Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

tiểu thuyết của các nhà văn nữ nam bộ đầu thế kỉ xx, nhìn từ phê bình xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.21 KB, 55 trang )


Luận văn

Tiểu thuyết của các nhà văn
nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX,
nhìn từ phê bình xã hội học

MỤC LỤC

ĐỀ MỤC TRANG

DẪN NHẬP 1
1. Lý do chọn đề tài: 1
2. Lịch sử vấn đề: 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 7
4. Phương pháp nghiên cứu: 8
5. Kết cấu khóa luận: 8
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 10
1.1 Phê bình Xã hội học- quan niệm và phương pháp 10
1.1.1. Phê bình Xã hội học, các quan niệm chính 10
1.1.2. Phê bình Xã hội học, các phương pháp tiếp cận 12
1.1 Đặc điểm xã hội và đặc điểm văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX 14
1.1.1 Đặc điểm xã hội 14
1.1.2 Đặc điểm văn học 16
1.2 Nhà văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX- Một hiện tượng xã hội đáng chú ý 18
1.2.1 Những thức tỉnh buổi giao thời 18
1.2.2 Những đóa hoa vươn mình 19
CHƯƠNG 2: TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ NAM BỘ ĐẦU THẾ KỈ XX: TỪ CẤU
TRÚC XÃ HỘI ĐẾN CẤU TRÚC Ý
NGHĨA 22
2.1 Đời sống Nam Bộ trong sự chuyển động từ truyền thống sang hiện đại 22


2.1.1 Những khuôn khổ truyền thống 22
2.1.2 Những tín hiệu hiện đại 26
2.2 Thông điệp về khả năng gắn kết của con người 32
2.2.1 Sự thay đổi các giá trị đạo đức xã hội 32
2.2.2 Nguy cơ “lung lay” các chuẩn mực gia đình 37
2.3 Ý thức nữ quyền và cuộc kiếm tìm vị thế người nữ 43
2.3.1 Ý thức nữ quyền 43
2.3.2 Cuộc kiếm tìm vị thế người nữ 46
CHƯƠNG 3: TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ NAM BỘ ĐẦU THẾ KỈ XX: NHỮNG
CẤU TRÚC NGHỆ THUẬT TƯƠNG
ỨNG 53
3.1 Cấu trúc cốt truyện 53
3.1.1 Cốt truyện đa dạng, phong phú 53
3.1.2 Cốt truyện mang đậm tính công thức 57
3.2 Cấu trúc nhân vật 60
3.2.1 Nhân vật đời thường 61
3.2.2 Nhân vật có tính khuôn mẫu 65
3.3 Cấu trúc diễn ngôn 70
3.3.1 Ngôn ngữ đậm sắc thái Nam Bộ 71
3.3.2 Giọng điệu mang đậm dấu ấn của tiểu thuyết buổi giao thời 75
KẾT LUẬN 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84

1.1 Phê bình Xã hội học- quan niệm và phương pháp
1.1.1 Phê bình Xã hội học, các quan niệm chính
Trong thế kỉ XX, một cách cơ bản nhất, có thể tạm chia lí luận phê bình
phương Tây theo ba khuynh hướng chính: Tâm lí học văn học, Ngôn ngữ học
văn học, Xã hội học văn học. Nếu khuynh hướng tâm lí học văn học và ngôn
ngữ học văn học xuất hiện tương đối gần đây và còn nhiều biến đổi cho đến
hôm nay; thì xã hội học văn học có nguồn gốc xa hơn với dòng chảy lâu đời

và những dịch chuyển khác nhau.
Mối quan hệ giữa xã hội và văn học đã được quan tâm ngay từ buổi đầu của
lí luận phê bình văn học. Tuy nhiên, từ thế kỉ XVIII trở về trước, vấn đề này
chưa được xem xét một cách hệ thống. Đến thế kỉ XIX, thuật ngữ “xã hội”
không chỉ được nhìn nhận trong tương quan với văn học mà đã trở thành một
hướng tiếp cận, một con đường để khám phá nghệ thuật. Trong những bước
phát triển khác nhau vào giai đoạn sau, có thể tạm chia xã hội học văn học
thành hai loại: xã hội học văn học vĩ mô và xã hội học văn học vi mô. Với xã
hội học văn học vĩ mô, văn học hiểu theo nghĩa rộng là một hoạt động xã hội.
Nó được đặt trong bối cảnh hiện thực lịch sử rộng lớn để phân tích, lí giải,
triển khai mối quan hệ cùng các hình thái hoạt động xã hội khác như kinh tế,
chính trị, tôn giáo; đồng thời, xác định vị trí, vai trò đặc thù trong toàn bộ đời
sống nói chung. Với xã hội học văn học vi mô, văn học được nhìn ở góc độ
tập trung hơn, tiếp cận không chỉ qua “từ khóa” xã hội mà còn dùng những
kiến thức và phương pháp xã hội học để nghiên cứu nó.
Phê bình xã hội học (tiếng Pháp: Sociocritique, tiếng Anh: Sociocriticism)
nằm trong một lĩnh vực chung, có tên là xã hội học về văn học. Nó kế thừa,
điều chỉnhvà phát triển một số nguyên tắc nền tảng của triết học Mác- xít.
Khái niệm “socio-critique” được Claude Duchet khai sinh năm 1971, khi ông
đề nghị một cách đọc lịch sử -xã hội về văn bản. Tuy nhiên, xoay quanh khái
niệm này còn nhiều tên gọi khác nhau: “phê bình xã hội học” (sociocritique),
“xã hội học về văn học” (sociologie de la littérature), “xã hội học về văn bản”
(sociologie du text).
Trước hết, cần có một sự phân biệt giữa “phê bình xã hội học”
(sociocritique) và “xã hội học về văn học” (sociologie de la littérature). Mặc
dù phát xuất cùng niềm tin nhưng về mức độ và phạm vi quan tâm, “xã hội
học về văn học” lại tập trung vào toàn bộ yếu tố liên quan tới văn học; trong
khi điều đó được khu biệt lại ở văn bản- đối với “phê bình xã hội học”. Mặt
khác, Pierre V.Zima cho rằng “phê bình xã hội học” (sociocritique) và “xã
hội học văn bản” (sociologie du text) là đồng nghĩa và ông đề xuất cách gọi

