Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Nghiên cứu xây dựng danh mục hồ sơ và xác định danh mục tài liệu trong một số hồ sơ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 111 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========



NGUYỄN THỊ TRANG NHUNG


NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG DANH MỤC HỒ SƠ VÀ
XÁC ĐỊNH DANH MỤC TÀI LIỆU TRONG MỘT SỐ
HỒ SƠ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM



Chuyên ngành : Lưu trữ
Mã số : 60 32 24


LUẬN VĂN THÁC SĨ KHOA HỌC NGÀNH LƯU TRỮ HỌC VÀ
QUẢN TRỊ VĂN PHÒNG


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. NGUYỄN CẢNH ĐƯƠNG



HÀ NỘI, 2008


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU TRANG
1
Mục đích, ý nghĩa của đề tài
1
2
Mục tiêu của đề tài
4
3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
4
Nhiệm vụ nghiên cứu
4
5
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
5
6
Nguồn tài liệu tham khảo và phương pháp nghiên cứu
9
7
Đóng góp của đề tài
10
8
Bố cục của đề tài
10
NỘI DUNG

Chương 1
Sự cần thiết xây dựng Danh mục hồ sơ, xác định thành

phần tài liệu trong một số hồ sơ của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam

1.1
Đặc điểm về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
12
1.1.1
Sự hình thành và kết quả hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nham
12
1.1.2
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam
23
1.2
Đặc điểm thành phần, nội dung, ý nghĩa tài liệu hình thành
trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
26
1.3
Sự cần thiết xây dựng Danh mục hồ sơ, xác định thành phần tài
liệu trong hồ sơ
31
1.3.1
Thực trạng lập hồ sơ hiện hành tại Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
31
1.3.2
Ý nghĩa của việc xây dựng Danh mục hồ sơ, xác định thành
phần tài liệu trong hồ sơ đối với Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam
42

Chương 2
Xây dựng Danh mục hồ sơ, Danh mục tài liệu trong một số hồ
sơ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

2.1
Cơ sở lý luận, khoa học cho việc lập hồ sơ hiện hành, lập Danh
mục hồ sơ
47
2.2
Cơ sở pháp lý cho việc lập hồ sơ hiện hành, lập Danh mục hồ sơ
52
2.3
Nguyên tắc và yêu cầu của việc xây dựng Danh mục hồ sơ và xác
định thành phần tài liệu trong một số hồ sơ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
54
2.3.1
Nguyên tắc của việc lập Danh mục hồ sơ và Danh mục tài liệu
trong hồ sơ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
55
2.3.2
Yêu cầu của việc xây dựng Danh mục hồ sơ và Danh mục tài liệu
trong một số hồ sơ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
59
2.4
Phương pháp xây dựng Danh mục hồ sơ và xác định thành phần
tài liệu trong một số hồ sơ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

62
2.4.1
Phương pháp xây dựng Danh mục hồ sơ
62
2.4.2
Phương pháp xây dựng Danh mục tài liệu trong hồ sơ hiện hành
75
Chương 3
Cấu trúc, cách sử dụng Danh mục hồ sơ và Danh mục tài liệu
trong hồ sơ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

3.1
Cấu trúc của Danh mục hồ sơ và Danh mục tài liệu trong hồ sơ
hiện hành
83
3.1.1
Cấu trúc của Danh mục hồ sơ
83
3.1.2
Cấu trúc của Danh mục tài liệu trong hồ sơ hiện hành
87
3.2
Cách sử dụng Danh mục hồ sơ và Danh mục tài liệu trong hồ sơ
hiện hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
89
PHẦN KẾT LUẬN
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
98
PHỤ LỤC





BẢNG CHỮ VIẾT TẮT


1
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHNN VN
2
Tổ chức tín dụng
TCTD



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Tiến hành cải cách hành chính là một yêu cầu tất yếu và càng trở nên
cấp thiết trong bối cảnh Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ
chức Thƣơng mại thế giới (WTO) cũng nhƣ để thực hiện mục tiêu xây dựng
một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công
cuộc cải cách hành chính ở nƣớc ta là cải cách thể chế hành chính, trong đó
tập trung vào khâu đột phá là đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Thực
vậy, cải cách thủ tục hành chính đã đƣợc Nhà nƣớc quan tâm, thể hiện ở chỗ
Thủ tƣớng Chính phủ đã ký Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 Phê
duyệt Đề án Đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà

nƣớc giai đoạn 2007-2010. Để triển khai Quyết định số 30 này, Tổ công tác
chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tƣớng Chính phủ đã đƣợc
thành lập để thực hiện Đề án đơn giản hoá thủ tục hành chính. Đến nay, Tổ
công tác thực hiện Đề án 30 tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã đƣợc thành lập
để triển khai các nội dung liên quan đến Đề án. Tổ Đề án 30 của Ngân hàng
Nhà nƣớc Việt Nam (NHNN VN) hiện nay cũng đang tích cực triển khai các
chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính.
Theo hƣớng dẫn của Tổ công tác chuyên trách của Thủ tƣớng Chính
phủ, thủ tục hành chính đƣợc xác định là quy định của cơ quan nhà nƣớc về
hồ sơ, trình tự, cách thức để giải quyết một công việc cụ thể cho cá nhân, tổ
chức trong một thời hạn nhất định. Nhƣ vậy, trong thủ tục hành chính, thủ tục
văn thƣ là phần rất quan trọng. Thủ tục văn thƣ bao gồm các hoạt động liên
quan đến việc thu thập, xử lý, quản lý, lƣu trữ văn bản để cung cấp thông tin
một cách nhanh chóng, chính xác, đầy đủ cho hoạt động quản lý. Việc cải
cách thủ tục hành chính nhằm xây dựng những quy trình hợp lý, khoa học để
cung cấp các dịch vụ công một cách tốt nhất cho ngƣời dân và phục vụ hiệu

2
quả cho hoạt động quản lý. Cải cách thủ tục văn thƣ cũng vậy, đòi hỏi phải
xây dựng, chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ văn thƣ (quy trình soạn thảo,
ban hành văn bản; quản lý văn bản đi, đến; việc lập hồ sơ công việc…) nhằm
góp phần thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính. Một trong những giải pháp
quan trọng để xây dựng đƣợc các quy trình hợp lý, khoa học đó là áp dụng hệ
thống quản lý chất lƣợng quốc tế ISO. Việc áp dụng ISO trong công tác quản
lý với mục tiêu xây dựng và thực hiện hệ thống quy trình xử lý công việc hợp
lý, phù hợp với quy định của pháp luật nhằm tạo điều kiện để ngƣời đứng đầu
cơ quan hành chính nhà nƣớc kiểm soát đƣợc quá trình giải quyết công việc
trong nội bộ của cơ quan, thông qua đó từng bƣớc nâng cao chất lƣợng và
hiệu quả của công tác quản lý và cung cấp dịch vụ công (đây chính là mục
tiêu của việc áp dụng hệ thống quản lý chất lƣợng theo tiêu chuẩn TCVN ISO

