Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Tiếp biến văn hoá Đông - Tây đầu thế kỷ XX nhìn từ góc độ báo chí, qua trường hợp Phan Khôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 193 trang )


Đại học Quốc gia Hà Nội
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
*****






Kiều Thị Ngọc Lan



Tiếp biến văn hóa Đông – Tây đầu thế kỷ XX
Nhìn từ góc độ báo chí, qua trường hợp Phan Khôi



Luận văn thạc sĩ khoa học





















Hà Nội – 2008

2
Đại học Quốc gia Hà Nội
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
*****






Kiều Thị Ngọc Lan


Tiếp biến văn hóa Đông – Tây đầu thế kỷ XX
Nhìn từ góc độ báo chí, qua trường hợp Phan Khôi









Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60-22-54
Luận văn Thạc sĩ Khoa học
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Xanh














Hà Nội – 2008



3

Mục lục



Mở đầu
4
Chương 1
Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX- nửa đầu thế kỷ XX và cuộc
tiếp biến văn hóa Đông Tây
8
Chương 2
Phan Khôi – sản phẩm của cuộc tiếp biến văn hóa Đông
Tây đầu thế kỷ XX
74
Chương 3
Những đóng góp và hạn chế của Phan Khôi trong qúa trình
hiện đại hóa văn hóa Việt Nam buổi đầu thế kỷ XX
113
Kết luận
125
Danh mục tài liệu tham khảo
129
Phụ lục
Một số tác phẩm đăng báo của Phan Khôi
140














4


Mở đầu

1. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Ba thập kỷ đầu thế kỷ XX là thời kỳ mang tính bản lề quan trọng trong
toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam cận – hiện đại. Bởi đây chính là thời kỳ
quyết định chiều hướng phát triển của lịch sử Việt Nam trong những bước ngoặt
tiếp theo, tạo ra tiền đề về tư tưởng, tổ chức và lực lượng cho sự phát triển của
phong trào giải phóng dân tộc ở giai đoạn sau, mà sớm nhất là thắng lợi của
cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Cũng bởi vị trí quan trọng đó, thời kỳ những năm đầu thế kỷ XX (ba thập
niên đầu) đã trở thành chủ đề nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, trên lĩnh vực báo chí, cho đến thời điểm hiện tại (năm 2007),
vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính tổng kết một cách đầy đủ,
khách quan về ảnh hưởng của cuộc tiếp biến văn hóa Đông – Tây đầu thế kỷ
XX, khi thực dân Pháp đặt ách thống trị ở Việt Nam đến đời sống báo chí và qua
lăng kính báo chí – một sản phẩm trực tiếp của cuộc xâm lăng và “khai hóa văn
minh phương Tây”.
Phan Khôi (1887-1959) là một trường hợp khó có thể không nhắc đến khi
nghiên cứu văn hóa Việt Nam buổi đầu thế kỷ XX, bởi tầm vóc, vai trò to lớn
của ông đối với nền văn hóa nước nhà trong buổi giao thời Đông – Tây.
Thế nhưng, cho đến thời điểm này, chỉ có một số công trình lẻ tẻ, chưa

toàn diện giới thiệu về tiểu sử học giả Phan Khôi cùng một số bài đăng báo của
ông thời kỳ những năm đầu thế kỷ XX, như Nhớ cha tôi của Phan Thị Mỹ
Khanh, Nxb Đà Nẵng xuất bản năm 2001, Phan Khôi – Những tác phẩm đăng
báo năm 1928, 1929, 1930, 1931 của nhà sưu tập Lại Nguyên Ân, mà lại thiếu
vắng những công trình khảo cứu, đánh giá khách quan, khoa học những đóng

5
góp của học giả này đối với nền học thuật, tư tưởng, văn hóa nước nhà qua hoạt
động báo chí của ông.
Tháng 8.2007, nhân 120 năm ngày sinh Phan Khôi, lần đầu tiên Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam, Tạp chí Xưa & Nay đã tổ chức lễ kỷ niệm tại hội trường
Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (25 Tông Đản, Hà Nội), với sự có mặt của một
số nhà nghiên cứu cùng con cháu dòng họ Phan Khôi. Tuy nhiên, buổi gặp mặt
này mới chỉ hé mở đôi chút câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của Phan Khôi
nhằm “giải oan” cho ông, chưa phải là một cuộc hội thảo khoa học được chuẩn
bị công phu, nghiêm túc, khách quan.
Với mục đích làm sáng rõ một “khoảng mờ” trong lịch sử cận đại Việt
Nam qua trường hợp cụ thể của một học giả từng một thời bị rơi vào quên lãng
(thậm chí không được nhắc đến vì “nhạy cảm” chính trị), luận văn Thạc sĩ khoa
học “Tiếp biến văn hóa Đông – Tây đầu thế kỷ XX: Nhìn từ góc độ báo chí, qua
trường hợp Phan Khôi” là công trình nghiên cứu đầu tiên của khoa Lịch sử,
trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) về
nhân vật Phan Khôi và những đóng góp cũng như hạn chế của ông trong cuộc
tiếp biến văn hóa Đông – Tây đầu thế kỷ XX.
Song, trong khuôn khổ, phạm vi đề tài, chúng tôi chỉ nghiên cứu, tiếp cận
chân dung học giả Phan Khôi dưới góc độ báo chí, qua những tác phẩm của ông
được đăng tải trên các báo tiếng Việt trước năm 1945. Sau năm 1945, Phan Khôi
vẫn tiếp tục sự nghiệp báo chí cho đến khi ông mất – năm 1959. Tuy nhiên,
chúng tôi không đi sâu nghiên cứu những hoạt động báo chí, văn học và chính
trị của ông sau năm 1945, hoặc thời kỳ ông có liên quan đến Nhân Văn – Giai

Phẩm, bởi đó là phạm vi của một đề tài khác.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cuộc tiếp biến văn hóa Đông – Tây
đầu thế kỷ XX và hơn 4.000 tác phẩm đăng báo của học giả Phan Khôi thời kỳ

6
từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, cùng những đóng góp, tác động, ảnh hưởng của
ông đối với đời sống văn hóa – chính trị Việt Nam thời kỳ này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: Tiếp cận cuộc tiếp
biến văn hóa Đông – Tây đầu thế kỷ XX và ảnh hưởng của nó qua một trí thức
Tây học điển hình – học giả Phan Khôi và những hoạt động báo chí của ông. Từ
đó, luận văn bước đầu đánh giá những đóng góp cũng như hạn chế của nhân vật
Phan Khôi và của cuộc tiếp biến văn hóa Đông – Tây đối với việc xây dựng nền
văn hóa, học thuật, tư tưởng Việt Nam.
Khi đặt vấn đề nghiên cứu hoạt động báo chí của Phan Khôi dưới ảnh
hưởng của cuộc tiếp biến văn hóa Đông – Tây, chúng tôi chỉ mong muốn thu
hẹp dần khoảng cách giữa sự thật lịch sử – sự thật khách quan và sự thật qua
lăng kính của nhà sử học để cố gắng đưa ra câu trả lời tương đối cho một vấn đề
trong lịch sử Việt Nam cận đại và cho một nhân vật có đóng góp, ảnh hưởng
không nhỏ trong tiến trình lịch sử, nhưng vì một số lý do khách quan, đã bị rơi
vào quên lãng. Trả lại sự khách quan, công bằng cho quá khứ, thiết nghĩ, đó là
một trong những nhiệm vụ chính yếu của sử học.
Tuy nhiên, những luận điểm, đánh giá trong luận văn “Tiếp biến văn hóa
Đông – Tây đầu thế kỷ XX: Nhìn từ góc độ báo chí, qua trường hợp Phan Khôi”
mới chỉ là sơ bộ kết quả nghiên cứu. Trong điều kiện quỹ thời gian eo hẹp cùng

những hạn chế về mặt khách quan, chủ quan, chúng tôi không dám tham vọng
coi đây là công trình hoàn bị nhất, bởi lẽ, việc tìm kiếm sử liệu về Phan Khôi
chắc chắn vẫn còn là câu chuyện dài, và còn phải tiếp tục làm tốn kém thời gian
cũng như công sức của những nhà nghiên cứu rất nhiều năm sau này.