“phê bình xã hội học” như một “sự lựa chọn theo hướng cập nhật” [64; 7].
Ngoài ra, cần phân biệt phương pháp phê bình xã hội học trong nghiên cứu
văn học- có khuynh hướng phát triển thành một lí thuyết phê bình xã hội (bao
gồm cả phê bình văn học) và những nghiên cứu xã hội học mang tính thực
nghiệm về văn học (sociologie de la littérature empirique)- trong đó, khía
cạnh phê bình ít nhiều bị lược bỏ.
Một cách khái quát, khác với phê bình xã hội học truyền thống thường thiên
về các phương diện: phản ánh hiện thực, tính luận đề, tính tư tưởng của tác
phẩm; phê bình xã hội học hiện đại (xã hội học văn bản) quan tâm tới việc
tìm hiểu bằng những con đường nào mà các vấn đề xã hội, những lợi ích và
mối quan tâm của từng nhóm xã hội đã thẩm thấu vào trong cấp độ ngữ
nghĩa, cú pháp, trần thuật của văn bản. Do vậy, tiếp cận xã hội học hiện đại
tập trung tìm hiểu mối tương quan giữa các cấu trúc văn bản cũng như điều
kiện sinh ra văn bản với những cấu trúc siêu văn bản khác. Một cách cụ thể,
khi tiếp cận sự kiện văn học, các nhà phê bình xã hội học hiện đại cũng tập
trung khảo sát những yếu tố xã hội có mặt trong văn bản. Tuy nhiên, họ
không xem các yếu tố xã hội đó như là cái gì có sẵn, bất biến mà quan niệm
rằng chúng luôn vận động nằm trong mạch vận động của văn bản văn
chương. Do cái nhìn biện chứng và cởi mở như vậy, phê bình xã hội học hiện
đại có thể dung nạp nhiều phương pháp phê bình khác như cấu trúc, phân
tâm học, phát sinh, văn bản, mỹ học tiếp nhận, nữ quyền, hậu thực dân…và
ngày càng chứng tỏ ưu thế khoa học của mình trong việc phân tích lý giải
những vấn đề văn học.
Phêbình xã hội học hiện đại khẳng định, đối tượng theo đuổi đầu tiên của
trường phái này là văn chương. Nhưng văn chương phải gắn liền với xã hội,
con người. Tác phẩm là sự tượng trưng hóa và gọi tên trực tiếp hay gián tiếp
những thực tại lịch sử, xã hội và chính trị. Đọc phê bình xã hội học không chỉ
là sự tìm kiếm các vấn đề xã hội, phát hiện những bế tắc và mâu thuẫn mà
còn nói nhiều đến hệ tư tưởng. Đọc phê bình xã hội học cũng không đơn giản
là hành động phụ họa cho một khuynh hướng tiến bộ có sẵn, giản đơn và

ngây thơ. Việc đọc phải được xác tín như một cuộc phiêu lưu nhằm khám phá
những khía cạnh còn tiềm ẩn trong tác phẩm.
Trên lí thuyết người đọc, tất cả độc giả đều thuộc về một xã hội và đều mang
tính xã hội. Xã hội vừa quy định việc đọc của họ, vừa mở ra cho họ những
không gian cắt nghĩa, vừa đưa họ đến con đường tự do và sáng tạo. Toàn bộ
độc giả là một cái tôi, đến từ những quan hệ họ hàng và hệ thống biểu tượng.
Những quan hệ này vừa quy định cái tôi ấy, vừa mở ra cho nó những không
gian tìm tòi và giải thích. Viết văn và làm nghệ thuật là một cách để khám
phá, biểu hiện tính xã hội- lịch sử, nhận thức sự tái diễn và đổi mới của đời
sống và thân phận con người.
Phê bình xã hội học đã tìm kiếm trong văn bản và trong văn hoá những thể
nghiệm và dấu vết của quá trình phát triển lịch sử nhân loại. Trên dòng chảy
lí thuyết ấy, nền tảng về một cách đọc mang đầy đủ tính chất và đặc điểm của
hoạt động nghiên cứu văn chương được hình thành. Nó thường xuyên lựa
chọn và cập nhật, tiến gần hơn với thời cuộc. Phê bình xã hội học hiện đại đã
vượt qua nhãn quan của phê bình xã hội học truyền thống, hoàn thiện một
phương pháp mà con người đã xác lập gọi là phương pháp đọc xã hội học.
Cụ thể hơn, đọc xã hội học là dấn mình vào chuỗi những hệ thống tổ chức từ
ngữ, diễn ngôn và ký hiệu luôn vận động. Người đọc có thể thông qua chúng
hoặc thâm nhập vào trong từng lớp kết cấu ấy. Việc thừa nhận sự tồn tại của
văn bản cũng như đánh giá cao các thành tố tạo nên tác phẩm là minh chứng
rõ nét cho các loại cấu trúc luôn tiềm tàng và ẩn sâu dưới lớp thường thấy.
Mặt khác, phê bình xã hội học tiến hành đồng thời việc đọc liên hình thức và
liên thể loại nhằm tìm kiếm một cách viết đa dạng, thường náu mình trong
những văn bản kinh điển.
1.1.2 Phê bình Xã hội học, các phương pháp tiếp cận:
Nguyên tắc chính trong việc đọc phê bình xã hội học là nắm bắt sự vận động:
vận động trong chiều kích ý nghĩa và vận động trong cả những mối quan hệ
tương tác giữa các cấu trúc với nhau. Sự mới mẻ là chìa khóa để bắt đầu con
đường chinh phục và khám phá mạch ngầm văn bản. Do đó, độc giả cần có ý

