sút ý chí chiến đấu thì sẽ đưa sự nghiệp cách mạng đến những
sai lầm và tổn thất nghiêm trọng.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng về tổ chức cơ sở đảng
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Trong hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng cộng sản, mỗi cấp có vị trí,
chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Cấp cơ sở được xác định là cấp nền tảng của
đảng, của hệ thống chính trị, là nơi trực tiếp triển khai và tổ chức thực hiện
đường lối, nghị quyết của Đảng và của cấp trên, biến đường lối, nghị quyết của
đảng các cấp thành hiện thực; đồng thời là nơi mà mọi hoạt động xây dựng nội
bộ Đảng được tiến hành.
C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đề cập đến khái niệm tổ chức cơ sở Đảng,
nhưng các ông là những người đầu tiên đưa ra những tư tưởng, quan điểm về vị
trí, vai trò quan trọng của các tổ chức đảng ở cơ sở (chi bộ). Mác và Ănghen
cũng là những người đầu tiên xây dựng những chi bộ của “Đồng minh những
người cộng sản” - Đảng Cộng sản đầu tiên trên thế giới. Những tư tưởng cơ bản
của Mác và Ăngghen về tổ chức đảng ở cơ sở trong hệ thống tổ chức đảng bước
đầu hình thành với những quy định trong Điều lệ của “Hội liên hiệp công nhân
quốc tế” do hai ông khởi thảo, trong đó đã xác định: Nhiều chi bộ hợp thành một
công xã gồm từ ba đến hai mươi thành viên, đó là “hạt nhân” của công tác chính
trị của Đảng trong quần chúng lao động. Đảng phải “Biến mỗi chi bộ của mình
thành trung tâm và hạt nhân của các hiệp hội công nhân, trong đó, lập trường và
lợi ích của giai cấp vô sản có thể đưa ra thảo luận độc lập với những ảnh hưởng
tư sản”
8
. Đó là những quan niệm đầu tiên của Mác và Ăng ghen về vị trí, vai trò
của tổ chức cơ sở đảng.
8
C.Mác và Ph.Ănghen: Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tr.348.
14
Nhận thức ra vị trí, vai trò quan trọng của các tổ chức Đảng ở cơ sở,
trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn chăm lo
xây dựng Đảng, xây dựng các chi bộ đảng ở cơ sở, gắn với các hoạt động của
quần chúng ở cơ sở. Những quan điểm lý luận của các ông đó trở thành lý
luận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng ở các giai đoạn sau này.
Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin là người kế tục sứ
mệnh của hai ông. Lênin khẳng định: Đảng phải là tổ chức chính trị cao nhất,
có tổ chức chặt chẽ của giai cấp công nhân. Trong việc xây dựng tổ chức bộ
máy của Đảng, Lênin đặc biệt chú ý đến xây dựng các “nhóm” các “tiểu tổ”
công tác ở các công xưởng, nhà máy, hầm mỏ (các tổ chức đảng ở cơ sở).
Người coi đó là nhiệm vụ đầu tiên và cấp thiết của Đảng, để Đảng thật sự là
cơ thể sống bám chắc vào cơ sở, vào quần chúng lao động từ Trung ương đến
địa phương.
Trong cuộc đấu tranh để xây dựng “Đảng kiểu mới” của giai cấp công
nhân, V.I.Lênin hết sức coi trọng chăm lo xây dựng các tiểu tổ công nhân dân
chủ-xã hội, phát triển những tiểu tổ đó trở thành những chi bộ cơ sở trong các
nhà máy, công xưởng, khu dân cư của Đảng Bônsêvích Nga.
Khi Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc Cách mạng Tháng Mười
Nga giành thắng lợi, đứng trước những nhiệm vụ nặng nề, phức tạp của đảng
cầm quyền, các tổ chức đảng ở các địa phương, nhà máy, công xưởng...
không ngừng tăng lên về số lượng và đa dạng về nội dung hoạt động,
V.I.Lênin xác định rõ hơn vai trò của các tổ chức cơ sở Đảng. Người nhấn
mạnh: "Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng,
phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên
truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động. Những chi bộ ấy phải
thông qua công tác muôn hình muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn
luyện Đảng, giai cấp, quần chúng lao động một cách có hệ thống để lãnh đạo
15
và qua đó rèn luyện bản thân Đảng”
9
.
Bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng và phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của mỗi tổ chức đảng ở cơ sở là hai mặt của một vấn
đề. Một mặt, Lênin phê phán gay gắt những biểu hiện tự do, cục bộ, tuỳ tiện ở
từng tổ chức Đảng địa phương và cơ sở, là nguy cơ phá vỡ tính tập trung
thống nhất của tổ chức Đảng và Nhà nước Xô-viết. Khi cách mạng chuyển từ
thực hiện “Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính sách kinh tế mới” là
một bước đột phá lớn trong tư duy nhận thức của Đảng cầm quyền lãnh đạo
kinh tế, V.I.Lênin cho rằng, trách nhiệm đó không chỉ của Ban Chấp hành
Trung ương, mà của từng tổ chức cơ sở Đảng và mỗi Đảng viên. Chỉ trên cơ
sở tăng cường vai trò lãnh đạo, phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở thì
những nhiệm vụ của Đảng bônsêvích và chính quyền Xô-viết mới thành công.
Từ những quan điểm nêu trên cho thấy, ngay từ khi có tổ chức Đảng
Cộng sản đầu tiên và trong suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng của
các Đảng cộng sản, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, đều khẳng định: Tổ
chức cơ sở Đảng giữ vị trí, vai trò quan trọng trong quá trình hình thành, phát
triển và trong sự lãnh đạo cách mạng của đảng. Đảng mạnh là nhờ các tổ chức
cơ sở đảng mạnh. Những luận điểm và tư tưởng đó đã soi sáng cho công tác
xây dựng Đảng trong mọi thời kỳ và ngày nay đó trở thành cơ sở lý luận cho
quá trình xây dựng Đảng và nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đảng của
Đảng ta.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
Vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về chính Đảng
vô sản, Hồ Chí Minh đó có nhiều đóng góp quan trọng trong xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trong hành trình tìm đường cứu nước, mối quan tâm lớn
của Hồ Chí Minh là bằng cách nào để tập hợp được lực lượng dân tộc thành
một khối đoàn kết, thống nhất. Câu hỏi đó đã được giải đáp khi đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin không những
9
V.I. Lênin: Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.232-233.
16
đã chỉ ra mục tiêu, lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người, mà còn cung cấp một khoa học về tổ chức lực lượng giai cấp và dân
tộc để thực hiện cuộc cách mạng. Người viết: Muốn làm cách mệnh thì "Trước
hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”
10
.
Trên những định hướng ấy, ngay từ Điều lệ vắn tắt của Đảng do Hồ
Chí Minh soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng 3-2-1930 đó
chỉ rõ cách thức tổ chức Đảng từ Trung ương đến chi bộ. Trong đó, "Chi bộ
gồm tất cả đảng viên trong một nhà máy, một công xưởng, một hầm mỏ, một sở
xe lửa, một chiếc tàu, một đồn điền, một đường phố...”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, vấn đề xây dựng chi
bộ trong nhà máy, xí nghiệp, khu dân cư,... được Hồ Chí Minh hết sức quan
tâm và có những chỉ đạo kịp thời. Nhờ sự chăm lo đó, Đảng ta không ngừng
vững mạnh từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm đủ sức lãnh đạo thắng lợi Cách
mạng Tháng Tám 1945, giữ vững chính quyền nhân dân trong những năm
1945-1946, lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thành
công, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Khi hoà bình lập lại trên miền Bắc, mỗi lúc đến thăm đơn vị cơ quan,
trường học, bệnh viện, đơn vị sản xuất,... Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh yêu
cầu củng cố vai trò lãnh đạo của chi bộ. Từ thực tế công tác xây dựng Đảng,
Người đó rút ra nhận xét: "chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi
việc đều tốt". Từ đó, Người theo dõi sát sao diễn biến từng chi bộ điển hình
cũng như chi bộ yếu kém, viết báo và gửi thư khen ngợi những chi bộ tốt, phê
bình những chi bộ yếu kém và gợi ý phương pháp sửa chữa.
Trong bài nói tại Hội nghị tổng kết 3 năm xây dựng chi bộ và Đảng bộ
"bốn tốt" (4-1966), Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Xây dựng chi bộ cho tốt,
cho vững mạnh là một việc vô cùng quan trọng”
11
. Người đã đưa ra các tiêu
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.5.
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.77.
17
chí đánh giá chi bộ "bốn tốt" là: Đảng viên gương mẫu trong mọi công việc,
liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật sự đoàn kết; chấp hành tốt đường
lối, chính sách của Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và chiến đấu; một lòng một dạ
phục vụ nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân; đối với Đảng thì củng cố tốt và phát triển tốt
12
. Để các chi bộ ngày
càng vững mạnh, Người yêu cầu phải phát huy tinh thần tự phê bình và phê
bình, phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng; "Huyện uỷ, Thành uỷ, Tỉnh uỷ
cần phải đi sâu ,đi sát đến các chi bộ, cần phải giúp đỡ các chi bộ một cách
thiết thực và thường xuyên. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ cần chỉ đạo riêng
chi bộ để rút kinh nghiệm về xây dựng chi bộ "bốn tốt”
13
. Trong Di chúc, điều
đầu tiên mà Người căn dặn cũng là "nói về Đảng": "Các đồng chí từ Trung -
ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn con ngư-
ơi của mắt mình"
14
. “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần
chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy
được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng”
15
.
