Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Sự nghiệp phê bình văn học của Vương Trí Nhàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.71 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHÍ THỊ HẰNG NGA



SỰ NGHIỆP PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỦA
VƯƠNG TRÍ NHÀN


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam







Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHÍ THỊ HẰNG NGA





SỰ NGHIỆP PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỦA
VƯƠNG TRÍ NHÀN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121



Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Lưu Khánh Thơ




Hà Nội – 2012
1

MỤC LỤC
Mở đầu 01
1. Lí do chọn đề tài 01
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 04
3. Phương pháp nghiên cứu 05
4. Mục đích và đóng góp của luận văn 06
5. Lịch sử vấn đề 08
6. Cấu trúc luận văn 08
Nội dung 08
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về phê bình văn học và vị trí của Vương
Trí Nhàn trong nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn từ

1986 đến nay 08
1.1. Phê bình văn học – một số vấn đề lí luận chung 08
1.1.1. Khái niệm phê bình văn học 08
1.1.2. Đối tượng của phê bình văn học 09
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của phê bình văn học 11
1.1.4. Phê bình văn học – khoa học mang tính nghệ thuật 13
1.2. Vị trí của Vương Trí Nhàn trong nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại
giai đoạn từ 1986 đến nay 14
1.2.1. Diện mạo lí luận, phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn từ
1986 đến nay 14
2

1.2.2. Vị trí phê bình văn học của Vương Trí Nhàn 23
1.2.3. Quan niệm của Vương Trí Nhàn về phê bình văn học 25
1.3. Tiểu kết 32
Chương 2: Đối tượng phê bình văn học của Vương Trí Nhàn 35
2.1. Vương Trí Nhàn với các giá trị văn học cổ điển 35
2.2. Vương Trí Nhàn với các giá trị văn học Việt Nam hiện đại 45
2.3. Vương Trí Nhàn với văn học nước ngoài và việc tiếp nhận văn học
nước ngoài 70
2.4. Vương Trí Nhàn với các thể loại văn học 73
2.5. Tiểu kết 81
Chương 3: Nghệ thuật và phong cách phê bình của Vương Trí Nhàn 83
3.1. Phê bình chân dung 84
3.2. Lối phê bình khoa học, hiện đại 91
3.3. Lối phê bình sắc sảo, thẳng thắn 93
3.4. Tiểu kết 97
Kết luận 99
Danh mục tài liệu tham khảo




3

MỞ ĐẦU

SỰ NGHIỆP PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỦA
VƯƠNG TRÍ NHÀN
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Vương Trí Nhàn là một trong số không nhiều những nhà lí luận
phê bình hiện đại có trình độ chuyên môn cao ở Việt Nam giai đoạn từ năm
1986 đến nay. Ông là người có ý thức rất rõ về vai trò của công tác lí luận phê
bình trong đời sống văn học. Vương Trí Nhàn được nhìn nhận như một đại
diện tiêu biểu, có đóng góp to lớn trong việc phát triển nền lí luận phê bình
văn học Việt Nam hiện đại. Vì vậy, nghiên cứu sự nghiệp lí luận phê bình văn
học của Vương Trí Nhàn sẽ giúp chúng ta hiểu hơn bức tranh lí luận phê bình
Việt Nam những thập niên cuối thế kỉ XX, gắn với một thời kì phát triển sôi
động của văn học Việt Nam hiện đại.
1.2. Những công trình nghiên cứu văn học trung đại và văn học hiện đại
của Vương Trí Nhàn đã và đang trở thành “di sản” quan trọng của khoa học
nghiên cứu văn học Việt Nam trên cả phương diện lí thuyết và phương pháp
nghiên cứu. Ông là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, lí luận, phê bình
đặc sắc như: Sổ tay truyện ngắn (1980), Những kiếp hoa dại (1993), Cánh
bướm và đóa hướng dương (1999), Cây bút đời người (2002), Nhân nào
quả ấy (2004), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học
Việt Nam (2005), Những chấn thương tâm lí hiện đại (2009), Vương Trí
Nhàn – phê bình và tiểu luận (2009). Những công trình nghiên cứu ấy là kết
quả của quá trình lao động sáng tạo của một bộ óc sắc sảo, tinh tế với phong
cách và phương pháp nghiên cứu riêng. Vương Trí Nhàn là nhà phê bình có
nghề, nói như GS Nguyễn Huệ Chi: “nhẹ nhàng nhưng lại có những nhận xét

4

khá thâm thúy”. Chính vì lẽ đó, chúng ta cần phải có thêm những công trình
chuyên biệt, có tính hệ thống nhằm đánh giá đúng vai trò và vị trí của Vương
Trí Nhàn trên lĩnh vực lí luận phê bình.
1.3. Lâu nay, nhiều người vẫn chưa nhìn nhận đúng vai trò của công tác
lí luận phê bình văn học trong việc thúc đẩy, định hướng cho sáng tác và tiếp
nhận văn học. Nghiên cứu sự nghiệp phê bình văn học của Vương Trí Nhàn là
dịp ghi nhận công lao của ông trong sự nghiệp nghiên cứu, phê bình văn học
Việt Nam nói riêng, đánh giá vai trò của công tác lí luận phê bình trong đời
sống văn học nói chung.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Đóng góp của Vương Trí Nhàn trên phương
diện nghiên cứu, phê bình văn học qua các công trình của ông về văn học
trung đại, văn học hiện đại Việt Nam và văn học nước ngoài.
2.2. Phạm vi tư liệu khảo sát: Những công trình nghiên cứu, lí luận phê
bình của Vương Trí Nhàn: Sổ tay truyện ngắn, Những kiếp hoa dại, Cánh
bướm và đóa hướng dương, Cây bút đời người, Nhân nào quả ấy, Nhà văn
tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam, Những chấn
thương tâm lí hiện đại, Vương Trí Nhàn – phê bình và tiểu luận.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu như:
phương pháp cấu trúc – hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích – tổng hợp.
Cùng với việc sử dụng những phương pháp nghiên cứu trên, luận văn
còn sử dụng các thao tác cụ thể như: khảo sát, thống kê, so sánh, khái quát,
đánh giá.
5