thức tìm tòi, cố gắng thể nghiệm để phát hiện ra những diễn ngôn mới, luôn
đặt câu hỏi để tìm ra vấn đề mới. Không chỉ rút ra những yếu tố xã hội có mặt
trong văn bản, phương pháp đọc xã hội học luôn khuyến khích người tham
dự nhận ra sự biến chuyển trong cách nhìn, cách viết của nhà văn. Thay đổi
đó ít nhiều cũng phản ánh tinh thần thời đại.
Phương pháp đọc xã hội học vừa lay động lịch sử và xã hội, vừa xem lịch
sử và xã hội như những chất liệu có sẵn để sử dụng và bảo chứng. Văn
chương thường xuyên vận động. Nếu việc đọc phê bình xã hội học luôn luôn
có một chiều kích chính trị, nó cũng luôn luôn có một chiều kích hiện sinh.
Với đọc xã hội học phát sinh, nhà phê bình có điều kiện nhìn thấy các hiện
tượng tái diễn (sự lặp đi lặp lại có chủ ý hoặc không) và các hiện tượng trở
thành (nơi những con người có một ý thức về hành vi viết cũng như hành vi
đọc).
Những quan niệm và nguyên tắc chung nêu trên chỉ là định hướng. Thực tế,
có rất nhiều cách đọc xã hội học, tùy theo chủ thể (nhà phê bình) và tùy theo
đối tượng (văn bản). Trong phạm vi đề tài và trong khả năng hữu hạn cá
nhân, chúng tôi xin được trình bày về các bước tiến hành của mình nhằm
triển khai công trình.
Bước thứ nhất mà chúng tôi tiến hành, đó là khảo sát nhanh toàn bộ tiểu
thuyết của các nhà văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX sưu tầm được. Từ đó chọn
ra những văn bản thực sự gắn với đề tài, xem đó là những văn bản mẫu, cần
phải khảo sát sâu.
Bước thứ hai, chúng tôi đọc kỹ các văn bản mẫu, đi tìm và xác lập hệ
cấu trúc ý nghĩa, thông qua cốt truyện, hệ thống hình tượng, hệ thống nhân
vật…trong văn bản.
Bước thứ ba, thông qua hệ cấu trúc xã hội từ văn bản mẫu, chúng tôi đi
tìm và xác lập hệ cấu trúc ý nghĩa tương ứng, bằng cách quy chiếu với bối
cảnh xã hội thời đại và tiểu sử tác giả (trên những đường nét đã xác định ở
chương 1).
Bước thứ tư, phân tích và lý giải mối quan hệ thuận/ nghịch/ hỗ tương/ vận

động…giữa hệ cấu trúc ý nghĩa với hệ cấu trúc xã hội đã tìm thấy (nhất quán
hay có một độ chênh nhất định).
Bước thứ năm, trình bày, phân tích về cách viết của tác giả bằng hệ cấu
trúc nghệ thuật thể hiện qua tác phẩmnhư là một sản phẩm mang tính xã hội-
lịch sử và nhận định, lý giải mối quan hệ thuận/ nghịch của nó với hệ cấu trúc
ý nghĩa và hệ cấu trúc xã hội đã nêu trên.
Bước cuối cùng là rút ra nhận định tổng quan về những gì đã khảo sát,
gồm những kết luận và những câu hỏi còn để ngỏ.
Nhìn chung, ý thức tiếp cận văn bản bằng phương pháp phê bình xã hội
học hiện đại đã xuất hiện từ thế kỉ XIX và những quan niệm về cách đọc này
cho đến nay vẫn tiếp tục được hoàn thiện. Việc xác lập một phương pháp
riêng chỉ mang tính tương đối dựa trên các nguyên tắc chung nhằm cụ thể
hơn phương tiện nghiên cứu.
*
CHƯƠNG 3: TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ NAM BỘ ĐẦU
THẾ KỈ XX: NHỮNG CẤU TRÚC NGHỆ THUẬT TƯƠNG ỨNG

Nếu mỗi cấu trúc xã hội vận động trong văn bản bằng từng cấu trúc ý
nghĩa là các thông điệp về mặt tư tưởng thì từ phương diện nối kết, nó cũng
có sự tương tác nhất định với cấu trúc nghệ thuật. Như những dòng chảy
cùng hòa ra biển lớn, mỗi loại cấu trúc là một hải lưu dịch chuyển theo từng
cách riêng, dù vậy, nó vẫn sóng sánh cùng nhau khi hướng đến cội nguồn
chung là chỉnh thể tác phẩm văn học. Nó tồn tại song song cùng cấu trúc tư
tưởng như lời lí giải cho câu hỏi vì sao và như thế nàonhững thông điệp này
có thể chuyển tải vào các cấp độ văn bản. Một cách cụ thể, trong tiểu thuyết
của các nhà văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX, ngoài sự vận động từ cấu trúc xã
hội sang cấu trúc ý nghĩa còn có các cấu trúc nghệ thuật tương ứng được thể
hiện trên ba phương diện: cốt truyện, nhân vật, diễn ngôn.
3.1 Cấu trúc cốt truyện
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể, được

tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ
bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học” [29; 99].
Ảnh hưởng xu thế văn học giao thời, cốt truyện trong tiểu thuyết của các nhà
văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX vừa lưu giữ những nét truyền thống, vừa mang
hơi hướng hiện đại. Ngoài ra, dù chúng khá đa dạng, phong phú nhưng vẫn ít
nhiều mang tính công thức.
3.1.1 Cốt truyện đa dạng, phong phú
Trong thời kì mà tiểu thuyết vừa định hình và đang từng bước hoàn thiện, cốt
truyện vẫn còn khá đơn giản. Phần lớn, chúng bao quát cuộc sống bằng cái
nhìn toàn diện hơn là các góc quay cận cảnh. Những chuyển biến sâu sắc bên
trong, những khía cạnh tâm linh chưa được chú trọng khai thác ở văn học giai
đoạn này. Vì vậy, tính “đa đạng, phong phú” trước hết được hiểu như sự phản
ánh muôn mặt đời thường trong tác phẩm.
Khảo sát ba mươi cốt truyện tiểu thuyết được chọn làm mẫu nghiên cứu,
chúng tôi nhận thấy bức tranh Nam Bộ đa sắc màu được khắc họa khá rõ nét.
Đó là cuộc sống hằng ngày với mưu sinh và tồn tại, là chuyện tình duyên-
hôn nhân giữa ranh giới truyền thống và cách tân, là các mối quan hệ giai cấp
phức tạp đan xen sự phân biệt rạch ròi. Có thể nói, đời sống Nam Bộ đã mang
vào tiểu thuyết một thế giới hết sức chân thực, gần gũi. Hầu hết tác phẩm đều
có bối cảnh tại Sài Gòn và miền Tây. Chẳng hạn, cuộc gặp gỡ tình cờ trong
Duyên chàng nợ thiếp là do Tĩnh Cương đi ngang qua chợ Sài Gòn, thấy
chiếc xe màu vàng đụng phải Liêu Kim rồi bỏ chạy nên đến giúp đỡ. Hai
nhân vật chính trong Bạch công tử gặp Hắc công tử cũng xuất thân ở miền
Nam. Người là con nhà thế phiệt vang danh chốn Tiền Giang, kẻ giàu có sang
trọng nhất bậc Hậu Giang. Từ đây, câu chuyện về con người và cuộc đời cứ
thế chuyển động cùng bức tranh đời sống Nam Bộ. Nó có thể chỉ diễn ra ở
một địa danh nhất định: Mỹ Tho (Đám cưới lạ, Tấm gương trung hiếu), Rạch
Giá (Trách ai), Bạc Liêu (Ngọc chìm đáy biển) hoặc nhiều nơi khác nhau
nhưng đều tựu trung tại miền Nam: Sóc Trăng và Cần Thơ (Tại ai), An Giang
và Đồng Tháp (Một tấm lòng son). Nó có thể đơn giản như việc một người