4. Phương pháp nghiên cứu


7
Về phương pháp nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê,
phân tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp

5. Cấu trúc đề tài

Luận văn gồm 3 chương và các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo. Phần Mở đầu nêu rõ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài, đối
tượng và phạm vi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, cũng như
phương pháp nghiên cứu. Chương 1 đề cập những nét chung nhất về bối cảnh
lịch sử – xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, và nội dung cuộc tiếp
biến văn hóa Đông – Tây. Chương 2 đi sâu nghiên cứu ảnh hưởng của cuộc tiếp
biến văn hóa Đông – Tây qua một “sản phẩm” cụ thể – nhà báo, học giả Phan
Khôi. Trong chương này, chúng tôi phân tích, đánh giá hoạt động báo chí của
Phan Khôi trong các năm tiêu biểu từ 1928 đến 1939 (có thể coi đây là giai đoạn
rực rỡ nhất trong sự nghiệp báo chí của Phan Khôi trước Cách mạng tháng Tám
1945, với hàng nghìn bài báo, mà tư liệu hiện tại của chúng tôi mới dừng ở con
số 4000, và chắc chắn trên thực tế, con số này còn nhiều hơn thế, nhưng do
nguồn tư liệu tản mát, thất lạc trong và ngoài nước, nên chúng tôi vẫn chưa thể
thu thập đầy đủ). Bên cạnh đó, chúng tôi cũng điểm lại những nét chính trong
diện mạo của một số tờ báo mà Phan Khôi tham gia sản xuất, cộng tác, và cũng
là những tờ báo có ảnh hưởng tương đối lớn trong thời kỳ trước năm 1945, như

Thần Chung, Đông Pháp thời báo, Lục tỉnh tân văn, Phụ Nữ Tân Văn, Tràng An
báo, Sông Hương, Tao Đàn, v.v Chương 3 đưa ra nhận xét về những đóng góp
và hạn chế của nhà báo, học giả Phan Khôi trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng đầu
thế kỷ XX. Phần Kết luận đánh giá tổng kết chung về vị trí, vai trò của nhà báo
– học giả Phan Khôi như một sản phẩm của cuộc tiếp biến Đông – Tây đầu thế
kỷ XX. Danh mục Tài liệu tham khảo liệt kê những tư liệu đã tham khảo trong
quá trình thực hiện luận văn.



8

Chương 1

Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX và cuộc tiếp biến
văn hóa Đông Tây

1.1. Những tiền đề của cuộc tiếp biến văn hóa Đông Tây ở Việt Nam
đầu thế kỷ XX
1.1.1. Những tiền đề gián tiếp
1.1.1.1. Bối cảnh lịch sử phương Đông:
* Trung Quốc:
Cuối triều Mãn Thanh, xã hội phong kiến Trung Quốc bước vào giai đoạn
khủng hoảng. Triều đình nhà Thanh không đủ sức lực bảo vệ đất nước khi thực
dân phương Tây xâm lược. Sự thâm nhập của chủ nghĩa thực dân đã tàn phá nền
kinh tế Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc, nhất là nông dân, chịu mọi hậu quả
nặng nề của chính sách nô dịch. Thế nhưng, lo sợ trước sức ép của đế quốc
phương Tây và phong trào nổi dậy của quần chúng nông dân, chính quyền Mãn
Thanh, thay vì bảo vệ đất nước, lại câu kết chặt chẽ với đế quốc nhằm bảo vệ
ngai vàng và trấn áp làn sóng đấu tranh của quần chúng. Trong khi đó, các nước

đế quốc cũng tìm đủ mọi cách lợi dụng tình hình rối ren để mở rộng việc xâm
nhập và chia cắt Trung Quốc.
Điểm nổi bật trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX ở Trung Quốc là sự hình
thành và phát triển của các nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa, tạo tiền đề vật chất
cho những xu hướng tư tưởng mới mang tính chất tư sản ra đời và phát triển.
Khang Hữu Vi và phong trào Duy Tân:
Là linh hồn của phong trào Duy Tân cuối thế kỷ XIX, tháng 6 năm 1896,
Khang Hữu Vi đưa thư đề nghị biến pháp. Được vua Quang Tự đồng tình,
phong trào Duy Tân ngày càng có đà phát triển. Để chuẩn bị lý luận, tư tưởng và
tổ chức cho cuộc biến pháp, tháng 7/1896, Khang Hữu Vi ra báo Trung ngoại ký
văn tuyên truyền tư tưởng Duy Tân. Tháng 8/1896, Khang Hữu Vi tổ chức

9
Cường học hội. Ông cùng học trò Lương Khải Siêu đi diễn thuyết về Duy Tân ở
khắp nơi trên đất Trung Hoa.
Nội dung Cương lĩnh hoạt động của phong trào Duy Tân ở Trung Quốc
cuối thế kỷ XIX gồm những điểm sau:
Về kinh tế, chủ trương bảo hộ và khuyến khích công thương nghiệp, lập
hội nông nghiệp, mua sách báo, máy móc và du nhập kỹ thuật của phương Tây.
Ngoài ra, phái Duy Tân đề nghị lập Cục thương vụ, xây dựng xưởng chế tạo
máy và yêu cầu triều đình nhà Thanh cho thương nhân tự do lập công xưởng.
Phái Duy Tân cũng kêu gọi khuyến khích phát minh khoa học kỹ thuật, chỉnh
đốn, quản lý tài chính, xây dựng đường sắt, tiến hành khai mỏ, v.v Về chính
trị, các chủ soái của phong trào Duy Tân khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân
đăng đàn diễn thuyết về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội; đồng thời cũng hô
hào cách chức quan lại tham nhũng. Phái Duy Tân đề ra cơ sở xây dựng chế độ
chính trị dựa trên nguyên tắc “Hán Mãn bất phân, quân dân cộng trị”. Về quân
sự, phái Duy Tân chủ trương xây dựng quân đội theo kiểu phương Tây. Về văn
hóa giáo dục, chủ trương lập trường học, tổ chức học theo kiểu phương Tây, cải
cách chế độ thi cử, mở nhà in sách báo, cử người đi học ở nước ngoài.