4. Mục đích và đóng góp của Luận văn

4.1. Mục đích
Trong nghiên cứu văn học, phê bình văn học là bộ môn khoa học hết
sức cơ bản và cần thiết. Tiến hành đi sâu khảo sát sự nghiệp phê bình văn học
của Vương Trí Nhàn, chúng tôi nhằm hai mục đích:
- Thấy được những đóng góp nổi bật của Vương Trí Nhàn đối với nền
lí luận, phê bình văn học Việt Nam hiện đại.
- Thấy được sự độc đáo, bản sắc riêng khó trộn lẫn trong phong cách
nghệ thuật phê bình của Vương Trí Nhàn so với các nhà phê bình văn học
khác.
4.2. Đóng góp của Luận văn
Chọn đề tài Sự nghiệp phê bình văn học của Vương Trí Nhàn để
khảo sát, chúng tôi muốn chứng minh tính độc đáo, đặc sắc trong phong cách
phê bình văn học của ông. Đồng thời, chúng tôi muốn đóng góp thêm một
tiếng nói vào khu vực nghiên cứu quan trọng này, thấy được thành tựu những
thành tựu của lí luận, phê bình văn học Việt Nam, cũng như những đóng góp
nổi bật của Vương Trí Nhàn.
Ngày nay, vai trò và tác dụng của phê bình văn học trong đời sống văn
hóa tinh thần của xã hội nói chung, khoa học văn học nói riêng ngày càng
được đánh giá cao. Chính vì vậy, chúng tôi hi vọng Luận văn của mình là một
đóng góp nhỏ trong việc tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống về một tác
giả lí luận phê bình có những đóng góp nhất định trong đời sống học thuật
nước nhà, đáp ứng được phần nào tính thời sự cấp thiết trong lĩnh vực lí luận
phê bình văn học.
Luận văn là công trình chuyên biệt, nghiên cứu toàn diện về những
đóng góp của Vương Trí Nhàn đối với phê bình, nghiên cứu văn học Việt
6

Nam. Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến công
tác lí luận phê bình văn học nói chung, sự nghiệp và công lao đóng góp của
nhà phê bình Vương Trí Nhàn nói riêng.

5. Lịch sử vấn đề
Có thể nói, hiện nay các bài viết về sự nghiệp phê bình văn học của
Vương Trí Nhàn không nhiều và chưa có tính hệ thống. Sở dĩ như vậy, một
phần vì vai trò và tác dụng của lí luận, phê bình văn học trong đời sống văn
hóa tinh thần của xã hội nói chung, khoa văn học nói riêng chưa thực sự được
đánh giá cao. Có chăng cũng vẫn chỉ là những bài viết mang tính chất giới
thiệu về các tác phẩm nghiên cứu, lí luận, phê bình của ông.
5.1. Năm 1993, bài Tựa của Văn Tâm giới thiệu về tác phẩm Những
kiếp hoa dại của Vương Trí Nhàn đã thực sự được coi là bài viết đầu tiên
nghiên cứu về phong cách phê bình văn học của ông
6. Cấu trúc Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của Luận văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về phê bình văn học và vị trí của
Vương Trí Nhàn trong nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại.
Chương 2: Đối tượng phê bình văn học của Vương Trí Nhàn.
Chương 3: Nghệ thuật phê bình của Vương trí Nhàn

7

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ PHÊ BÌNH VĂN
HỌC VÀ VỊ TRÍ CỦA VƯƠNG TRÍ NHÀN
TRONG NỀN PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN NAY
1.1. Phê bình văn học – một số vấn đề lí luận chung
1.1.1. Khái niệm phê bình văn học
Phê bình văn học cùng với lịch sử văn học và lí luận văn học là ba bộ

môn chính của khoa học văn học. Khái niệm phê bình văn học được các nhà
nghiên cứu văn học bàn đến từ rất lâu và được tiếp cận dưới nhiều góc độ,
tiêu chí khác nhau. Ở góc độ lí luận, Bêlinxki xem phê bình là “mĩ học đang
vận động”. Về bản chất đối tượng thì phê bình vừa là khoa học, vừa là nghệ
thuật, còn trên ranh giới giữa sáng tạo và thưởng thức, phê bình văn học là
chiếc cầu nối gắn kết hai công đoạn của một quá trình: nghệ thuật và công
chúng. Các nhà nghiên cứu văn học còn mở rộng thêm: phê bình văn học vừa
là một hoạt động, vừa là một bộ môn khoa học về văn học. Phê bình văn học
vừa tác động tới sự phát triển của văn học, vừa tác động tới độc giả, góp phần
hình thành thị hiếu thẩm mĩ cho quảng đại quần chúng.
Là một bộ môn khoa học, phê bình văn học “nhận thức các phương
hướng vận động của văn học đương đại, tìm kiếm chỗ làm bàn đạp cho văn
học đi tới, khám phá những nhân tố nghệ thuật có khả năng mở ra một quá
trình văn học mới và chỉ ra những nhược điểm trong sáng tác so với nhu cầu
của thời đại và nhu cầu của bản thân văn học”. [Từ điển thuật ngữ văn học,
8

tr.206]. Nói cách khác, theo GS Trần Đình Sử thì: “phê bình văn học là hoạt
động nghiên cứu, phán đoán giá trị đối với một hiện tượng văn học cụ thể bao
gồm: tác phẩm, nhà văn, tiếp nhận và cả lí luận phê bình xuất phát từ một
quan niệm lí luận nhất định trên cơ sở cảm thụ, thưởng thức tác phẩm” [Văn
học Việt Nam thế kỉ XX, tr.665]. Như vậy, văn học gắn liền với phê bình văn
học, có văn học thì có phê bình văn học. Nếu văn học là tấm gương phản ánh
cuộc sống thì phê bình văn học chính là sự tự ý thức về nền văn học đó.
Không có nền lí luận phê bình nào đi ra ngoài qui luật ấy.
Nhìn lại lịch sử văn học có thể thấy: dường như những phán đoán đầu
tiên của phê bình đã xuất hiện đồng thời với văn học. Hay nói cách khác, cả
văn học và phê bình văn học xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử văn hóa dân
tộc. Tuy nhiên, trước thế kỉ XVII, trên phạm vi toàn thế giới, phê bình văn
học chưa trở thành lĩnh vực hoạt động xã hội đặc thù (nếu hiểu một cách đầy

