Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

Chính sách đào tạo và sử dụng trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986-2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 183 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ



ĐINH THỊ DUYỆT



CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG
TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI (1986-2008)



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ



Hà Nội - 2013

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ




ĐINH THỊ DUYỆT



CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG TRÍ THỨC
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986-2008)

Chuyên nghành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Văn Khánh




Hà Nội - 2013

1
MỤC LỤC


Trang

MỞ ĐẦU
2
Chƣơng 1:
TỔNG QUAN

8
Chƣơng 2:
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM 1986-1996
20
2.1.
Xây dựng đội ngũ trí thức và tình hình đội ngũ trí thức
trƣớc năm 1986
20
2.2.
Xây dựng đội ngũ trí thức trong những năm 1986 - 1996
35
2.3.
Đội ngũ trí thức từng bƣớc trƣởng thành, đóng góp quan
trọng vào sự nghiệp đổi mới (1986 – 1996)
62
Chƣơng 3:
QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƢƠNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA
ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẨY MẠNH CNH-HĐH
ĐẤT NƢỚC (1986- 2008)
78
3.1.
Các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về xây
dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
78
3.2.
Xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.

88
3.3.
Vấn đề sử dụng đội ngũ trí thức phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc
112
Chƣơng 4:
KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU
TRONG ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG ĐỘI NGŨ TRÍ
THỨC GIAI ĐOẠN (1986-2008)
131
4.1.
Kết quả xây dựng đội ngũ trí thức
131
4.2.
Một số kinh nghiệm chủ yếu
145
KẾT LUẬN
161
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
164

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trí thức là những ngƣời lao động trí óc, tinh hoa trí tuệ của mỗi dân tộc, mỗi
thời đại, là bộ phận cấu thành nguồn nhân lực chất lƣợng cao, có vai trò đặc biệt
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc.
Việt Nam có truyền thống coi trọng trí thức, nhân tài từ sâu trong lịch sử.

Điều đó đã đƣợc khắc ghi trong văn bia tiến sỹ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám ngay
từ thế kỷ XV: ―Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nƣớc
mạnh mà hƣng thịnh. Nguyên khí suy thì thì thế nƣớc yếu mà thấp hèn. Vì thế, các
bậc đế vƣơng thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén
chọn kẻ sỹ, vun trồng nguyên khí quốc gia là công việc cần kíp. Vì kẻ sỹ có quan
hệ trọng đại với quốc gia nhƣ thế, cho nên đƣợc qúy chuộng không biết dƣờng
nào‖
Khi đất nƣớc bƣớc sang thời kỳ đổi mới, kế thừa và phát huy truyền thống
của dân tộc Việt Nam, Nhà nƣớc ngày càng chăm lo đào tạo, bồi dƣỡng, xây dựng
đội ngũ trí thức về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong điều
kiện mới. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hơn lúc nào hết,
vai trò quan trọng của trí thức ngày càng đƣợc khẳng định trong thực tiễn đất
nƣớc: Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng của mọi tiến bộ xã hội, đội ngũ
trí thức là lực lƣợng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay cùng với sự
phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí
thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mọi quốc gia
trong chiến lƣợc phát triển[128, tr.81]. Vì vậy mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định: ―Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ, sức
mạnh của đất nƣớc, của Đảng và hệ thống chính trị [128, tr.155]

3
Là một quốc gia giàu tiềm năng trí tuệ nhƣng cho đến nay, Việt Nam vẫn
chƣa phát huy đƣợc tiềm năng sáng tạo của nguồn lực này, trình độ khoa học và
công nghệ quốc gia vẫn bị tụt hậu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới, sở hữu trí tuệ của chúng ta còn rất thấp chƣa xứng tầm với vị thế đất nƣớc.
Trên thực tế, quá trình lãnh đạo, xây dựng đội ngũ trí thức còn những yếu kém,
khuyết điểm. Không ít cán bộ lãnh đạo chƣa nhận thức đúng và đầy đủ vai trò của
đội ngũ trí thức, chƣa quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng và phát huy tiềm năng trí
tuệ của đội ngũ trí thức. Công tác vận động trí thức tuy đã đƣợc đổi mới nhƣng
nhiều nơi vẫn còn mang nặng tính hình thức, thiếu thiết thực, hiệu qủa thấp…Có

thể thấy rằng sự, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng đội ngũ trí thức
còn chƣa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng thời đại mới, vẫn còn thiếu nhiều
vấn đề lý luận và thực tiến đặt ra cần đƣợc giải quyết. Tại Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X (tháng 6- 2008), Đảng ra nghị quyết chuyên
đề về công tác xây dựng đội ngũ trí thức, chỉ rõ những thành công, hạn chế, yếu
kém, khẳng định rõ quan điểm, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và đề ra phƣơng
hƣớng, nhiệm vụ của công tác xây dựng đội ngũ trí thức, thể hiện tầm quan trọng
và sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với công tác này.
Do vậy, đi sâu nghiên cứu quá trình của Đảng và Nhà nƣớc xây dựng đội
ngũ trí thức từ cùng với đổi mới bắt đầu từ năm 1986 đặc biệt thời kỳ thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, làm rõ quá trình đổi mới nhận thức về vai trò của trí thức, quan điểm, chính
sách xây dựng đội ngũ trí thức, nêu những thành công và hạn chế, đúc rút kinh
nghiệm bƣớc đầu lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này là việc làm cần thiết, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần vào việc triển khai có hiệu quả Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ƣơng khóa X về xây dựng đội
ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy tôi
chọn đề tài: Chính sách đào tạo và sử dụng trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới (1986-2008) làm luận văn thạc sỹ lịch sử, chuyên ngành lịch sử Việt Nam
hiện đại.

