1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội con người là chủ thể của
mọi hoạt động. Nguồn lực con người đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế. Ngày nay đứng trước xu thế hội nhập, toàn cầu hóa,
nền kinh tế thị trường phát triển chuyển nhanh thành nền kinh tế tri thức, việc
quan tâm chăm lo phát triển nguồn nhân lực, biết khai thác và sử dụng hợp lý,
hiệu quả nguồn lực này thì công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế tất sẽ
thành công.
Ngày nay chúng ta đang ở trong thời đại của công nghệ thông tin và nền
kinh tế thị trường đang chuyển thành nền kinh tế tri thức, do đó nguồn nhân lực
chất lượng cao càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết bởi chính lực lượng
này sẽ vươn lên làm chủ xã hội, làm chủ tri thức mới của toàn nhân loại.
Để xây dựng cơ sở vững chắc, làm tiền đề cho nền kinh tế phát triển bền
vững và ổn định xã hội, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế, xây
dựng một xã hội dân giầu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta
không chỉ học tập kinh nghiệm và tiếp thu sử dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật của các nước kinh tế phát triển trên thế giới mà chúng ta cần phải tập trung
khai thác và phát huy lợi thế sẵn có của mình trong đó nguồn nhân lực là trung
tâm. Vậy chúng ta cần làm gì để có được nguồn nhân lực chất lượng cao để có thể
thực hiện thắng lợi những mục tiêu mà Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XI đã đặt ra?
Thực trạng nguồn nhân lực hiện tại của tỉnh Bình Thuận ra sao trong nguồn nhân
lực của cả nước? Chúng ta cần tìm những giải pháp nào thích hợp với tình hình
phát triển kinh tế của tỉnh trong từng giai đoạn? Để huy động và tập trung nguồn
vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao,
đáp ứng nhu cầu đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh trong xu thế nền kinh
tế kinh tế thị trường chuyển sang nền kinh tế trí thức trong những năm tới.
Đó là những vấn đề chủ yếu cần phải giải đáp của đề tài : “Giải pháp tài
chính để phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2006 – 2010”.
2. Mục tiêu nghiên cứu .
Trên cơ sở các báo cáo phân tích đánh giá thực trạng nguồn nhân lực Việt
Nam của các Bộ, ngành trong thời gian qua và phân tích các tài liệu liên quan
đến công tác giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Thuận. Từ
đó đánh giá đúng thực trạng nguồn nhân lực, đánh giá đúng kết quả đã đạt được
trong công tác giáo dục đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh trong thời gian qua.
Mục tiêu là xác định các nhân tố tác động đến công tác giáo dục đào tạo nguồn
2
nhân lực, từ đó phát huy các nhân tố tích cực, tìm các giải pháp thích hợp nhằm
hạn chế các tác nhân tiêu cực để thúc đẩy quá trình giáo dục đào tạo phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao cung cấp cho các ngành kinh tế của tỉnh, nhằm
khai thác thế mạnh và huy động tối đa tiềm lực của tỉnh để phát triển nền kinh tế
- xã hội đạt được các mục tiêu mà Đại hội tỉnh đảng bộ lần thứ XI đề ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Người lao động – Nhà đào tạo - Người
sử dụng lao động, Nguồn đầu tư tài chính phát triển nguồn nhân lực. Phạm vi
nghiên cứu của đề tài là : Trên cơ sở nghiên cứu Lực lượng lao động của tỉnh,
Các cơ sở sản xuất của tỉnh, Hệ thống giáo dục trong địa bàn tỉnh (Nhưng tập
trung chủ yếu trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực sau phổ thông đó là các
Trung tâm đào tạo nghề, các Trường cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp).
4. Phương pháp nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực.
- Phương pháp nghiên cứu là thu thập những tài liệu trong và ngoài nước
liên quan đến vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phân
tích nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đế án, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp
đảm bảo tính khoa học.
- Tổ chức điều tra xã hội học trên 3 đối tượng : Người lao động – Nhà đào
tạo - Người sử dụng lao động. Kết quả điều tra nhằm xác định hiện trạng nguồn
nhân lực của tỉnh Bình Thuận – Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác đào
tạo nguồn nhân lực của tỉnh Bình Thuận – Tình hình sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội. Mặt khác nhằm đánh giá về điều kiện,
chất lượng đào tạo, nhu cầu số lượng, trình độ, cơ cấu của nguồn nhân lực, xu
hướng lao động - việc làm phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Những kết quả này là cơ sở quan trọng cho việc dự báo về nhu cầu nguồn nhân
lực và đề ra những giải pháp tài chính đầu tư phát triển nguồn nhân lực của tỉnh
giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010.
- Phân tích các số liệu và báo cáo thống kê phân loại và xử lý kết quả.
- Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
Tất cả mọi hoạt động có ích trong xã hội đều vì con người và do con người
thực hiện. Con người là chủ thể, là động lực phát triển của xã hội. Con người là
nguồn gốc là động lực của mọi quá trình phát triển xã hội.
Việc nghiên cứu đề tài “ Giải pháp tài chính để phát triển nguồn nhân lực
của tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2006 – 2010”. Nó có ý nghĩa khoa học là góp
phần nâng cao nhận thức của mọi người về vai trò vị trí và tầm quan trọng của
3
nguồn nhân lực trong quá trình thực hiện sự nghiệp phát triển nền kinh tế - xã
hội, trong đó con người là trung tâm.
Về ý nghĩa thực tiễn cho thấy đầu tư phát triển con người đó là đầu tư có
hiệu quả nhất không có đầu tư nào mang lại lợi ích lớn như đầu tư cho con
người. Đầu tư cho con người trong thời điểm hiện nay nó không chỉ mang tính
thời sự là đầu tư cho thế hệ đương thời mà nó còn là việc đầu tư lâu dài cho cả
thế hệ tương lai. Nên để nguồn vốn đầu tư mang lại hiệu quả cao cần phải xác
định đầu tư vào lĩnh vực nào trong các hoạt động của xã hội. Mọi hoạt động đầu
tư phát triển suy cho cùng đều là đầu tư phát triển con người, trong đó quan trọng
nhất, giữ vị trí quyết định nhất là đầu tư cho phát triển giáo dục đào tạo, vì đó là
một bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên đầu tư
phát triển nguồn nhân lực là đầu tư phát triển con người, trong thực tiễn muốn
đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội thì chúng ta phải quan tâm đến
vấn đề đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Ngày nay trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất
nước một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện thành công không có gì
khác là đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo.
6. Nét mới của đề tài nghiên cứu.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý, sử dụng nguồn vốn đầu tư vào công
tác đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh Bình Thuận. Một trong số các giải pháp
quan trọng đó là vấn đề đầu tư cho con người :
+ Khai thác các nguồn vốn để nâng cao mức thu nhập cho người tham gia
giảng dạy và đầu tư xây dựng cơ vật chất kỹ thuật của nhà trường. Vì chỉ có nâng
cao mức thu nhập thỏa đáng cho người tham gia giảng dạy mới phát huy tối đa
trí tuệ của người thầy trong học tập nghiên cứu nâng cao chất lượng giảng dạy.
Với kiến thức sâu và rộng người Thầy sẽ truyền đạt cho học viên tốt hơn nên
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực được nâng cao.
+ Xây dựng các Quỹ hỗ trợ vốn cho một số đối tượng thuộc diện chính
sách để họ có điều kiện tham gia học tập đào tạo nghề, làm cơ sở giải quyết tốt
vấn đề thất nghiệp hiện nay của tỉnh.
+ Đầu tư xây dựng trường Đại học đa ngành trong đó có nhiều hệ, nhiều
phân khoa khác nhau theo chức năng đào tạo hiện nay của các trường trực thuộc
tỉnh và Trung tâm dạy nghề tập trung không phân tán như hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương :
Chương 1: Tổng quan về đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
4
Hệ thống và khái quát lạimột số vấn đề lý luận liên quan đến nguồn nhân
lực, phát triển nguồn nhân lực, vai trò và sự cần thiết phải phát triển nguồn nhân
lực, tham khảo một số kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở một số nước có
nền kinh tế phát triển.
Chương 2: Thực trạng đào tạo, sử dụng và đầu tư phát triển nguồn nhân
lực ở tỉnh Bình Thuận.
Mô tả thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay. Đề tài làm rõ thực
trạng nguồn nhân lực của tỉnh Bình Thuận trên cơ sở đó tập trung phân tích ưu
điểm, hạn chế của việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở Bình Thuận, từ đó rút
ra những thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân làm cơ sở để đề ra giải pháp.
Chương 3: Giải pháp tài chính để phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình
Thuận giai đoạn 2006 – 2010.