9001:2000 đƣợc quy định tại Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg ngày
20/6/2006 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc áp dụng hệ thống quản lý chất
lƣợng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nƣớc). Việc áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lƣợng ISO có
ảnh hƣởng quan trọng đến việc lập hồ sơ - một nội dung công việc quan trọng
của công tác văn thƣ. Bởi theo quy định của ISO, quá trình giải quyết một
công việc đều thể hiện bằng quy trình và tất cả những bƣớc giải quyết công
việc trong quy trình đó đều đƣợc thể hiện thông qua văn bản và các tài liệu có
liên quan, do đó, việc lập hồ sơ đƣợc kiểm soát theo quy trình giải quyết công
việc sẽ đảm bảo chất lƣợng. Nhƣ vậy, tài liệu hình thành trong hoạt động của
cơ quan, tổ chức đƣợc lập hồ sơ một cách khoa học sẽ góp phần quan trọng để
đạt đƣợc mục tiêu và kết quả của việc áp dụng ISO vào công tác quản lý cũng
nhƣ sự thành công của công cuộc cải cách hành chính ở nƣớc ta.
Tài liệu hình thành từ năm này qua năm khác với số lƣợng nhiều là
gánh nặng không chỉ đối với các cán bộ văn thƣ, cán bộ lƣu trữ mà cả đối với
các cán bộ chuyên môn. Nếu tài liệu không đƣợc tiến hành lập hồ sơ ngay
trong quá trình giải quyết công việc qua năm tháng sẽ trở thành những bó, gói

3
tài liệu lộn xộn, lúc đó, càng trở thành gánh nặng và gây ảnh hƣởng lớn tới
chất lƣợng, hiệu suất công việc, tới việc quản lý chặt chẽ tài liệu và công tác
lƣu trữ. Thực trạng việc lập hồ sơ hiện hành ở nhiều cơ quan, tổ chức hiện nay
cho thấy cần phải sớm có giải pháp để việc lập hồ sơ đi vào nề nếp, phát huy
đƣợc những ý nghĩa thực sự của công tác lập hồ sơ đối với công tác quản lý,
và công cuộc cải cách hành chính nhà nƣớc.
Đề tài luận văn đƣợc thực hiện không nằm ngoài mục đích, ý nghĩa góp
phần cải thiện công tác lập hồ sơ. Lập hồ sơ có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc quản lý chặt chẽ tài liệu hình thành trong hoạt động của cơ quan, đơn vị.
Làm tốt những công việc này sẽ góp phần nâng cao chất lƣợng công việc của
cán bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan, tạo điều kiện thuận lợi cho

công tác văn thƣ, lƣu trữ. Để công tác lập hồ sơ hiện hành ở các cơ quan đi
vào nề nếp, mang tính khoa học, thống nhất cần thiết phải xây dựng bản Danh
mục hồ sơ, và xác định thành phần tài liệu trong hồ sơ.
NHNN VN là cơ quan có chức năng quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực
quan trọng của đất nƣớc - lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Trong quá
trình hoạt động, NHNN VN sản sinh ra khối lƣợng văn bản lớn, đa dạng,
phong phú về nội dung. Việc quản lý chặt chẽ khối tài liệu này là điều hết sức
quan trọng để phục vụ có hiệu quả cho hoạt động quản lý của NHNN VN.
Hiện nay, NHNN VN chƣa xây dựng đƣợc bản danh mục hồ sơ, việc
lập hồ sơ cũng chƣa có hƣớng dẫn cụ thể dẫn đến tình trạng hồ sơ chƣa đƣợc
lập, đƣợc lập nhƣng chƣa hoàn chỉnh, tài liệu rời lẻ, gây ảnh hƣởng rất lớn
đến công tác lƣu trữ và việc quản lý chặt chẽ tài liệu. Chính vì vậy, chúng tôi
chọn đề tài: Nghiên cứu xây dựng danh mục hồ sơ và xác định danh mục tài
liệu trong một số hồ sơ của Ngân hàng Nhà nước Việt nam để làm luận văn
của mình. Xây dựng bản Danh mục hồ sơ và xác định thành phần tài liệu
trong hồ sơ là một giải pháp quan trọng giúp cho công tác lập hồ sơ tại các cơ
quan nói chung, tại NHNN VN nói riêng đi vào nề nếp. Khi thực hiện đề tài,
chúng tôi có điều kiện tìm hiểu thực trạng công tác lập hồ sơ hiện hành của

4
NHNN VN, thấy đƣợc những thuận lợi và tồn tại của công tác này đồng thời
khảo sát thực tế tài liệu để từ đó nghiên cứu đề xuất bản Danh mục hồ sơ và
thành phần tài liệu trong hồ sơ của NHNN VN. Thông qua đó, chúng tôi
mong muốn góp phần khắc phục những tồn tại trong công tác lập hồ sơ tại
Ngân hàng và từng bƣớc đƣa công tác lập hồ sơ đi vào nề nếp, góp phần quản
lý chặt chẽ tài liệu hình thành trong hoạt động của cơ quan và nâng cao chất
lƣợng công tác hàng ngày của cán bộ, công chức của Ngân hàng.
2. Mục tiêu của đề tài
Từ những ý nghĩa trên, đề tài của chúng tôi đƣợc thực hiện nhằm
hƣớng tới các mục tiêu sau:

- Nghiên cứu đề xuất nguyên tắc và phƣơng pháp xây dựng Danh mục
hồ sơ, Danh mục tài liệu cơ bản trong hồ sơ của NHNN VN.
- Nghiên cứu đề xuất Danh mục hồ sơ và Danh mục tài liệu cơ bản
trong một số hồ sơ sản sinh trong hoạt động đặc thù của NHNN VN.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: với những mục tiêu đặt ra, đối tƣợng nghiên
cứu của đề tài là các hồ sơ, tài liệu hình thành trong hoạt động của NHNN
VN; các văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các
đơn vị trong phạm vi nghiên cứu; các văn bản của Nhà nƣớc, của NHNN VN
quy định, hƣớng dẫn về công tác lập hồ sơ hiện hành, lập Danh mục hồ sơ.
- Phạm vi nghiên cứu:
NHNN VN là cơ quan lớn thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc trong
lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong cả nƣớc. Để thực hiện chức
năng đó, cơ cấu tổ chức của NHNN VN gồm nhiều đơn vị trực thuộc. Vì vậy,
để thực hiện tốt mục tiêu của đề tài, chúng tôi đặt trọng tâm nghiên cứu xây
dựng Danh mục hồ sơ cho một số đơn vị (Vụ Chính sách tiền tệ, Vụ Tín
dụng, Vụ Quản lý ngoại hối và Vụ Các ngân hàng và tổ chức tín dụng phi
ngân hàng) thực hiện chức năng tham mƣu về các hoạt động mang tính đặc
thù (tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và thành lập, phát triển các ngân hàng) của