đủ). Những bài phê bình khi ấy chủ yếu chỉ là những bài bình phẩm hơn là
phân tích, và mục đích của nó là chỉ ra cho người nghệ sĩ cách viết văn. Nhà
phê bình thường hay lưu tâm đến những yếu tố về luân lí, đạo đức của tác
phẩm, những từ hay ý đẹp, “nhãn tự”, “thần cú”,…
Từ thế kỉ XVII trở về sau, phê bình văn học thực sự trở thành lĩnh vực
hoạt động xã hội mang tính đặc thù. Hay nói cách khác, so với các thể loại
khác, phê bình văn học ra đời muộn hơn (nếu như xem nó là một lĩnh vực
hoạt động chuyên môn không thể thiếu được trong đời sống văn học của một
dân tộc). Ở phương Tây, phê bình văn học thực sự được coi như là một hoạt
động chuyên môn từ sau thế kỉ XVII. Ở Việt Nam, cuốn phê bình văn học đầu
tiên được xuất bản năm 1993 của nhà nghiên cứu Thiếu Sơn: Phê bình và cảo
luận. Tác phẩm đã có ý thức “trưng bày” ra một thể loại phê bình mới – phê
bình nhân vật và có quan điểm rõ ràng về phê bình.
Như vậy, khi phê bình văn học trở thành một lĩnh vực hoạt động xã hội
mang tính đặc thù thì nó ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, phức tạp và
9

phân thành nhiều khuynh hướng, trào lưu khác nhau. Phê bình văn học từ chỗ
chú ý tới vấn đề thể loại, qui tắc thể loại thì sau này đã chuyển dần mối quan
tâm đến các vấn đề cá tính, phong cách, thế giới nghệ thuật,… Một nền văn
học phát triển không thể thiếu một hoạt động có tính chất đặc thù – đó là hoạt
động phê bình văn học, và khi nghiên cứu về văn học cũng không thể không
nghiên cứu về phê bình văn học.
1.1.2. Đối tượng của phê bình văn học
Phê bình văn học là một hệ thống nhỏ trong một hệ thống lớn. Do vậy,
phê bình văn học có đối tượng, phạm vi nghiên cứu riêng mang tính đặc thù.
Cho đến nay, với độ lùi nhất định của thời gian, cũng như sự phát triển của
bản thân phê bình văn học, hiện đang tồn tại hai quan điểm về đối tượng của
phê bình văn học.
Quan điểm thứ nhất: quan điểm này đã tồn tại từ lâu, xác định đối

tượng của phê bình văn học là tác giả và tác phẩm văn học đương đại. Các tác
phẩm văn học quá khứ được đẩy sang cho lịch sử văn học. Với quan điểm
này, nếu có cái nhìn so sánh thì lí luận văn học nghiên cứu văn học trong tính
tổng thể, chú trọng tới phương diện cấu trúc của văn học. Lí luận văn học lấy
phương diện cấu trúc của những đặc điểm, hiện tượng văn học đã phát triển
đến mức điển hình làm đối tượng chủ yếu. Lịch sử văn học nghiên cứu văn
học theo dòng thời gian, tự chọn cho mình một cái mốc mà ở đó những sự
kiện văn học đã được định hình ổn định, đã qua thời gian thử thách kiểm
nghiệm. Đối tượng của phê bình văn học là những hiện tượng văn học cụ thể
nhưng khác với lịch sử văn học là đối tượng của phê bình đang ở trong “dòng
chảy”, đang phát triển chưa ổn định. Phê bình văn học phải đánh giá các hiện
tượng văn học đang vận động, từ đó có ý thức uốn nắn, định hướng cho người
đọc khi tiếp nhận các giá trị văn học. Đó cũng chính là vai trò của phê bình
văn học.
10

Khi đề cập tới đối tượng của phê bình văn học, giáo trình Lí luận văn
học khẳng định rằng: “phê bình văn học khác với lịch sử văn học, thường
hướng vào đối tượng chủ yếu là những hiện tượng văn học đang diễn ra trước
mắt. Nó có nhiệm vụ kịp thời biểu dương, khẳng định những tác phẩm, nhà
văn và khuynh hướng tư tưởng nghệ thuật theo đúng một quan điểm văn học
nhất định, đồng thời đấu tranh, phê phán chống những cái ngược lại” [Lí luận
văn học, tập 1, NXB GD 1986, tr.8]. Giáo trình còn nhấn mạnh: “phê bình
văn học đề cập đến những hiện tượng văn học quá khứ nhưng không phải là
nhằm tái hiện lại quá trình phát triển toàn diện của nó mà chính là để qua nó
hoặc từ nó góp phần làm sáng tỏ một vấn đề hiện tại” [Lí luận văn học, tập 1,
NXB GD 1986, tr.9]. Cùng chung quan điểm, GS Phong Lê cho rằng “đối
tượng của phê bình văn học là đời sống văn học đương đại với hai đơn vị cơ
bản là tác giả và tác phẩm” [Phong Lê (2004), Bản chất đối tượng của phê
bình và một hình dung sơ bộ về thực trạng, Văn học số 7, Tr 26]