Đề tài dựa trên số liệu điều tra dân số 1/4/1999 để dự báo nhu cầu lao
động cần đào tạo trong giai đoạn 2006 – 2010. Đề xuất một số giải pháp tài
chính nhằm thúc đẩy quá trình phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho nhiệm vụ
phát triển kinh tế của tỉnh trong giai đoạn 2006 – 2010.
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.1 Khái niệm và vai trò của nguồn nhân lực.
1.1.1 Khái niệm Nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng được hiểu là nguồn lực con người của
một quốc gia, một vùng lãnh thổ có khả năng huy động để tham gia vào quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực là một bộ phận cấu thành nguồn lực
tổng thể, bên cạnh các nguồn lực khác như nguồn lực vật chất, nguồn lực phi vật
chất và nguồn lực tài chính.
Theo nghĩa hẹp nguồn nhân lực có thể lượng hóa được là một bộ phận dân
số bao gồm những người trong độ tuổi lao động được pháp luật quy định (Luật
lao động Việt Nam quy định đủ 15 tuổi trở lên) có khả năng lao động hay còn
gọi là lực lượng lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực tại Đại hội lần thứ
VIII, Đảng ta đã nhấn mạnh : Đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh
tế. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển chung của nhiều nước
trên thế giới. Đó cũng là con đường tất yếu của nước ta để đi tới mục tiêu “Dân
giầu nước mạnh. Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Công nghiệp hóa- Hiện
đại hóa đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và
nó phải trở thành động lực thực sự của sự phát triển. Phát triển nguồn nhân lực là
một nhiệm vụ tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới.
Nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế -
xã hội trong thời đại hiện nay. Ngày nay các Quốc gia trên thế giới đều quan tâm
nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, mỗi quốc gia trên thế giới lại
có quy định khác nhau về nguồn nhân lực.
Mặc dù có sự khác nhau trong quan niệm về nguồn nhân lực giữa các quốc gia
trên thế giới, nhưng nhìn chung, nguồn nhân lực được xem xét dưới hai góc độ là số
lượng và chất lượng của bộ phận dân cư tham gia vào các hoạt động kinh tế-xã hội.
1.1.2 Vai trò của nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế
thế giới đang có xu hướng chuyển từ nền kinh tế thị trường sang nền kinh tế tri
thức thì nguồn lực con người trở thành động lực chủ yếu cho sự phát triển.
6
- Nguồn nhân lực là động lực phát triển của xã hội : Trong sự phát triển
của nền kinh tế - xã hội, nhân tố con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển. Hai đặc điểm này có mối quan hệ hữu cơ với nhau tác động qua lại
với nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Lịch sử phát triển của xã hội loài
người đã trải qua hàng ngàn năm và trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau, từ hình thái kinh tế - xã hội có trình độ phát triển thấp tới hình thái kinh tế
- xã hội có trình độ phát triển cao ( từ hình thái kinh tế cộng sản nguyên thủy –
Chiếm hữu nô nệ - Phong kiến - Tư bản - Cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ
nghĩa xã hội). Các hình thái kinh tế - xã hội phản ánh mối quan hệ tác động lẫn
nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, theo quy luật : Quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi
quan hệ sản xuất còn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất thì thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. Ngược lại khi quan hệ sản
xuất không còn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thì nó kìm hãm nền kinh tế - xã hội chậm phát triển. Chúng ta đi sâu nghiên
cứu mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất thì lực lượng sản xuất là nhân tố luôn luôn động, nhân tố cách mạng
nhất, còn quan hệ sản xuất ít biến động hơn. Quá trình vận động và phát triển của
lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của nguồn nhân lực trong xã hội,
nó được biểu hiện thông qua quá trình phát triển của công cụ lao động. Công cụ
lao động ngày càng phát triển năng xuất lao động ngày càng tăng đưa nền kinh tế
xã hội phát triển không ngừng, sự phát triển này đòi hỏi quan hệ sản xuất phải
thay đổi để phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nhưng trong
thực tế quan hệ sản xuất vận động chậm hơn không theo kịp tốc độ phát triển của
lực lượng sản xuất nó trở nên nhân tố kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế - xã
hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất tới một giới hạn nhất định nó phá vỡ
mối quan hệ ấy theo quy luật lượng - chất (lượng đổi thì chất đổi), hình thành
quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất thông qua cuộc cách mạng xã hội nhằm xoá bỏ hình thái kinh tế - xã hội
cũ lạc hậu, hình thành nên hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn. Đến lượt
nó quan hệ sản xuất mới hình thành lại đòi hỏi lực lượng sản xuất phải phát triển
lên một nấc thang mới cao hơn để thích hợp với quan hệ sản xuất mới, quá trình
vận động, phát triển ấy thúc đẩy xã hội phát triển lên một nấc thang mới cao hơn.
Tương ứng với sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, trình độ của con
người cũng phát triển, phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện. Để tồn tại và phát triển, con người cần phải có cái ăn, cái mặc, cần được
7
đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng tăng, những nhu cầu đó của
con người tăng dần theo năm tháng cả về số lượng cũng như chất lượng. Để có
thể đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của con người thì năng xuất lao động
– xã hội phải tăng tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Quá trình ấy là quá trình
tích lũy kinh nghiệm sản xuất của con người trong việc cải tiến công cụ lao động
tạo ra năng xuất lao động – xã hội ngày càng cao, tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng
nhu cầu của con người. Việc cải tiến công cụ lao động của con người thể hiện từ
việc con người ban đầu chỉ chế tạo và sử dụng những công cụ thô sơ như các
công cụ bằng đá phục vụ cho việc săn bắt và trồng trọt, chăn nuôi, qua thời gian
phát triển con người đã chế tạo được các công cụ bằng kim loại như cầy , cuốc,
giáo mác v.v… từ chế tạo được những công cụ thủ công tiến tới chế tạo được
máy móc thiết bị bán tự động, đến tự động phục vụ con người trong quá trình sản
xuất tạo ra của cải vật chất phục vụ đời sống của mình. Mọi nền sản xuất xã hội,
xét đến cùng đều nhằm phục vụ con người. Sản xuất càng phát triển, càng có
nhiều sản phẩm để đáp ứng đầy đủ hơn cho con người. Chính sự đòi hỏi cần phải
đáp ứng cho các nhu cầu của con người trong điều kiện nguồn lực kinh tế xã hội
có hạn đã thúc đẩy con người phải không ngừng nâng cao khả năng lao động sáng
tạo của mình để phục vụ cho chính mình. Qua việc nghiên cứu quá trình phát triển
về các công cụ sản xuất của xã hội loài người, cải tiến chế tạo công cụ lao động
mang lại năng xuất lao động cao hơn trước đánh dấu sự phát triển trí tuệ của con
người, đó là quá trình phát triển của nguồn nhân lực xã hội. Khi trí tuệ của con
người phát triển thì các công cụ lao động cũng phát triển và làm cho năng xuất lao
động xã hội tăng nhanh, của cải vật chất của xã hội ngày càng nhiều về số lượng
cũng như chủng loại, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho nhu cầu ngày càng tăng của
con người. Sự gia tăng sản phẩm của xã hội đánh dấu các nấc thang phát triển của
xã hội từ bậc thấp đến bậc cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh
tế - xã hội khác cao hơn. Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của xã hội loài
người gắn liền với sự phát triển của công cụ sản xuất và sự gia tăng của năng xuất
lao động đã chứng minh rằng quá trình phát triển nguồn nhân lực là động lực phát
triển của nền kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển của xã hội loài nguời, là động lực phát triển của xã hội. Lịch sử
phát triển của xã hội loài người đã để lại cho chúng ta bài học kinh nghiệm quý
báu đó là muốn có nền kinh tế - xã hội phát triển thì phải có con người phát triển
cả về thể lực và trí lực, vận dụng quan điểm ấy Hồ Chủ Tịch dậy thanh niên Việt
Nam là :” Muốn có Chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Sự
8
phát triển thể lực và trí lực của con người đã thúc đẩy sự phát triển của toàn xã
hội. Nguồn nhân lực đóng vai trò là động lực phát triển của xã hội.
- Nguồn nhân lực thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển nền kinh tế;
Đặc biệt là giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thế giới chuyển từ nền kinh tế thị
trường sang nền kinh tế tri thức thì nguồn nhân lực con người trở thành động lực
chủ yếu cho sự phát triển. Nguồn nhân lực phát triển đã tác động đến việc tăng
năng xuất lao động xã hội, tăng tổng sản phẩm xã hội, sự gia tăng tổng sản phẩm
xã hội là quá trình tăng trưởng kinh tế. Trong thực tế chúng ta nghiên cứu nền
kinh tế thế giới trong những năm 1950 và 1960, tăng trưởng kinh tế chủ yếu là
do công nghiệp hóa, vốn cũng đóng một vai trò nhất định trong quá trình tăng
trưởng kinh tế, vì có vốn mới đầu tư xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, công nghệ tiên tiến, từ đó năng xuất lao động xã hội tăng nhanh thúc đẩy tốc
độ tăng trưởng kinh tế của toàn xã hội. Nhưng chúng ta biết nếu có cở sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến mà không có con người vận hành thì chúng
chỉ là những vật vô dụng, bởi thế sự tăng trưởng kinh tế thì nguồn vốn chỉ được
coi như yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất góp phần nhỏ bé trong sự tăng
trưởng ấy. Phần chủ yếu và rất quan trong trong sản phẩm thặng dư của nền kinh
tế tri thức là trí tuệ của con người. Ngày nay trí tuệ của con người ngày càng
chiếm tỷ trọng cao trong sản phẩm. Sản phẩm lao động gắn liền với chất lượng
của nguồn nhân lực (trình độ giáo dục, sức khỏe, mức sống của người lao động).