mẹ động viên con trai gia nhập nghĩa binh (Tấm gương trung hiếu) hay phức
tạp và gay cấn qua nhiều sự kiện tiếp nối nhau (Nữ anh tài, Kiếp hoa thảm
sử). Dù vậy, các chi tiết, hoạt động của đời sống thường nhật luôn được đưa
vào tác phẩm in đậm dấu ấn văn hóa vùng miền. Hình ảnh những chiếc ghe
liền nhau đón dâu trong đám cưới, một cái nhà ngói ba căn vách ván cất theo
kiểu xưa, lũy tre bao quanh vườn cây ôm ấp bờ đê lối mòn đã đi vào tiểu
thuyết hết sức mộc mạc, chân phương.
Mặt khác, tương ứng với các cấu trúc ý nghĩa (thông điệp trong văn bản), cấu
trúc nghệ thuật mà cụ thể ở đây là cốt truyện cũng vận động theo quỹ đạo
chung của nó. Khi nói đến đời sống Nam Bộ trong sự chuyển động từ truyền
thống sang hiện đại, ta thấy xuất hiện những tình tiết bộc lộ rõ nét văn hóa
buổi giao thời. Đằng sau dấu ấn Tây phương, ta vẫn thấy thấp thoáng bóng
dáng của yếu tố xưa cũ tồn tại song song cùng sự mới mẻ. Đó là lí do vì sao
các tác giả nữ Nam Bộ dù đã để nhân vật mình tiếp xúc với “ánh sáng tân
thời” nhưng không quên “giữ” cho họ những đức tính truyền thống. Một Bích
Ngọc (Ngọc chìm đáy biển) đã quá quen với cách giao tiếp lịch sựphương
Tây vẫn không khỏi ngại ngùng, lúng túng khi thầy Minh Tâm bắt tay. Một
Liêu Kim dù mạnh dạn đến tìm Tĩnh Cương để tạ ơn nhưng lại hết sức băn
khoăn, e thẹn vì nỗi đường đột của mình. Tương tự, khi chuyển tải thông điệp
về sự gắn kết của con người, cốt truyện thường hướng trọng tâm vào các tình
huống gây xáo trộn tinh thần. Từ đó, dóng lên hồi trống cảnh báo những đổi
thay đạo đức và nguy cơ “lung lay” chuẩn mực gia đình. Trong Cô hai văn
minh, Cẩm Tâm đã tinh tế khi phát hiện rằng chính sự “tự do”, “bình đẳng”
mà ai cũng ngỡ là chìa khóa hạnh phúc lại trở thành con dao sắc nhọn ngăn
trở sự gắn kết đôi vợ chồng luôn hướng theo phương Tây. Từ đây, cốt truyện
được sắp xếp xoay quanh chi tiết ấy để bộc lộ những căng thẳng, rạn vỡ tất
yếu. Trong một tương quan khác, ý thức nữ quyền và cuộc tìm kiếm vị thế
người nữ chỉ thật sự có ý nghĩa khi xây dựng được những cốt truyện xác
đáng, tô đậm sắc thái tư tưởng. Với Nữ anh tài, Hoàng Thị Tuyết Hoa đã
dụng công lần lượt sắp xếp các tình huống: trắc trở trong tình duyên,tự lập kế

mưu sinh,tìm cách giải oan cho cha để khắc họa hình ảnh một phụ nữ thủy
chung, bản lĩnh, sâu sắc. Như vậy, những thông điệp của đời sống Nam Bộ đã
hiện diện trong tác phẩm bằng các cấu trúc cốt truyện tương ứng.
Không chỉ đa dạng khi phản ánh bức tranh xã hội, tính phong phú trong tiểu
thuyết của các nhà văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX còn thể hiện qua các loại
cốt truyện.Tuy nhiên, vì mới đặt bước chân đầu tiên vào mảnh đất văn
chương nên khái niệm cũng như cách phân loại này chỉ mang tính nhất thời.
Ở đây, người viết tập trung vào cách gọi tên mà các tác giả nữ đã đặt theo
mỗi tác phẩm khi xuất bản. Thứ nhất, họ nghiêng về độ dài văn bản, gọi
chung tác phẩm là “đoản thiên tiểu thuyết”.Thứ hai, tùy nội dung biểu hiện
mà phân loại, ví dụ: “xã hội tiểu thuyết”, “ái tình tiểu thuyết”, “bi tình tiểu
thuyết”, “phiêu lưu tiểu thuyết”, “cảnh thế tiểu thuyết” Với lí thuyết hiện
đại, có thể sự sắp xếp này chưa thật sự thỏa đáng; nhưng ở góc độ cơ bản
nhất, nó thể hiện tính đa dạng trong sáng tác văn xuôi. Duyên chàng nợ thiếp
rõ ràng là một “ái tình tiểu thuyết” khi xây dựng cốt truyện với đầy đủ cung
bậc: yêu thương, dằn vặt, đau đớn, hạnh phúc. Sở dĩ Một đời mấy thân được
ghi là “phiêu lưu tiểu thuyết” bởi nhân vật phải trải qua rất nhiều cuộc ra đi.
Đi vì bản thân và đi vì nghĩa lớn. Tuy có phần giản đơn và chất phác nhưng ở
khía cạnh nào đó, sự đa dạng, phong phú của cốt truyện vẫn rất đáng được
ghi nhận.
Trong mối tương quan chung, bên cạnh những cốt truyện phản ánh đậm nét
đời sống Nam Bộ thì ảnh hưởng của cốt truyện Trung Quốc vẫn len lỏi vào
cách viết. Thời điểm này, bên cạnh tác phẩm phương Tây, không ít tiểu
thuyết chương hồi nổi tiếng ở Trung Hoa được dịch và phổ biến rộng rãi. Với
lối kể chuyện và tâm lí gần gũi người Việt, nó thu hút đa số độc giả thuộc các
tầng lớp khác nhau. Ta thấy nhiều tác phẩm kết cấu theo kiểu chương hồi, có
cả lời khái quát. Bên cạnh những tiểu thuyết chỉ phân cách các chương bằng
số thứ tự (Kiếp hoa thảm sử, Một đời mấy thân, Nữ anh tài, Ngọc chìm đáy
biển…) thì khá nhiều sáng tác thường đặt tên mỗi phần. Đơn giản nhất, tác
giả tóm gọn đại ý trong vài từ cô đọng nhưng có sức gợi.Ví dụ, Lâm Kiều