5
NHNN VN và xác định thành phần tài liệu cơ bản trong một số hồ sơ hình
thành trong hoạt động của các đơn vị đó mà không đi sâu tìm hiểu những nội
dung này ở các đơn vị trực thuộc Ngân hàng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với những mục tiêu đặt ra, luận văn hƣớng vào giải quyết các nhiệm vụ
sau:
- Nghiên cứu cơ sở khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của công tác lập
Danh mục hồ sơ;
- Nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của NHNN VN;

của các đơn vị thuộc phạm vi nghiên cứu.
- Khảo sát tài liệu hình thành trong hoạt động của NHNN VN; của các
đơn vị trong phạm vi nghiên cứu.
- Tìm hiểu thực trạng lập hồ sơ hiện hành của NHNN VN;
- Xây dựng Danh mục hồ sơ và Danh mục thành phần tài liệu cơ bản
trong một số hồ sơ hiện hành của NHNN VN.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lập hồ sơ hiện hành có ý nghĩa quan trọng trong công tác văn thƣ và
công tác lƣu trữ. Chất lƣợng của công tác này ảnh hƣởng trực tiếp đến chất
lƣợng tài liệu giao nộp vào lƣu trữ cơ quan cũng nhƣ lƣu trữ lịch sử. Nhƣ vậy,
việc lập hồ sơ đƣợc thực hiện một cách khoa học sẽ có ý nghĩa quan trọng đối
với hiệu suất và chất lƣợng công tác của cơ quan, tổ chức; tạo điều kiện để
công tác lƣu trữ phát triển, từ đó từng bƣớc phát huy giá trị của tài liệu lƣu
trữ. Với ý nghĩa đó, Nhà nƣớc và cơ quan quản lý nhà nƣớc về công tác văn
thƣ, lƣu trữ đã ban hành các văn bản quy định, hƣớng dẫn về công tác lập hồ
sơ hiện hành bắt buộc các cơ quan, cá nhân phải thực hiện, trong đó có lập
danh mục hồ sơ.
Văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên đề cập tới công tác văn thƣ, lƣu
trữ, trong đó có những quy định sơ lƣợc về lập hồ sơ đó là Điều lệ về công tác
công văn giấy tờ và công tác lƣu trữ do Hội đồng Chính phủ ban hành theo

6
Nghị định số 142-CP ngày 28/9/1963. Pháp lệnh Lƣu trữ Quốc gia số
34/2001/PL-UBTVQH10 ngày 04/4/2001 do Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội
ban hành, trong đó có quy định đối tƣợng chịu trách nhiệm lập hồ sơ hiện
hành. Để cụ thể hoá những quy định có tính nguyên tắc nhất về công tác văn
thƣ trong Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 110/2004/NĐ-CP
ngày 08/4/2004 về công tác văn thƣ, trong đó có những quy định khá cụ thể
chi tiết một số vấn đề về lập hồ sơ hiện hành. Hƣớng dẫn nghiệp vụ lập hồ sơ
cũng đã có các văn bản nhƣ: Công văn số 261-NV ngày 12/10/1977 của Cục

Lƣu trữ Phủ thủ tƣớng ban hành Hướng dẫn công tác lập hồ sơ hiện hành ở
các cơ quan và Công văn số 344-NV ngày 31/12/1984 của Cục Lƣu trữ Nhà
nƣớc ban hành Hướng dẫn lập một số loại hồ sơ, tài liệu về quản lý hành
chính ở cơ quan Bộ. Danh mục hồ sơ có ý nghĩa quan trọng góp phần giúp
công tác lập hồ sơ đƣợc thực hiện tốt, vì vậy, bản Hƣớng dẫn công tác lập hồ
sơ hiện hành năm 1977 đã có những quy định khá cụ thể các vấn đề liên quan
đến lập danh mục hồ sơ.
Những văn bản trên của Nhà nƣớc quy định về công tác lập hồ sơ - một
hoạt động nghiệp vụ quan trọng, có tính chất quy phạm, kỹ thuật - đã đƣợc
chú ý để áp dụng trong thực tiễn cũng nhƣ đƣợc chú ý để nghiên cứu, trao đổi
trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn ở nhiều công trình nhƣ: các giáo trình,
các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, các khoá luận tốt nghiệp, báo cáo
khoa học, niên luận của sinh viên chuyên ngành.
Trƣớc hết, đó là các cuốn sách dùng để giảng dạy cho sinh viên các hệ
chính quy, tại chức ngành Lƣu trữ học và Quản trị văn phòng; dùng trong đào
tạo, bồi dƣỡng cán bộ văn thƣ, lƣu trữ, cán bộ hành chính văn phòng; đáp ứng
nhu cầu nghiên cứu, tham khảo của các cơ quan, tổ chức trong công việc hàng
ngày, nhƣ: “Hướng dẫn nghiệp vụ kỹ thuật hành chính” của tác giả Nguyễn
Văn Thâm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2001; “Lý luận và phương pháp công tác
văn thư”của PGS.TS Vƣơng Đình Quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
2006… Các giáo trình này có nội dung bám sát chƣơng trình các môn học về

7
công tác văn thƣ và trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn về công tác này
nên thực sự là những nguồn tài liệu bổ ích cho bất cứ ai muốn nghiên cứu tìm
hiểu những nội dung liên quan đến công tác văn thƣ nói chung và công tác lập
hồ sơ, lập Danh mục hồ sơ nói riêng.
Các bài viết của đông đảo tác giả, cán bộ lƣu trữ từ trung ƣơng đến địa
phƣơng đăng trên tạp chí chuyên ngành văn thƣ, lƣu trữ nhằm trao đổi kinh
nghiệm về công tác lập hồ sơ, lập danh mục hồ sơ để xây dựng và phát triển