Sự gia tăng năng xuất lao động tác động đến tổng thu nhập quốc dân tăng và tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế tăng. Từ đó ta thấy nguồn nhân lực là một nhân tố đóng vai
trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
- Nguồn nhân lực thúc đẩy công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế;
Khái niệm công nghiệp hóa có thể được tiếp cận dưới nhiều giác độ khác nhau
tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Ở thời kỳ bao cấp, công nghiệp hóa được xem là quá trình trang bị kỹ
thuật hiện đại cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thay thế lao động thủ công bằng
lao động cơ giới và biến một nước kém phát triển thành một nước có cơ cấu kinh
tế công, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Hiện nay, theo tổ chức
phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc: Công nghiệp hóa là quá trình kinh tế
trong đó có một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để
xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại chế tạo ra tư liệu
sản xuất, hàng tiêu dùng,có khả năng bảo đảm nhịp độ tăng trưởng cao và sự tiến
bộ về kinh tế - xã hội.
9
Theo tinh thần Hội nghị Trung ương VII, khóa VII của Đảng ta, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng lao động cùng với công nghệ, phương tiện
tiên tiến để nâng cao năng xuất lao động xã hội. Vậy có thể hiểu một cách cô
đọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình biến một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, kỹ thuật thủ công, lao động giản đơn là chính thành nền kinh tế
có công nghiệp hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, lao động có trình độ chuyên môn cao.
Lý luận và thực tiễn cho thấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quy luật phổ
biến mà mọi quốc gia đều phải trải qua dù ở các quốc gia phát triển sớm hay các
quốc gia đi sau. Lịch sử phát triển nhân loại cho thấy, chưa có quốc gia nào phát
triển nhanh, bền vững mà lại không trải qua quá trình tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình tạo
ra xung lực mạnh mẽ cho nền kinh tế, là đòn bảy quan trọng tạo ra sự phát triển
đột biến trong các lĩnh vực hoạt động của con người. Thông qua công nghiệp hóa,
hiện đại hóa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân được trang bị những
tư liệu sản xuất hiện đại thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Ứng với mỗi
nền sản xuất có một cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định phù hợp với quan hệ sản
xuất nó là nguồn lực của sự phát triển nền kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Khi nghiên cứu các nguồn lực cơ bản của sự phát triển chúng ta thường
quan tâm đến hai nguồn lực chủ yếu đó là : Nguồn lực tự nhiên - Nguồn lực con
người. Nguồn lực tự nhiên đó là khái niệm để chỉ về các nguồn lực sẵn có trong
tự nhiên, nó như một món quà mà thiên nhiên ban tặng cho con người như : đất
đai, nước, khoáng sản, và các điều kiện tự nhiên khác. Nhưng món quà mà thiên
nhiên ban tặng cho con người nó có giới hạn nhất định, bất biến và ngày càng
giảm do quá trình khai thác sử dụng của con người, đây là nguồn lực không phải
là vô tận để con người có thể tận hưởng mãi mãi mà nó sẽ tiến dần tới không. Do
vậy vai trò của nguồn lực này trong quá trình phát triển của nền kinh tế - xã hội
cũng giảm theo thời gian. Từ đó vai trò của nó tác động đến quá trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa nền kinh tế cũng ngày càng giảm. Như vậy để duy trì sự phát triển
ngày càng tăng của nền kinh tế - xã hội thì xã hội phải có một nguồn lực nào đó để có
khả năng thay thế cho sự giảm sút của nguồn lực tự nhiên? Nguồn lực đó chính là
nhân tố nguồn lực con người, vì nhân tố này theo lịch sử để lại nó ngày càng tăng
theo thời gian. Do tính chất của nguồn lực con người mang tính vô hạn, nó không bị
mất đi cũng không bị cạn kiệt trong quá trình sử dụng, trái lại nguồn lực con người
ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Trong quá trình sử
10
dụng nguồn lực con người thì kinh nghiệm, trí tuệ của con người ngày càng tăng, nó
được tích lũy và lưu truyền từ đời này qua đời khác, theo thời gian trí tuệ của con
người chỉ có tăng mà không có giảm, đây là ưu thế hơn hẳn so với nguồn lực tự
nhiên. Khi trí tuệ của con người phát triển ở trình độ cao việc sử dụng các nguồn lực
tự nhiên cho sản phẩm tiết kiệm hơn, hiệu quả hơn đã khắc phục được phần nào
nhược điểm của nguồn lực tự nhiên ngày càng giảm do vậy đã duy trì được tốc độ
phát triển của nền kinh tế - xã hội. Trước đây ở các nước Tư bản có nền kinh tế phát
triển để xoa dịu cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và người lao động với các nhà
Tư bản các học giả tư sản cho rằng sản phẩm thặng dư là do khoa học kỹ thuật – công
nghệ cao mà có chứ nhà Tư bản không bóc lột công nhân và người lao động, Họ
đánh giá cao vai trò của khoa học kỹ thuật – công nghệ và cho nó thuộc các nguồn
lực tự nhiên. Ngày nay khi nền kinh tế thế giới phát triển chuyển dần sang nền kinh tế
tri thức thì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đánh giá cao vai trò của nguồn lực
con người. Theo một số báo cáo nghiên cứu của các nhà kinh tế học thì trong sản
phẩm, nguồn lực con người chiếm 1/3 giá trị của sản phẩm. Để có thể tiếp nhận và
chuyển giao khoa học kỹ thuật từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ
khác và từ nền kinh tế phát triển sang nền kinh tế chậm phát triển cần phải có con
người có kỹ thuật lành nghề, có trình độ khoa học để thực hiện quá trình chuyển giao
ấy. Điều đó có nghĩa là kết quả chuyển giao công nghệ phụ thuộc trực tiếp vào chất
lượng của nguồn nhân lực Hay nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản của qúa trình
chuyển giao, nó quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Mặt khác khi nguồn nhân lực của đất nước có trình độ khoa học kỹ
thuật cao nó tạo nên khả năng thu hút vốn đầu tư của các quốc gia phát triển khác
khắc phục tình trạng thiếu vốn đầu tư trong nước và thiếu kinh nghiệm quản lý và sử
dụng vốn hiệu quả. Nguồn lực con người trở thành nguồn lực cơ bản nhất, quan trọng
nhất để thực hiện công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế - xã hội.
1.2 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
1.2.1 Ý nghĩa của việc phát triển nguồn nhân lực
Như trên đã phân tích nguồn nhân lực có một vị trí và vai trò rất to lớn
trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội của một quốc gia. Nguồn nhân lực
là nguồn tài sản vô giá của mỗi quốc gia, phát triển nguồn nhân lực là sự gia tăng
tài sản của quốc gia, (gia tăng nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng).
Phát triển nguồn nhân lực về số lượng có thể được hiểu là sự gia tăng về
số lượng lao động trong một quốc gia. Số lượng nguồn nhân lực được xác định
bởi các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ tăng của nguồn nhân lực. Ví dụ như nguồn
nhân lực tại một thời điểm xác định là bao nhiêu? chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần
11
trăm trong tổng dân số, tăng trưởng bao nhiêu phần trăm một năm.v.v…Các chỉ
tiêu ảnh hưởng trực tiếp của quy mô và tốc độ phát triển của dân số. Theo từ điển
thuật ngữ của Pháp (1977-1985), nguồn nhân lực xã hội bao gồm những người
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và mong muốn có việc làm. Như
vậy, theo quan điểm này thì những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao
động nhưng không muốn có việc làm thì không được xếp vào nguồn nhân lực xã
hội, mà chỉ được xếp vào nguồn nhân lực xã hội khi người đó thực sự mong
muốn có việc làm. Còn ở Úc lại xem nguồn nhân lực là toàn bộ những người
bước vào tuổi lao động, có khả năng lao động. Trong quan niệm này không có
giới hạn trên về tuổi của nguồn nhân lực. Ở Việt nam, theo cách xác định của
Tổng Cục thống kê, nguồn nhân lực xã hội bao gồm những người trong độ tuổi
lao động, có khả năng lao động, ở đây có tính thêm cả lao động trẻ em và lao
động của người cao tuổi (nhưng luật pháp chỉ quy định tuổi lao động bắt đầu từ
15 cho đến 55 tuổi đối với Nữ và 60 tuổi đối với Nam).