1.2.3. Quan điểm của Đảng về tổ chức cơ sở đảng
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng là cơ sở lý luận đó được Đảng ta vận
dụng đúng đắn, sáng tạo trong thực tiễn xây dựng Đảng ta trong hơn 80 năm
qua.
Trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng
định tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt
nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức
đảng. Nhưng mặt khác, sự yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở đảng đã hạn chế
những thành tựu của cách mạng. Bởi vì:
12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.79.
13
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.79.
14
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.510.
15
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.23.
18
- Tổ chức cơ sở đảng là cầu nối liền các cơ quan lãnh đạo của Đảng
với quần chúng nhân dân, trực tiếp gắn bó Đảng với dân. Mọi tâm tư, nguyện
vọng chính đáng của nhân dân được phản ánh kịp thời lên tổ chức đảng cấp
trên trước hết và chủ yếu là thông qua chi bộ, đảng bộ ở cơ sở.
- Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp đưa chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào quần chúng và tổ chức cho
quần chúng thực hiện thắng lợi trong thực tiễn.
- Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng
lọc đảng viên; nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, của
Nhà nước và các tổ chức khác; là cửa ngõ quan trọng bảo đảm tính tiên phong,
tính trong sạch của Đảng.
1.3. Một số vấn đề về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng đang là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong
công tác xây dựng Đảng. Bởi vì:
Thứ nhất, trong những năm qua, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
Trung ương về xây dựng tổ chức cơ sở đảng, cấp ủy đảng các cấp đã quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, đạt được
những chuyển biến tiến bộ, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập quốc tế, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng chưa ngang tầm.
Thứ hai, hiện nay nước ta đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới -
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Chính thời kỳ mới đó đặt ra cho việc nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nhiều thuận lợi, thời cơ, vận
19
hội lớn, nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức, những nguy cơ không
thể xem thường như: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực; chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tham nhũng và tiêu cực; diễn biến hòa
bình. Không những vậy, chúng ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế. Trong cơ chế thị trường,
bên cạnh mặt tích cực nếu không có sự quản lý chặt chẽ, kịp thời, không có
giải pháp điều tiết hữu hiệu thì nền kinh tế có thể bị chệch hướng, một bộ
phận giàu lên nhanh chóng, đẩy nhanh sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn
giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội, xuất hiện khuynh hướng chạy theo
đồng tiền. Hệ quả của khuynh hướng này đang làm thay đổi quan niệm về sự
hóa trong xã hội. Tình hình trên đây đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi Đảng ta phải
trong sạch, vững mạnh. Muốn Đảng ta trong sạch vững mạnh thì Đảng tiếp
tục không ngừng xây dựng và chỉnh đốn, nâng cao năng lực và sức chiến đấu.
Thứ ba, thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công
nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật
trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu
thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực,
vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ bản
trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khách quan vẫn tồn
tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
tiếp tục diễn ra gay gắt. Sự biến đổi của thế giới sẽ tác động vào cán bộ, đảng
viên và nhân dân ta cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Để phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh. Muốn
vậy, Đảng hiện nay phải xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu.
Thứ tư, từ sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức chống phá chủ
nghĩa xã hội bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”; mưu toan chuyển hóa
20
từng bước, làm xói mòn lý tưởng cộng sản, tiến tới phá sập niềm tin vào chủ
nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản… bằng chính bàn tay của
những người cộng sản và nhân dân các nước này. Chúng coi Việt Nam là một
trọng điểm áp dụng chiến lược đó. Với mưu đồ thâm độc, chúng triển khai
chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
cả chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, tư tưởng, văn học, nghệ thuật, lối
sống, quan hệ quốc tế… Chúng dùng mọi thủ đoạn thâm độc, bằng mọi hình
thức, biện pháp xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực nhằm lật đổ chế độ xã hội.