lý luận và thực tiễn của công tác này nhƣ: “Bàn về công tác lập danh mục hồ
sơ và công tác lập hồ sơ” của tác giả Nguyễn Xuân Nung (Tập san công tác
lƣu trữ số 1 năm 1970); “Vài ý kiến xung quanh vấn đề bàn về công tác lập
hồ sơ hiện hành ở nước ta” của tác giả Lê Thị Năm (Tạp chí Lƣu trữ Việt
Nam, Hà Nội, 1974); “Mấy ý kiến nhỏ xung quanh vấn đề lập danh mục hồ
sơ” của tác giả Võ Chiến Thắng (Tập san công tác lƣu trữ số 1 năm
1970)…Những bài viết này đã đề cập đến nguyên tắc, phƣơng pháp lập hồ sơ,
lập danh mục hồ sơ; trao đổi, phổ biến kinh nghiệm về lập hồ sơ, lập danh
mục hồ sơ. Là một nghiệp vụ quan trọng và khó nên những bài viết về công
tác lập hồ sơ, lập danh mục hồ sơ đăng trên tập san và tạp chí chuyên ngành
đã thực sự có ý nghĩa hƣớng dẫn, phổ biến rộng rãi kinh nghiệm cho các cán
bộ văn thƣ, lƣu trữ, những ngƣời nghiên cứu tham khảo.
Nghiên cứu Danh mục hồ sơ cũng đƣợc lựa chọn làm đề tài khoa học
cấp Ngành, đó là đề tài “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về danh mục hồ sơ
ở các cơ quan” của tác giả Phạm Ngọc Dĩnh. Thực trạng lập hồ sơ chƣa tốt ở
các cơ quan, việc xây dựng danh mục hồ sơ hầu nhƣ chƣa đƣợc các cơ quan
thực hiện cho thấy việc nghiên cứu thực tiễn cũng nhƣ xây dựng và phát triển
lý luận về vấn đề này là yêu cầu thiết thực. Vì vậy, đề tài cấp ngành của tác
giả Phạm Ngọc Dĩnh đã góp phần khẳng định tầm quan trọng và ý nghĩa của
bản danh mục hồ sơ đối với công tác lập hồ sơ hiện hành cũng nhƣ phát triển
về mặt lý luận và thực tiễn công tác lập danh mục hồ sơ.

8
Về phía sinh viên, nghiên cứu danh mục hồ sơ và xác định thành phần
tài liệu trong hồ sơ hiện hành cũng là đề tài đƣợc quan tâm trong các công
trình nghiên cứu khoa học (báo cáo khoa học, niên luận, khoá luận tốt
nghiệp). Có thể kể đến nhƣ: Niên luận năm thứ 3 với đề tài “Xác định thành
phần tài liệu trong hồ sơ hiện hành của Văn phòng đăng ký đất và nhà -
UBND Quận Thanh Xuân” của Nguyễn Thuỳ Dƣơng; các khoá luận tốt
nghiệp: “Nghiên cứu xây dựng danh mục hồ sơ mẫu tài liệu của Ban Tài

chính Kế toán Tổng công ty Điện lực Việt Nam” của tác giả Đặng Thanh Lan;
“Nghiên cứu xây dựng danh mục hồ sơ và xác định danh mục tài liệu cơ bản
trong một số hồ sơ hiện hành tại Văn phòng Tập đoàn Bưu chính Viễn thông”
của tác giả Trần Thị Hằng”…Những đề tài này ở các phạm vi và mục tiêu
nghiên cứu khác nhau đã đề cập đến lý luận xây dựng danh mục hồ sơ đƣợc
áp dụng đối với cơ quan, đơn vị cụ thể. Có thể nói, từ kiến thức đƣợc đào tạo
trong nhà trƣờng về công tác văn thƣ, sinh viên thực hiện các công trình
nghiên cứu thực tế nhƣ vậy rất có ý nghĩa để củng cố và nâng cao nhận thức
lý luận và thực tiễn về công tác lập hồ sơ, lập danh mục hồ sơ; góp phần hoàn
thiện lý luận và thực tiễn về công tác này. Đồng thời, đó cũng là các công
trình nghiên cứu giúp sinh viên tiếp cận với thực tiễn, phục vụ cho công việc
sau này.
Nhƣ vậy, tìm hiểu về lập danh mục hồ sơ và xác định thành phần tài
liệu trong hồ sơ đã đƣợc đề cập không ít trong các công trình nghiên cứu khoa
học. Các công trình này tập trung nghiên cứu lập danh mục hồ sơ, xác định
thành phần tài liệu trong hồ sơ ở các cơ quan nói chung, ở một số cơ quan cụ
thể nhƣ: UBND Quận, Sở Nội Vụ, cơ quan Cụm Cảng Hàng không Việt
Nam, Tổng Công ty Bƣu chính Viễn thông, Tổng Công ty điện lực và chủ yếu
đi sâu tìm hiểu nhóm hồ sơ, tài liệu chung hình thành trong quá trình thực
hiện những chức năng quản lý hành chính chung và phổ biến nhất ở hầu hết
các cơ quan hành chính nhà nƣớc (nhƣ: tài liệu hình thành trong hoạt động
của Văn phòng, tài liệu tài chính kế toán, tài liệu thi đua khen thƣởng, lao

9
động tiền lƣơng, thanh tra…) mà chƣa đi sâu tìm hiểu các tài liệu quản lý
chuyên ngành.
NHNN VN là cơ quan có chức năng quản lý nhà nƣớc về hoạt động
tiền tệ, tín dụng, ngân hàng trong cả nƣớc; nhằm ổn định giá trị đồng tiền,
kiềm chế lạm phát và tăng trƣởng kinh tế an toàn. Vì vậy, các công trình
nghiên cứu đƣợc thực hiện tại NHNN VN đều tập trung làm sáng tỏ vị trí, vai

trò, tổ chức hoạt động, chiến lƣợc phát triển ngân hàng và những vấn đề về
chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng (vấn đề tạo vốn, thanh toán không dùng
tiền mặt…). Trong khi đó, văn bản, tài liệu hình thành trong hoạt động của
NHNN VN là phƣơng tiện quan trọng phục vụ cho hoạt động quản lý của
Ngân hàng thì chƣa đƣợc tìm hiểu đúng mức. Nghiên cứu về văn bản hình
thành trong hoạt động của NHNN VN đã đƣợc tác giả Lƣơng Quang Huy tìm
hiểu năm 1996 với đề tài: Hệ thống văn bản hình thành trong quá trình hoạt
động quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Luận văn Cử nhân Khoa
học chuyên ngành Lƣu trữ-Lịch sử). Nhƣng nghiên cứu giải pháp để các văn
bản này đƣợc quản lý một cách chặt chẽ, khoa học, phục vụ có hiệu quả cho
hoạt động quản lý của NHNN VN thì chƣa có công trình nào nghiên cứu.
Xuất phát ý nghĩa thiết thực này, chúng tôi quyết định nghiên cứu việc lập
danh mục hồ sơ, xác định thành phần tài liệu trong một số hồ sơ nhằm đƣa
công tác lập hồ sơ tại NHNN VN đi vào nề nếp, thống nhất.
6. Nguồn tài liệu tham khảo và phƣơng pháp nghiên cứu
- Nguồn tài liệu tham khảo:
+ Các văn bản của Nhà nƣớc về công tác văn thƣ, lƣu trữ;
+ Các sách, giáo trình về công tác văn thƣ, lƣu trữ;
+ Một số đề tài nghiên cứu (Niên luận, Báo cáo khoa học, Khoá luận
tốt nghiệp) có liên quan đến đề tài;
+ Các văn bản của NHNN VN về công tác văn thƣ, lƣu trữ, về hoạt
động ngân hàng;