Quan điểm thứ hai: đang được đặt ra trên con đường đi tìm bản chất
của đối tượng phê bình văn học và trước sự phát triển của bản thân phê bình
văn học. Quan điểm này xem đối tượng của phê bình văn học là toàn bộ
những hiện tượng văn học đã và đang diễn ra, toàn bộ những phương diện
khác nhau của hoạt động sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật. Do đó, đối
tượng của phê bình văn học lúc này không những có phạm vi rộng mà còn
giải quyết được những mâu thuẫn lâu nay, xem đối tượng của phê bình văn
học là văn học đương đại, văn học quá khứ thuộc đối tượng của văn học sử.
Tuy nhiên, trên thực tế, phê bình văn học hướng tới những giá trị văn học quá
khứ như: Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Trãi và các nhà phê
bình: Xuân Diệu, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Tuân
đều có các bài viết, công trình nghiên cứu, phê bình về văn học cổ điển.
Nếu theo quan điểm thứ nhất, mối quan tâm chủ yếu của đối tượng phê
bình văn học là tác giả, tác phẩm văn học đương đại thì không hoàn toàn
11

đúng, bởi lẽ đó không phải là căn cứ duy nhất đúng để xác định, khoanh vùng
đối tượng của phê bình văn học. Mọi tác phẩm văn học đương đại không phải
đều trở thành đối tượng của phê bình văn học, là đối tượng của phê bình khi
tác phẩm ấy phải có tính chất, sự kiện, phải là một hiện tượng văn học. Nhìn
vào thực tế, chúng ta thấy công chúng hay độc giả khi tiếp nhận văn học
không chỉ dừng lại ở thời đại mình mà còn có nhu cầu hướng tới những giá trị
văn học xa xưa, “ôn cố tri ân”. Tìm hiểu “cái cũ” để khám phá được những
giá trị có ý nghĩa cho “cái mới”. Vương Trí Nhàn cũng cho rằng: “đối tượng
của phê bình văn học là tác phẩm văn học cụ thể, đúng hơn là văn bản cụ thể,
bất kì là văn bản thuộc thời điểm nào, miễn là có ý nghĩa thời đại, trở thành sự
kiện của văn học đương đại” [Vương Trí Nhàn (2005), Nguyễn Tuân và một
tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai, Báo Văn nghệ số 4, tr36].
Tác phẩm văn học như là một quá trình, khi nhà văn khép lại quá trình
sáng tác của mình, cũng chính là lúc đời sống của nó mới bắt đầu. Ở đây, sự

tri ân, sự đồng sáng tạo giữa nhà văn và người đọc là rất cần thiết. Thực tế
cho thấy: cùng một đối tượng nhưng điểm nhìn khác nhau sẽ mang đến những
cách đánh giá khác nhau. Từ đó, tùy thuộc vào điểm nhìn của nhà phê bình
mà đối tượng của phê bình văn học có sự chuyển dịch: từ thể loại, chuẩn mực
ngôn ngữ đến phong cách, cá tính; từ bối cảnh xã hội, yếu tố bên ngoài đến
yếu tố nội sinh của tác phẩm. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học tiếp cận tác
phẩm từ góc độ văn bản. Bởi vậy, đối tượng của phê bình văn học ngày càng
trở nên linh hoạt, đa dạng và phong phú hơn. Chúng tôi xin mượn ý kiến của
GS Trần Đình Sử để kết luận cho quan điểm thứ hai này: “Bất cứ tác phẩm
nào đang đi vào và trở thành sự kiện của đời sống văn học hiện đều là đối
tượng của phê bình” (Báo Văn nghệ số 23, tr7).
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của phê bình văn học.
Phê bình văn học là bộ môn ra đời muộn hơn so với sự xuất hiện của lí
luận văn học hay lịch sử văn học. Phê bình chỉ xuất hiện khi công chúng của
12

nó đã phát triển về văn hóa, về năng lực cảm xúc. Khi đó, văn học rất cần đến
phê bình. Nó trở thành hoạt động chuyên môn của đời sống văn học. Phê bình
văn học được xem như là chiếc cầu nối giữa nhà văn và độc giả nhằm hoàn tất
quá trình Nhà văn – Tác phẩm – Người đọc. Phê bình văn học trong quan hệ
với công chúng, độc giả được xem là mối quan hệ biện chứng bổ sung cho
nhau. Ở bình diện thứ nhất, nhà phê bình văn học, công chúng và độc giả đều
là độc giả của tác phẩm văn học. Ở bình diện thứ hai, công chúng hay độc giả
chịu sự tác động của hai chiều tiếp nhận: từ tác phẩm văn học, từ nhà phê
bình văn học. Ở bình diện thứ ba, công chúng, độc giả có thể tác động ngược
trở lại bằng cách bổ sung hoặc đồng sáng tạo với nhà văn. Công chúng không
phải lúc nào cũng tiếp nhận một cách thụ động mà có thể phản ứng ngược trở
lại đối với nhà phê bình. Nhà phê bình chân chính không thể không tiếp thu.
Khi đã tiếp thu rồi thì tác động ngược trở lại với tác giả (tác phẩm văn học).
Vậy chức năng của phê bình văn học là gì?