Loan được chia thành từng chương với những cái tựa ngắn gọn: “Kiếp hoa
đào”, “Chàng phụ thiếp”, “Bước li hương”…Vì một chữ tình (Cẩm Tâm)cũng
khái quát bằng các tên: “Con cầu con khẩn”, “Tình cờ gặp gỡ”, “Duyên hay
nợ” Ngược lại, nhiều tiểu thuyết ảnh hưởng mạnh mẽ các tác phẩm chương
hồi của Trung Quốc. Điều này được thể hiện khá rõ nét qua kết cấu của
Lương duyên túc đế. Toàn tiểu thuyết chia thành mười hai hồi, mỗi hồi có lời
tựa viết theo lối vần điệu. Chẳng hạn ở hồi thứ nhất: “Gái còn xuân, đối với
ngọn đèn lờ/ Mẹ đã già, nằm trên bộ ván lạnh”, hồi thứ nhì: “Người thành
thiệt lao đao lận đận/ Đứa gian tà gác tía lầu son”. Mặt khác, có nhà văn chọn
trích thơ từ sáng tác nổi tiếng để làm lời dẫn. Trong Phận bạc má đào, Cẩm
Tâm đã “mềm hóa” các chương bằng những câu Kiều nhịp nhàng: “Phận sao
phận bạc như vôi/ Đã từng đau đớn những hồi bé thơ”, “Tiếc thay trong giá
trắng ngần/ Đến phong trần cũng phong trần như ai”.
Không chỉ qua lời tựa, lối văn biền ngẫu còn xuất hiện trong cả lời của nhân
vật và lời người kể. Những câu nói uyển chuyển, vần điệu hòa cùng với ngôn
ngữ sinh hoạt hằng ngày khiến cho tiểu thuyết vừa có nét trầm bổng, vừa hơi
hướng các sáng tác truyền kì Trung Quốc. Tâm trạng của Tĩnh Cương trong
hoàn cảnh éo le càng khiến cho Duyên chàng nợ thiếp rung lên những cung
bậc đầy cảm xúc: “Có bạc tiền thì nọ thì kia, không ruộng đất nay vầy mai
khác; hèn chi thói đời đen bạc, cuộc thế đổi xoay, kẻ vô lương sao tạo hóa
sanh đầy, người thành thật tầm hoài không có một!” [34; 34]. Ngoài ra, dấu
ấn Trung Hoa còn thể hiện qua mật độ từ Hán Việt khá dày trong các tiểu
thuyết. Điển cố điển tích vẫn được sử dụng rất nhiều trong Giọt lệ phòng đào
để diễn tả tâm trạng nàng Ngọc Lam trước tình cảm dành cho văn sĩ Cẩm
Tâm. Bên cạnh đó, văn hóa Pháp cũng có ảnh hưởng nhất định đến cốt truyện
tiểu thuyết giai đoạn này. Sự du nhập của lối sống phương Tây đã xuất hiện
trong Cô hai văn minh hay Ngọc chìm đáy biển qua tư tưởng và hành động
tân thời của nhân vật. Các từ phiên âm cũng bắt đầu chiếm số lượng lớn. Từ
đây, có thể thấy rằng, cốt truyện của các tác giả nữ vừa có tính hướng ngoại,
vừa lưu giữ những đặc trưng dân tộc.

Như vậy, cốt truyện trong tiểu thuyết của các nhà văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ
XX tương đối đa dạng và phong phú. Đa dạng qua bức tranh đời sống nhiều
màu sắc và phong phú bởi loại thể phản ánh. Tuy vẫn giữ được đặc trưng
trong văn hóa dân tộc nhưng cốt truyện ít nhiều vẫn mang yếu tố ngoại lai.
Qua đó, tính công thức nổi lên như là một điểm quan trọng của tiểu thuyết
giai đoạn này.
3.1.2 Cốt truyện mang đậm tính công thức
Tiểu thuyết của các nhà văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX thường có nhiều mô
thức chung trong ý tưởng và cách triển khai cốt truyện. Những ngang trái về
hôn nhân, những khắc nghiệt từ cuộc sống mưu sinh, những mâu thuẫn giữa
quan hệ giai cấp hay trở đi trở lại trong tiềm thức các cây bút nữ. Cấu trúc
nghệ thuật qua góc độ cốt truyện đậm tính công thức được thể hiện bằng kết
cấu truyền thống và nhấn mạnh vào nhu cầu giải trí.
Khảo sát các tiểu thuyết được chọn làm mẫu, có thể thấy rằng, phần lớn cốt
truyện được triển khai theo cấu tứ chung: mở- phát sinh xung đột- giải quyết
xung đột- kết. Mạch vận động đơn tuyến với những chi tiết bình dị, gắn liền
đời sống. Duyên chàng nợ thiếp chủ yếu xoay quanh tâm trạng của Tĩnh
Cương và Liêu Kim khi gặp trắc trở trong tình duyên. Câu chuyện dần trở
nên đáng chú ý hơn khi Liêu Kim phải theo sự sắp đặt của cha để lấy một gã
bất lương và Tĩnh Cương, vì cần tiền cưới người yêu mà chấp nhận đánh đổi
tính mạng. Trách ai chỉ ra những mâu thuẫn giữa truyền thống- hiện đại mà
khép lại là nỗi đau của người trong cuộc. Xung đột nảy sinh khi ông Cai- vốn
kiên quyết phản đối hôn nhân của con gái mình với anh Bồi Hai- lại bắt gặp
họ đang tình tự. Nhìn chung, các tình huống này dù góp phần làm sống động
hơn cho tiểu thuyết nhưng không có nhiều điểm khác biệt. Chúng diễn tiến
theo trình tự từ đầu đến cuối, ít khi thay đổi; nếu có cũng gắn liền với mạch
vận động chung và thường không xa rời quỹ đạo. Đôi khi, cốt truyện còn giản
lược theo hướng một “lát cắt”, một “khoảnh khắc” bắt gặp trong đời sống.
Tấm gương trung hiếu chủ yếu xoay quanh hình ảnh người mẹ hết lòng động
viên con trai gia nhập nghĩa binh. Thẹn phận tuổi hồng là lời tâm sự của nàng