10
+ Các tài liệu điều tra thực tế: các hồ sơ lƣu trữ về hoạt động của Ngân
hàng Nhà nƣớc Việt Nam…
- Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài, chúng tôi đã vận dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu:
Phƣơng pháp luận thực hiện đề tài: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: phƣơng pháp khảo sát thực tế, điều tra,
thống kê đƣợc áp dụng trong quá trình tìm hiểu về hệ thống văn bản, thành
phần, nội dung tài liệu hình thành trong hoạt động và thực trạng công tác lập
hồ sơ hiện hành của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam; phƣơng pháp mô tả,
phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, thống kê đƣợc sử dụng để phân tích thực
trạng công tác lập hồ sơ hiện hành, các căn cứ và yêu cầu khi xây dựng Danh
mục hồ sơ; phƣơng pháp hệ thống: đƣợc sử dụng khi sắp xếp các hồ sơ trong
Danh mục hồ sơ và tài liệu trong một hồ sơ.
7. Đóng góp của đề tài
Lập hồ sơ hiện hành là một trong những khâu yếu kém hiện nay của
công tác văn thƣ ở hầu hết các cơ quan. Một trong những nguyên nhân của
tình trạng này là các cơ quan chƣa xây dựng đƣợc Danh mục hồ sơ mẫu hàng
năm, và chƣa có những hƣớng dẫn, tập huấn cụ thể đối với việc áp dụng Danh
mục hồ sơ đó. Luận văn nghiên cứu về vấn đề xây dựng danh mục hồ sơ và
xác định thành phần tài liệu trong hồ sơ ở Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam -
cơ quan hiện chƣa xây dựng Danh mục hồ sơ mẫu hàng năm, vì vậy, nếu
đƣợc sự quan tâm và triển khai áp dụng trong thực tế chắc chắn luận văn sẽ có
những đóng góp về mặt thực tiễn nhƣ sau:
- Nghiên cứu xây dựng Danh mục hồ sơ của NHNN VN từ thí điểm đối
với hồ sơ, tài liệu của 04 đơn vị thực hiện chức năng tham mƣu cho Thống
đốc về lĩnh vực chủ đạo (tiền tệ, tín dụng, ngoại hối và hoạt động ngân hàng)
của Ngân hàng; xây dựng Danh mục tài liệu cơ bản trong một số hồ sơ của

11
các đơn vị đó. Đây sẽ là những nghiên cứu thiết thực để xây dựng bản Danh
mục hồ sơ cho toàn cơ quan NHNN VN cũng nhƣ Danh mục tài liệu trong hồ
sơ của Ngân hàng, góp phần nâng cao chất lƣợng của công tác lập hồ sơ hiện
hành, việc quản lý chặt chẽ tài liệu và tạo thuận lợi cho khai thác sử dụng tài
liệu tại NHNN VN.

- Từ nghiên cứu cơ sở lý luận, khoa học và pháp lý, luận văn đƣa ra
một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nƣớc về lĩnh vực văn thƣ,
lƣu trữ, đối với NHNN VN trong việc chỉ đạo, hƣớng dẫn công tác lập hồ sơ
hiện hành.
8. Bố cục của đề tài
Bố cục của luận văn, ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung
gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Đặc điểm tổ chức, hoạt động; thành phần, nội dung, ý nghĩa
tài liệu và sự cần thiết xây dựng Danh mục hồ sơ, xác định thành phần tài liệu
trong hồ sơ của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt nam
Trong chƣơng này, chúng tôi trình bày đặc điểm tổ chức, hoạt động;
thành phần, nội dung, ý nghĩa tài liệu hình thành trong hoạt động của NHNN
VN để làm nổi bật vị trí, vai trò của Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế
xã hội, đồng thời, từ nghiên cứu thực trạng lập hồ sơ hiện hành tại NHNN,
chúng tôi khẳng định sự cần thiết của việc xây dựng Danh mục hồ sơ, Danh
mục tài liệu trong hồ sơ của NHNN VN.
Chƣơng 2: Xây dựng Danh mục hồ sơ và xác định thành phần tài liệu
trong một số hồ sơ của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt nam
Ở chƣơng này, chúng tôi tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, khoa học,
cơ sở pháp lý của lập Danh mục hồ sơ; nguyên tắc, yêu cầu và phƣơng pháp
xây dựng Danh mục hồ sơ và danh mục tài liệu trong hồ sơ của NHNN VN,
kết quả là bản Danh mục hồ sơ và Danh mục tài liệu cơ bản trong một số hồ
sơ hiện hành của NHNN VN.

12
Chƣơng 3: Cấu trúc và cách sử dụng Danh mục hồ sơ và Danh mục tài
liệu trong hồ sơ của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam
Trong Chƣơng này, chúng tôi trình bày cấu trúc và cách sử dụng Danh
mục hồ sơ và Danh mục tài liệu trong hồ sơ của NHNN VN.



























13

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
ĐẶC ĐIỂM TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG; THÀNH PHẦN, NỘI DUNG, Ý