Dưới ảnh hưởng của phái Duy Tân, năm 1898, vua Quang Tự đã liên tục
ban hành một số pháp lệnh như mở trường học, làm đường sắt, cải cách chế độ
quan lại, giảm biên chế các tổ chức hành chính. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, giới
quan lại thuộc phái thủ cựu vẫn nắm nhiều chức vụ trọng yếu ở trung ương và
địa phương. Vì thế, mặc dù mệnh lệnh của Quang Tự và phái Duy Tân ban ra rất
nhiều, nhưng cấp dưới không nghe, không thực hiện. Bên cạnh đó, phái Bảo thủ
ngày càng tiếm quyền. Kết quả, phái Duy Tân thất bại.
Như vậy, có thể thấy, những nhà Duy Tân ở Trung Quốc nửa cuối thế kỷ
XIX muốn thông qua con đường cải cách ôn hòa để cải tạo quan hệ sản xuất, mở
đường cho sức sản xuất phát triển, chứ không đi theo con đường tiêu diệt tận
gốc cơ sở kinh tế xã hội của chế độ phong kiến. Mặt khác, phong trào Duy Tân
chưa thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân lao động, mà mới chỉ tập hợp
được một bộ phận sĩ phu, quan lại, địa chủ, phú thương và tư sản dân tộc cấp

10
tiến. Và cũng chính vì không dựa vào quần chúng lao động, trong khi cơ sở kinh
tế tư bản tuy phát triển nhưng vẫn còn nhỏ bé, địa vị của giai cấp tư sản chưa lớn
mạnh, nên phong trào Duy Tân đã thất bại.
Tuy vậy, phong trào Duy Tân cuối thế kỷ XIX ở Trung Quốc vẫn là một
phong trào yêu nước mang ý nghĩa tiến bộ. Những yêu cầu về độc lập dân tộc,
phát triển chủ nghĩa tư bản, học tập kỹ thuật phương Tây, v.v mà phong trào
Duy Tân đề ra là phù hợp với lợi ích dân tộc lúc bấy giờ. Hơn nữa, nhờ phong
trào Duy Tân mà các học thuyết chính trị xã hội của giai cấp tư sản phương Tây
và phổ biến khoa học tự nhiên được truyền bá rộng rãi Trung Quốc. Phái Duy
Tân tuyên truyền tư tưởng dân chủ tư sản, phản đối chuyên chế phong kiến, giới
thiệu tư tưởng tự do bình đẳng, yêu cầu giải phóng cá tính, chống đối luân lý và
đạo đức phong kiến. Đây là những đòn giáng mạnh vào hệ tư tưởng phong kiến,
mở đường cho các tư tưởng tư sản tiến bộ phát triển. Chính vì những lý do đó,
phong trào Duy Tân và các nhà hoạt động Duy Tân được đánh giá rất cao. ảnh
hưởng của phong trào đã lan sang các nước láng giềng ở Đông Nam á, trong đó

có Việt Nam.
Đối với Việt Nam, cuộc vận động biến pháp Mậu Tuất đã tạo điều kiện
khách quan thuận lợi cho phong trào Duy Tân đầu thế kỷ XX. Trên cơ sở biến
đổi kinh tế xã hội Việt Nam, cộng với ảnh hưởng của cuộc vận động biến pháp
từ ngoài vào, tư tưởng dân chủ tư sản bắt đầu xuất hiện trên vũ đài chính trị Việt
Nam qua các tác phẩm của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Rousseau,
Montesquieu, v.v Một số sĩ phu yêu nước Việt Nam đã tiếp thu tư tưởng cải
cách và trở thành những nhà tư tưởng Duy Tân đầu thế kỷ XX.
Cách mạng Tân Hợi (1911):
Cách mạng Tân Hợi mà người đứng đầu là lãnh tụ Tôn Trung Sơn là cuộc
cách mạng tư sản do giai cấp tư sản Trung Quốc lãnh đạo, được đông đảo quần
chúng tham gia. Xét về cương lĩnh, đường lối, sách lược đấu tranh cụ thể cũng
như các biện pháp cải cách xã hội, thì cách mạng Tân Hợi khẳng định xu thế
mới nhằm tiến tới xây dựng một đất nước Trung Hoa dân chủ, phát triển theo
con đường tư bản chủ nghĩa.

11
Mục tiêu chính của cách mạng Tân Hợi là đánh đổ triều đại Mãn Thanh,
và trên thực tế, đã lật đổ được triều đại này. Bên cạnh đó, những người làm cách
mạng Tân Hợi muốn thông qua cách mạng để tiến hành các biện pháp dân chủ,
ban bố dân quyền nhằm tạo điều kiện cho xã hội Trung Quốc tiến mạnh trên con
đường tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng, cách mạng chưa hề đụng đến vấn đề ruộng
đất - một trong những vấn đề cơ bản của các cuộc cách mạng. Chính vì vậy, họ
không động viên được đông đảo quần chúng nông dân tham gia để đẩy cách
mạng đi lên, đánh lùi các thế lực phản động. Cũng do vậy, chế độ cộng hòa chưa
được triển khai trên thực tế mà mới chỉ thành lập về hình thức. Một nguyên nhân
khác hạn chế thắng lợi của Cách mạng Tân Hợi, đó là đường lối cách mạng
thiếu chính xác, lực lượng giai cấp tư sản dân tộc Trung Quốc, giai cấp lãnh đạo
cuộc cách mạng còn yếu ớt. Mặt khác, Cách mạng Tân Hợi 1911 không giành
được thắng lợi triệt để cũng vì hạt nhân lãnh đạo non yếu về đường lối và tổ

chức nên nhanh chóng tan rã khi kẻ thù tấn công quyết liệt.
Tuy vậy, Cách mạng Tân Hợi vẫn có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Cách
mạng Tân Hợi đã giúp lịch sử Trung Quốc kết thúc nền thống trị mấy nghìn năm
của chế độ quân chủ phong kiến, làm cho tư tưởng cộng hòa dân chủ ăn sâu bắt
rễ vào quần chúng. Cách mạng Tân Hợi cũng tạo điều kiện cho tư tưởng dân chủ
cách mạng xâm nhập và phát triển trên đất Trung Hoa. Và cho dù chế độ cộng
hòa chưa trở thành hiện thực vững chãi, thì chế độ quân chủ phong kiến phản
động cũng không thể lập lại hoàn toàn ở Trung Quốc. Đó là một thành công to
lớn của Cách mạng Tân Hợi. Hơn nữa, trong quá trình đấu tranh, ý thức dân tộc,
ý thức cách mạng cũng đã phát triển mạnh mẽ. Phong trào cách mạng của quần
chúng làm cho giai cấp thống trị phải có một số nhượng bộ nhất định.
Cách mạng Tân Hợi và tư tưởng của Tôn Trung Sơn đã có ảnh hưởng
nhất định đến nhiều nước Đông Nam á. Một số nhà yêu nước Việt Nam,
Indonesia, Malaysia đầu thế kỷ XX cũng mang ít nhiều màu sắc của trào lưu đó.
Cuộc vận động Ngũ Tứ (ngày 4/5/1919) đòi khoa học, dân chủ:
Phong trào Ngũ Tứ đánh dấu một giai đoạn cách mạng mới ở Trung
Quốc. Ngày 4/5/1919, hơn 3000 học sinh, sinh viên Bắc Kinh tập hợp tại quảng