Do có quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực, nên việc xác định quy mô
và tốc độ tăng của nguồn nhân lực ở các quốc gia khác nhau cũng có sự khác
biệt. Trong nguồn nhân lực của Pháp, theo từ điển thuật ngữ (1977-1985) không
tính lao động trẻ em và lao động cao tuổi, còn theo quan niệm của một số quốc
gia khác như Úc thì nguồn lao động không giới hạn về tuổi… Tuy nhiên, sự khác
biệt đó không lớn, bởi lẽ, trong nguồn nhân lực xã hội thì những người trong độ
tuổi lao động và những người có khả năng lao động chiếm một tỷ lệ đa số.
Phát triển nguồn nhân lực về chất lượng có thể hiểu đó là sự gia tăng về
trình độ học vấn cho người lao động, gia tăng về lượng hưởng thụ do các lợi ích
xã hội mang lại, gia tăng về chăm sóc sức khỏe y tế của cộng đồng v.v… nói
chung là gia tăng về chất lượng cuộc sống của người lao động. Chất lượng nguồn
nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể hiện mối quan hệ giữa
các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng
nguồn nhân lực không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà
còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất
lượng nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ
là nguồn lực của sự phát triển, mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội
nhất định. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua một số hệ thống các chỉ
tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe của dân cư.
Sức khỏe là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không
phải đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khỏe là tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên
12
giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. có nhiều chỉ tiêu biểu
hiện trạng thái về sức khỏe, như cân nặng; chiều cao; vòng ngực; mắt; tai mũi
họng; răng hàm mặt; nội khoa; ngoại khoa; thần kinh tâm thần; da liễu v.v… Bên
cạnh đánh giá về sức khỏe của người lao động người ta còn chú ý tới một số chỉ
tiêu khác như : Tỷ lệ sinh thô, chết thô, tỷ lệ tăng tự nhiên; tỷ lệ tử vong ở trẻ em
dưới 1 tuổi, và dưới 5 tuổi; Tỷ lệ sinh cân thấp; Tỷ lệ dừng mức sinh; Tỷ lệ
GDP/đầu người; Cơ cấu giới tính, tuổi tác v.v…
- Chỉ tiêu phản ánh trình độ văn hóa của người lao động.
Trình độ văn hóa của người lao động là sự hiểu biết của người lao động đối
với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trong chừng mực nhất định
trình độ văn hóa của dân số biểu hiện mặt bằng dân trí của quốc gia đó. Trình độ
văn hóa được biểu hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ như : Số lượng người biết chữ
và chưa biết chữ; Số người có trình độ tiểu học; Số người có trình độ trung học cơ
sở; Số người có trình độ trung học phổ thông; Số người có trình độ Đại học và trên
đại học, v.v… Trình độ văn hóa của dân số hay của nguồn nhân lực là một chỉ tiêu
hết sức quan trọng phản ánh chất lượng của nguồn nhân lực và có tác động mạnh
mẽ tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Người lao động có trình độ văn hóa cao
tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào thực tiễn lao động sản xuất và cuộc sống.
- Chỉ tiêu phản ánh trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động.
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về một chuyên
môn nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường Trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học, hoặc có khả năng chỉ đạo quản lý một
công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Trình độ chuyên môn của nguồn nhân
lực được đo bằng tỷ lệ (%) người lao động được đào tạo trong tổng số nguồn nhân
lực như : (Trung cấp; Cao đẳng; Đại học; Trên đại học) trong tổng số nguồn nhân
lực. Trong trình độ chuyên môn người ta có thể phân chia thành những chuyên
môn hẹp theo ngành kinh tế kỹ thuật – khoa học xã hội và nhân văn v.v…
Trình độ kỹ thuật của người lao động thường để dùng chỉ trình độ của
người lao động được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất
định, những kỹ năng thực hành công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật của nguồn
nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu : Số lao động được đào tạo và lao
động phổ thông; Số lao động có bằng kỹ thuật và không có bằng; Trình độ tay
nghề theo bậc thợ của người lao động.
13
Trình độ chuyên môn và trình độ kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với
nhau thông qua chỉ tiêu số lượng lao động được đào tạo và không được đào tạo
trong từng tập thể nguồn nhân lực.
- Chất lượng nguồn nhân lực còn được thể hiện thông qua chỉ số phát
triển con người (HDI- Human Development Index).
Chỉ số này được tính bởi ba chỉ tiêu chủ yếu là : Tuổi thọ bình quân; Thu
nhập bình quân đầu người (GDP/người); Trình độ học vấn (tỷ lệ người biết chữ
và số năm đi học bình quân của dân cư).
Như vậy phát triển nguồn nhân lực có một ý nghĩa rất to lớn trong sự phát
triển của xã hội đó là :
- Phát triển nguồn nhân lực là tiền đề, động lực cho quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia.
- Phát triển nguồn nhân lực là tiền đề của tăng trưởng nền kinh tế - xã hội,
tiền đề và động lực của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế.
- Phát triển nguồn nhân lực là kết quả của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với Việt Nam :
- Phát triển nguồn nhân lực là tiền đề để xoá đói giảm nghèo, nâng cao
mức sống của toàn xã hội, Thực hiện thành công cuộc cách mạng công nghiệp
hóa - hiện đại hóa nền kinh tế đất nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo
nàn lạc hậu . Xây dựng đất nước Dân giầu - nước mạnh - Xã hội Công bằng –
Dân chủ - Văn minh. Đưa nước ta đến năm 2020 trở thành một nước công
nghiệp phát triển.
1.2.2 Một số yếu tố tác động đến nguồn nhân lực.
- Điều kiện tự nhiên – xã hội tác động đến nguồn nhân lực.
Nghiên cứu điều kiện tự nhiên của một quốc gia cho chúng ta thấy những
yếu tố thuận lợi, khó khăn của quốc gia đó về phát triển kinh tế - xã hội.
Xét về khí hậu : Khí hậu của một quốc gia, hay vùng lãnh thổ, thuận lợi
hay khắc nghiệt, thích nghi cho phát triển sản xuất những cây, con gì? Các mặt
tiêu cực của điều kiện tự nhiên tác động kìm hãm nền kinh tế phát triển trên lĩnh
vực nào v.v… Từ sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và khí hậu tác động đến
sự phát triển của nền kinh tế quốc gia, vùng lãnh thổ, đồng thời nó cũng tác động
mạnh đến nguồn nhân lực theo hướng tích cực thì nguồn nhân lực được phát
triển, còn theo hướng tiêu cực thì nguồn nhân lực phát triển chậm hay không
được phát triển. Ảnh hưởng đó thể hiện rõ nét nhất ở việc di dân tự do (dân di cư
từ vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn, khắc nghiệt đến vùng có điều kiện thuận
lợi hơn) làm cho nguồn nhân lực ở vùng có khí hậu thuận lợi tăng nhanh về số
14
lượng còn vùng có khí hậu khắc nghiệt thì giảm nhanh về số lượng. Mặt khác ở
vùng có khí hậu thuận lợi kinh tế phát triển nhanh hơn ở vùng có khí hậu khắc
nghiệt đó là điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cụ thể ở vùng
kinh tế phát triển thì chất lượng nguồn nhân lực tăng nhanh hơn còn vùng kinh tế
chậm phát triển thì chất lượng nguồn nhân lực tăng chậm hơn.
Xét về tài nguyên khoáng sản : Ở đa số các quốc gia, vùng lãnh thổ giầu tài
nguyên thiên nhiên thì ở nơi đó có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nhanh
hơn (trừ một số nước đặc biệt như Nhật Bản), ngược lại ở các quốc gia, vùng lãnh
thổ nghèo tài nguyên khoáng sản kinh tế phát triển chậm hơn, nhân tố này đã tác
động đến việc phát triển nguồn nhân lực về số lượng cũng như về chất lượng.
Xét về điều kiện địa hình : Điều kiện địa hình của các vùng, miền khác
nhau thì phát triển khác nhau. Do địa hình việc phát triển mạng lưới giao thông
của các vùng đồng bằng thuận lợi hơn vùng núi. Nên giao lưu kinh tế ở vùng
đồng bằng thuận lợi hơn vùng núi kết quả cho thấy kinh tế vùng đồng bằng phát
triển nhanh hơn vùng núi. Do đó đây cũng là một nguyên nhân tác động trực tiếp
đến phát triển nguồn nhân lực.
Xét về vùng lãnh thổ : Khu vực thành thị có nền trình độ văn hóa phát triển
hơn vùng nông thôn, nơi tập trung những trung tâm văn hóa, ở khu vực này kinh
tế phát triển nhanh và cao hơn vùng nông thôn. Ở Việt Nam sự phát triển không
đồng đều giữa các vùng, đặc biệt giữa nông thôn và thành thị, các khu công
nghiệp lớn tập trung như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Hải
Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ …cũng tạo nên dòng người lao động di cư cơ học về
các khu vực này làm cho lao động tăng cơ học.