4
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
2.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu quá trình đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức của Đảng và Nhà
nƣớc: Chủ trƣơng, chính sách phát huy tiềm lực trí thức và quá trình tổ chức thực
hiện xây dựng đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới (từ 1986 – 2008), luận văn
làm rõ sự đổi mới từng bƣớc trong tƣ duy lý luận của Đảng, những thay đổi trong
cơ chế chính sách đào tạo và đãi ngội trí thức của Nhà nƣớc và quá trình bổ sung
quan điểm, đƣờng lối xây dựng đội ngũ trí thức (đổi mới nhận thức về vai trò, vị

trí của trí thức, công tác đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng đội ngũ trí thức trong các
thời kỳ cách mạng mới).
2.2. Nhiệm vụ của luận văn
Hệ thống, khái quát quan điểm, chủ trƣơng, chính sách của Đảng về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới, trọng tâm từ năm 1986 đến năm 2008
Trên cơ sở khảo sát thực tiễn quá trình xây dựng đội ngũ trí thức khi bƣớc
vào thực hiện Cƣơng lĩnh năm 1991 đến trƣớc Đại hội X, bƣớc đầu đánh giá
những thành công và hạn chế, từ đó đúc kết một số kinh nghiệm chủ yếu và thực
tiễn cho quá trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỷ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tƣợng.
Chính sách đào tạo và sử dụng trí thức là vấn đề lớn có nhiều lĩnh vực liên
quan, luận văn chỉ tập trung làm rõ những nội dung cơ bản: Chính sách đào tạo,
xây dựng trí thức thể hiện ở sự đổi mới và phát triển chủ trƣơng, chính sách xây
dựng đội ngũ trí thức và quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những lĩnh vực chủ
yếu có liên quan trực tiếp nhƣ: công tác tổ chức, đào tạo cán bộ, phát triển khoa
học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, văn học, nghệ thuật,…

5
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Do khuôn khổ của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu quá trình xây
dựng đội ngũ trí thức từ năm 1986 đến năm 2008 qua các chính sách của Đảng.
Những quan điểm, chủ trƣơng đó đƣợc thể hiện rõ tại Nghị quyết số 26/NQ – TW
ngày 30-3-1991 của Bộ Chính trị (Khóa VI) Về phát triển khoa học – công nghệ
trong thời kỳ đổi mới, trong Chiến lƣợc ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến
năm 2000 và Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (1991), trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX
của Đảng và nghị quyết Trung ƣơng đảng từ khóa VII đến khóa IX, nhất là các
nghị quyết chuyên đề về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa,

công tác cán bộ, …Tại các văn kiện quan trọng, Đảng nhiều lần khẳng định vai trò
của trí thức và đề cao công tác xây dựng đội ngũ trí thức. Đặc biệt tại Đại hội VII,
Đảng khẳng định liên minh công nhân – nông dân – trí thức là nền tảng xã hội của
chế độ. Đây là điểm mới trong quan điểm của Đảng về lực lƣợng cách mạng.
Trong giai đoạn 1986 - 2008 các quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về xây dựng
đội ngũ trí thức từng bƣớc quán triệt, cụ thể hóa trong thực tiễn và đạt đƣợc những
kết qủa nhất định. Nhà nƣớc có những chính sách mới về xây dựng đội ngũ trí
thức phù hợp với thực tế biến động của tình hình trong nƣớc và thế giới. Đội ngũ
trí thức Việt Nam đã trƣởng thành về mọi mặt, ngày càng thể hiện rõ vai trò của
mình trong sự phát triển của xã hội.
Nghiên cứu quá trình lãnh đạo và sử dụng trí thức của Đảng và Nhà nƣớc,
luận văn chƣa có điều kiện tìm hiểu công tác xây dựng đội ngũ trí thức trong lực
lƣợng vũ trang. Mặc dù đây là bộ phận đƣợc đào tạo bài bản, công phu và giàu
kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, chiến đấu và công tác trên một số lĩnh vực đặc
thù. Những vấn đề chuyên sâu về vai trò tri thức và trí thức trong phát triển kinh tế
tri thức, hội nhập quốc tế chỉ đề cập ở mức độ nhất định.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

6
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đƣờng lối của Đảng về công tác xây dựng và đãi
ngộ đội ngũ trí thức trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nƣớc.
4.2. Nguồn tƣ liệu
Nguồn tƣ liệu chủ yếu đƣợc sử dụng trong luận văn này là:
Tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh về những nội dung có liên quan.
Văn kiện của Đảng về công tác xây dựng đội ngũ trí thức, bao gồm văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc, Ban chấp hành Trung ƣơng, Bộ Chính trị, Ban Bí thƣ;
văn bản của các Ban Văn hóa – Văn nghệ, Ban Tƣ tƣởng – Văn hóa, Ban Khoa

giáo,….
Văn kiện Nhà nƣớc, gồm: Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định,
các văn bản của Chủ tịch nƣớc, Chính phủ, các Bộ KH – CN, Bộ GD-ĐT,…
Bài viết, bài nói của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc về công tác trí
thức và các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của trí thức.
Văn kiện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội:
Liên hiệp các hội Khoa học – Kỹ thuật (KH –KT) Việt Nam, Liên hiệp các hội
VH-NT Việt Nam và các hội trí thức khác.
Kết quả các công trình nghiên cứu của tập thể, cá nhân về trí thức, công tác
trí thức của Đảng và Nhà nƣớc về các vấn đề liên quan là nguồn tài liệu tham khảo
cần thiết và bổ ích đối với học viên.
4.3. Phƣơng pháp nghiên cứu

7
Trên cơ sở phƣơng pháp luận sử học, thu thập các tài liệu lý luận khoa học,
tạp chí, sách báo, công báo,… có liên quan để xây dựng cơ sở lý luận về Chính
sách đào tạo và sử dụng trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986 -2008) làm
luận văn thạc sỹ lịch sử, chuyên ngành lịch sử Việt Nam hiện đại, kết hợp với
phƣơng pháp tổng hợp và phân tích, thống kê, điều tra xã hội học, khảo sát thực
tế, phƣơng pháp tiếp cận hệ thống – cấu trúc (xem xét công tác xây dựng ĐNTT
trong mối quan hệ với các công tác khác trong đƣờng lối chính trị của Đảng, Nhà
nƣớc; trí thức trong mối quan hệ với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội)
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Trên cơ sở hệ thống hóa các quan điểm, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc
từ năm 1986 đến năm 2008, luận văn góp phần luận giải sự thay đổi trong nhận
thức của Đảng về vai trò của ĐNTT trong thời kỳ đổi mới đất nƣớc.
- Kết quả nghiên cứu về chính sách đào tạo và sử dụng trí thức trong thời kì
đổi mới, luận văn không chỉ khẳng định sự đúng đắn trong nhận thức, chủ trƣơng,
đƣờng lối của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức trong quá trình tiến hành công
cuộc đổi mới, phù hợp với đặc điểm thực tiễn Việt Nam, mà còn rút ra những kinh

nghiệm tốt đáp ứng yêu cầu đào tạo, phát triển và sử dụng đội ngũ trí thức trong
thời kì CNH, HĐH đất nƣớc.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 4 chƣơng 8 tiết.