12
trường Thiên An Môn phản đối chính sách ngoại giao bán nước của Chính phủ.
Trung tâm của phong trào từ Bắc Kinh lan đến Thượng Hải, Nam Kinh, Hàng
Châu, Thiên Tân, Đường Sơn, v.v , và trở thành phong trào yêu nước rộng rãi,
tập hợp các tầng lớp công nhân, học sinh, thương nhân. Lực lượng đấu tranh
rộng lớn của nhân dân Trung Quốc đã buộc Chính phủ phản động phải thả số
học sinh bị bắt, cách chức ba quan chức bán nước Tào Nhữ Lâm, Chương Tông
Đường, Lục Tông Dư. Từ sau ngày bãi chức ba quan chức này, yêu cầu cự tuyệt
ký vào Hòa ước Versailles trở thành nội dung trung tâm của phong trào yêu
nước Ngũ Tứ. Hàng trăm đoàn thể của các tầng lớp nhân dân, với sự hậu thuẫn
của hàng vạn quần chúng, cử đại biểu đến Phủ Tổng thống đưa đơn thỉnh
nguyện. Ngày ký Hòa ước (28/6), công nhân Trung Quốc và lưu học sinh vây

quanh trụ sở đoàn đại biểu Trung Quốc tại Paris, không cho họ đi ký. Dưới áp
lực mạnh mẽ của nhân dân toàn quốc, đoàn đại biểu Trung Quốc từ chối ký Hòa
ước Versailles. Phong trào yêu nước Ngũ Tứ thu được thắng lợi to lớn.
Qua phong trào Ngũ Tứ, giai cấp công nhân Trung Quốc đã biểu thị sức
mạnh của mình và đòi hỏi phải có một chính đảng chân chính đại biểu cho
quyền lợi của giai cấp để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Trong bối cảnh thế giới
sau Cách mạng tháng Mười Nga, những trí thức ưu tú hoạt động trong phong
trào văn hóa mới đã tiến gần đến học thuyết cách mạng Marx – Lenin và góp
phần truyền bá chủ nghĩa Marx – Lenin vào Trung Quốc, giác ngộ quần chúng,
mở ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc kiểu mới. Theo đó, có thể kể
đến những nhân vật tiêu biểu, tiên phong trong phong trào văn hóa mới nói riêng
và phong trào Ngũ Tứ nói chung như Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú, Mao Trạch
Đông, Chu Ân Lai Những trí thức này sau khi tiếp thu chủ nghĩa Marx –
Lenin đã hoạt động rất mạnh mẽ, tích cực tuyên truyền chống đế quốc, tẩy chay
hàng hóa Nhật Bản, phối hợp hành động với đồng bào cả nước trong phong trào
Ngũ Tứ, thu hút hàng triệu học sinh, công nhân và quần chúng tham gia, là bước
chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Việt Nam là nước láng giềng của Trung Quốc. Trong lịch sử, hai nước đã
có mối quan hệ mật thiết, lâu đời về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội.

13
Vì vậy, mọi biến cố lịch sử lớn xảy ra ở Trung Quốc cũng có ảnh hưởng không
nhỏ đến Việt Nam.
Sự thực, vào những năm 20 đầu thế kỷ XX, Quảng Châu (Trung Quốc) có
sức hút mạnh mẽ đối với nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam, trở thành trung
tâm đào tạo và căn cứ hoạt động của cán bộ cách mạng Việt Nam trong buổi đầu
gây dựng phong trào. Nhờ vậy, chủ nghĩa Marx – Lenin, qua sách báo Trung
Quốc, được truyền về Việt Nam rộng rãi hơn trước. Phan Văn Trường, trên tờ
L‟Indochine (Đông Dương) số ra ngày 30/6/1925, đã viết: “Chúng ta hãy chăm
chú theo dõi những sự kiện phát xuất từ Trung Quốc. Những sự kiện này sẽ dẫn

đến những hậu quả thế giới. Chúng ta không quên rằng thân phận của chúng ta
được gắn bó mật thiết với thân phận của toàn vùng Viễn Đông”. Rõ ràng là
phong trào cách mạng Trung Quốc từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm
1927 đã là một điều kiện quốc tế vô cùng thuận lợi cho cách mạng Việt Nam.
* Nhật Bản:
Là một quốc gia ở châu á, nhờ vị trí cách biển khá rộng nên Nhật Bản
không bị ảnh hưởng mạnh mẽ của vòng cung văn hóa Trung Hoa, và do đó,
Nhật Bản có khả năng tạo nên một quốc gia mang bản sắc riêng. Vào thời cận
đại, dựa vào những điều kiện của riêng mình, Nhật Bản đã tìm được con đường
tự hội nhập với thế giới và phát triển. Với công cuộc Duy tân Minh Trị, Nhật
Bản trở thành một đế quốc tư bản duy nhất ở châu á.
Cuộc Duy tân Minh Trị và Hiến pháp dân chủ năm 1889:
Vào giữa thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Nhật Bản rơi vào tình trạng suy
thoái, không thể đáp ứng yêu cầu phát triển, cũng không đủ sức chống lại sự
xâm nhập của đế quốc Âu – Mỹ. Chính quyền Tokugawa sau mấy thế kỷ tồn tại
đã không còn đủ sức giải quyết các mâu thuẫn xã hội và định hướng con đường
phát triển của Nhật Bản. Trong khi đó, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Âu –
Mỹ đòi hỏi mở cửa Nhật Bản để giao lưu buôn bán. Mỹ, lúc bấy giờ, đặc biệt
chú ý đến Nhật vì Nhật có thể thành trạm dừng chân cho các tàu Mỹ tỏa ra các
khu vực Trung Quốc và Thái Bình Dương. Việc mở cửa giao thương và ảnh
hưởng của nó làm cho phong trào đòi lật đổ Shogun ở nước Nhật ngày càng dấy

14
lên mạnh mẽ. Các lực lượng chống Shogun đã tập hợp thành những bộ phận
chống lại lực lượng bảo thủ, ủng hộ Thiên hoàng, đòi trả quyền cho Thiên
hoàng, và đòi tiến hành cải cách. Trước áp lực này, ngày 9/11/1867, Shogun đã
phải xin trao trả quyền lực. Như vậy, quyền lực Shogun của dòng họ Tôkugawa
kéo dài 265 năm đến đây đã kết thúc. Lịch sử Nhật Bản bước sang trang mới.
Ngày 3/1/1868, Thiên hoàng ra lệnh truất quyền Shogun và thành lập Chính phủ
mới.

Về thực chất, cuộc đấu tranh chuyển quyền lực từ Shogun sang Minh Trị,
không chỉ là cuộc “trả quyền bính”, mà đánh dấu một bước đi lên, một bước đổi
mới có ý nghĩa cách mạng. Duy Tân Minh Trị là một cuộc biến đổi xã hội khá
toàn diện. Cuộc cải cách ấy bao gồm các mặt chính trị, quân sự, văn hóa, giáo
dục, và đặc biệt là cải cách kinh tế xã hội. Cải cách Minh Trị đã làm cho nước
Nhật từ một quốc gia nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước tư bản có nền
công nghiệp phát triển, hiện đại. Có thể coi đây là cuộc cải cách mang tính chất
quy luật thời đại, nhằm đưa đất nước tiến lên con đường phát triển, tạo cơ sở cho
một nước Nhật giàu mạnh, thoát khỏi tình trạng bị phụ thuộc đế quốc phương
Tây. Cũng nhờ cải cách, nước Nhật thời Minh Trị, với lực lượng xã hội có tư
tưởng canh tân, đã làm nên một kỳ tích trong lịch sử châu á: giữ được độc lập và
trở thành một nước tư bản trên thế giới.
Về một số biện pháp cải cách và phát triển kinh tế trong cuộc Duy Tân
Minh Trị:
Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của công thương nghiệp, ngay khi lên
nắm quyền, Minh Trị đã khuyến khích phát triển công thương nghiệp. Ngoài
việc tạo điều kiện thiết lập một thị trường thống nhất trong nước, chính quyền
Minh Trị còn nhắm tới thị trường quốc tế và khuyến khích du nhập kỹ thuật tiên
tiến. Việc thực hiện chế độ tiền tệ thống nhất, đo lường thống nhất, quan thuế
thống nhất tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Trong nông nghiệp
và quan hệ ruộng đất, ngay từ đầu, chính quyền Minh Trị đã cho phép mua bán
đất và cho phép tự do kinh doanh nông phẩm. Chính sách này tạo nên yếu tố
kích thích kinh tế phát triển. Nền kinh tế nông nghiệp được giải phóng, thúc đẩy