Nguyệt Anh với cô em Việt Nga vì người chồng sa đọa, hèn kém. Tình cốt
nhục suy cho cùng cũng là câu chuyện viên mãn về gia đình êm ấm. Tác giả
Nguyễn Thị Công đã xây dựng cốt truyện theo công thức quen thuộc về mối
quan hệ giữa các thành viên, có mở ra mâu thuẫn khi xuất hiện vai trò mẹ kế
nhưng kết lại, mọi xung đột được giải quyết trọn vẹn. Ở góc độ nào đó, hình
thức cốt truyện theo tính truyền thống này phản ánh rất rõ đặc trưng của tiểu
thuyết thời kì đầu. Nó đánh dấu một giai đoạn mở màn và đang tiếp tục hoàn
thiện đối với thể loại được xem là mới mẻ và hấp dẫn này.
Đi sâu vào phương diện xung đột trong tiểu thuyết, tính công thức còn thể
hiện qua đặc điểm ít gay gắt, không nhiều kịch tính nhưng khá tinh tế. Thật
vậy, các nhà văn nữ không xây dựng cốt truyện theo kiểu căng thẳng, hồi hộp
đến nghẹt thở mà độc giả vẫn mải miết theo dõi từng hành động, từng biến cố
xảy tới với nhân vật. Mâu thuẫn của Cô hai văn minh chẳng qua là những
nghi ngờ, ghen tuông trong đời sống vợ chồng. Tuy nhiên, người đọc vẫn
muốn biết kết cuộc qua các tình tiết tiếp nối. Đánh vào tâm lí tò mò của số
đông, Cẩm Tâm đã xây dựng một cốt truyện nhẹ nhàng để đến phút cuối, mọi
gãy đổ hiện ra bất ngờ. Sức hấp dẫn không nằm ở những mâu thuẫn gay gắt
đến đỉnh điểm mà phát xuất ngay từ chi tiết hết sức bình thường, thậm chí đã
quá quen thuộc trong đời sống. Dần dần, chúng được phát lộ bằng hành động
và thái độ của nhân vật. Hay như ở Giọt lệ phòng đào, câu chuyện về nàng
Ngọc Lam chủ yếu xoay quanh tình cảm với văn sĩ Cẩm Tâm và những biến
cố xảy đến sau khi xa cách. Tình tiết khá nhẹ nhàng, đa phần đều là tâm trạng
của người nữ trước nghịch cảnh. Thế nhưng, chính điều đó lại có một “ma
lực” vô hình thôi thúc độc giả trải nghiệm cùng đời sống tinh thần của mỗi
nhân vật. Phải chăng các nhà văn nữ đã thể hiện ưu thế tuyệt đối về giới trong
những cảm quan sâu sắc để làm mềm mại và uyển chuyển hơn tác phẩm?.
Mặt khác, văn chương giai đoạn này thường tập trung vào nhu cầu giải trí.
Bên cạnh những tác phẩm dành cho tầng lớp trí thức thì các loại tiểu thuyết
dung dị, dễ hiểu vẫn có sức hút đặc biệt. Nó gắn liền với độc giả đủ mọi lứa
tuổi thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Điều này góp phần đưa tiểu

thuyết của các nhà văn nữ Nam Bộ phổ biến và đến gần hơn với công chúng.
Không có những yếu tố câu khách nhưng tác phẩm của họ vẫn hấp dẫn bằng
sự độc đáo riêng. Sức sống của chúng lan tỏa mạnh mẽ như một hương thơm
khó lẫn giữa khu vườn có hàng trăm, hàng ngàn đóa hoa cùng khoe sắc. Từ
đây, nhu cầu giải trí cũng được nhấn mạnh như là một trong những điều kiện
để tiểu thuyết phát triển.
Trong một tương quan khác, khi nói đến vấn đề cốt truyện của tiểu thuyết, ta
thấy chúng hầu hết đều khép lại bằng kết thúc có hậu. Điều này hoàn toàn
phù hợp với kiểu xung đột nhẹ nhàng theo mô típ truyền thống vốn đã trở
thành công thức chung. Tĩnh Cương và Liêu Kim của Duyên chàng nợ thiếp
ngỡ phải chia ly trong đau đớn vì ngăn trở giàu- nghèo nhưng cuối cùng, họ
cũng đến được với nhau. Sau bao thử thách, thậm chí chấp nhận đánh đổi tính
mạng, tiểu thuyết là một kết thúc đẹp cho những người thủy chung, son sắt.
Tương tự như vậy, Lương duyên túc đế mở đầu bằng tình cảnh đáng thương
của mẹ con nàng Bích, cốt truyện phát triển xoay quanh những thử thách về
tính cách, nhân phẩm của họ. Để rồi khép lại là “đám cưới rất long trọng làm
cho từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho ai cũng nghiêng tai ghé mắt (…). Từ đây
chàng Túc với nàng Hạnh nên cuộc đá vàng, người gìn nghĩa kẻ đáp ơn,
nghĩa ơn ơn nghĩa lương duyên hài hòa” [87; 133]. Những định kiến, cách
biệt không thể ngăn cản duyên số trời sinh. Dù rất nhiều biến cố xảy đến
nhưng họ vẫn vượt qua. Có mối liên hệ nhất định giữa các cấp độ cấu trúc
trong văn bản. Cốt truyện phát triển theo hướng vẹn toàn một mặt thể hiện
những phẩm chất cao đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ: tài năng,
tự trọng, sâu sắc. Mặt khác, nó mở ra không gian chung về phương diện nghệ
thuật để mỗi sáng tác thấm đượm quan điểm “ở hiền gặp lành” của dân tộc.
Ngoài ra, trong một số tiểu thuyết, tuy không có kết thúc tròn đầy nhưng ít
nhiều đã gửi gắm những thông điệp tinh thần đáng quý. Đây cũng là sự tương
tác về mặt cấu trúc trong văn bản. Nguyệt Hương và Xuân Tiểu (Cổ Nguyệt
Hương), người trở về tiên giới, kẻ lấy thân đền tội nhưng độc giả vẫn thấy
hiện lên chân dung một “anh liệt hầu” oai phong không thua gì nam giới. Từ