8
Chương I
TỔNG QUAN
1. Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức là nội dung thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tổ chức và cá nhân
Xây dựng ĐNTT có ý nghĩa chiến lƣợc đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất
nƣớc, thu hút sự quan tâm của nhiều tổ chức, cơ quan và cá nhân các nhà khoa học.
Công tác xây dựng ĐNTT gồm nhiều khâu, nhiều bƣớc với nhiều nội dung, biện
pháp, cách thức khác nhau. Tại các văn kiện quan trọng, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nhiều lần khẳng định trí thức là nguồn động lực quan trọng đối với sự phát triển;
khẳng định rõ các quan điểm, chủ trƣơng mới về công tác trí thức, chính sách đào
tạo và bồi dƣỡng, trọng dụng, trọng đãi và tôn vinh trí thức, nhân tài.
Cùng với đổi mới (1986), và khi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), công tác xây dựng ĐNTT là vấn đề đƣợc đặc
biệt quan tâm. Các cơ quan tham mƣu của Trung ƣơng Đảng đã triển khai các
chƣơng trình, đề tài khoa học nghiên cứu và một số lần có tờ trình, xây dựng đề án
về trí thức để Trung ƣơng ra nghị quyết về vấn đề này. Nhƣng do còn nhiều vấn đề
chƣa có sự đồng thuận, hoặc chƣa đồng thuận cao nên đến năm 2008, nghị quyết về
xây dựng ĐNTT mới ra đời. Các quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về công tác này
đƣợc thể hiện trong các văn kiện về GD-ĐT, KH-CN, về công tác cán bộ, về xây

dựng hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
Do vai trò và vị trí của trí thức đối với sự phát triển của đất nƣớc, vấn đề
ĐNTT đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trên các chiều cạnh và mức độ khác
nhau. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa, phát triển kinh tế tri thức đang là xu thế
của thời đại, vấn đề trí thức và xây dựng ĐNTT càng đƣợc các quốc gia, nhiều
ngành khoa học quan tâm. Đã có nhiều đề tài khoa học, sách chuyên khảo, kỷ yếu
hội thảo, luận án, luận văn, bài viết trên báo, tạp chí đề cập đến chính sách đào tạo

9
và sử dụng trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đƣợc công bố. Nhiều tác giả đã
nghiên cứu, phân tích, làm rõ quan điểm, chủ trƣơng của Đảng, chính sách của Nhà
nƣớc về xây dựng, phát huy tiềm năng ĐNTT trong các thời kỳ lịch sử, đặc biệt là
trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc và hội nhập quốc tế. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu sâu về các nhóm trí thức đặc thù, nhƣ trí thức nữ, trí thức dân
tộc thiểu số, trí thức KH-CN, trí thức ngành khoa học xã hội (KHXH), trí thức
ngành GD-ĐT, với nhiều cấp độ, từ nhiều hƣớng tiếp cận, nhƣ chính tn học, chủ
nghĩa xã hội (CNXH) khoa học, xây dựng đảng, triết học, lịch sử, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh, xã hội học Sau đây, chúng tổi xin trình bày các công trình theo nhóm vấn
đề liên quan:
Các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp tới vấn đề quan điểm, chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, các nhà khoa học trong nước về xây dựng và phát huy vai trò, tiềm năng
trí tuệ của trí thức và thực trạng ĐNTT Việt Nam:
Trung tâm UNESCO Phổ biến kiến thức văn hóa giáo dục cộng đồng - Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam (2005), Trí thức Việt Nam xưa và nay, Nhà xuất bản
(NXB) Văn hóa -Thông tin, Hà Nội. Đây là công trình công phu, tập hợp bài nói,
bài viết về trí thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số nhà lãnh đạo và nhà khoa học,
giới thiệu một cách sinh động về trí thức Việi Nam từ truyền thống đến hiện đại
thông qua cuộc đời và sự nghiệp các nhân sỹ, trí thức, văn nghệ sỹ, có nhiều cống

hiến, đóng góp đối với sự phát triển của đất nƣớc trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong
sự nghiệp cách mạng dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là những
trí thức tiêu biểu, những danh nhân đã đƣợc xã hội ghi nhận, tôn vinh.
Đỗ Mƣời (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất
nước, NXB Chính trị quốc gia (CTQG), Hà Nội, gồm những bài nói, bài viết của
đồng chí nguyên Tổng Bí thƣ về trí thức và công tác xây dựng ĐNTT; GS Phạm Tất
Dong chủ biên (1995), Trí thức Việt Nam - thực tiễn và triển vọng, NXB CTQG, Hà
Nội; TS Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, NXB

10
CTQG, Hà Nội; PGS, TS Nguyễn Văn Khánh, TS Nguyễn Quốc Bảo (2001), Một
số vấn đề về trí thức Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội; PGS, TS Nguyễn Văn
Khánh chủ biên (2001), Trí thức với Đảng - Đảng với trí thức trong sự nghiệp giải
phóng và xây dựng đất nước, NXB Thông tấn, Hà Nội; Nguyễn Đắc Hƣng (2005),
Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước, NXB CTQG, Hà Nội; Nguyễn
Trần Bạt (2005), Cải cách và sự phát triển, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội; Lê Quang
Quý (2006), Trí thức ngành kiến trúc trong thời kỳ đổi mới, NXB CTQG, Hà Nội;
TS Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB CTQG, Hà Nội; Nguyễn Đắc Hƣng (2008),
Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại, NXB CTQG, Hà Nội; Nguyễn An Ninh
(2008), Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội Việt Nam, NXB CTQG, Hà
Nội,
Một số công trình đã nêu các khái niệm về trí thức, ĐNTT; Vị trí, vai trò của
ĐNTT trong sự phát triển của xã hội. Các công trình nêu khái quát quá trình hình
thành và phát triển của trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc, đặc biệt là
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dƣới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những đóng góp của ĐNTT cách mạng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng đƣợc phản ánh khá sinh động,
chân thực trong các công trình. Đồng thời, cũng nêu những vấn đề, yêu cầu thực
tiễn đặt ra đối với ĐNTT Việt Nam và phƣơng hƣớng, giải pháp phát triển ĐNTT

trong tiến trình CNH, HĐH đất nƣớc và hội nhập quốc tế.
Các công trình cũng nêu một số đặc điểm, thực trạng tình hình ĐNTT Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới về trình độ chuyên môn, cơ cấu ngành nghề, độ tuổi,
giới tính, sự phân bố của trí thức trong các ngành khoa học, các vùng miền, các
thành phần kinh tế, các lĩnh vực hoạt động; chỉ ra những ƣu điểm, tiềm năng, thế
mạnh và những hạn chế của ĐNTT Việt Nam. Các tác giả cũng gợi mở một số giải
pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác xây dựng ĐNTT , phát huy cao độ