15
thị trường tiêu thụ hàng hóa phát triển. Tuy nhiên, đi kèm với sự tập trung ruộng
đất do nhu cầu kinh tế là sự mất thăng bằng trong quan hệ sở hữu ruộng đất ở
nông thôn và sự phân hóa giàu nghèo. Nhiều nông dân không thể duy trì cuộc
sống bình thường, phải bán đất, bỏ ra thành phố làm thuê. Và như vậy, hiện
tượng người nông dân tự do trở thành công nhân là hệ quả tất yếu của sự phát

triển.
Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế gắn liền với các cuộc chiến tranh đã thể
hiện rõ đường lối phát triển một nước Nhật theo xu hướng đế quốc quân sự.
Năm 1895, Nhật giành được thắng lợi trong chiến tranh Trung – Nhật, trở thành
thành viên của liên quân 8 nước tư bản tham gia trấn áp Nghĩa Hòa Đoàn ở
Trung Quốc (1899-1901). Cũng nhờ đó, vị trí của Nhật Bản dần được khẳng
định.
Mặt khác, với khát vọng tạo nên sức mạnh lớn lao cho công cuộc cạnh
tranh, Nhật Bản đã dốc toàn lực vào ngành công nghiệp nặng. Vì vậy, trong một
thời gian ngắn, giá trị sản phẩm công nghiệp nặng chiếm quá nửa trong tổng sản
phẩm quốc dân của Nhật Bản. Những công ty cổ phần bị phá sản hợp nhất thành
những công ty lớn, những tổ chức lũng đoạn kinh tế. Tư bản ngân hàng ở Nhật
cũng nhanh chóng tập trung. Vào đầu thế kỷ XX, tập đoàn Ngân hàng Mitsui,
Mitsubishi lũng đoạn hơn 50% tổng số vốn trong ngành tài chính. Sự phát triển
tập trung theo khuynh hướng dung hợp giữa tư bản ngân hàng với tư bản công
nghiệp là đặc trưng trong quan hệ điều hành sản xuất và huy động vốn của chủ
nghĩa tư bản Nhật Bản ở giai đoạn lũng đoạn. Kèm theo đó, sự phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế Nhật Bản vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã tạo nên sức
mạnh chính trị, quân sự cho nước Nhật, giúp Nhật tham gia tích cực vào việc
phân chia thị trường thế giới.
Về cải cách chế độ hành chính:
Minh Trị muốn tiến hành cải cách dân chủ trong khuôn khổ quyền lực của
vương triều và đưa nước Nhật phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Minh
Trị thiên hoàng đã tuyên thệ, rằng: Quốc hội phải dân chủ và theo công luận
quyết định việc nước; trên dưới đồng lòng lo việc nước; từ quan chức văn võ

16
đến nhân dân đều phải theo đuổi chí nguyện để trong nước không còn mối bất
mãn; phá bỏ những tập quán xấu, mọi công việc theo pháp luật chung; tiếp thu
tri thức trên thế giới để chấn hưng sự nghiệp của hoàng triều, v.v Minh Trị

cũng thành lập một bộ máy chính quyền gồm Hữu viện (cơ quan hành pháp) và
Tả viện (cơ quan lập pháp). Ngoài ra, Minh Trị tuyên bố xóa bỏ đẳng cấp cùng
với những đặc quyền của nó. Những quy định khắt khe về hôn nhân, hành nghề,
ăn mặc theo đẳng cấp đều bị xóa bỏ. Chính quyền Minh Trị xác định học tập
phương Tây về mọi mặt, từ kinh tế kỹ thuật đến tư tưởng văn hóa. Bằng chứng
là, năm 1971, một phái đoàn Nhật Bản đã đến thăm và học hỏi, nghiên cứu thể
chế chính trị, hiến pháp của 12 nước Âu Mỹ.
Người tuyên truyền tư tưởng tự do phương Tây ở Nhật Bản là Fukuzawa
Yukichi (1834-1901) – nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất đối với xã hội
Nhật Bản cận đại, từng được tôn vinh là “Voltaire của Nhật bản”. Khuyến học
(1872-1876) là tác phẩm có ảnh hưởng lớn lao nhất đến công chúng Nhật Bản.
Trong Khuyến học, với tuyên ngôn “Trời không tạo ra người đứng trên người
và cũng không tạo ra người đứng dưới người”, Fukuzawa đã gây kinh ngạc và
bàng hoàng – như “không tin vào tai mình”, cho đa số người dân Nhật Bản vốn
bị trói buộc bởi đẳng cấp, thân phận, quen phục tùng phó mặc và e sợ quan
quyền suốt hàng trăm năm dưới chính thể phong kiến Mạc phủ. Ông khẳng định
mọi người sinh ra đều bình đẳng và nếu có khác biệt là do trình độ học vấn. Về
học vấn, Fukuzawa Yukichi phê phán lối học “từ chương” và nhấn mạnh Nhật
Bản phải xây dựng nền học vấn dựa trên “thực học”. Nền học vấn “thực học”
phải gắn liền với cuộc sống hằng ngày, phải dựa trên tinh thần khoa học, tinh
thần độc lập, tính thực dụng. Việc tiếp thu văn minh phương Tây phải có chọn
lọc. Quan điểm xuyên suốt tác phẩm Khuyến học là làm thế nào để bảo vệ nền
độc lập Nhật Bản trong bối cảnh các cường quốc phương Tây đang muốn biến
toàn bộ châu á thành thuộc địa.
Trong cuộc cải cách Minh Trị, Hiến pháp năm 1889 ra đời nhằm tìm một
thể chế thích hợp làm thỏa mãn những mong muốn quyền lực của giai cấp có
của, nhưng cũng đồng thời phản ánh sự thắng lợi của quần chúng nhân dân trong

17
phong trào đòi tự do, dân chủ. Theo Hiến pháp này, Quốc hội Nhật chia làm 2

Viện: Viện quý tộc có 368 người gồm hoàng thân, quý tộc, những người giàu có
nhất và Viện đại biểu có 300 đại biểu, bầu công khai. Thiên hoàng là người có
quyền tối thượng, quyền giải tán Quốc hội, xóa bỏ những đạo luật mặc dù Quốc
hội đã phê chuẩn, quyền tuyên chiến, đình chiến, điều chỉnh và phân bổ ngân
sách, quyền bổ nhiệm bộ trưởng. Sau khi Hiến pháp ra đời, đường lối chính trị
của Nhật Bản trong thời kỳ Minh Trị là đường lối của tập đoàn quân phiệt, phát
triển lực lượng quân sự, tiến hành chiến tranh xâm lược, xây dựng nền kinh tế
theo hướng phục vụ chiến tranh. Hiến pháp đã khẳng định sự lựa chọn thể chế
phù hợp với giới quý tộc quân phiệt tư bản Nhật Bản, dẫn nước Nhật đi đến con
đường phát triển chủ nghĩa quân phiệt.
Đầu thế kỷ XX, đế quốc Nhật cùng các đế quốc phương Tây chia nhau
quyền lợi ở Trung Quốc và liên hiệp với nhau để đàn áp phong trào cách mạng
Nghĩa Hòa Đoàn (Trung Quốc), nhưng mặt khác lại tìm kế tranh giành quyền
lợi, xâu xé nhau. Sau khi chiếm Triều Tiên, Nhật Bản thôn tính Mãn Châu và
chủ trương gây chiến với Nga. Năm 1905, Nga buộc phải nhượng bộ Nhật, thừa
nhận Nhật chiếm Triều Tiên, trả cho Nhật những quyền lợi ở Mãn Châu, và cắt
cho Nhật miền nam bán đảo Xakhalin. Chiến thắng của Nhật có tiếng vang lớn
trên thế giới, nhất là đối với các dân tộc ở châu á. Lúc bấy giờ, Nhật được coi là
vị “cứu tinh” của các dân tộc da vàng. Đó cũng là một trong những lý do chủ
yếu khiến cho xu hướng thân Nhật phát triển ở Trung Quốc, Việt Nam, Thái
Lan, ấn Độ Xu hướng này ít nhiều có tác động đến tinh thần chống đế quốc ở
các nước thuộc địa và bán thuộc địa ở á châu.
ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, các sĩ phu yêu nước nhận thấy không thể nào
tự lực đánh đuổi Pháp nếu không trông vào viện trợ nước ngoài. Vì thế, không
thể nào không hướng về Nhật Bản, một nước “đồng châu, đồng chủng, đồng
văn”, lại là nước tiên tiến. Do đó, phong trào sang Nhật cầu học đã diễn ra rất
sôi nổi từ năm 1904 đến 1908, và có một địa vị trọng yếu trong lịch sử cách
mạng Việt Nam.
* Thái Lan:


18
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội phong kiến Thái Lan chuyển biến
theo hướng tư bản chủ nghĩa. Đứng trước nguy cơ bị các cường quốc phương
Tây nô dịch, việc bảo vệ nền độc lập của đất nước trong thời kỳ này đã trở thành
mục tiêu trọng yếu của các trào lưu tư tưởng trong xã hội Thái Lan. Song song
với nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập, công cuộc cải cách đất nước cũng đặt ra gay
gắt.
Trước sự phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cải cách của
Rama V và Rama VI đã tạo cho Thái Lan một bộ mặt mới theo mẫu hình
phương Tây. Những cải cách này, ở một góc độ nhất định, có tác dụng tích cực
đối với sự phát triển kinh tế xã hội, làm cho Thái Lan không bị rơi vào tình trạng
trở thành thuộc địa như các nước láng giềng Đông Nam á, nhờ đó, Thái Lan có
tầm ảnh hưởng không nhỏ đối với các quốc gia trong khu vực, bao gồm cả Việt
Nam.
Về một số điểm đáng chú ý trong cải cách của Rama V và Rama VI cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:
Một trong những công việc có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong cuộc cải
cách của chính quyền Rama là ban hành sắc lệnh thủ tiêu chế độ nô lệ đã tồn tại
lâu đời ở Thái Lan vốn là trở ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế. Kèm theo đó,
chế độ lao dịch cho nhà nước cũng bị bãi bỏ. Xét trên hoàn cảnh kinh tế – xã hội
lúc đó, những chính sách này thực sự có ý nghĩa tiến bộ vì nó giải phóng một
phần sức lao động, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Về kinh tế, đặt mục tiêu
hàng đầu là xuất khẩu gạo, nền kinh tế Thái Lan có những bước chuyển biến
quan trọng. Cuộc cải cách tài chính năm 1892 xóa bỏ chế độ thầu thuế, làm tăng
nguồn thu nhập của ngân sách đồng thời giảm bớt phần nào sự quấy nhiễu nông
dân do bọn thầu thuế gây ra, nhờ đó, kinh tế Thái Lan ngày càng phát triển,
v.v
Tóm lại, cuộc cải cách do các vua Rama V và Rama VI tiến hành đã gây
dựng cho Thái Lan một nền tảng để phát triển và phát triển theo tấm gương
phương Tây. Thế nhưng, vì Thái Lan không có một giai cấp tư sản lớn mạnh nên

toàn bộ cuộc cải cách đều do nhà nước quân chủ phong kiến Rama tiến hành. Vì

19
vậy, cuộc cải cách ấy đã không động chạm đến gốc rễ kinh tế phong kiến là chế
độ ruộng đất, mà vẫn duy trì các hình thức bóc lột phong kiến đối với nông dân,
vẫn bảo vệ quyền lực của giai cấp quý tộc trong mọi lĩnh vực đời sống. Cho nên,
kết quả của quá trình cải cách tuy có một số tiến bộ theo hướng tư bản chủ
nghĩa, nhưng không tạo cho đất nước một bước chuyển biến cách mạng khi
bước vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa thế giới. Mặt khác, vì giai cấp tư sản, tiểu tư
sản Thái Lan còn chưa lớn mạnh nên dù mong muốn tạo ra một sự thay đổi sâu
sắc trong xã hội, nhưng vẫn không lật đổ được chế độ quân chủ phong kiến. Sau
những cải cách của Rama V, giai cấp phong kiến ra sức củng cố thế lực, tuyên
truyền chủ nghĩa quốc gia quân chủ, lấy Nhật Bản làm khuôn mẫu. Điều đó
phản ánh ý thức hệ của giai cấp quý tộc thống trị muốn canh tân đất nước để
thoát khỏi ách nô dịch của đế quốc, nhưng vẫn duy trì quyền lợi của triều đại
Rama, tức là muốn tiến lên chủ nghĩa tư bản nhưng không muốn cắt đứt sợi dây
ràng buộc với chế độ phong kiến, muốn giành độc lập cho đất nước nhưng
không dám phát động quần chúng đấu tranh thoát khỏi sự khống chế của tư bản
nước ngoài. Và điều đó có nghĩa rằng, cuộc cải cách của Rama đã đi tìm lời giải
đáp trong sự truyền bá rộng rãi chủ nghĩa quốc gia quân chủ; thức tỉnh ý thức
dân tộc, phục hưng nền văn hóa và xây dựng khối cộng đồng dân tộc trong
khuôn khổ nhà nước quân chủ phong kiến, dựa trên tinh thần thống nhất các dân
tộc Thái.
1.1.1.2. Phương Tây:
* Vài nét về bối cảnh nước Pháp nửa cuối thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX
Cuộc cách mạng 1848 ở Pháp đã lật đổ nền Quân chủ tháng Bảy, thiết lập
nền Cộng hòa thứ hai (1848-1852). Ngày 2/12/1852, Louis Bonaparte lên ngôi
hoàng đế, lấy tước hiệu Napoleon III. Nền Cộng hòa thứ hai sụp đổ. Đế chế thứ
hai được xác lập. Chế độ Bonaparte thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ đã ban
hành trong thời kỳ cách mạng 1848, bãi bỏ các tổ chức dân chủ, ngăn cấm các

câu lạc bộ chính trị, hạn chế tự do báo chí, đóng cửa các tờ báo đối lập, kiểm
soát nhà trường và rạp hát. Về kinh tế, thời kỳ này, tư bản công nghiệp và tư bản
ngân hàng phát triển với nhịp độ nhanh chóng, tập trung sản xuất quy mô lớn.