NGHĨA TÀI LIỆU VÀ SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG DANH MỤC HỒ
SƠ, XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN TÀI LIỆU TRONG HỒ SƠ CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
1.1 Đặc điểm về tổ chức và hoạt động của NHNN VN
1.1.1. Sự hình thành, phát triển và kết quả hoạt động của NHNN VN
Xây dựng nền tiền tệ và hệ thống ngân hàng độc lập, tự chủ có ý nghĩa
quyết định đến cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc cũng nhƣ trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và NHNN VN nói riêng hình
thành và phát triển gắn liền với sự phát triển của từng thời kỳ đấu tranh cách
mạng và công cuộc xây dựng đất nƣớc.
Nhƣ chúng ta đều biết, trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt
Nam là nƣớc thuộc địa nửa phong kiến dƣới sự thống trị của thực dân Pháp.
Hệ thống tiền tệ, tín dụng ngân hàng đƣợc thiết lập và bảo hộ bởi thực dân
Pháp thông qua Ngân hàng Đông Dƣơng. Ngân hàng Đông Dƣơng vừa đóng
vai trò là Ngân hàng trung ƣơng trên toàn cõi Đông Dƣơng (Việt Nam, Lào,
Campuchia), vừa là ngân hàng thƣơng mại. Ngân hàng này là công cụ phục
vụ đắc lực chính sách thuộc địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho tƣ bản
Pháp. Vì thế một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cuộc Cách mạng tháng
Tám năm 1945 lúc bấy giờ là phải từng bƣớc xây dựng nền tiền tệ và hệ thống
ngân hàng độc lập tự chủ. Nhiệm vụ đó đã càng trở nên cấp bách từ năm
1950, thời kỳ công cuộc kháng chiến chống Pháp ngày một tiến triển mạnh
mẽ với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trƣờng và mở rộng
vùng giải phóng. Chính sự chuyển biến của cục diện cách mạng đó đòi hỏi
lĩnh vực kinh tế, tài chính phải đƣợc củng cố và phát triển theo yêu cầu mới.

14
Trên cơ sở chủ trƣơng chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội
Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký Sắc lệnh số 15/SL chuẩn y việc thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam -

Ngân hàng của Nhà nƣớc dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á để thực
hiện năm nhiệm vụ cấp bách: phát hành giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện
chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý
tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là kết quả nối tiếp của quá trình
đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bƣớc
phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nƣớc ta. Tại
Thông tƣ số 20/VP-TH ngày 21/01/1960 của Tổng Giám đốc Ngân hàng
Quốc gia Việt Nam ký thừa uỷ quyền Thủ tƣớng Chính phủ, Ngân hàng Quốc
gia Việt Nam đƣợc đổi tên thành Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam để phù hợp
với Hiến pháp 1946 của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam thực hiện những
nhiệm vụ cơ bản: củng cố thị trƣờng tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần
bình ổn vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế; phát
triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lƣơng thực, đẩy mạnh khôi
phục và phát triển nông, công, thƣơng nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lƣợc: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa miền Bắc và giải phóng
miền Nam. Những năm sau khi miền Nam giải phóng năm 1975, việc tiếp
quản Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cộng hoà và các Ngân hàng tƣ bản tƣ
nhân dƣới chế độ Ngụy quyền Sài Gòn đã mở đầu cho quá trình nhất thể hoá
hoạt động ngân hàng toàn quốc theo cơ chế hoạt động ngân hàng của nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung. Tháng 7 năm 1976, đất nƣớc đƣợc thống nhất về
phƣơng diện Nhà nƣớc, nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời.
Theo đó, Ngân hàng Quốc gia ở miền Nam đƣợc hợp nhất vào Ngân hàng
Nhà nƣớc Việt Nam tạo thành hệ thống Ngân hàng Nhà nƣớc duy nhất của cả
nƣớc. Đến cuối những năm 80, hệ thống ngân hàng Nhà nƣớc về cơ bản vẫn

15
hoạt động nhƣ là một công cụ ngân sách, chƣa thực hiện các hoạt động kinh
doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trƣờng.

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 đã công khai
đánh giá một cách trung thực, thẳng thắn và toàn diện về cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng của đất nƣớc trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh, xã
hội…, đồng thời khởi xƣớng công cuộc đổi mới rộng lớn về cơ chế quản lý
chƣa từng thấy trong lịch sử kinh tế Việt Nam. Hạt nhân của công cuộc đổi
mới này là việc chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế
thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc. Sự chuyển đổi cơ chế quản lý đáp ứng
đúng tính khách quan của xu thế phát triển và đã nhanh chóng đi vào cuộc
sống, xâm nhập vào mọi cấp, mọi ngành, trong đó ngân hàng đƣợc xem là
một trong những ngành đột phá của công cuộc đổi mới vĩ đại này.
Cơ chế mới về hoạt động ngân hàng - thực hiện tách dần chức năng
quản lý Nhà nƣớc ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt
động ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa - đã đƣợc hình
thành và hoàn thiện dần. Tháng 5/1990, hai Pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp
lệnh Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng , hợp tác xã tín
dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ
thống ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp. Trong đó lần đầu tiên đối
tƣợng, nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp đƣợc Luật pháp phân biệt
rạch ròi: Ngân hàng Nhà nƣớc thực thi nhiệm vụ quản lý Nhà nƣớc về hoạt
động ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của một ngân hàng trung ƣơng: là ngân
hàng của các ngân hàng và ngân hàng của Nhà nƣớc. Trong điều hành chính
sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu
và chi phối căn bản các chính sách cụ thể đối với các hệ thống các ngân hàng
cấp 2 - cấp ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lƣu thông tiền tệ, tín dụng,
thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân.
Là một ngành kinh tế huyết mạch và phản ánh đặc trƣng nhất của cơ
chế tiền tệ hoá nền kinh tế và thƣơng mại hoá các nguồn vốn, ngành ngân

16
hàng (mà trƣớc hết là NHNN VN - cơ quan quản lý Nhà nƣớc về tiền tệ, tín

dụng và hoạt động ngân hàng) phải có trách nhiệm lớn nhất trƣớc đất nƣớc về
tăng cƣờng sức mạnh của đồng tiền Việt Nam trong đối nội và đối ngoại. Với
những đóng góp của ngành Ngân hàng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam
nói chung và sự nghiệp đổi mới kinh tế nói riêng là vô cùng to lớn. Nhƣng
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt khi Việt nam gia nhập tổ
chức Thƣơng mại thế giới (WTO), thì đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của
nƣớc ta bị tác động không nhỏ, trong đó có ngành Ngân hàng. Để hệ thống
ngân hàng Việt Nam có thể hội nhập vào hệ thống ngân hàng quốc tế với
năng lực tài chính, công nghệ, trình độ quản lý tốt và hệ hống sản phẩm, dịch
vụ ngân hàng đa dạng, có chất lƣợng cao cũng nhƣ cạnh tranh một cách chủ
động khi đã là thành viên WTO, việc điều hành chính sách tiền tệ, hoạt động
ngân hàng của NHNN VN là hết sức quan trọng. Ở phƣơng diện vĩ mô - là cơ
quan quản lý Nhà nƣớc về tiền tệ, tín dụng, hoạt động ngân hàng, NHNN VN
cần nhận dạng đúng, đầy đủ những khó khăn, thách thức, để đề ra các chính
sách, quy định, biện pháp, trên cơ sở đó toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam
hoạt động một cách hiệu quả. Một trong những khó khăn mà NHNN VN phải
đối mặt, đó là:
- Hệ thống pháp luật ngân hàng còn thiếu, chƣa đồng bộ và một số
điểm chƣa phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này đặt ra yêu cầu về hoàn
thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng.
- Vị thế và cơ cấu tổ chức của NHNN VN chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu
để ngân hàng có thể thực thi hoạt động theo mục tiêu của một Ngân hàng
Trung ƣơng.
- Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng các giao dịch vốn, các luồng chu chuyển
vốn sẽ rất phức tạp làm tăng khả năng rủi ro hệ thống ngân hàng. Trong khi
đó, các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ chƣa đƣợc đổi mới kịp thời,
năng lực điều hành chính sách tiền tệ cũng nhƣ giám sát hoạt động ngân hàng
của Ngân hàng Nhà nƣớc vẫn còn hạn chế, sự phối hợp giữa các bộ, ngành