11
vai trò của trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nƣớc và hội nhập quốc
tế, từng bƣớc xây dựng nền kinh tế tri thức.
Các công trình nghiên cứu liên quan vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức khá phong phú, đáng chú ý là: Nghiêm
Đình Vỳ - Nguyễn Đắc Hƣng (2002), Phát triển giáo dục - đào tạo nhân tài, NXB
CTQG, Hà Nội; Ban Khoa giáo Trung ƣơng, Giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đổi
mới: Chủ trương, thực hiện, đánh giá; TS Lê Hồng Phúc (2006), Bàn về đào tạo
tiến sỹ ở Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội; Nguyễn Thế Long (2006),
Đổi mới tư duy, phát triển giáo dục Việt Nam trong cơ chế thị trường, NXB Lao
động, Hà Nội; Phan Ngọc Liên (2007), Đảng Cộng sản Việt Nam với sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, Nxb Đại học sƣ phạm, Hà Nội,
Trƣớc khi bàn về quan điểm, đƣờng lối của Đảng, chủ trƣơng chính sách của
Nhà nƣớc đối với công tác xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đổi mới, các công trình
nghiên cứu đã làm rõ truyền thống lịch sử văn hiến của dân tộc Việt Nam, lịch sử
giáo dục Việt Nam qua các thời đại. Qua đó cho thấy những yếu tố truyền thống và
những tác động từ công tác GD-ĐT đến đặc điểm, xu hƣớng phát triển của trí thức
Việt Nam. Các công trình cũng đề cập khá sâu về một số vấn đề liên quan đến
nguồn trí thức Việt Nam - một yếu tố có ý nghĩa quyết định tới đặc điểm ĐNTT
nƣớc ta trong thời kỳ đổi mới; chỉ rõ nhiệm vụ của giáo dục Việt Nam trong tiến
trình CNH, HĐH. Nhiều công trình đã hệ thống hóa quan điểm, chủ trƣơng của
Đảng, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về GD-ĐT, phân tích những thời cơ và thách thức,

những yếu tố tác động tích cực và tiêu cực đến công tác đào tạo, bồi dƣỡng trí thức
trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt từ khi Việt
Nam là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO), mở cửa dịch
vụ giáo dục.
Một số công trình bàn về vấn đề phát hiện, đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng nhân
tài, tài năng trẻ, nêu thực trạng và một số giải pháp để phát hiện, bồi dƣỡng, phát
huy tiềm năng sáng tạo của trí thức tài năng, nhân tài trong điều kiện kinh tế thị

12
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa (XHCN), hội nhập quốc tế. Các tác giả cũng
giới thiệu những kinh nghiệm hay về tổ chức, quản lý GD-ĐT, đào tạo nguồn nhân
lực trình độ cao ở một số quốc gia trên thế giới; giới thiệu những nhân tố mới, mô
hình điển hình về đầu tƣ nhân lực, cơ sở vật chất cho sự nghiệp GD-ĐT, xã hội hóa
giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực ở một số địa phƣơng, cơ sở trong thời
kỳ đổi mới. Đề cập những vấn đề đặt ra đối với việc sử dụng trí thức, hạn chế hiện
tƣợng ―chảy chất xám‖,
Các công trình về xây dựng ĐNTT từ góc độ phát triển nền kinh tế tri thức,
các ngành mũi nhọn, nguồn nhân lực trình độ cao:
GS,TSKH Vũ Đình Cự và PGS, TS Trần Xuân Sầm chủ biên (2005), Lực
lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức, NXB CTQG, Hà Nội; Nhiều tác giả Việt
Nam và nƣớc ngoài (2005), Ai sở hữu kinh tế tri thức?, NXB CTQG, Hà Nội;
Trƣờng Đại học Lao động Xã hội (2005), Giáo trình Nguồn nhân lực, NXB Lao
động - Xã hội, Hà Nội,
Các công trình khẳng định nền kinh tế tri thức, kinh tế trí tuệ hình thành và
phát triển là tất yếu lịch sử, phân tích sự tác động của kinh tế tri thức đối với sự phát
triển của Việt Nam và cơ hội cho các nƣớc đang tiến hành CNH, HĐH nhƣ Việt
Nam. Nêu rõ vai trò của ĐNTT đối với tiến trình CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức ở nƣớc ta; phân tích những mối quan hệ chính trị xung quanh vấn đề
bản quyền, quyền sở hữu trí tuệ; mối quan hệ giữa các nƣớc, nhất là Mỹ đối với các
nƣớc về vấn đề sở hữu trí tuệ; những vấn đề đặt ra trên lĩnh vực phát triển thị trƣờng

KH-CN, thị trƣờng lao động KH-CN,
Các công trình nghiên cứu về chủ trương đổi mới, cơ chế chính sách quản lý,
đầu tư phát triển KH-CN: TSKH Phan Xuân Dũng (Chủ biên) (2004), Chuyển giao
công nghệ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, NXB CTQG, Hà Nội; TSKH
Phan Xuân Dũng và TS Hồ Thị Mỹ Duệ (2006), Về đổi mới quản lý và hoạt động