đây, qua cốt truyện đậm chất thần kì, người đọc cảm nhận được ý thức đề cao
nữ giới mạnh mẽ. Hay ở Một đời mấy thân, nàng Ngọc Mai đã hy sinh thân
mình hết sức cao đẹp. Cuộc kiếm tìm vị thế người nữ, qua cốt truyện “phiêu
lưu tiểu thuyết” này mà trở nên sinh động hơn. Phải chăng trong nhân sinh
quan và thế giới quan của mình, các cây bút nữ vẫn luôn tâm niệm về một kết
thúc trọn vẹn hơn là những đớn đau, giằng xé; những không gian mở thường
thấy trong văn chương giai đoạn sau?
Tuy không phải mọi tiểu thuyết đều hướng đến cách giải quyết xung đột nhẹ
nhàng và khép lại bằng các tình tiết có hậu nhưng phần lớn trong văn xuôi
đầu thế kỉ XX, đặc điểm này đã trở thành một công thức. Không chỉ gắn bó
chặt chẽ với cấu trúc ý nghĩa của tác phẩm, cấu trúc nghệ thuật thông qua sự
hài hòa về cốt truyện này còn phản ánh một phương diện khác. Đó là phẩm
chất người Nam Bộ trong nếp nghĩ và cả trong tư duy: mộc mạc, phóng
khoáng, chân thành.
Tóm lại, cốt truyện trong tiểu thuyết của các nhà văn nữ Nam Bộ đầu thế kỉ
XX tương đối đa dạng, phong phú. Đa dạng qua bức tranh đời sống và phong
phú bởi loại thể phản ánh. Có sự đan xen giữa tinh thần dân tộc và yếu tố
ngoại lai như những sắc màu lấp lánh vượt khỏi ranh giới ngôn từ, tràn qua
bờ vực ý nghĩa. Bên cạnh đó, tính công thức trở thành một đặc điểm của tiểu
thuyết thời kì đầu. Những cốt truyện theo “mô típ” truyền thống, cách giải
quyết xung đột nhẹ nhàng trở đi trở lại trong nhiều sáng tác như một sự kết
nối chặt chẽ với thông điệp tư tưởng. Điều này vô hình chung dẫn đến một
đặc điểm khác của văn chương đầu thế kỉ XX: in đậm tính cách và tư duy của
người Nam Bộ.
3.2 Cấu trúc nhân vật
Cùng với cốt truyện, nhân vật là một trong những cấu trúc nghệ thuật đáng
chú ý của tiểu thuyết nữ Nam Bộ đầu thế kỉ XX. Nó tương tác với cấu trúc ý
nghĩa trên góc độ tư tưởng và gắn kết với các cấu trúc khác của nghệ thuật
qua bình diện ngôn từ. Từ đây, nhân vật tiểu thuyết hiện lên như là những
con người của đời thường, mang tiếng nói đạo lí và ít nhiều được thể hiện

theo các khuôn mẫu.
3.2.1 Nhân vật đời thường
Từ thông điệp của tác phẩm, nếu cốt truyện đã phác họa một bức tranh Nam
Bộ đa dạng, phong phú thì những nhân vật trong đó cũng hiện lên qua góc
nhìn thường tại. Không ngẩn ngơ chốn thần tiên để thỏa chí vẫy vùng, không
tìm quên ở cõi say mà ngẫm đời ai oán, các nhà văn nữ luôn hướng đến đối
tượng là con người cụ thể. Người nông dân khốn khó, bọn địa chủ bóc lột,
tầng lớp trí thức trẻ tuổi, kẻ tham tiền phụ khó. Tất cả đã đi vào trang sách
bằng hình ảnh chân thực, gần gũi, hiện diện ngay trong đời sống.
Trước hết, tính cụ thể được minh chứng qua “thông tin” nhân vật. Trừ một số
tác phẩm không đề cập rõ, đa phần các nhân vật tiểu thuyết còn lại đều có
tên, quê quán nhất định. Trong Bạch công tử gặp Hắc công tử, người đọc dễ
dàng hình dung được sự giàu có của Bạch công tử qua miêu tả về cậu Tư
Tiền Giang “con nhà thế phiệt, dòng dõi trâm anh”, “nhà cậu rần rần giai
nhân tao khách, ngâm hoa ngợi nguyệt” [93; 1] hay hiểu được bản chất của
Hắc công tử bằng những lời khách quan: “Nói về miền Hậu Giang, cũng có
một vị công tử (…) may sanh nhằm cửa nhà giàu, chớ tư cách không bằng
đứa mạt” [93; 1]. Tương tự, câu chuyện về cô hai “văn minh” cũng không có
gì xa lạ khi ngay từ những dòng đầu tiên, tác giả đã nêu đích danh cô là con
gái ông hội đồng Trần Văn Thọ- một người vừa sang trọng vừa giàu có ở Tân
Định. Không chỉ có “vai trò” giới thiệu thông tin nhân vật, nó còn “chuẩn bị”
cho những sự kiện tiếp nối về sau, là nguồn cơn dẫn đến bi kịch gia đình theo
lối sống sính ngoại.
Bên cạnh đó, để xây dựng được những nhân vật cụ thể, tác giả đã đặt con
người vào từng hoàn cảnh nhất định. Khi nói đến bức tranh đời sống Nam Bộ
trong sự chuyển động từ truyền thống sang hiện đại, các nhà văn nữ thường
gửi gắm thông điệp qua loại nhân vật đóng vai trò “giao thời”. Đó là những
cá nhân vốn đứng ngoài trung tâm xã hội giờ thức tỉnh, đi tìm tiếng nói riêng.
Đó là những người trẻ dù được cha mẹ sắp xếp mối lương duyên vẫn kiên
quyết từ chối. Họ nỗ lực vượt thoát vòng luẩn quẩn của lễ giáo phong kiến,