Xét về điều kiện xã hội: Ở nước ta mấy năm gần đây tốc độ đô thị hóa
tăng, đất đai dành cho nông nghiệp thu hẹp, hàng năm có tới trên 2 triệu người từ
nông thôn ra thành phố để kiếm việc làm, tỷ lệ thất nghiệp tăng cụ thể năm 1997
là 6,01% ; năm 1998 là 6,85% ; năm 1999 là 7,4%. Theo số liệu thống kê không
đầy đủ trên toàn quốc về số lao động không có việc làm do chuyển đổi mục đích
sử dụng đất trong nông nghiệp ở một số tỉnh tính đến tháng 12/2004 cụ thể :
- Thành phố Hải Phòng : 13.274 người không có việc làm.
- Tỉnh Hà Nam : 12.360 người không có việc làm.
- Tỉnh Hải Dương : 11.964 người không có việc làm.
- Tỉnh Bắc Ninh : 2.222 người không có việc làm.
- Tỉnh Tiền Giang : 1.459 người không có việc làm.
- Tỉnh Quảng Ninh : 997 người không có việc làm.
15
Về sử dụng thời gian lao động : Theo số liệu báo cáo của Tổng cục thống
kê tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của dân số hoạt động kinh tế thường
xuyên khu vực nông thôn đặc trưng của các vùng miền trong cả nước trên niên
giám thống kê năm 2004 (Bảng I.1). Số liệu đó cho thấy ở khu vực nông thôn
luôn tiềm ẩn lao động dôi dư sẵn sàng bổ sung vào lực lượng lao động của toàn
xã hội, làm cho nguồn nhân lực luôn có xu hướng tăng về số lượng.
Bảng I.1 : TỶ LỆ THỜI GIAN LAO ĐỘNG ĐƯỢC SỬ DỤNG
CỦA DÂN SỐ
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ THƯỜNG XUYÊN
KHU VỰC NÔNG THÔN NĂM 2004
Tỷ lệ %
Từ đủ 15 tuổi trở lên Trong độ tuổi lao động
Tổng số
Trong đó:
Nữ
Tổng số Trong đó: Nữ
Cả nước 79,34 76,26 79,10 78,99
Đồng bằng sông Hồng 80,39 79,71 80,21 79,48
Đông Bắc 78,90 79,29 78,68 79,04
Tây Bắc 77,61 77,72 77,42 77,55
Bắc Trung Bộ 76,55 76,09 76,13 75,66
Duyên hải Nam Trung
Bộ 79,36 79,10 79,11 78,72
Tây Nguyên 80,80 80,94 80,60 80,76
Đông Nam Bộ 81,56 82,34 81,34 82,12
Đồng bằng sông Cửu
Long
78,66 78,22 78,37 77,82
(Nguồn : Niên giám thống kê 2004 của Tổng Cục Thống Kê)
Khi tỷ lệ thất nghiệp tăng cộng với tỷ lệ sử dụng thời gian lao động giảm
làm cho lao động luôn có xu hướng tăng về số lượng và tăng nhanh hơn tốc độ
tăng việc làm, đã thúc đẩy quá trình cạnh tranh trong tìm kiếm việc làm tăng, dẫn
đến chất lượng nguồn nhân lực tăng.
Xét về vấn đề dân tộc : Vùng lãnh thổ dân tộc đa số sinh sống so với vùng
lãnh thổ của các dân tộc thiểu số trong một quốc gia thì trình độ phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội ở các vùng dân tộc đa số phát triển nhanh hơn. Trình độ dân
trí của người lao động ở vùng dân tộc đa số thường cao hơn vùng dân tộc thiểu
số, đây cũng là một tác nhân tác động đến chất lượng nguồn nhân lực.Từ các vấn
đề xã hội trên cho chúng ta thấy sự ảnh hưởng của nó đến quá trình phát triển
nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng vô cùng to lớn.
- Tác động của dân số đến nguồn nhân lực.
16
Nguồn nhân lực của một quốc gia trước hết phải nói đó là số lượng lao
động có khả năng lao động – có trình độ văn hóa chuyên môn nghiệp vụ. Như
trên đã phân tích chất lượng của nguồn nhân lực và các tác động đến chất lượng
nguồn nhân lực. Xét về số lượng nguồn nhân lực thì số lượng nguồn nhân lực
phụ thuộc chủ yếu vào tổng dân số của quốc gia hay địa phương đó, tỷ lệ tăng
dân số hợp lý là tỷ lệ mà ở đó số lượng tăng dân số và tốc độ phát triển của nền
kinh tế phải phù hợp. Do vậy dân số ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng nguồn
nhân lực, điều chỉnh tỷ lệ tăng dân số sao cho phù hợp với tốc độ phát triển của
nền kinh tế nhằm đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu vật chất và tinh thần cho số
dân cư hiện có (nâng cao chất lượng nguồn nhân lực), đảm bảo cung cấp đủ số
lượng lao động cho hiện tại và trong tương lai. Theo đánh giá thực trạng huy
động nguồn nhân lực của nước ta hiện nay thì : Tổng nguồn lực lao động nước
ta có quy mô khoảng 40 triệu người, hàng năm tăng bình quân là 3% (cao hơn
tốc độ tăng dân số).
Cơ cấu dân số xét trên nhiều tiêu chí khác nhau như giới tính (tỷ lệ
Nam/Nữ, Thành thị/Nông thôn, Đồng bằng/Miền núi) v.v… Hiện nay tổng
nguồn lực lao động của Việt Nam phân bố không đồng đều.
Về cơ cấu giới tính : Phụ thuộc nhiều vào tập tục xã hội của mỗi dân tộc,
mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa. Tư tưởng trọng Nam khinh nữ sẽ dẫn đến Nam
nhiều hơn Nữ (Trung Quốc), trước mắt thì lực lượng lao động cung cấp cho xã
hội đảm bảo cả về số lượng và chất lượng, nhưng về lâu dài nó không đáp ứng
đủ số lượng lao động cung cấp cho xã hội, tâm lý người lao động bị tác động lớn
do không cân bằng giới tính dẫn tới số lượng và chất lượng lao động bị giảm sút.
Xét về cơ cấu dân số thành thị/Nông thôn : Phụ thuộc vào tốc độ phát triển
các đô thị tốc độ phát triển càng cao lực hút lao động từ nông thôn về thành thị
càng lớn, dẫn tới số lượng lao động thành thị cao hơn nông thôn. Ngoài ra cơ cấu
này còn phụ thuộc vào chính sách phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nhưng nhìn
chung khi cơ cấu Thành thị/Nông thôn >1 thì nuớc đó đang chuyển mình về
nhóm các quốc gia công nghiệp có tốc độ phát triển kinh tế cao, tác động đến
chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao do sớm tiếp cận và hưởng thụ thành
quả mới nhất của các nền văn hóa, văn minh trên thế giới. Mặt khác người lao
động luôn được đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần do năng xuất
lao động xã hội tăng nhanh, nên chất lượng nguồn nhân lực cũng tăng nhanh
không chỉ ở thế hệ hiện tại mà ngay cả thế hệ tương lai.
Đối với Việt Nam từ sau ngày miền nam hoàn toàn giải phóng (1975), Chính
phủ rất quan tâm đến công tác dân số, hạ thấp tỷ lệ tăng dân số tự nhiên tăng khả
17
năng đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng của người lao động góp phần nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Mặt khác tốc độ phát triển kinh tế chậm hơn so với tốc
độ phát triển dân số khả năng đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng của người lao
động ngày càng giảm tác động tiêu cực đến nguồn nhân lực chất lượng giảm.
Đối với tỉnh Bình Thuận theo số liệu điều tra dân số năm 1999, toàn tỉnh có
37 dân tộc trong đó người kinh chiếm 93%, còn lại các dân tộc Chăm, Racglay,
Hoa v.v …, mật độ dân số thấp so với vùng Đông nam bộ và cả nước trong đó
thấp nhất là huyện Bắc Bình với 60 người / Km
2
. Cơ cấu dân số của tỉnh Bình
Thuận là cơ cấu dân số trẻ, cơ cấu dân số đang tiến dần tới sự cân bằng giữa Nam
và Nữ, cơ cấu dân số thành thị và nông thôn tăng nhanh tính từ năm 2000 trở lại
đây do tốc độ đô thị hóa của tỉnh tăng nhanh. Từ đó cũng tác động tích cực đến
quá trình phát triển nguồn nhân lực của tỉnh.
- Tác động của tốc độ phát triển kinh tế.