13
các tổ chức khoa học - công nghệ theo cơ chế doanh nghiệp, NXB CTQG, Hà
Nội,
Các tác giả nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của các tổ chức
nghiên cứu và phát triển công nghệ ở Việt Nam, chỉ ra tác động của đổi mới cơ chế,
chuyển đổi các tổ chức này sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, tự chủ, tự
chịu trách nhiệm đối với việc phát huy năng lực sáng tạo của ĐNTT, lao động, việc
làm, tiền lƣơng; kinh nghiệm của các nƣớc trong việc nhập khẩu công nghệ gắn với
phát triển nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ trong nƣớc, nêu những giải
pháp chuyển đổi các tổ chức KH- CN sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp và
tác động tích cực của mô hình quản lý doanh nghiệp đối với xây dựng và phát huy
vai trò của ĐNTT trong tiến trình CNH, HĐH đất nƣớc. Giới thiệu một số kết quả
ứng dụng KH-CN từ năm 1986 đến 2008, tình hình đầu tƣ phát triển KH-CN và nêu
một số giải pháp nhằm tăng cƣờng hiệu quả chuyển giao công nghệ; phát huy vai
trò của ĐNTT, nguồn nhân lực chất lƣợng cao trong quá trình chuyển giao, tiếp
nhận thành tựu KH-CN của thế giới.
Xây dựng ĐNTT cũng là một chủ đề trên các diễn đàn khoa học: Tạp chí báo
viết, báo điện tử, hội thảo. Trên các tạp chí, báo viết, báo điện từ có nhiều bài viết
về thực trạng ĐNTT Việt Nam, nêu những ý kiến, đề xuất giải pháp xây dựng
ĐNTT Việt Nam lớn mạnh làm tiền đề cho công cuộc chấn hƣng đất nƣớc, nâng
cao tiềm lực quốc gia. Đặc biệt, Hội thảo về phát huy nguồn lực trí thức Việt kiều,
do ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, có nhiều bài viết của
trí thức Việt kiều, nêu kiến nghị nhằm phát huy tiềm năng trí thức kiều bào đối với
công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

Tạp chí khoa học và Tổ quốc phối hợp với Báo điện tử Vỉetnamnet thực hiện
diễn đàn Trí thức Việt Nam mạnh hay yếu, thu hút đồng đảo các học giả tham gia
trao đổi, nêu ra và tranh luận xung quanh khái niệm trí thức, những thành tố để nhận
diện trí thức trong thời đại bùng nổ KH-CN hiện nay; trao đổi xung quanh nhận
định trí thức nước nhà mạnh hay yếu, đặc điểm, xu hƣớng phát triển của trí thức

14
Việt Nam hiện nay, chỉ ra những hạn chế, yếu kém của trí thức trƣớc yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc và hội nhập quốc tế.
Trong quá trình các cơ quan tham mƣu Trung ƣơng xây dựng Đề án về công
tác trí thức để trình Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Khoá X ra nghị quyết chuyên
đề về công tác xây dựng ĐNTT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập
quốc tế (2008), trên các diễn đàn, tại nhiều cuộc hội thảo, hội nghị, các cuộc tiếp
xúc giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc với trí thức, văn nghệ sỹ tiêu biểu, đã có những
cuộc trao đổi cởi mở, sôi nổi, dân chủ, thẳng thắn trên nhiều chiều cạnh về sự lãnh
đạo của Đảng, chủ trƣơng chính sách của Nhà nƣớc đối với trí thức.
Đã có một số luận án đề cập xung quanh vấn đề trí thức, công tác xây dựng
ĐNTT trong thời kỳ đổi mới, đáng chú ý là: Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay của Bùi Thi Ngọc Lan, chuyên ngành CNXH khoa
học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000; Phát huy tiềm năng của trí thức
khoa học xã hội trong công cuộc đổi mới ở nước ta của Nguyễn An Ninh, chuyên
ngành CNXH khoa học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000; Phát huy vai
trò của trí thức ngành y tế Việt Nam trong công cuộc đổi mới của Nguyễn Thị Hoà
Bình, chuyên ngành CNXH khoa học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2006,
Các tác giả đã làm rõ khái niệm trí tuệ và nguồn lực trí tuệ, nêu thực trạng và
xu hƣớng phát triển của nguồn lực trí thức; những thành tựu, hạn chế chủ yếu và
phƣơng hƣớng, giải pháp cơ bản về đào tạo, bồi dƣỡng và phát huy tiềm năng trí tuệ
của ĐNTT trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc. Làm rõ đặc điểm, ƣu điểm, nhƣợc
điểm của trí thức Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới, CNH, HĐH đất nƣớc:
Trình độ chuyên môn, sự hiểu biết, nhân cách, lƣơng tri. Nêu yêu cầu phát huy tiềm

năng của ĐNTT: Khơi dậy, sử dụng và phát triển các nguồn lực của đội ngũ này.
Khẳng định trí thức đã và đang góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục
tiêu phát triển KT-XH, sự ổn định chính trị trong sự nghiệp đổi mới. Đề xuất một số
giải pháp xây dựng, phát huy nguồn lực trí thức trong thời kỳ mới.

15
Xây dựng ĐNTT là chủ đề lớn, đã có nhiều chương trình, đề tài các cấp
nghiên cứu, khảo sát về trí thức và những vấn đề liên quan: Trong thời kỳ đổi mới
đã có 2 chƣơng trình KH-CN cấp Nhà nƣớc nghiên cứu về ĐNTT:
- Đề tài khoa học cấp nhà nƣớc KX 04.06 do GS Phạm Tất Dong chủ nhiệm
tiến hành nghiên cứu trong các năm 1992-1995. Những nội dung cốt yếu của đề tài
in thành sách Trí thức Việt Nam- Thực tiễn và triển vọng (1995), NXB CTQG, Hà
Nội.
- Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nƣớc, mã số ĐTĐL 2003-27: Đổi mới
chính sách đối với trí thức khoa học - công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước do GS, TSKH Nguyễn Hữu Tăng làm chủ nhiệm, Ban Khoa
giáo Trung ƣơng là cơ quan chủ trì. Đề tài đƣợc thực hiện trong các năm 2003-
2005.
Các đề tài đã thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học và lãnh đạo thực
tiễn ở nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, các ban, ngành Trung ƣơng và địa
phƣơng. Các đề tài đã phân tích, đánh giá sâu sắc những chính sách của Đảng đối
với trí thức trên lĩnh vực KH-CN trong thời kỳ đổi mới. Quá trình triển khai các Đề
tài cũng là những dịp để trí thức bày tỏ nguyện vọng, mong muốn của mình với
Đảng và Nhà nƣớc về những vấn đề liên quan thiết thực tới sự phát triển của ĐNTT.
Kết quả nghiên cứu của các đề tài đã hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn, cung cấp
luận cứ khoa học để Đảng và Nhà nƣớc đề ra chủ trƣơng, chính sách về công tác
xây dựng ĐNTT trong thời kỳ mới.
Một số đề tài cấp bộ, cấp cơ sở cũng đƣợc các cơ quan khoa học triển khai:
Đề tài cấp bộ Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. đối với
trí thức nước ta hiện nay, do Viện Xây dựng Đảng, Học viện CTQG Hồ Chí Minh

chủ trì, đã khái quát quá trình đổi mới nội dung, cách thức lãnh đạo của Đảng đối
với trí thức trong thời kỳ đổi mới. Đề tài cấp cơ sở Phát huy vai trò đội ngũ trí thức
các cơ quan Trung ương trên địa bàn Hà Nội trong công cuộc xây dựng Thủ đô