trở thành một cá thể hết sức bình đẳng, tự nhiên trong xã hội. Độc giả vẫn
còn ngỡ ngàng trước hành động tưởng như chỉ có nam giới mới thực hiện
được. Nay, chính giới nữ- tầng lớp vốn bị định kiến ở chốn khuê phòng-
đứng lên tiến hành (Tú Anh- Nữ anh tài, Ngọc Mai- Một đời mấy thân).
Cũng trong Nữ anh tài, nhân vật Hồng Minh dù đã được cha mẹ phối hôn với
Ngọc Liên nhưng vì những cảm mến dành cho Tú Anh, chàng vẫn thẳng
thừng viết thư từ chối, mong Trần tiểu thư thông cảm. Giới hạn này sẽ khó
lòng phá vỡ trong xã hội phong kiến. Thế nhưng, đối với các nhà văn nữ,
bằng cảm quan tinh nhạy, họ đã hướng về những điều mới mẻ, có tính bước
ngoặt. Đấng nam nhi vốn được hình dung như cây tùng, cây bách; trong đôi
mắt của tác giả nữ; vẫn chỉ là một con người với đủ mọi cung bậc cảm xúc
cuộc đời. Họ quẩn quanh trong mối quan hệ nước- nhà, hiếu- tình.
Tương tự như vậy, khi nhắc đến thông điệp về khả năng gắn kết của con
người, không phải ngẫu nhiên mà các cây bút nữ đều hướng vào loại nhân vật
giàu có, thấp hèn hoặc thành viên gia đình. Bởi lẽ, trong mối quan hệ có tính
ranh giới rõ rệt này, nhiều mâu thuẫn thực sự phát sinh, gây rạn vỡ xã hội. Từ
giai cấp địa chủ ra sức bóc lột người nghèo, coi sinh mạng như cỏ rác cho
đến bọn tham quan ỷ thế hà hiếp dân lành, làm nhiễu nhương đời sống. Trong
Giọt lệ phòng đào, Nguyễn Thị Thanh Hà đã khắc họa rất sống động tên quan
A.L hủ bại, dâm ô, hủy hoại không gian trường học. Trong Kiếp hoa thảm sử,
vợ chồng Ban Biện chính là những con mọt đục khoét, làm mòn nhân phẩm,
phá tan cột trụ vững chắc là giới hạn đạo đức đáng quý. Ngoài ra, khi cảnh
báo về sự gắn kết gia đình, các nhà văn nữ rất tinh ý khi lựa chọn mối quan
hệ: cha/ mẹ chồng- nàng dâu, mẹ kế- con chồng, vợ- chồng sính ngoại. Sự
lỏng lẻo giữa các giềng mối đặt ra nhiều câu hỏi về cả tình nghĩa và tình
người. Qua mỗi khắc họa đó, nhân vật tiểu thuyết càng hiện lên hết sức đáng
thương. Họ giống như những sản phẩm bị “tha hóa” bởi xã hội đầy rẫy phức
tạp và lộn xộn buổi giao thời. Như vậy, có một sự gắn kết rất chặt chẽ giữa
thông điệp tác phẩm và loại hình nhân vật phản ánh. Điều này trước hết tạo
một niềm tin đặc biệt đối với độc giả, sau đó khẳng định mối tương tác giữa

tư tưởng và nghệ thuật trong tiểu thuyết.
Mặt khác, kiểu nhân vật đời thường mà các nhà văn nữ Nam Bộ đã khắc họa
còn là hiện thân cho tiếng nói đạo lí của tác phẩm. Nó có phần giống với văn
học thời kì trước trong quan niệm “văn dĩ tải đạo”. Tuy nhiên, bằng sự uyển
chuyển, linh hoạt của mình, nhiều tác giả đã tránh lối viết cứng nhắc, khuôn
khổ mà thay vào đó là một thế giới tình nghĩa được diễn đạt rất chân thành,
mộc mạc.
Từ góc độ lòng trung quân- ái quốc, những người mẹ, người vợ hiện lên cùng
nỗi băn khoăn cho vận mệnh đất nước (bà Liên- Tấm gương trung hiếu,
Nguyệt Anh- Thẹn phận tuổi hồng). Nam giới cũng được đề cập, song không
giữ vai trò trung tâm mà trở thành đối tượng phụ trợ, góp phần nói lên tư
tưởng ấy. Ngoài ra, đạo lí này còn được thể hiện qua nhân vật Nguyệt Hương
(Cổ Nguyệt Hương) phò giá cứu chúa và Ngọc Mai (Một đời mấy thân) “một
mực đem thân thờ nước, hi sinh tính mạng để cướp lại giang san” [81; 43].
Khi xây dựng nhân vật mang nặng nghĩa tình đất nước này, điểm đáng chú ý
là các tác giả thường khắc họa hình ảnh người phụ nữmạnh mẽ, son sắt. Nam
giới xuất hiện khá khiêm tốn và thường chỉ được nhắc đến trong mối quan hệ
với nhân vật nữ. Phải chăng trên phương diện này, tiếng nói bênh vực phái
yếu đã được cất lên đầu tiên trong tương quan giữa cấu trúc tư tưởng và nghệ
thuật?
Từ góc độ quan hệ xã hội, tiếng nói đạo lí được gửi gắm vào những nhân vật
nghĩa tình, hết lòng bênh vực, giúp đỡ người nghèo khổ. Trong Lương duyên
túc đế, chàng Túc hiện lên là một con người thông minh, sáng suốt, nhân hậu.
Lần đầu tiên gặp nàng Hạnh, dù chưa biết rõ hoàn cảnh của nhau nhưng
chàng đã dâng lên niềm thông cảm sâu sắc. Từ đó, chàng quyết tâm giúp
nàng bằng những hành động lịch sự, tế nhị nhất có thể. Hay ở Duyên chàng
nợ thiếp, cuộc hội ngộ của Tĩnh Cương và Liêu Kim là nhờ sự giúp đỡ của vợ
chồng Lê Phước Chí: “Tôi nghe danh ông và hâm mộ ông đã lâu, muốn giúp
ông song chưa có dịp, nay nghe thằng em tôi thuật việc của ông, nên làm ra
một kế đặng giúp ông vậy thôi” [34; 92]. Ngoài ra, tiếng nói này còn thể hiện

qua thái độ của nàng Như Hoa khi đứng ra bênh vực bé Lành trước cơn thịnh
nộ, ỷ thế hiếp người của vợ Ban Biện. Gởi gắm vào nhân vật mình lòng tin về

×