Phê bình văn học có chức năng, nhiệm vụ đặc thù riêng của nó, khác
với lí luận văn học và lịch sử văn học. Phê bình văn học có thể dự báo con
đường phát triển của văn học, khả năng tương lai của những nhà văn riêng
biệt. Nó tác động tới lịch sử văn học, tạo đà cho văn học phát triển. Vì vậy,
nhà phê bình văn học không thể thiếu được trong mối quan hệ giữa Nhà văn –
Tác phẩm – Công chúng. Phê bình văn học nghiên cứu những vấn đề chưa kết
thúc mà đang tiềm tàng, đang vận động trong dòng chảy của thời gian. Tất
nhiên, phê bình văn học có thể đề cập đến một số hiện tượng văn học ở quá
khứ. Hay nói như Lại Nguyên Ân: “Phê bình như một bộ phận lập pháp về lí
thuyết cho sáng tác, nó trở thành nhân tố tổ chức quá trình văn học” [150
thuật ngữ văn học, tr.261].
1.1.4. Phê bình văn học – một khoa học mang tính nghệ thuật
Phê bình văn học là môn khoa học mang tính đặc thù vì nó có sự xuyên
thấm, hòa quyện giữa tính nghệ thuật và tính khoa học, hay như GS Phương
13

Lựu nhận định: “phê bình là môn khoa học mang tính nghệ thuật” [Vương Trí
Nhàn
(2005), Nguyễn Tuân và một tư duy kiểu Liêu Trai, Báo Văn nghệ số 4,
tr36]. Vấn đề đặt ra đối với một nhà phê bình là phải có tri thức, có quan
niệm, biết phân tích, giải thích và chứng minh để làm sáng tỏ được các giá trị
văn học. Do đó, yêu cầu trước hết đối với một nhà phê bình là phải có phẩm
chất khoa học. Tuy nhiên, phẩm chất khoa học của nhà phê bình văn học khác
với các bộ môn khác. Theo GS Nguyễn Đăng Mạnh: “Nếu các nhà khoa học
khác phải nói chính xác về những đối tượng có thể cân đong đo đếm được thì
phê bình văn chương lại phải nói những điều hết sức mong manh, mơ hồ
nhiều khi là nửa hư, nửa thực” [Nguyễn Đăng Mạnh (1990), Vài suy nghĩ về
phê bình văn học – Sách các vấn đề của khoa học văn học, NXBKHXH,
tr.338, 350].
Phê bình văn học là hoạt động nghiên cứu, phán đoán, đánh giá đối với

các hiện tượng văn học. Vì vậy, trong hoạt động của mình, các nhà phê bình
cần có tư duy lôgic để khái quát và xâu chuỗi các vấn đề. Giá trị của một tác
phẩm văn học không phải lúc nào cũng lộ ra ngay trên bề mặt câu chữ. Điều
này đòi hỏi các nhà phê bình phải biết khám phá, phát hiện mới nói trúng, nói
đúng được cái hay của tác phẩm. Điều này đòi hỏi sự chính xác trong tư duy
khoa học của phê bình nhưng không đơn thuần là tư duy lôgic hay sự chính
xác, bởi nếu chỉ có vậy thì phê bình khó có lòng chạm tới được “cõi sâu kín”
mơ hồ của văn học. Tóm lại, phê bình văn học cần có sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa lí trí và tình cảm. Lí trí đại diện cho tư duy lôgic, tư duy khoa
học. Tình cảm đại diện cho tư duy thẩm mĩ, tư duy nghệ thuật. Vương Trí
Nhàn trong quan niệm của mình đã nói: “trong văn học, dù sáng tác hay phê
bình, bao giờ cũng là những điều cuối cùng mà người viết và người đọc cần
trao đổi”. [Vương Trí Nhàn - Bước đầu đến với văn học, tr.129]. Văn học và
phê bình mà Vương Trí Nhàn nói ở đây là sự nhạy cảm – một đặc điểm nghề
14

nghiệp, một thứ tính trời cho, nhiều khi không hề có ý thức, có gắng gượng.
Song không chỉ dừng lại ở đó, phê bình văn học với những đặc thù riêng của
mình, phải tạo được sự hấp dẫn đối với người đọc. Do đó, trong cách diễn đạt,
phê bình văn học cần phải “mềm hóa” những yếu tố mang tính chất lí luận
khô khan.
Với sự kết hợp hài hòa giữa lí trí và tình cảm, giữa phẩm chất khoa học
và nghệ thuật, phê bình văn học sẽ tiếp cận tác phẩm từ nhiều góc độ, điểm
nhìn khác nhau. Từ đó, nhà phê bình sẽ lí giải được đúng vấn đề, khám phá
được cái hay, cái đẹp trong văn chương.
1.2. Vị trí của Vương Trí Nhàn trong nền phê bình văn học Việt
Nam hiện đại giai đoạn 1986 đến nay.
1.2.1. Diện mạo lí luận, phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam giai
đoạn 1986 đến nay.
1.2.1.1. Sự đổi mới quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn

nghệ
Sau thắng lợi giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc được mười
năm, đất nước gặp nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và nền kinh tế
bao cấp thời chiến, do những chuyển biến của tình hình thế giới, bắt buộc
phải tự đổi mới để tồn tại và phát triển. Mặt khác, sau chiến tranh, nhìn lại thế
giới xung quanh không thể không thấy một bức tranh tư tưởng phong phú,
nghệ thuật mới mẻ, đa dạng, lí luận văn học giàu tìm tòi, phát hiện. Điều đó
càng kích thích các nhà văn, nhà phê bình trong việc đánh giá lại thành tựu
văn học để tiếp tục phát triển. Giai đoạn văn học 1986 đến nay nhìn chung có
thể gọi là giai đoạn đổi mới. Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI của Đảng được tiến hành trong một bối
cảnh xã hội, lịch sử hết sức phức tạp, đồng thời có nhiều triển vọng to lớn.
15