16
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do Học viện Chính trị khu vực I thực
hiện, đã tìm hiểu bƣớc đầu những đóng góp của trí thức đối với sƣ phát triển thủ đô
Hà Nội, nơi tập trung đông nhất trí thức cả nƣớc.
Qua tìm hiểu cho thấy, những công trình nghiên cứu các vấn đề xung quanh
công tác xây dựng ĐNTT và các vấn đề liên quan là khá lớn, đã có những nghiên
cứu sâu về một số lĩnh vực. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về xây dựng
ĐNTT đƣợc tiếp cận từ các phƣơng diện:
- Công tác khoa giáo, tƣ tƣởng - văn hóa, phát huy vai trò của trí thức trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quá trình đổi mới quan điểm, chủ trƣơng
của Đảng, Nhà nƣớc về các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của trí thức: phát triển KH-
CN, GD-ĐT, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
trong tiến trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nƣớc.
- Công tác tổ chức - cán bộ, gồm công tác quy hoạch, chính sách đào tạo, bồi
dƣỡng, sử dụng, đãi ngộ trí thức, nhân tài, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; trí thức
hoá, nâng cao năng lực trí tuệ của đội ngũ cán bộ cốt cán, xây dựng hệ thống chính
trị vững mạnh trên cơ sở liên minh công nhân - nông dân - trí thức.
- Công tác GD-ĐT, đào tạo, bồi dƣỡng trí thức trong chiến lƣợc xây dựng
nguồn lực quốc gia, thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dƣỡng nhân tài, xây dựng nguồn nhân lực chất lƣợng cao phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH đất nƣớc.
Ở nước ngoài, vấn đề trí thức và vai trò của trí thức trong xã hội là chủ đề
đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Albert Enstein (2007), Thế giới như
tôi thấy, Nxb Tri thức, Hà Nội, nêu vai trò của trí thức trong việc định hƣớng tƣ
tƣởng xã hội, chuyển tải ý chí của những ngƣời lãnh đạo đến dân chúng, đặc biệt là
sự ảnh hƣởng sâu sắc tới dƣ luận xã hội của những nhà trí thức lớn, có uy tín đối với

xã hội. F.A.Hayek, trong tiểu luận Trí thức và chủ nghĩa xã hội, viết năm 1949, nêu
vai trò của trí thức đối với sự phát triển của xã hội, với việc nhận thức và truyền bá

17
các tƣ tƣởng chính trị, định hƣớng xu hƣớng tƣ tƣởng; Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc
Diệu (Chủ biên) (1996), Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, kế lớn trăm năm
chấn hưng đất nước, NXB CTQG, Hà Nội, khẳng định chính sách đối với trí thức
trong chiến lƣợc phát triển quốc gia, đề cao vai trò của trí thức trong tiến trình phát
triển xã hội; Khoa học xã hội ở các nước (2007), NXB Đại học quốc gia, Hà Nội,
tuyển chọn những bài nghiên cứu của nhiều tác giả nƣớc ngoài, nêu khái quát tình
hình trí thức và xu hƣớng phát triển của trí thức khoa học xã hội trên thế giới, vai
trò của KHXH và nhân văn đối với việc hoạch định chiến lƣợc, chính sách phát
triển, Các tác giả nƣớc ngoài cho chúng ta cách nhìn đa chiều về đặc điểm, vai trò
của trí thức và các yếu tố tác động đến sự hình thành, phát triển của tầng lớp trí
thức.
Các vấn đề liên quan đến kinh tế tri thức và vai trò của trí thức trong nền sản
xuất hiện đại, sự tác động của cuộc cách mạng KH-CN đến truyền thống văn hóa
các dân tộc và những biến đổi trong xã hội là chủ đề lớn đƣợc nhiều học giả quan
tâm nghiên cứu. Đặc biệt, sự ra đời của đội ngũ lao động tri thức, trí thức hoá công
nhân là chủ đề đƣợc nhiều ngƣời quan tâm tìm hiểu, trong đó phải kể đến các công
trình: Ngô Quý Tùng (Trung Quốc) (2001), Kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội
thể kỷ XXI, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội; Thomas L.Friedman (2005), Chiếc
Lexus và cây ô liu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Thomas L.Friedman (2006), Thế
giới phẳng - tóm lược lịch sử châu Á, NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh; Samuel
Hungtinhton (2005), Sự va chạm của các nền văn minh, NXB Tri thức, Hà Nội,
Các tác giả nghiên cứu, phân tích những yếu tố truyền thống và hiện đại trong xã
hội đƣơng đại, những tác động của KH-CN, đặc biệt là công nghệ thông tin đối với
xu thế toàn cầu hóa, những xung đột xã hội và sự tác động trở lại của toàn cầu hóa
đối với đời sống xã hội. Trong đó, vị trí, vai trò của giới trí thức, lao động trí thức
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của xã hội hiện đại.