Tốc độ phát triển của nền kinh tế càng cao chứng tỏ khả năng áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ mới của các ngành kinh tế càng nhiều, do đó việc
sử dụng lao động giảm đã tác động xấu đến nguồn nhân lực làm gia tăng số lượng
lao động mất việc làm. Để duy trì tốc độ phát triển của nền kinh tế - xã hội, giải
quyết số lao động dư trên vấn đề đặt ra cho xã hội là phải phát triển nhiều ngành,
nhiều nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau từ đó xuất hiện nên nhu cầu mới về sử dụng
lao động của xã hội nên lúc này nó lại tác động tích cực đến nguồn nhân lực, thu hút
lao động phát triển các ngành nghề, giải quyết được công ăn việc làm cho người lao
động làm cho nguồn nhân lực có việc làm tăng nhanh về số lượng. Do vậy xét ở
từng thời điểm khác nhau của quá trình phát triển thì tốc độ phát triển kinh tế tác
động đến nguồn nhân lực ở các thời điểm khác nhau thì khác nhau. Ở trên ta mới
nghiên cứu sự tác động của tốc độ phát triển kinh tế đến số lượng nguồn nhân lực.
Khi xem xét sự tác động của tốc độ phát triển kinh tế đến chất lượng nguồn nhân
lực ta thấy: Tốc độ phát triển của nền kinh tế càng cao chứng tỏ khả năng áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới của các ngành kinh tế càng nhiều, để
đáp ứng với trình độ phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật đó đòi hỏi người lao
động phải có một trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật tương xứng vận hành do
vậy làm cho chất lượng nguồn nhân lực tăng. Mặt khác khi tốc độ phát triển của nền
kinh tế càng cao, năng xuất lao động xã hội tăng nhanh, sản phẩm lao động thặng
dư trong xã hội ngày càng nhiều, thu nhập bình quân GDP/đầu người tăng. Điều đó
cho ta thấy nền kinh tế - xã hội có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của
người lao động về vật chất và tinh thần tốt hơn, bền vững hơn, trong đó có nhu cầu
18
về học tập nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật của người lao động tăng
cao đây là điều kiện để chất lượng nguồn nhân lực tăng.
- Tác động của giao lưu kinh tế toàn cầu.
Trong xu thế hội nhập toàn cầu về kinh tế và đường lối phát triển nền kinh
tế theo cơ chế thị trường ắt dẫn tới cạnh tranh. Cạnh tranh là quy luật kinh tế gắn
liền với nền kinh tế thị trường. Trong đó có cạnh tranh giữa các ngành nghề,
cạnh tranh giữa các lĩnh vực khác nhau, cạnh tranh giữa quốc gia này với các
quốc gia khác ngày càng trở nên gay gắt, để giành chiến thắng trong các cuộc
cạnh tranh bắt buộc các ngành, các quốc gia phải nâng cao chất lượng và hạ giá
thành sản phẩm. Để đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản
phẩm buộc các ngành, các quốc gia phải đầu tư máy móc, trang thiết bị kỹ thuật
cao, công nghệ tiên tiến, việc quản lý và vận hành hệ thống trên đòi hỏi phải có
lực lượng lao động trình độ khoa học kỹ thuật phù hợp, thích ứng, sử dụng có
hiệu quả máy móc thiết bị và công nghệ trên do đó chất lượng nguồn nhân lực
gia tăng. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường bản thân nó đã tạo ra thị trường
về lao động. Trong thị trường lao động sự cạnh tranh giữa các lao động với nhau
không kém phần gay gắt. Đó là cạnh tranh giữa những người lao động trong
cùng một quốc gia với nhau, cạnh tranh giữa lao động già và lao động trẻ, cạnh
tranh giữa lao động thành thị và nông thôn và cạnh tranh giữa người lao động
quốc gia này với người lao động quốc gia khác mà trong các cuộc cạnh tranh đã
không tránh khỏi sự kỳ thị sắc tộc gây nên những hậu quả đáng tiếc trong quan
hệ giữa người với người. Trong cuộc cạnh tranh đó người lao động để có được
việc làm ổn định, có thu nhập cao, đảm bảo cuộc sống của mình và của gia đình,
đòi hỏi bắt buộc người lao động phải có ý thức tự giác tu dưỡng rèn luyện học
tập nâng cao tay nghề thì mới đảm bảo chiến thắng trong cuộc cạnh tranh gay gắt
này từ đó tác động đến sự gia tăng của chất lượng nguồn nhân lực. Dưới tác động
của quá trình toàn cầu hóa, những thành tựu của khoa học và công nghệ được
chuyển giao nhanh chóng, ứng dụng rộng rãi, người lao động nhanh chóng tiếp
nhận được thông tin, tri thức mới trong khoa học kỹ thuật – Công nghệ cũng như
trong khoa học quản lý kinh tế, góp phần nâng cao dân trí và là động lực quan
trọng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua việc tiếp nhận
những thành tựu của khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Hội nhập kinh
tế quốc tế tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi cho việc phân công, hợp tác lao động do
vậy phát huy được thế mạnh, lợi thế so sánh trong hoạt động khoa học công nghệ
mà từ đó trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề người lao động được nâng
19
cao. Thị trường lao động được mở rộng và đa dạng, cơ hội có việc làm của người
lao động tăng lên, giá trị lao động được đánh giá và đền bù một cách thỏa đáng
hơn. Do đó giao lưu kinh tế toàn cầu đã tạo nên thị trường lao động góp phần
thúc đẩy quá trình tăng nhanh về chất lượng nguồn nhân lực.
- Tác động của giáo dục đào tạo.
Thực tế đã chứng minh rằng không có một nước công nghiệp phát triển
nào để trở thành một nước công nghiệp phát triển mà không quan tâm đến công
tác giáo dục và đào tạo. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự đòi hỏi của
các ngành kinh tế đặt ra cho ngành giáo dục đào tạo một nhiệm vụ rất nặng nề đó
là đào tạo con người mới có trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật chuyên môn
nghiệp vụ cao để quản lý và vận hành nền kinh tế phát triển.
Ngược lại khi kinh tế càng phát triển thì nguồn tài chính giành để đầu tư
cho phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo ngày càng nhiều, khả năng đầu tư cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại trang bị cho ngành giáo dục ngày càng tăng, từ nền
tảng đó dẫn tới chất lượng giáo dục đào tạo càng được nâng cao. Khi đó con
người được tiếp cận với nhiều nền văn minh tiên tiến của thế giới trên nhiều lĩnh
vực khác nhau, con người càng ngày càng được trang bị trình độ văn hóa khoa
học chuyên môn kỹ thuật cao. Quá trình đó tác động đến việc tăng nhanh chất
lượng nguồn nhân lực của xã hội. Giáo dục đào tạo là cơ sở đào tạo ra con người.
Ở Việt Nam, con người mới, con người Xã hội chủ nghĩa được hình thành và
phát triển thông qua giáo dục đào tạo, sự tác động mạnh mẽ của giáo dục đào tạo
đến nguồn nhân lực không thể tính bằng ngày một ngày hai mà phải có thời gian
và sự đầu tư tài chính thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và
tương ứng với nguồn lực tài chính của đất nước trong từng thời kỳ. Để phát huy
hiệu quả của nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục – đào tạo chúng ta phải biết
kết hợp hài hòa các nguồn lực tài chính để phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo
làm thay đổi nhanh số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực phục vụ cho quá
trình phát triển của nền kinh tế nước nhà.
1.2.3 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Như chúng ta đã biết, nền kinh tế của thế giới nhất là các nước Tư bản đã
chuyển mình tăng trưởng từ những năm của thế kỷ thứ 18 trong cuộc cách mạng
kỹ thuật lần thứ nhất, nhưng trong những năm 1950 và 1960 tăng trưởng kinh tế
thế giới chủ yếu là do cuộc cách mạng công nghiệp hóa mang lại; Ở các nước có
nền kinh tế chậm phát triển nguyên nhân do thiếu vốn và nghèo nàn về cơ sở vật
chất kỹ thuật là nhân tố chủ yếu ngăn cản tốc độ tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia đó. Nhưng các nghiên cứu trắc lượng gần đây cho thấy nguồn vốn chỉ
20
có một phần đóng góp nhỏ bé trong việc tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của một
quốc gia. Phần rất quan trọng của sản phẩm thặng dư gắn liền với sự gia tăng của
nguồn nhân lực đó là : Chất lượng của lực lượng lao động (trình độ giáo dục, sức
khỏe và mức sống của người lao động).
Đầu tư cho con người, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của từng cá
nhân từ đó tạo ra khả năng nâng cao chất lượng cuộc sống cho cả xã hội, và cũng từ
đó nâng cao năng xuất lao động. Nhà kinh tế học người Mỹ Garry Becker được giải
thưởng Nobel kinh tế năm 1992, khẳng định “Không có đầu tư nào mang lại nguồn
lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục”.