20
Do ảnh hưởng của sự phát triển công nghiệp, bộ mặt Paris và các thành phố thay
đổi rõ rệt. Một hệ thống đại lộ, nhà ga, cửa hàng, công viên được dựng lên thay
thế các phố cũ chật hẹp. Quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa đem lại
những món lợi kếch xù cho giai cấp tư sản, đồng thời cũng dẫn tới bần cùng hóa
tầng lớp quần chúng lao động. Hàng chục vạn người bị phá sản, phải kéo ra
thành thị. Những người dân thoát khỏi ách thống trị ở nông thôn lại sa vào nạn
bóc lột của giai cấp tư sản thành thị. Đế chế thứ hai cũng làm cho tầng lớp tiểu
tư sản bị phá sản nhanh chóng bằng cách cướp đoạt tài sản và cạnh tranh tiêu
diệt họ để xúc tiến việc tập trung tư bản. Nền tiểu sản xuất bị bóp chết trước sức
mạnh của chủ nghĩa tư bản.
Để làm giàu thêm cho tầng lớp đại tư sản chính quốc, củng cố địa vị thống
trị trong nước, đế chế Napoleon III đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm
lược bên ngoài. Trong đó, Việt Nam là một trong những thị trường béo bở khiến
Pháp chú ý ngay từ đầu.
Cuối những năm 50 của thế kỷ XIX, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm
lược Việt Nam. Nhưng thực ra, ngay từ thế kỷ XVII, những người Pháp đầu tiên
đặt chân đến Việt Nam đã để lộ dã tâm chinh phục xứ sở này qua một số hoạt
động truyền giáo, gián điệp và gây nên một vài cuộc xung đột nhỏ. Trải qua một
quá trình lâu dài chuẩn bị lực lượng và bị những biến cố lớn lao trong nước ngăn
trở (cách mạng 1789, chiến tranh Napoleon, thời kỳ Trùng hưng, cách mạng
1830, cách mạng 1848 ), Đế chế II là thời kỳ thuận lợi nhất cho nước Pháp đẩy
mạnh xâm lược Việt Nam. Khi đó, chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến mức đòi
hỏi ngày càng cấp thiết thị trường và nguyên liệu. Trong khi đó, nền thống trị
trong nước lại đang tạm ổn định và có một số dấu hiệu bề ngoài tựa hồ như vững
vàng để có thể tiến hành những cuộc viễn chinh xâm chiếm thuộc địa. Còn

Napoleon III thì trông chờ vào những chiến thắng ngoài biên giới để củng cố địa
vị, nâng cao uy tín của Đế chế, vơ vét thêm của cải. Với Pháp, Việt Nam lúc này
thực sự là một món hời béo bở.
Tuy nhiên, từ thế kỷ XVII đến nửa cuối thế kỷ XIX nửa đầu thế kỷ XX, ở
phương Tây, các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ lần lượt thành công, tạo

21
tiền đề cho sự phát triển công thương nghiệp. Thời kỳ này trên thế giới cũng
diễn ra sự đan xen, đấu tranh giữa nhiều luồng tư tưởng (triết học thời kỳ Khai
sáng, chủ nghĩa xã hội không tưởng của Saint Simon, Furie ). Trong đó, học
thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học do Karl Marx và Engel sáng lập vào
những năm 40 của thế kỷ XIX được xem là một sự kiện lịch sử trọng đại. Ra đời
trong những điều kiện nhất định của sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa và
của mối mâu thuẫn tư sản – vô sản ngày càng tăng, học thuyết chủ nghĩa cộng
sản khoa học của Marx và Engel cung cấp cho loài người những tri thức khoa
học về các quy luật tự nhiên và xã hội, trang bị cho giai cấp vô sản vũ khí tư
tưởng trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, giải phóng người lao động
thoát khỏi ách áp bức, bóc lột.
* Cách mạng tháng Mười Nga và ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx – Lenin
với phong trào công nhân quốc tế:
Thời kỳ nửa cuối thế kỷ XIX nửa đầu thế kỷ XX, giữa lúc xã hội Việt
Nam đang có những thay đổi quan trọng thì từ bên ngoài, những diễn biến chính
trị đã tác động theo chiều hướng tích cực tới phong trào công nhân và phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam. Đó là thắng lợi của Cách mạng
tháng Mười Nga, sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào cộng sản
tại các nước đế quốc, sự phát triển của phong trào đấu tranh của các tầng lớp
nhân dân chống chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng tháng Mười Nga đã chứng minh
tính thực tiễn của lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Với Cách mạng tháng
Mười Nga, lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, chính quyền của giai cấp bóc lột
đã bị đánh đổ, nền chuyên chính của giai cấp vô sản được thiết lập. Cách mạng

tháng Mười Nga đã mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cho cả loài
người, mở ra một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới, thời đại thống trị của một giai cấp mới,
giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở khắp nơi đang tiến tới một
cuộc đời mới để chiến thắng giai cấp tư sản, thành lập chuyên chính vô sản, giải
phóng nhân loại khỏi ách tư bản. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga
cũng là thắng lợi của học thuyết Lê nin về chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô

22
sản, về vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản và sự tham gia của quần chúng nhân
dân lao động trong sự nghiệp cách mạng. Học thuyết ấy trở thành “cẩm nang”
soi đường chỉ lối cho các lực lượng cách mạng trên khắp địa cầu, đặc biệt là các
dân tộc phương Đông đang bị các nước đế quốc nô dịch, đứng lên đấu tranh. Có
thể coi Cách mạng tháng Mười Nga là một bước ngoặt, một cột mốc trong lịch
sử thế kỷ XX, mở ra một thời đại mới trong lịch sử toàn thế giới, thời đại chủ
nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực tại các quốc gia.
Phong trào Cách mạng tháng Mười Nga đã kích thích mạnh mẽ phong
trào cách mạng vô sản trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Hồ Chí Minh đã
tổng kết như sau về ảnh hưởng lớn lao của Cách mạng tháng Mười Nga và
phong trào cộng sản quốc tế những năm đầu thế kỷ XX, nhất là sự thành lập các
đảng có quan hệ gần gũi như Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản
Pháp đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam:
“Cuộc Cách mạng tháng Mười đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân
tộc, làm cho nó trở thành làn sóng mãnh liệt trong tất cả các nước phương
Đông: Trung Quốc, ấn Độ, Nam Dương, Việt Nam, v.v ( ) Nhờ Đảng Cộng
sản Pháp và Đảng Cộng sản Trung Quốc, những người cách mạng Việt Nam đã
tiếp thu ảnh hưởng đầy sức sống của Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Mác
– Lênin. Điều đó tựa như người đi đường đang khát nước mà có nước uống,
đang đói mà có cơm ăn” [61; 569-570-571].


1.1.2. Những tiền đề trực tiếp của cuộc tiếp biến văn hóa Đông Tây nửa
đầu thế kỷ XX ở Việt Nam
1.1.2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ
XX
Trong lịch sử châu á nói chung và lịch sử Việt Nam nói riêng, thế kỷ XIX
là thời kỳ đầy biến động. Quan hệ tiếp xúc Đông Tây đã chuyển từ thương mại
tự do sang đối địch. Thay vì tôn trọng chủ quyền, thiết lập mối quan hệ buôn bán
như trước đây, các nước tư bản châu Âu bắt đầu thực hiện chính sách “ngoại
giao pháo hạm”, sử dụng vũ lực để từng bước thực hiện ý đồ thực dân. Trong