Chiến lược “Diễn biến hòa bình” tập trung vào hướng chính là phá
hoại nền tảng tư tưởng và tổ chức của Đảng. Thủ đoạn của chúng thường là
xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phủ nhận sự hy sinh và
công lao của người cộng sản, thổi phồng sai lầm của Đảng. Chúng lợi dụng
những kẻ cơ hội, phản bội về chính trị và thoái hóa về phẩm chất đạo đức để
chia rẽ, làm suy yếu, phá hoại Đảng từ bên trong. Trước những âm mưu và
thủ đoạn phá hoại của địch, nếu không cảnh giác, không chăm lo xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì tổn thất đối
với cách mạng là không thể lường hết được.
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG TRONG
NHỮNG NĂM QUA
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của Thành phố
Tuyên Quang
*) Đặc điểm tự nhiên-xã hội:
21
Thành phố Tuyên Quang, có vị trí địa lý: Thành phố nằm hai bên bờ sông
Lô, được che chắn bởi các dãy núi cao và xen kẽ nhiều đồi núi thấp. Độ cao
trung bình dưới 500m và hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, độ dốc thấp dần
dưới 25°. Từ Hà Nội đi lên phía Bắc khoảng 165km theo quốc lộ 2 có thể tới
Thành phố Tuyên Quang (đi đường sơn nam thì chỉ mất 130km).Địa giới
hành chính: Thành phố được xác định: phía đông, phía bắc, phía tây giáp
huyện Yên Sơn; phía nam giáp huyện Sơn Dương. Như vậy, đô thị trong
tương lai sẽ có 3 khu chính: khu nội thị, 2 khu đô thị vệ tinh gồm khu du lịch
sinh thái nằm ở phía Tây Nam và khu công nghiệp nằm ở phía Nam Thành
phố.
Diện tích: Thành phố Tuyên Quang có diện tích 11.917,45 ha đất tự nhiên.
Khí hậu của TP Tuyên Quang mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu
ảnh hưởng của lục địa Bắc Á Trung Hoa, có hai mùa rõ rệt, mùa đông lạnh -
khô hạn và mùa hè nóng ẩm-mưa nhiều. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt
1.295-2.266 mm. Nhiệt độ trung bình 22°-23°C. Độ ẩm bình quân năm là
85%.
Thành phố có 23.255 hộ, với khoảng 13,9 vạn dân. Có tổng số đơn vị
hành chính trực thuộc là 13, trong đó có 7 phường: Hưng Thành, Nông Tiến,
Ỷ La, Minh Xuân, Phan Thiết, Tân Quang, Tân Hà và 6 xã: Tràng Đà, An
Tường, Lưỡng Vượng, An Khang, Thái Long, Đội Cấn. Trong quá trình lịch
sử, thành phố Tuyên Quang luôn là một địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng, là thủ phủ của một vùng “An biên” che chắn cho kinh đô Thăng Long
về phía bắc. Ngày 25 tháng 6 năm 2009, thị xã Tuyên Quang được công nhận
là đô thị loại 3. Ngày 2 tháng 7 năm 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
số 27/NQ-CP thành lập thành phố Tuyên Quang thuộc tỉnh Tuyên Quang trên
cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc
của thị xã Tuyên Quang.
22
*) Về kinh tế - xã hội:
Thành Phố là trung tâm văn hóa - kinh tế - chính trị của tỉnh Tuyên
Quang. Tính đến đầu năm 2010, toàn Thành phố có 28 hợp tác xã thủ công
nghiệp, 391 doanh nghiệp đóng trên địa bàn, trong đó 56 công ty cổ phần, 257
công ty TNHH, 78 doanh nghiệp tư nhân, tổng thu ngân sách nhà nước ước
tính gần 160 tỷ đồng. Trên địa bàn thành phố còn có khu công nghiệp Long
Bình An với quy mô 109ha và 2 điểm công nghiệp tập trung tại phường Tân
Hà và phường Nông Tiến.
* Về kinh tế: Thành phố Tuyên Quang, là trung tâm kinh tế - chính trị
của Tỉnh Tuyên Quang với tiềm năng sẵn có hết sức thuận lợi cho phát triển
kinh tế đó là: Công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ,....
Trong những năm qua, bên cạnh khó khăn do ảnh hưởng khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động mạnh đến hoạt động sản xuất
kinh doanh trên địa bàn thành phố; song với sự nỗ lực phấn đấu vượt qua khó
khăn, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã khai thác thế mạnh,
tiềm năng sẵn có, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang lần thứ XVII, đó là: Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch đúng hướng (tăng tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ, giảm tỷ
trọng nông, lâm nghiệp), Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm 15%. Công
nhgiệp, TCN và xây dựng 49%. dịch vụ, du lịch 46%. Nông lâm nghiệp 5%.