Lịch sử phát triển của các nền kinh tế thế giới trong những thập kỷ vừa
qua cho thấy : Không một nước công nghiệp phát triển nào đạt được tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế cao trước khi đạt được mức giáo dục phổ cập phổ thông. Xét sâu
xa thì giáo dục đào tạo đó là động lực thúc đẩy sản xuất. Trong nền kinh tế thị
trường quy luật cạnh tranh diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nó
không chỉ tác động trong lĩnh vực sản xuất mà còn tác động đến lĩnh vực giáo
dục đào tạo, để đứng vững trong cạnh tranh thì giáo dục đào tạo phải nâng cao
chất lượng và tăng hiệu quả giáo dục. Các nước công nghiệp hóa mới thành công
như Hàn Quốc, Xingapo, Hồng Kông và một số nước khác có tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế nhanh nhất trong những thập kỷ 1970 và 1980 thường đạt mức phổ cập
tiểu học trước khi nền kinh tế đó cất cánh. Mặc dù vậy, các nghiên cứu cũng chỉ
ra rằng thành công trong phát triển kinh tế của một số nước không phải chỉ có
việc nâng cao trình độ dân trí mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như ở
Nhật Bản và Hàn Quốc ngoài yếu tố về dân trí (phần đông dân cư có trình độ học
vấn cao) còn phải kể đến các chính sách kinh tế phù hợp, cộng với trình độ quản
lý hiện đại của họ đã đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, trở thành những
con Rồng của châu Á. Từ kết quả trên, trong sự nghiệp giáo dục đào tạo phải
được các ngành các cấp và toàn xã hội quan tâm đầu tư đúng mực, không chỉ về
vật chất cho các cơ sở đào tạo, mà còn phải giáo dục, tuyên truyền, vận động các
tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội quan tâm đầu tư cho việc học tập nâng
cao trình độ của chính mình. Đầu tư cho giáo dục đào tạo không chỉ là nhiệm vụ
mà còn là trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội. Làm cho
nhận thức của mọi người phấn đấu vươn lên, muốn có vị trí cao, muốn được xã
hội đánh giá đúng giá trị của mình, muốn đóng góp nhiều cho đất nước phải
không ngừng học tập nâng cao trình độ của bản thân, học tập phải là mục tiêu
phấn đấu suốt đời của mình, vấn đề đầu tư cho giáo dục đào tạo phải trở thành ý
thức xã hội. Giáo dục đào tạo phải được đề cao hơn nữa trong xã hội (đặc biệt là
21
giáo dục bậc đại học) nó như là một điều kiện cần đối với sự phát triển của nền
kinh tế. Kết quả của giáo dục đào tạo cùng với sự cạnh tranh trong lĩnh vực giáo
dục phổ thông, đại học, dậy nghề và các chính sách đãi ngộ nhân tài, coi trọng
nhân tài của quốc gia là động lực thúc đẩy các ngành kinh tế, khoa học kỹ thuật
của các quốc gia đó phát triển. Kết quả của sự phối hợp trên không chỉ thu hút
được những nhà khoa học sáng giá nhất của đất nước mình mà còn tạo dòng
chẩy chất xám từ nước ngoài về phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất
nước, đây là phương thức đầu tư nhanh nhất và hiệu quả nhất. Khi khoa học kỹ
thuật giữa các quốc gia cân bằng, những ước mơ và ý đồ đổi mới kỹ thuật và
công nghệ của các nước kinh tế chậm phát triển sẽ được thực hiện ngay trên
chính đất nước của mình, kết quả sản xuất tạo ra những sản phẩm không khác so
với các nước kinh tế phát triển, trên thực tế phát triển kinh tế của các nước kinh
tế chậm phát triển trên thế giới trong thời gian qua ( trong đó có Việt Nam) các
sản phẩm do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư sản xuất trên các quốc gia này khi
xuất khẩu sang các nước kinh tế phát triển khác thì sản phẩm của họ được coi
như sản phẩm của các hãng trong quốc gia đó. Việc các nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư sản xuất hàng hóa trong các nước kinh tế chậm phát triển đã tận dụng
được các điều kiện thuận lợi như : Nguyên vật liệu sẵn có, nguồn nhân công có
trình độ và rẻ nên sản phẩm của các nước này sản xuất ra đã tràn lan trên khắp
thị trường thế giới có lợi thế cạnh tranh cao, đã làm cho các ngành sản xuất của
các nước kinh tế phát triển phải khó khăn chống đỡ. Để bảo hộ cho nền sản xuất
nước nhà các chính phủ của các nước kinh tế phát triển phải đặt ra nhiều rào cản
để hạn chế, ngăn cản dòng chẩy sản phẩm của các nước kinh tế chậm phát triển
đang ồ ạt thâm nhập vào quốc gia mình.
Thực tế trên cho thấy tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào
trình độ khoa học và công nghệ; Khoa học công nghệ lại phụ thuộc vào điều kiện
và chất lượng giáo dục đào tạo. Kinh nghiệm nhiều quốc gia trên thế giới do
nóng vội đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, để nền kinh tế phát triển nhanh và
đạt được tốc độ phát triển cao nên chính sách của họ đề ra là nhanh chóng tiếp
cận với trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới từ chính sách đó dẫn tới
việc tập trung nguồn lực tài chính của đất nước đầu tư nhập ngoại các thiết bị
khoa học tiên tiến, công nghệ hiện đại khi nguồn nhân lực chưa đủ trình độ để
quản lý và vận hành, không chú trọng việc đầu tư cho giáo dục đào tạo dẫn đến
mục tiêu phát triển kinh tế của các quốc gia này bị thất bại. Do vậy không có sự
lựa chọn nào khác hoặc tập trung nguồn lực cần thiết cho đào tạo nguồn nhân lực
quý giá cho đất nước để phát triển nền kinh tế - xã hội bền vững hoặc phải chịu
22
thụt hậu ngày càng xa so với các nước khác. Từ bài học kinh nghiệm trên các
nước có nền kinh tế chậm phát triển căn cứ vào khả năng của nền kinh tế mà
định ra một tỷ lệ thích hợp các nguồn lực của đất nước để tập trung đầu tư cho
phát triển sự nghiệp giáo dục của quốc gia mình trong điều kiện cho phép của
nền kinh tế quốc dân. Việc phát triển giáo dục đào tạo không chỉ dừng ở bậc phổ
thông (phổ cập phổ thông trong xã hội) mà đầu tư cho bậc đại học, tiến tới phổ
cập trong toàn xã hội. Ngày nay song song với việc thành lập các trường đại học
công lập và các trường đại học ngoài công lập trong nước còn có sự tham gia của
các trường đại học nước ngoài đã tạo nên sự cạnh tranh giữa các trường trong
nước với nhau và giữa các trường trong nước với các trường nước ngoài. Kết quả
cuộc cạnh tranh đó thúc đẩy các trường phải tự mình đầu tư nâng cao uy tín của
trường bằng chất lượng đào tạo, làm cho chất lượng đào tạo của các trường được
nâng lên nấc thang mới. Các trường đào tạo trong nước có thể sánh vai được với
các trường đào tạo nuớc ngoài uy tín và chất lượng đào tạo trong nước được các
nước khác công nhận, do đó trình độ dân trí trong xã hội được nâng cao dẫn tới
trình độ và chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao.
Như vậy, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại không chỉ nhằm biến
đổi cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế từ lao động chủ yếu là thủ công sang
lao động máy móc bán tự động và tự động, trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hóa, mà cuộc cách mạng đó còn mang nội dung mới trên cơ sở mối quan hệ
giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, khoa học và công nghệ,v.v... Ngày
nay khoảng cách từ thời gian nghiên cứu phát minh đến ứng dụng những phát
minh ấy hầu như không có khoảng cách, những cải tiến, phát minh ở thời kỳ này
vừa có kết quả thì ngay lập tức nó được ứng dụng vào sản xuất – kinh doanh, từ
đó hình thành nên một hệ thống sản xuất - kinh doanh linh hoạt đủ khả năng để
thay đổi nhanh chóng quy trình sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và
công nghệ đã tạo ra hàm lượng thông tin và tri thức chiếm tỷ trọng cao trong
tổng chi phí sản xuất. Thông tin và tri thức là yếu tố mới xuất hiện và ngay lập
tức nó trở thành yếu tố cốt lõi của cả hệ thống sản xuất hiện đại. Theo số liệu
thống kê kinh tế thế giới năm 1990 phản ánh phần đóng góp của thông tin, tri
thức trong thu nhập quốc dân của một số nước công nghiệp phát triển cụ thể như:
của Mỹ là 47,4%, của Anh là 45,8%, của Pháp là 45,1%, của Đức là 40,4%. Trí
tuệ ngày nay trở thành động lực cho toàn bộ tương lai của nhân loại, thúc đẩy sự
tiến bộ vừa sâu vừa rộng của xã hội trên nền tảng khoa học và công nghệ cao để
tạo ra bước tăng trưởng kinh tế mới, hiếm thấy so với trước đây.