23
bối cảnh đó, các nước châu á bị đặt trước những thử thách vô cùng hiểm nghèo.
Nhận thức được hiểm họa này, Nhật Bản và Thái Lan đã chọn con đường duy
tân đất nước để tự cứu mình. Trong khi đó, ở Việt Nam, triều Nguyễn được
thành lập từ năm 1802 tỏ ra lúng túng, không bắt kịp với xu thế thời đại, làm cho
đất nước ngày càng lún sâu vào tình trạng trì trệ và cuối cùng bị biến thành
thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp. Về danh nghĩa, triều Nguyễn tồn tại đến
năm 1945, nhưng thời gian thực sự điều hành đất nước với tư cách là một Nhà
nước độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thì chỉ trong nửa đầu thế kỷ
XIX.
Ngay khi lên ngôi (1802), Nguyễn ánh đã đứng trước những khả năng to
lớn để xây dựng đất nước. Sau hơn 200 năm đất nước bị chia cắt trong cục diện
“Đàng Trong, Đàng Ngoài”, Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX thực sự là một quốc
gia thống nhất với sự hoàn chỉnh cương vực quốc gia, thống nhất thị trường, tiền
tệ, có thể xây dựng kinh tế xã hội mạnh mẽ, mở rộng quan hệ giao thương quốc
tế, canh tân đất nước, vượt qua sự can thiệp, xâm lược của các thế lực phương
Tây
Thế nhưng ngay từ đầu, triều Nguyễn đã bộc lộ điểm yếu cơ bản của một
triều đại được dựng lên không phải trên cơ sở thắng lợi của các cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc, mà bằng một cuộc nội chiến mà kẻ thắng lại dựa vào thế lực

ngoại bang và đi ngược lại quyền lợi, nguyện vọng của dân tộc. Chính vì thế,
trong bức tranh kinh tế xã hội, chính trị thời Nguyễn, những yếu tố tiến bộ và
bảo thủ, lạc hậu luôn đan xen nhau.
Về kinh tế, với chủ trương “dĩ nông vi bản”, nhà Nguyễn hết sức coi trọng
vấn đề ruộng đất và sản xuất nông nghiệp. Thế nhưng, mặc dù đã có nhiều cố
gắng nhằm giải quyết vấn đề ruộng đất, nhà Nguyễn vẫn không thoát ra khỏi lối
mòn của các triều đại phong kiến trước đó trong chính sách bảo vệ công điền,
duy trì chế độ quân điền. Mà ở vào giữa thế kỷ XIX, những biện pháp này đã trở
nên lỗi thời, lạc hậu. Hơn nữa, chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn không xuất
phát từ yêu cầu phát triển của sản xuất nông nghiệp mà chủ yếu nhằm gia cố bệ
đỡ kinh tế cho một Nhà nước tập quyền chuyên chế lấy nông nghiệp làm nền

24
tảng. Vì vậy, trên thực tế, những chính sách này đã trở thành nhân tố cản trở sự
phát triển của kinh tế nông nghiệp, mặc dù trong số các biện pháp trọng nông,
chính sách doanh điền đã tỏ ra có hiệu quả.
Đầu thế kỷ XIX, sự thống nhất đất nước đã tạo tiền đề vô cùng thuận lợi
cho sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Song trên thực tế, thương nghiệp lại có
chiều hướng suy thoái. Nhà Nguyễn thi hành chính sách thuế khóa phức tạp và
chế độ kiểm soát ngặt nghèo đối với hoạt động buôn bán, đồng thời hết sức dè
dặt đối với các tàu buôn phương Tây. Cùng với sự suy thoái của kinh tế thương
nghiệp, các đô thị ngày càng kém phần phồn thịnh. Cho đến giữa thế kỷ XIX,
kinh tế đất nước trở nên hết sức trì trệ. Trong khi đó, ở thế kỷ XIX, trước sức ép
của chủ nghĩa thực dân phương Tây, việc mở cửa, khai phóng những nhân tố
kinh tế tư bản chủ nghĩa được coi là con đường duy nhất đúng để tăng sức mạnh
bảo vệ nền độc lập. Song, như phân tích ở trên, nhà Nguyễn đã không làm được
việc đó.
Về chính trị, triều Nguyễn tổ chức bộ máy nhà nước theo mô hình tập
quyền chuyên chế, mọi quyền hành đều tập trung vào tay hoàng đế. Trong chính
sách đối ngoại, nhà Nguyễn chủ trương thần phục nhà Thanh. Với các nước

phương Tây, nhà Nguyễn tỏ ra nghi ngại. ở giai đoạn đầu, do còn giữ ân nghĩa
với những người Pháp đã giúp mình trong cuộc chiến tranh chống lại Tây Sơn,
Gia Long thi hành chính sách tương đối cởi mở với Pháp và đạo Thiên Chúa.
Nhưng đến thời Minh Mạng (1820-1840), triều Nguyễn khước từ dần những
mối quan hệ với người phương Tây, và bắt đầu thi hành chính sách đàn áp Công
giáo. Quá lo sợ trước nguy cơ thực dân, triều Nguyễn cũng từng bước thực thi
chính sách “đóng cửa”, ngày càng tìm cách hạn chế ảnh hưởng của người
phương Tây trên đất Việt Nam. Mặt khác, song song với việc áp dụng những
biện pháp cực đoan nhằm gia cố ý thức hệ Nho giáo làm bệ đỡ tư tưởng của Nhà
nước quân chủ, nhà Nguyễn tỏ ra bảo thủ, đẩy đất nước vào tình trạng trì trệ, lạc
hậu đến nỗi suy kiệt khả năng tự vệ.
Và cũng nhằm củng cố bệ đỡ tư tưởng cho chính quyền chuyên chế, nhà
Nguyễn tìm mọi cách phục hồi Nho giáo vốn đã suy đồi trong những thế kỷ

25
trước. Thế nhưng, cho dù nhà Nguyễn thi hành chính sách độc tôn Nho giáo, hạn
chế Phật giáo và cấm đoán đạo Thiên chúa, thì đạo Phật vẫn tiếp tục phát triển ở
các vùng nông thôn. Bên cạnh đó là sự phát triển khá mạnh mẽ của các tín
ngưỡng dân gian.
Độc tôn Nho giáo, kìm chế công thương, bế quan tỏa cảng, trên thực tế đã
không đem lại những kết quả như nhà Nguyễn mong muốn là tăng cường sức
mạnh của dòng họ cai trị, trái lại, còn làm mất đi khả năng vươn lên cùng thời
đại của dân tộc Việt Nam, làm suy kiệt sức đề kháng của đất nước trước nguy cơ
bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Tiếng súng của thực dân Pháp
tấn công Đà Nẵng năm 1858 là điểm khởi đầu cho quá trình xâm lược mà kết
quả là sự thất bại của triều Nguyễn.
Hai hiệp ước Harmand (1883) và Patenotre (1884) được triều đình Huế ký
kết dưới áp lực quân sự của tư bản Pháp đã đánh dấu sự bại vong của nhà nước
phong kiến độc lập Việt Nam và sự đầu hàng của triều Nguyễn trước chủ nghĩa
tư bản Pháp. Theo đó, Việt Nam hoàn toàn trở thành thuộc địa của Pháp. Các

vua triều Nguyễn còn tồn tại sau đó chủ yếu do thực dân Pháp lập nên như một
con bài cần thiết cho sự vận hành guồng máy thống trị.

1.1.2.2. Hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và tác động
của chúng đối với cuộc tiếp biến văn hóa Đông Tây nửa đầu thế kỷ XX ở Việt
Nam
1.1.2.2.1. Vài nét về hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở
Việt Nam
Sau khi công cuộc bình định Việt Nam hoàn thành, thực dân Pháp bắt tay
vào việc vơ vét, khai thác, bóc lột kinh tế thuộc địa để làm giàu cho “chính
quốc”. Thế nhưng, cũng chính hai cuộc khai thác này đã làm xã hội Việt Nam
thay đổi mạnh mẽ về tính chất, cơ cấu, tạo tiền đề cho cuộc tiếp biến văn hóa
Đông Tây đầu thế kỷ XX.
* Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914)

×