18
2. Những vấn đề còn tồn tại
Mặc dù vấn đề trí thức, công tác xây dựng ĐNTT của Đảng đƣợc nhiều cơ
quan, tổ chức, cá nhân nhà khoa học quan tâm, nhiều công trình đã đƣợc công bố
nhƣng đến nay chƣa có công trình khoa học chuyên ngành.
Các công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào nghiên cứu trình độ chuyên
môn, cơ cấu, quy mô của ĐNTT, chủ yếu là trí thức KH-CN, mà chƣa quan tâm
đúng mức vấn đề về phẩm chất đạo đức, ý thức chính trị, trách nhiệm xã hội của trí
thức, phƣơng thức thực hiện sự lãnh đạo, đãi ngộ của Đảng và Nhà đối với trí thức
trong điều kiện mới.
Mặt khác, trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và các cuộc cách mạng KH-
CN phát triển mạnh mẽ với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, nhiều công trình
nghiên cứu chủ yếu tập trung nghiên cứu ĐNTT hoạt động trong lĩnh vực KH- CN,
GD-ĐT, mà chƣa chú ý đúng mức, tƣơng xứng với những vai trò, vị trí của trí thức,
văn nghệ sỹ họat động trong lĩnh vực VH-NT, là chủ thể sáng tạo các giá trị văn
hóa.
Từ năm 1986 đến năm 2008 là giai đoạn có nhiều chuyển biến lớn trong quá
trình thực hiện đổi mới ở Việt Nam. Đƣờng lối đổi mới do Đại hội VI khởi xƣớng
từng bƣớc đƣợc bổ sung, hoàn thiện, quán triệt sâu rộng trong thực tiễn và thu đƣợc
nhiều kết quả quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Quan điểm, chủ trƣơng của Đảng và
Nhà nƣớc về đào tạo và đãi ngộ trí thức có nhiều đổi mới, đƣợc cụ thể hóa trong
thực tiễn và công tác xây dựng ĐNTT có nhiều thành tựu. Những thành tựu đạt
đƣợc trong công tác xây dựng ĐNTT là một bộ phận hữu cơ trong tiến trình phát
triển chung, là một thành tựu của đƣờng lối đổi mới, đồng thời cũng là nhân tố quan
trọng góp phần vào sự nghiệp đẩy mạnh CNH - HĐH đất nƣớc và hội nhập quốc tế.
Đã có nhiều nghiên cứu về công tác xây dựng ĐNTT và tình hình ĐNTT thời kỳ
này nhƣng chƣa nêu đƣợc những quan điểm, chủ trƣơng mới của Đảng, Nhà nƣớc

về chính sách đào tạo, sử dụng trí thức cũng nhƣ những biến đổi, phát triển, đóng

19
góp của trí thức nói chung trong công cuộc đổi mới đất nƣớc. Chƣa chú trọng tìm
hiểu tâm trạng, suy tƣ của trí thức đối với dân tộc. Tìm hiểu vấn đề này là cơ sở để
luận văn luận giải rõ hơn những quan điểm, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về
vai trò, vị trí của trí thức trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, thể hiện tập
trung, sâu sắc và toàn diện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng Khóa X (6-2008) về công tác xây dựng đội ngũ trí thức trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH.
Luận văn hệ thống, khái quát quan điểm, chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về
xây dựng ĐNTT trong các thời kỳ cách mạng. Tập trung làm rõ quá trình xây dựng,
bổ sung và phát triển quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về công tác trí thức và chính
sách sử dụng ĐNTT trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, bƣớc đầu đẩy manh CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế (1986-2008). Quan điểm, chủ trƣơng đào tạo ĐNTT luôn
luôn gắn liền với nhiệm vụ quốc gia, là một bộ phận của quá trình đổi mới tƣ duy lý
luận và lãnh đạo thực tiễn. Phục dựng quá trình tổ chức, thực hiện những chủ
trƣơng, chính sách đào tạo, xây dựng ĐNTT của Nhà nƣớc trong thực tiễn. Nêu kết
quả, những thành công và hạn chế của công cuộc đào tạo và sử dụng trí thức từ năm
1986 đến năm 2008, trên các mặt công tác: đào tạo, bồi dƣỡng trí thức; chủ trƣơng,
chính sách trọng dụng, trọng đãi, phát huy tiềm lực trí thức trên các lĩnh vực chủ
yếu, nêu bƣớc trƣởng thành, những đóng góp của ĐNTT trong công cuộc đổi mới,
tìm hiểu nguyên nhân của thành công và hạn chế.








20
Chƣơng 2
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1986 - 1996
2.1. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRƢỚC NĂM 1986
2.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí
thức và lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức cách mạng.
Mặc dù định nghĩa về trí thức còn nhiều tranh luận, nhiều ý kiến chƣa thống
nhất, nhƣng có thể hiểu trí thức là những ngƣời lao động trí óc, có kiến thức về
nhiều lĩnh vực hay một số lĩnh vực, có tƣ duy độc lập, có tinh thần sáng tạo, trong
đó có các nhà khoa học lớn có phát minh, sáng chế. Trí thức có vai trò sáng tạo, làm
giàu giá trị tinh thần và truyền bá tri thức. Do sáng tạo, nên họ nhạy cảm với cái
mới, tiếp thu dễ dàng những tƣ tƣởng tiến bộ, có vai trò lớn đối với lịch sử. Trí thức
là phạm trù lịch sử, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể,
trí thức có vai trò, nhiệm vụ khác nhau.
Trong thực tế, trí thức không chỉ là những ngƣời có bằng cấp, có học vấn
cao, đƣợc đào tạo qua trƣờng lớp mà bao gồm cả những ngƣời có năng lực trí tuệ,
trải qua quá trình rèn luyện, tự học tập, rèn luyện, tham gia các hoạt động sáng tạo,
giải quyết có hiệu quả những công việc có tính khoa học phức tạp trong thực tiễn.
Đội ngũ trí thức cách mạng Việt Nam từng bƣớc hình thành và phát triển.
ĐNTT cách mạng là kết quả của chủ trƣơng đào tạo trí thức mới, cải tạo trí thức cũ,
công nông hóa trí thức, trí thức công nông hóa. Vƣợt lên các mối liên hệ với giai
cấp, tầng lớp mình sinh ra, trí thức Việt Nam có điểm chung là luôn có ý thức và
tình cảm sâu sắc về dân tộc. Đó là đặc điểm riêng và là cơ sở nền tảng vững chắc để
trí thức Việt Nam phát triển và có đóng góp xứng đáng vào lịch sử dân tộc.
Trong thời kỳ mới giành đƣợc chính quyền, tiến hành cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, trí thức Việt Nam chủ yếu là trí thức phong kiến, trí thức
đƣợc đào tạo dƣới chế độ cũ, đào tạo ở nƣớc ngoài trở về, đƣợc Đảng và Nhà nƣớc