Vấn đề đổi mới trở thành phương châm sống còn. Trong diễn văn khai
mạc Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Văn Linh đã khẳng
định: “Chỉ có đổi mới thì mới thấy hết và thấy đúng sự thật, thấy những nhân
tố mới để phát huy, thấy những sai lầm để sửa chữa”. “Đại hội lần này phải
đánh dấu sự đổi thay của Đảng ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, đặt ra yêu cầu đổi mới tư
duy, đặc biệt là tư duy kinh tế và xã hội. Cuộc gặp gỡ thân mật của ông
Nguyễn Văn Linh – Tổng Bí thư của Đảng với gần 100 văn nghệ sĩ đại diện
cho các ngành sáng tạo trong hai ngày 06 và 07 tháng 10 năm 1987 là một
cuộc khởi đầu tốt đẹp. Với tinh thần nói thẳng, nói thật, với nhu cầu “cởi
trói”, các ý kiến phát biểu và bài nói chuyện của ông Nguyễn Văn Linh đã
thổi một luồng sinh khí mới, thúc đẩy tích cực cho công cuộc đổi mới văn
hóa, văn nghệ. Hơn một tháng sau, ngày 28 tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ra Nghi quyết số 05 về Đổi mới và
nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lí văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy
khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một

bước mới” [Một số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng – văn hóa, tập
2, (1986 – 2000), NXB CTQG, HN, 2000]. Nghị quyết về văn hóa, văn nghệ
của Đảng đã nhìn thấy trước vấn đề và mở ra những khả năng, điều kiện và
triển vọng mới cho sự đổi mới văn học, đặc biệt là lí luận, phê bình văn học.
Đối với các văn nghệ sĩ, lực lượng sáng tạo ra các giá trị nghệ thuật, quan
điểm của Nghị quyết là “khai thác mạnh mẽ các tiềm năng sáng tạo”, “coi
trọng yếu tố con người”. Tuy chưa nói nhiều về tính chủ thể và cá tính sáng
tạo của nghệ sĩ nhưng rõ ràng, quan điểm chung của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã có những đổi thay lớn, phù hợp với yêu cầu mới của thời đại, phù
hợp với bản chất, đặc trưng của văn nghệ. Quan điểm đó chứng tỏ quyết tâm
đổi mới thực sự của Đảng ta và khát vọng muốn khắc phục những quan điểm
cứng nhắc, hẹp hòi, sơ sài, giáo điều của giai đoạn trước do điều kiện lịch sử
và nhận thức qui định. Tất nhiên, như mọi công cuộc đổi mới khác, đổi mới
16

văn học cũng trải qua nhiều sóng gió, trắc trở, tranh luận và nhìn chung công
cuộc đổi mới tuy còn bồng bột, có lúc trầm lắng, gần như chững lại nhưng
vẫn tạo được một không gian tự do hơn trước để sáng tạo, nhờ đó đã đạt được
những thành tựu đáng kể và vẫn có một dòng chảy ngầm đang hướng đến
những kết tinh mới ở giai đoạn tương lai.
1.2.1.2. Những thành tựu lí luận, phê bình văn học giai đoạn 1986
đến nay
1.2.1.2.1. Đánh giá lại các hiện tượng văn học trước năm 1945
Trong không khí xây dựng nền văn học cách mạng cấp thiết, do không
khí thời chiến, sự đối lập ý thức hệ gay gắt một thời, sự vận dụng quan điểm
giai cấp một cách giản đơn, và cũng do thực tế văn học phức tạp, chưa có đủ
thông tin, nhiều hiện tượng văn học trước năm 1945 được đánh giá khá khắt
khe và thiếu công bằng. Một trong những yêu cầu của lí luận, phê bình văn
học trong giai đoạn đổi mới chính là đánh giá lại các thành tựu văn học trước
Cách mạng tháng Tám.

a. Tiêu biểu nhất là phong trào Thơ mới và sáng tác Thơ mới trước đây
được đánh giá chỉ như những sáng tác nghệ thuật vị nghệ thuật, thoát li đời
sống xã hội, mang tính chất tư sản, tiểu tư sản mà chưa thấy hết tinh thần dân
tộc, khát vọng giải phóng cá tính và sự đổi mới thi pháp thi ca dân tộc. Tác
giả Thi nhân Việt Nam đến năm 1960 còn xem đó là những “vần thơ có tội”
của những kẻ bạc nhược không dám làm người. Nhưng dần dần người ta nhìn
vấn đề từ giá trị văn hóa, cách mạng văn học, giải phóng cá tính, bản chất
lãng mạn. Công trình Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca nhân kỉ
niệm 60 năm phong trào Thơ mới do Huy Cận và Hà Minh Đức chủ biên
(năm 1993) và các công trình nghiên cứu riêng về Xuân Diệu, Nguyễn Bính,
Bích Khê, Hàn Mặc Tử cũng như việc in lại trọn vẹn các tác phẩm Thơ mới
(do Lại Nguyên Ân sưu tầm), các cuộc hội thảo về Thi nhân Việt Nam, kỉ
17

niệm lần thứ 90 năm năm sinh Hoài Thanh (ở Viện Văn học và Hội Nhà văn
Việt Nam) đều góp phần đánh giá lại Thơ mới và nhà phê bình của nó. Trong
giai đoạn này, Thơ mới không chỉ được nghiên cứu lại về nội dung tư tưởng
mà còn cả về thi pháp chung và riêng của từng nhà thơ, tiêu biểu là Con mắt
thơ của Đỗ Lai Thúy (1992), Tinh hoa Thơ mới – thẩm bình và suy ngẫm
(1998) của Lê Bá Hán, Thơ mới – bình minh thơ Việt Nam hiện đại (1994)
của Nguyễn Quốc Túy.
b. Văn học Tự lực văn đoàn, chủ yếu là sáng tác của Nhất Linh, Khái
Hưng cũng bị cấm kị một thời nay được in lại trong tuyển tập văn học lãng
mạn gồm 08 tập (Nguyễn Hoành Khung chọn) và tuyển tập tiểu thuyết gồm
03 tập (do Phan Trọng Thưởng chọn). Tháng 5 năm 1989, khoa Ngữ văn
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội tổ chức Hội thảo về văn chương Tự lực văn
đoàn. Sau đó Phan Cự Đệ có nhiều bài viết nhìn lại tiểu thuyết của Khái
Hưng, Nhất Linh; Lê Dục Tú có Quan niệm con người trong tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn (1996,2003).
c. Sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng mà có thời tác giả muốn

từ bỏ và có nhà văn đánh giá như tiêu biểu cho văn chương cá nhân chủ nghĩa
đầy khinh bạc và ích kỉ đã được nghiên cứu lại toàn diện và công phu với các
công trình của Phan Cự Đệ, Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn, Ngọc
Trai.
d. Sáng tác của Vũ Trọng Phụng một thời bị đánh giá thấp và nhấn
mạnh vào ảnh hưởng của troskit và chủ nghĩa tự nhiên, nay đã được đánh giá
lại toàn diện. Tác phẩm được sưu tầm thêm và đã có một số hội thảo nghiên
cứu sáng tác của ông, đặc biệt là tiểu thuyết và phóng sự. Có công trong việc
này phải kể đến Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá, Lại Nguyên Ân và một số
tác giả khác.
18