23
Trên đây là kinh nghiệm quý báu về việc quản lý, giáo dục và đào tạo
phát triển nguồn nhân lực cho chúng ta thấy trong quá trình thực hiện Công
nghiệp hóa; Hiện đại hóa nền kinh tế đất nước, để đạt được mục tiêu trên chúng
ta phải dành một khoản tài chính thích hợp để đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và
đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Tỷ lệ nguồn lực tài chính để đầu tư cho giáo
dục và đào tạo phát triển nguồn nhân lực phụ thuộc vào từng thời kỳ phát triển
của nền kinh tế, từng giai đoạn phát triển của đất nước mà có những tỷ lệ thích
hợp, cân đối giữa phát triển ngắn hạn với phát triển lâu dài, giữa phát triển chiều
rộng và phát triển chiều sâu.
Nguồn tài chính để đầu tư phát triển nguồn nhân lực có nhiều nguồn khác
nhau ( Nguồn ngân sách nhà nước ; Nguồn kinh phí đào tạo của các doanh nghiệp,
các tổ chức xã hội ; Nguồn viện trợ không hoàn lại của các tổ chức Quốc tế, các tổ
chức phi chính phủ, các quốc gia phát triển ; Nguồn vay các tổ chức tín dụng quốc
tế; Nguồn tài chính của người lao động.v.v…). Nhưng để có được những tỷ lệ
thích hợp cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực theo cơ cấu ngành, nghề của các
thời kỳ khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hay địa
phương còn tuỳ thuộc vào định hướng phát triển kinh tế - xã hội và thu nhập của
quốc gia hay địa phương đó mà có những giải pháp tài chính, tỷ lệ đầu tư tài chính
thích hợp cho phát triển nguồn nhân lực.
Từ thực tế trên các chính sách về tài chính để đầu tư phát triển nguồn nhân
lực phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế - xã hội, phù hợp
với điều kiện tự nhiên – xã hội vùng lãnh thổ, của từng quốc gia nhất định. Các
chính sách đó phải đảm bảo kết hợp hài hoà các lợi ích trong xã hội đó là : Lợi
ích xã hội với Lợi ích tập thể và Lợi ích người lao động, có đảm bảo hài hòa các
lợi ích trên mới tạo ra động lực thúc đẩy quá trình giáo dục và đào tạo nguồn
nhân lực phát triển, đáp ứng kịp thời nguồn nhân lực cho nhu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương hay quốc gia. Ngoài ra chúng ta phải biết huy động
các nguồn lực tài chính thu hút các nguồn lực tài chính cùng tập trung đầu tư cho
giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực, các nguồn lực tài chính đó là : Ngân
sách nhà nước; Ngân sách địa phương; Nguồn tài trợ nước ngoài; Tổ chức kinh
tế - xã hội, Doanh nghiệp trong nước; Doanh nghiệp nước ngoài; các Doanh
nhân; Các ngân hàng chính sách; Ngân hàng thương mại; Người lao động v.v...
Sử dụng các nguồn lực tài chính ấy một cách tiết kiệm có hiệu quả trong đầu tư
giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
1.3 Đầu tư tài chính phát triển nguồn nhân lực của một số nước kinh
tế phát triển trên thế giới và khu vực.
24
Các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh trên thế giới như Mỹ, Nhật
bản, Anh, Đức, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Italia và một số nước mới nổi lên như Trung
Quốc, Hàn Quốc, Singgapo, Hồng Kông, Thái Lan v.v… Ở các quốc gia này có
trình độ văn hóa cao, tỷ lệ người có trình độ đại học cao. Theo kết quả đánh giá
của Liên hợp quốc hệ thống giáo dục của các nước này vào loại tốt nhất thế giới.
Chính phủ các nước này nhận thức được vai trò của con người trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, Con người là tài sản vô giá của quốc gia, là động lực
thúc đẩy xã hội phát triển nên sớm đầu tư cho giáo dục và đào tạo, đầu tư hợp lý,
giáo dục đào tạo phải đi trước một bước để tạo tiền đề, động lực cho phát triển
kinh tế. Nếu tính theo tỷ lệ GDP đầu tư cho giáo dục đào tạo của các quốc gia
công nghiệp phát triển thì tỷ lệ này chiếm từ 4% GDP trở lên cụ thể ở (bảng I.2) :
Bảng I.2 :Tỷ lệ đầu tư tài chính cho phát triển giáo dục đào tạo của các quốc
gia công nghiệp phát triển.
Số thứ
tự
Tên nước Tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục so với
GDP (%)
1 Mỹ 6,7
2 Hà Lan 6,7
3 Pháp 5,7
4 Bỉ 5,1
5 Nhật Bản 5,0
6 Anh 5,0
7 Đức 4,5
8 Italia 4
(Nguồn UNDP, Báo cáo phát triển nguồn nhân lực)
Các nước Châu Á – Thái Bình Dương Ngân sách nhà nước đầu tư cho
giáo dục đào tạo từ 2,5% đến 20,1% (bảng I.3) như sau :
Bảng I.3 : Ngân sách đầu tư cho giáo dục ở các nước châu Á- Thái Bình Dương.
Số thứ
tự
Tên nước Tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục so với
GDP (%) năm 1990
1 Xingapo 18,1
1 Malaixia 19,4
3 Inđonêxia 8,4
4 Thái Lan 20,1
5 Philippin 16,9
6 Hàn Quốc 19,6
7 Hồng Kông 16,8
8 Trung Quốc 14,6
9 Ấn Độ 2,5
(Nguồn Asia 1995, (FEER),Asia Week, march 10,1995)
25
Từ nhận việc thức được tầm quan trọng của giáo dục đào tạo trong chiến
lược đầu tư phát triển con người, các quốc gia công nghiệp phát triển giành
nguồn tài chính đầu tư cho phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo con người của
quốc gia mình tương đối cao. Nhận thức được vai trò của con người trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước các Quốc gia công nghiệp phát
triển ngay từ đầu đã chú trọng đến công tác giáo dục đào tạo, tập trung nguồn lực
tài chính để đầu tư cho giáo dục đào tạo. Như ở Mỹ nhận thức được tính cấp thiết
phải nâng cao trình độ cho con người khi chế độ phân biệt chủng tộc vẫn còn tồn
tại thì luật giáo dục bắt buộc được ban hành vào năm 1852 được áp dụng ở tất cả
các Bang của Mỹ, mục tiêu của phổ cập giáo dục là toàn bộ dân chúng phải được
giáo dục để tạo ra một xã hội tự do, trong đó mọi cá nhân đều có cơ hội để thể
hiện những năng lực của mình. Chính quyền ở các bang chú trọng đầu tư cho
việc giáo dục đào tạo có nhiều chính sách tài chính phù hợp như tất cả các
trường học dành cho trẻ em đều do ngân sách các bang tài trợ, Chính phủ còn
cho phép bán đất công để gây quỹ xây dựng trường học. Kể từ khi nhà nước tài
trợ cho hệ thống giáo dục tiểu học thì số học sinh và số trường học gia tăng
nhanh. Hệ thống giáo dục đào tạo bậc phổ thông được nhà nước tài trợ và mở
rộng liên tục trong thế kỷ XX, đến những năm của thập kỷ 1960 có 83% học sinh
trong độ tuổi đi học. Việc ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục đào tạo là
điều kiện cơ bản để bảo đảm sự bình đẳng của mọi người trong xã hội Mỹ. Mặc
dù ngân sách nhà nước đầu tư cho bậc giáo dục phổ thông ở Mỹ làm cho bậc học
này phát triển thể hiện qua các chỉ tiêu giáo dục nhưng nó không đóng vai trò
trung tâm trong hệ thống giáo dục. Mà trung tâm của hệ thống giáo dục đào tạo ở
Mỹ đặt vào bậc đại học, có thể nói đây là nét đặc thù riêng của nền giáo dục đào
tạo ở Mỹ. Quy mô giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp tăng nhanh đã
đưa Mỹ đến thời kỳ giáo dục đại học hàng loạt. Đến cuối thập kỷ 1960, Mỹ đã có
hơn 2.000 trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, với số sinh viên
khoảng 7 triệu người. Theo thời gian con số các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp tiếp tục tăng, năm 1994, Mỹ có khoảng 3.406 trường đại học,
cao đẳng, trung học chuyên nghiệp với khoảng 7,2 triệu sinh viên, cùng với sự
gia tăng về các cơ sở đào tạo thì số người trong độ tuổi đi học đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp cũng tăng nhanh, đặc biệt là những năm gần đây. Đối
với người Nhật với truyền thống đề cao học vấn trong xã hội thì ý thức học tập
nâng cao trình độ của mỗi người rất cao. Nền giáo dục Nhật Bản phát triển trên
nền tảng vững chắc, kết hợp với xu thế hướng ngoại tới nền tri thức văn hóa cao
và phong phú của các quốc gia phương tây với truyền thống chăm chỉ học hành