17

liên quan trong quản lý vĩ mô chƣa đƣợc chặt chẽ làm công tác quản lý kém
hiệu quả.
Nhận thức rõ trách nhiệm, khó khăn, thách thức, NHNN VN đã có
những nỗ lực rất lớn để ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, nhằm
cung ứng phƣơng tiện trao đổi trong lƣu thông hàng hoá, dịch vụ, cung ứng
vốn trong đầu tƣ phát triển, cung ứng các dịch vụ tiện ích trong hoạt động
kinh doanh và tiêu dùng của tất cả các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
- Những kết quả hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Thực hiện chức năng quản lý Nhà nƣớc về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng,
NHNN VN đã nỗ lực trong thực hiện nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ,
tín dụng nhằm kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. Các công cụ
chính sách tiền tệ tiếp tục đƣợc điều hành linh hoạt nhằm giảm áp lực tăng
tổng phƣơng tiện thanh toán, ổn định lãi suất thị trƣờng, tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Những thành tích đáng
kể trong hoạt động quản lý của NHNN VN dƣới đây là những nỗ lực không
ngừng của ngân hàng:
* Trong điều hành chính sách tiền tệ:
NHNN VN đổi mới cơ bản phƣơng pháp điều hành chính sách tiền tệ,
từ việc can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính, sang điều hành bằng các công
cụ gián tiếp một cách linh hoạt, thận trọng, theo tín hiệu thị trƣờng, đồng thời
trao quyền tự chủ hoạt động kinh doanh cho các tổ chức tín dụng; điều hành
lãi suất gắn với diễn biến lạm phát và tỷ giá ngoại tệ, phù hợp với thông lệ
quốc tế, lãi suất đƣợc hình thành trên cơ sở quan hệ cung - cầu vốn trong nền
kinh tế.
NHNN VN tăng cƣờng giám sát các tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng
thƣơng mại, khuyến khích các ngân hàng thƣơng mại sử dụng vốn khả dụng
trong phạm vi tỷ lệ an toàn và đầu tƣ trái phiếu Chính phủ, giấy tờ có giá khác
để cung ứng vốn cho nền kinh tế và tăng tính thanh khoản.


18
Để tạo điều kiện cho các TCTD tiếp cận các kênh tái cấp vốn và tăng
khả năng điều tiết tiền tệ, NHNN VN đã mở rộng danh mục giấy tờ có giá
trong giao dịch tái cấp vốn, bao gồm cả trái phiếu do Quỹ Hỗ trợ phát triển,
trái phiếu đô thị do ngân sách thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội phát hành.
* Điều hành tín dụng:
Thực hiện mục tiêu kiểm soát tốc độ tăng trƣởng tín dụng để góp phần
kiềm chế lạm phát, đồng thời bảo đảm an toàn, hiệu quả trong hoạt động tín
dụng, năm 2006, NHNN VN đã tăng cƣờng chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập
trung vào việc nâng cao chất lƣợng tín dụng, kiểm soát tăng trƣởng tài sản có
rủi ro. Thống đốc NHNN VN đã ban hành Chỉ thị số 02/2006/CT-NHNN và
nhiều văn bản khác để chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng cƣờng các biện pháp
phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh, nhất là việc cho vay
đối với các nhu cầu vốn để kinh doanh bất động sản, đầu tƣ cổ phiếu trên thị
trƣờng chứng khoán.
NHNN VN đã kịp thời chỉ đạo việc xử lý, tháo gỡ khó khăn cho các
doanh nghiệp và hộ gia đình vay vốn bị thiệt hại do nguyên nhân khách quan
nhƣ bão lụt, dịch bệnh đối với gia súc, gia cầm và cây trồng…Mặt khác, chủ
động phối hợp với các bộ ngành liên quan từng bƣớc xử lý khoản nợ tồn đọng
của các chƣơng trình cho vay theo Quyết định của Chính phủ trƣớc đây (cho
vay khắc phục hậu quả bão số 5 năm 1997, chƣơng trình 1 triệu tấn đƣờng,
đánh bắt cá xa bờ).
Cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng tiếp tục
đƣợc bổ sung, hoàn thiện theo hƣớng phù hợp hơn, tạo thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của tổ chức tín dụng và khách hàng, nhƣ: sửa đổi Quy chế
chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng; sửa đổi Quy chế huy động tiền gửi tiết kiệm, Quy chế chiết khấu, tái
chiết khấu công cụ chuyển nhƣợng của TCTD đối với khách hàng…
Với các giải pháp đó, điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2006 về
cơ bản đã đạt đƣợc mục tiêu là ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trƣởng


19
kinh tế, đồng thời kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn tốc độ tăng trƣởng kinh
tế. Kết quả này thể hiện qua một số điểm:
So với cuối năm 2005, lãi suất VND của các tổ chức tín dụng tăng nhẹ
khoảng 0,25%/năm, diễn biến này phù hợp với cung - cầu vốn thị trƣờng, diễn
biến kinh tế-tiện tệ trong nƣớc và lãi suất thị trƣờng quốc tế [1].
Tỷ giá VND so với USD tăng dƣới 1,5% [1], phù hợp với mục tiêu
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, thu hút vốn đầu tƣ, cải thiện cán
cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối nhà nƣớc. Nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi
dào, nên có thời điểm tỷ giá bán ra của các ngân hàng thƣơng mại ở dƣới mức
trần cho phép. Tỷ giá trên thị trƣờng tự do cũng biến động theo xu hƣớng của
tỷ giá trên thị trƣờng chính thức với mức chênh lệch thấp (từ 3-
20VND/USD), ngoại trừ việc tăng đột biến trong một vài ngày đầu tháng
5/2006 [1]. Tính đến ngày 31/12/2006, tỷ giá bình quân trên thị trƣờng liên
ngân hàng tăng 1,36% so với cuối năm 2005, trong khi tỷ giá bán ra của các
ngân hàng thƣơng mại tăng 0,88% [1].
* Cơ chế quản lý ngoại hối tiếp tục được hoàn thiện, tác động tích cực
đến điều hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước:
Pháp lệnh Ngoại hối ra đời đã tạo cơ sở pháp lý hết sức quan trọng cho
công tác quản lý ngoại hối của NHNN VN trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Để kịp thời cụ thể hoá các nội dung quan trọng của Pháp lệnh, Ngân hàng
Nhà nƣớc đã khẩn trƣơng xây dựng, trình và đƣợc Chính phủ ban hành Nghị
định hƣớng dẫn Pháp lệnh ngoại hối. Đồng thời, NHNN VN tiếp tục bổ sung,
chỉnh sửa các quy định liên quan nhằm thực hiện tự do hoá các giao dịch vãng
lai, nhƣ: hƣớng dẫn việc uỷ quyền cho tổ chức tín dụng xem xét giải quyết
nhu cầu mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nƣớc ngoài của công dân Việt nam
thay cho cơ chế xem xét, cấp phép của Ngân hàng Nhà nƣớc trƣớc đây…
Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý ngoại hối theo
hƣớng thông thoáng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế đã có tác động tích