Ngoài các công trình đã nêu trên, trong thời gian qua đã có nhiều luận
văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu hiện tượng văn học trước năm 1945. Có
thể nói: tuy chưa thật đầy đủ song về cơ bản, văn học Việt Nam trước năm
1945 đã được đánh giá lại thỏa đáng, trả lại các giá trị đích thực của nó, làm
cho tiến trình văn học dân tộc thế kỉ XX được nhìn nhận toàn vẹn, không bị
đứt đoạn như trước.
1.2.1.2.2. Đổi mới lí luận, phê bình và phương pháp nghiên cứu văn
học
Trước giai đoạn đổi mới, ngoài phương pháp bình giải lấy trực cảm làm
điểm tựa trong các bài bình văn vốn có truyền thống lâu đời, chúng ta chỉ có
duy nhất một thứ lí luận văn học mácxit tiếp thụ từ Liên Xô qua các giáo trình
đại học và một số chuyên luận dịch. Phương pháp nghiên cứu văn học chủ
yếu là phương pháp xã hội học với nguyên tắc khách quan lịch sử. Phương
pháp loại hình và so sánh, kí hiệu học đã được giới thiệu. Các phương pháp
khác như: cấu trúc, phân tâm,… đều cho là tư sản, hình thức chủ nghĩa. Đối
tượng nghiên cứu và phê bình văn học chủ yếu đóng khung trong các vấn đề
thuộc nội dung như: đề tài, chủ đề, phương pháp sáng tác, nguyên mẫu, điển
hình hóa, vốn sống, thế giới quan, tính cá thể của nhân vật và phần nào là

phong cách cá nhân. Từ khi có sự chuyển mình đổi mới lí luận và phê bình,
nghiên cứu văn học đã có những đổi thay đáng kể trên nhiều mặt:
a. Trước hết là sự đổi thay, bổ sung của lí luận văn học. Nếu trước kia
do lí luận văn học chủ yếu nghiên cứu văn học từ quan hệ văn học phản ánh
hiện thực theo sự tác động của hiện thực khách quan, vốn sống, chức năng
giáo dục, các khái niệm đề tài, điển hình hóa, miêu tả, nguyên mẫu, thế giới
quan giai cấp có vị trí hàng đầu thì nay tính chủ thể của người sáng tác được
coi trọng. Các khái niệm biểu hiện nội dung này như: quan niệm về con người
và thế giới, tư duy nghệ thuật, cái nhìn nghệ thuật hay giọng điệu nhà văn
được quan tâm. Nếu trước đây quan niệm tác phẩm là bất biến, cụ thể, xác
19

định thì nay người ta hiểu tác phẩm văn học là quá trình, văn bản có tính lược
đồ, chờ đợi sự cụ thể hóa của người đọc, văn bản có tính mơ hồ, đa nghĩa,
không ai là người duy nhất và cuối cùng hiểu được văn học. Khái niệm văn
học được mở rộng, khái niệm về bản chất giao tiếp và văn hóa của văn học
như: đối thoại, đa thanh, phức điệu (trái lại với độc thoại, đơn thanh), liên văn
bản, hàm ẩn, đa nghĩa,… được lưu hành. Các khái niệm thuộc văn học hiện
đại chủ nghĩa phương Tây như: siêu thực, phi lí, phân tâm, giải cấu trúc đều
được giới thiệu. Có thể nói: cả một hệ thống khái niệm lí luận văn học đang
chuyển động theo hướng tiếp cận hệ thống ngôn ngữ lí luận của thế giới. Một
quan niệm mới về văn học được hình thành đã thực sự mở ra một không gian
mới cho tư duy về văn học.
b. Cùng với việc đổi mới khái niệm lí luận là việc giới thiệu lí luận ở
nước ngoài mà trước đây chưa làm được tốt. Bắt đầu là Hoàng Trinh giới
thiệu lí thuyết kí hiệu học và vận dụng vào đọc thơ, ca dao tục ngữ, tiếp đến là
các bài giới thiệu về văn học so sánh của Trương Đăng Dung, Nguyễn Văn
Dân. Phạm Vĩnh Cư. Trần Đình Sử dịch và giới thiệu lí thuyết và các vấn đề
thi pháp của M.Bakhtin. Trương Đăng Dung dịch và giới thiệu về R.Ingarden,
G.Lukacs. Đỗ Lai Thúy dịch và giới thiệu chủ nghĩa hình thức Nga và phân

tâm học của S.Freud, V.Propp. Lộc Phương Thủy dịch và giới thiệu lí luận,
phê bình văn học Pháp thế kỉ XX. Trịnh Bá Đĩnh dịch và giới thiệu về chủ
nghĩa cấu trúc, Phương Đông và phương Tây của N.Kônrát. Nguyên Ngọc,
Phạm Xuân Nguyên dịch và giới thiệu lí luận tiểu thuyết của M.Kundera,…
Sự liệt kê trên đây hẳn chưa đầy đủ và cho dù có đầy đủ vẫn còn thiếu
sót rất nhiều so với yêu cầu cần phải làm, nhưng điều đáng chú ý là một thái
độ cởi mở và thực sự cầu thị muốn bổ sung, mở rộng, làm giàu thêm cách tiếp
cận văn học và đó là điểm khởi đầu cho một thái độ mới không kì thị đối với
kho tàng lí luận văn học phương Tây.
20