* Về xã hội: Do quá trình đô thị hoá các khu công nghiệp, các dự án về
công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ trên địa bàn thành phố phát triển
với tốc độ ngày càng tăng; thu nhập của đại bộ phận nhân dân thành phố ngày
càng được nâng lên song bên cạnh đó nảy sinh các vấn đề bất cập. Quỹ đất
nông nghiệp có xu hướng ngày càng thu hẹp, nhu cầu chuyển dịch lao động từ
nông nghiệp sang làm công nghiệp, dịch vụ tăng. Song quy mô phát triển các
ngành công nghiệp, dịch vụ chưa đủ điều kiện để thu hút lao động từ nông
23
nghiệp sang và những hạn chế trong trình độ tay nghề lao động đưa đến nguy
cơ thất nghiệp của bộ phận lao động làm nông nghiệp ngày càng cao. Quá
trình đô thị hoá đã và đang làm cho thu nhập chênh lệch tăng. Các vấn đề về
xã hội như: số lượng người nước ngoài đến lưu trú làm việc trong các cơ
quan, doanh nghiệp và số lượng người vi phạm pháp luật Việt Nam có chiều
hướng gia tăng; tình hình tai, tệ nạn xã hội vẫn còn diễn ra trên địa bàn thành
phố.
2.2. Thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Tổ chức cơ sở
đảng ở Đảng bộ thành phố Tuyên Quang
2.2.1. Về tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên của Đảng bộ Thành
phố Tuyên Quang
*) Về tổ chức cơ sở đảng: Đảng bộ Thành phố có 38 Chi, Đảng bộ cơ sở
với 5.981 đảng viên, trong đó có 04 loại hình TCCS Đảng:
- 13 Đảng bộ phường, xã;
- 14 Chi, Đảng bộ cơ quan, đơn vị hành chính;
- 09 Chi, Đảng bộ sự nghiệp;
- 02 Đảng bộ lực lượng vũ trang;
Bảng 1: Kết quả phân loại tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ Thành
phố từ năm 2007 - 2010:
Năm Tổng số
Chi,Đảng
bộ
Số Chi,
Đảng bộ
dự phân
Trong sạch vững
mạnh
Hoàn thành tốt
nhiệm vụ
Hoàn thành
nhiệm vụ
Tổng
số
Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ
%
Tổng
số
Tỷ lệ
%
2007 38 36 30 78,95 06 14,79 0
2008 38 37 32 84,21 04 10.53 01 5,44
2009 38 38 33 86,84 03 7,89 02 5,27
2010 38 38 33 86,84 04 10,53 01 2,63
(Nguồn:Ban Tổ chức Thành uỷ Tuyên Quang)
*) Về tình hình đội ngũ đảng viên:
- Về số lượng đảng viên:
24
Toàn Đảng bộ Thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang có 5.981
đảng viên; trong đó: Đảng viên là nữ: 1.767 đ/c chiếm tỷ lệ 29,54%
Dưới 30 tuổi: 854 đ/c = 14,28%
Từ 31 đến 40 tuổi: 1.829 đ/c = 30,58%
Từ 41 đến 50 tuổi: 1.321 đ/c = 22,09%
Từ 51 đến 60 tuổi: 1.084 đ/c = 18,12%
61 tuổi trở lên: 893 đ/c= 14,93%.
Trình độ học vấn:
Tiểu học: 123 đ/c= 2,06%
Trung học cơ sở 841 đ/c = 14,06%
Trung học phổ thông 5.017 đ/c= 83,88%
Trình độ chuyên môn:
Sơ cấp 315 đ/c=5,26%
Trung cấp 421 đ/c=7,04%
Cao đẳng 1.919 đ/c= 32,08%
Đại học 3.189 đ/c= 53,32%
Trên đại học 137 đ/c= 2,3%
Trình độ lý luận chính trị:
Sơ cấp 3.878 đ/c= 64,84%
Trung cấp 1.572 đ/c= 26,28%
Cao cấp, cử nhân 531đ/c = 8,88%
Đảng viên được tặng huy hiệu: 30,40,50,60 năm tuổi Đảng: Trong 4
năm 2007 - 2010 là 1.187 đ/c.
* Trong đó:
+ Đảng viên được tặng 30 năm tuổi Đảng : 501 đồng chí
+ Đảng viên được tặng 40 năm tuổi Đảng : 305đồng chí
+ Đảng viên được tặng 50 năm tuổi Đảng : 247 đồng chí
+ Đảng viên được tặng 60 năm tuổi Đảng : 134 đồng chí
- Về chất lượng đảng viên:
25