cực đến đầu tƣ của nƣớc ngoài vào Việt nam (bao gồm cả đầu tƣ trực tiếp và

20
đầu tƣ gián tiếp), kéo theo dòng chảy của các luồng vốn và cải thiện đáng kể
cung cầu ngoại tệ của Việt nam. Nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào nên lƣợng
ngoại tệ Ngân hàng Nhà nƣớc mua đƣợc lớn hơn nhiều so với lƣợng ngoại tệ
Ngân hàng Nhà nƣớc bán ra, làm cho dự trữ ngoại hối nhà nƣớc tăng đều và
tƣơng đối ổn định, giúp nâng cao khả năng thanh toán quốc tế và hệ thống số
tín nhiệm quốc gia của Việt nam.
- Vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong sự nghiệp cách mạng xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển kinh tế - xã hội
Với những kết quả trong quá trình thực hiện chức năng quản lý trình
bày ở trên đã chứng minh sự nỗ lực không ngừng của NHNN VN để thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ với tƣ cách là cơ quan quản lý nhà nƣớc về tiền
tệ, tín dụng, ngân hàng. Ở đây, chúng tôi xin trình bày một số những thành
tựu quan trọng, nổi bật nhất của NHNN VN từ khi thành lập đến nay để làm
rõ hơn vai trò quan trọng của Ngân hàng trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang
của dân tộc. Vai trò đó đƣợc thể hiện ở những nỗ lực đƣa ra các cơ chế, chính
sách, biện pháp chỉ đạo về tiền tệ, tín dụng, theo dõi diễn biến tỷ giá…đúng
đắn, kịp thời giúp cho đất nƣớc vƣợt qua những thời kỳ khó khăn, khủng
hoảng.
- Trong giai đoạn 1951-1985:
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vấn đề tài chính,
tiền tệ đƣợc đặc biệt quan tâm và đƣợc coi là vũ khí sắc bén, trực tiếp của
nhiệm vụ chiến lƣợc cách mạng. Đây không chỉ là những thời kỳ đấu tranh
trên các lĩnh vực chính trị, quân sự với địch mà thuật ngữ “đấu tranh tiền tệ
với địch” cũng trở thành khẩu hiệu hành động trong chỉ đạo chiến lƣợc của
Đảng trong suốt thời kỳ kháng chiến. Nhiệm vụ đấu tranh tiền tệ với địch khá
đặc biệt trong điều kiện cuộc kháng chiến mà vùng kiểm soát của ta và địch
đan xen nhau.

Thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, do thế lực của kẻ địch lớn, bản
thân Ngân hàng Quốc gia lại chƣa có kinh nghiệm trong đấu tranh tiền tệ với

21
địch nên tiền của ta bị giảm mạnh. Để hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao, nhanh
chóng triển khai các chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc, Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam (mà hiện nay là Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam) đã kịp thời bố trí
bộ máy tổ chức, xây dựng chính sách, cơ chế nghiệp vụ để quản lý tiền tệ và
đấu tranh tiền tệ với địch. Ngay sau khi thành lập năm 1951, Ngân hàng đã
bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ chính trị đƣợc Đảng, Nhà nƣớc giao: đấu tranh
trên mặt trận kinh tế, tiền tệ với địch bằng việc phát hành tiền, quản lý lƣu
thông tiền tệ, quản lý ngân khố quốc gia, thực hiện chính sách tín dụng để
phát triển sản xuất, lƣu thông hàng hoá, quản lý ngoại hối và thanh toán với
các nƣớc xã hội chủ nghĩa. Ngày 12/5/1951 giấy bạc Ngân hàng Quốc gia
Việt Nam loại 20 đồng và 50 đồng lần đầu tiên ra đời thay tiền tài chính đã
nhận đƣợc sự hƣởng ứng tích cực của toàn thể nhân dân [30].
Bộ phận đấu tranh tiền tệ với địch ở Trung ƣơng đã đƣợc thành lập và
các biện pháp đã đƣợc đề ra để củng cố trận địa tiền Việt Nam trong năm
1954. Với những nỗ lực đó, chúng ta đã bảo vệ và giữ vững giá trị tiền ta;
thúc đẩy mở rộng phạm vi tiêu tiền ta và thu hẹp phạm vi tiêu tiền của địch,
góp phần đấu tranh mậu dịch, kinh tế. Sự nghiệp đấu tranh với kẻ thù lớn
mạnh - đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam đòi hỏi sự viện trợ lớn cả về vật
chất và tinh thần. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã có những biện pháp nhằm
tạo ra những nguồn tiền để ủng hộ cách mạng miền Nam, qua việc ban hành
thể lệ gửi tiền tiết kiệm dài hạn chống Mỹ cứu nƣớc; các biện pháp tăng
cƣờng vận động gửi tiền tiết kiệm. Nhƣ vậy, bằng các biện pháp chỉ đạo
nghiệp vụ, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam đã phục vụ đắc lực cho cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, giải phóng dân tộc.
Sau khi thống nhất đất nƣớc (1976-1985), Ngân hàng Nhà nƣớc tiếp tục
củng cố tiền tệ, đẩy mạnh hoạt động tín dụng phục vụ nền kinh tế kế hoạch.

Ngày 21/9/1975 phát hành tiền Ngân hàng Việt Nam, thu đổi tiền của Chính
quyền Sài Gòn cũ. Ngày 25/4/1978 phát hành tiền Ngân hàng mới, thay thế
tiền Ngân hàng cũ ở cả 2 miền, thống nhất tiền tệ trong cả nƣớc.

×