21
tập hợp và xây dựng thành ĐNTT cách mạng đủ sức phục vụ kháng chiến. Cùng với

tạo điều kiện để trí thức cũ học tập, rèn luyện, Nhà nƣớc quan tâm đào tạo trí thức
mới từ các tầng lớp nhân dân lao động, đào tạo ở trong và ngoài nƣớc.
Đến thời kỳ đổi mới, ĐNTT Việt Nam đã lớn mạnh, tuyệt đại đa số là con
em cán bộ, công nhân, nông dân, đƣợc đào tạo trong chế độ mới. Trí thức Việt Nam
mang trong mình lòng yêu nƣớc, tự hào dân tộc, liên hệ chặt chẽ và sát cánh cùng
giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động trong sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo. Đó là đặc điểm nổi bật của ĐNTT công - nông.
Việt Nam là nƣớc có truyền thống văn hiến lâu đời, trí thức, nhân tài đƣợc
đặc biệt tôn vinh, thƣờng đƣợc nhìn nhận với những đức tính tốt đẹp. Do vậy, xã hội
đề cao trình độ chuyên môn, năng lực sáng tạo và vấn đề hàng đầu là đạo đức, đạo
lý, học hạnh. Trách nhiệm xã hội là một phẩm chất không thể thiếu của trí thức:
―Quốc gia hƣng vong. Sỹ phu hữu trách‖
Trong xã hội mới, phẩm chất đạo đức trí thức hàm chứa các giá trị đạo đức
cách mạng. Đó là: Trung thực, gắn mình với đời sống nhân dân lao động; khát vọng
tìm tòi chân lý; khiêm tốn, giản dị, hoà nhã; có trách nhiệm với xã hội, quan tâm,
đóng góp thiết thực vào những vấn đề của đất nƣớc. Tuy nhiên, trí thức cũng là
những con ngƣời xã hội, mang trong mình tổng hòa các mối quan hệ xã hội, do vậy
trí thức không chỉ thuần nhất những yếu tố tích cực, phẩm hạnh tốt đẹp mà trí thức
mang trong mình cả tính tích cực và tiêu cực.
Quan điểm, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng
đội ngũ trí thức.
Trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ khái niệm trí thức.
Trí thức là những ngƣời lao động trí óc có trình độ học vấn cao về lĩnh vực
chuyên môn nhất định, có năng lực tƣ duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu

22
tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội [128,
tr. 82],
Đó là sự nhận thức biện chứng, phù hợp với thực tiễn lịch sử cụ thể Việt
Nam, không rập khuôn, sao chép.

Quan điểm, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng
đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng không ngừng phát triển, ngày càng sâu
sắc và toàn diện, phù hợp với tình hình thực tế, nhiệm vụ mỗi giai đoạn, mục tiêu
đất nước và xu thế thời đại.
Trong quá trình tìm đƣờng cứu nƣớc và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng ĐNTT cách mạng và phát huy vai trò của trí
thức. Hồ Chí Minh chỉ rõ, dƣới ách áp bức của thực dân đế quốc, trí thức Việt Nam
cùng cảnh ngộ của dân tộc, bị đè nén, khinh rẻ, tƣ tƣởng bị áp chế, tài năng bị vùi
dập, quyền lợi hàng ngày bị tƣớc đoạt. Do vậy, trí thức mang trong mình tinh thần
dân tộc và cách mạng.
Ngƣời khẳng định sự tham gia của trí thức là nhân tố góp phần quyết định
thành công của cách mạng và sớm đề ra nhiệm vụ xây dựng ĐNTT. Trong tác phẩm
Đường kách mệnh (1927), Ngƣời khẳng định vai trò của tri thức, lý luận và trí thức
đối với cách mạng: ―Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận
động‖. Đúc rút kinh nghiệm từ Cách mạng Pháp, Ngƣời chỉ rõ nguyên nhân Cách
mạng Pháp thất bại là: ―Trong 3 lần cách mệnh, 1789, 1848, 1870, đều vì dân can
đảm nhiều, nhƣng trí thức ít (tác giả nhấn mạnh), cho nên để tƣ bản nó lợi dụng‖
Hồ Chí Minh nêu luận điểm mang tính quy luật: Trí thức gắn với cách mạng,
với cái mới, tiến bộ. Trí thức là vốn quý báu của dân tộc. Ở nƣớc khác nhƣ thế, ở
Việt Nam càng nhƣ thế, ―cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng
mới biết trọng trí thức” Ngƣời chỉ rõ:

23
Trí thức công nông hoá, trí thức phục vụ nhân dân bao giờ cũng cần, tiến lên
chủ nghĩa xã hội cũng cần, tiến lên chủ nghĩa cộng sản lại càng cần. Bởi xã hội
tương lai là một xã hội không có phân biệt giữa trí óc với lao động
Về công tác đào tạo, bồi dƣỡng trí thức, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải thực hiện
đổng thời đào tạo trí thức mới và cải tạo trí thức cũ, công nông trí thức hóa, trí thức
công nông hóa để xây dựng ĐNTT toàn diện cả đức và tài, vừa ―Hồng‖ vừa
―Chuyên‖. Phải xây dựng ĐNTT cách mạng gắn bó với Đảng, hết lòng phục vụ Tổ

quốc, phục vụ nhân dân. Trong đó, đặc biệt chăm lo đào tạo công nhân, nông dân và
các tầng lớp nhân dân lao động trở thành trí thức.
Sự nhận thức của Đảng ta về công tác trí thức và xây dựng ĐNTT đƣợc
khẳng định rõ ngay từ ngày đầu thành lập. Trong các văn kiện Chánh cương vắn tắt
của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đƣợc
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mùa Xuân năm 1930,
xác định trí thức là một bộ phận trong lực lƣợng quần chúng cách mạng dƣới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sách lược vắn tắt của Đảng nêu rõ: ―Đảng phải hết
sức liên lạc với tiểu tƣ sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt,.v.v. để kéo họ
đi về phe vô sản giai cấp‖ [101, tr.3].
Sau đó, do quán triệt sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản vào việc xây dựng
đƣờng lối cách mạng Việt Nam, trong Đảng xuất hiện một số chủ trƣơng về tầng
lớp trí thức không phù hợp với thực tế. Tại Luận cương chính trị tháng 10-1930
nêu: Trí thức tiểu tƣ sản học sinh có xu hƣớng quốc gia chủ nghĩa, đại biểu quyền
lợi cho cả giai cấp tƣ bản bản xứ, chứ không chỉ bênh vực quyền lợi riêng cho tiểu
tƣ sản mà thôi. Trong thời kỳ chống đế quốc thì trí thức cũng hăng hái tham gia,
nhƣng không thể bênh vực quyền lợi cho dân cày đƣợc, vì có liên quan với địa chủ.
Chủ trƣơng thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ (1930-1931) nêu chủ trƣơng "thanh
trừng trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ".

×