c. Song song với việc đổi mới lí luận, giới thiệu lí luận văn học là xây
dựng lí luận và hình thành các hướng nghiên cứu mới. Các nguyên tắc xã hội,
lịch sử trong nghiên cứu vẫn được tiếp tục khẳng định nhưng đã có thêm cách
tiếp cận mới. Thi pháp học của M.Bakhtin và Đ.Likhachốp được dịch, in
rônêô để tham khảo trước đây nay thực sự khởi đầu bằng một số công trình
của Trần Đình Sử như: Thời gian nghệ thuật trong Truyện Kiều (1981), Cái
nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du (1982), Thi pháp thơ Tố Hữu (1987) được
tiếp cận phổ biến, có ảnh hưởng đối với các nhà nghiên cứu trẻ ở các trường
đại học và viện nghiên cứu. Tiểu luận, chuyên luận của Phan Ngọc về Cách
giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du
trong Truyện Kiều (1985) gây được ấn tượng. Các công trình của Đỗ Đức
Hiểu, Đỗ Lai Thúy được đón nhận. Hàng chục công trình nghiên cứu về thi
pháp học của các nhà văn xuất hiện. Nếu trước đây, Hoài Thanh thường chú ý
mô tả ấn tượng của mình về thơ, về hồn thơ mà chưa mô tả bản thân thơ, thì
các nhà thi pháp học hiện đại quan tâm tới việc mô tả chính bản thân thơ, văn
như một nghệ thuật ngôn từ. Đó phải coi là một bước tiến.
Bên cạnh hướng thi pháp học, có thể kể đến hướng văn học so sánh,
hướng nghiên cứu văn học trên bình diện văn hóa và vô thức, hướng nghiên
cứu phương thức tồn tại của các tác phẩm văn học.

Tuy các hướng nghiên cứu trên chưa nhiều, chưa đồng đều nhưng
chúng đã tạo ra sự đa dạng trong cách tiếp cận văn học và hứa hẹn sự phát
triển về sau. Thành tựu đổi mới lí luận, phê bình, nghiên cứu văn học ở giai
đoạn đổi mới, giao thời trên các mặt là không nhỏ và rất đáng trân trọng.
21

1.2.1.2.3. Thế hệ các nhà lí luận, phê bình, nghiên cứu văn học giai
đoạn 1986 đến nay.
Đặc điểm của thế hệ lí luận, phê bình, nghiên cứu văn học giai đoạn
này là các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước không trực tiếp tham gia chỉ đạo lí
luận, phê bình và bàn luận về tác phẩm văn nghệ như giai đoạn trước, cho nên
các nhà lí luận, phê bình, nghiên cứu được phân bố vào ba khu vực chính: các
nhà văn, nhà báo, nhà quản lí văn nghệ; các trường đại học và các viện nghiên
cứu. Ngoài ra còn có các nhà lí luận phê bình văn học hải ngoại. Tác phẩm
của họ tạo nên diện mạo đời sống lí luận, phê bình văn học giai đoạn này.
a. Các nhà văn, nhà báo, nhà quản lí văn nghệ
Đội ngũ các nhà văn, nhà báo, nhà quản lí văn nghệ bao giờ cũng đông
đảo, nhất là vào thời kì đổi mới, báo chí xuất hiện nhiều. Có thể kể tên các
nhà văn tham gia vào đời sống lí luận phê bình thời này như: Nguyễn Minh
Châu, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Hà Xuân Trường, Nguyễn Văn Hạnh,
Thiếu Mai, Từ Sơn, Vũ Quần Phương, Nguyễn Trọng Tạo, Thanh Thảo,
Nguyễn Huy Thiệp, Lê Quang Trung, Đinh Xuân Dũng, Lê Thành Nghị, Trần
Đăng Khoa, Trần Mạnh Hảo, Hữu Thỉnh, Văn Tâm, Nguyễn Văn Lưu, Phạm
Đình Ân, Phạm Tiến Duật, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Ngô Thảo, Đỗ
Minh Tuấn, Đông La, Trịnh Đình Khôi, Nguyễn Hoàng Sơn, Chu Lai, Trung
Trung Đỉnh, Nguyễn Quang Thiều,…. Trong số các nhà văn trên, xét ở tính
tiêu biểu về phương diện tư tưởng, phương pháp, nghề nghiệp và thành tựu có
thể kể đến: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Văn Tâm, Lại Nguyên Ân,
Vương Trí Nhàn.
b. Các nhà lí luận, phê bình, nghiên cứu ở các trường đại học

Đội ngũ các nhà lí luận, phê bình, nghiên cứu ở đại học cũng rất đông
đảo. Ngoài các cây bút đã nổi danh ở giai đoạn trước như Lê Trí Viễn, Đinh
Gia Khánh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Lê Đình Kị, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn
22

Lộc, Phùng Văn Tửu, Nguyễn Hoành Khung, Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Đức
Nam, Nguyễn Đăng Mạnh, Phương Lựu, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Xuân
Nam, Đặng Thanh Lê, Đặng Thị Hạnh, Nguyễn Hải Hà, Lương Duy Thứ,
Trần Đình Hượu, Trần Thanh Đạm, đến giai đoạn này có thể kể thêm Trần
Hữu Tá, Mã Giang Lân, Đặng Anh Đào, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà, Huỳnh
Như Phong, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Phạm Vĩnh Cư, Chu Văn
Sơn, Phạm Quang Long, Mai Quốc Liên, Đỗ Văn Khang, Bùi Việt Thắng,
Đào Duy Hiệp, Lã Nguyên, Trần Đăng Xuyền, Nguyễn Bá Thành, Trần
Khánh Thành,…
Xét về mặt khuynh hướng tư tưởng, phương pháp nghiên cứu có thể
chọn các cây bút tiêu biểu sau: Lê Trí Viễn, Nguyễn Đăng Mạnh, Phương
Lựu, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu, Trần Đình Hượu.
c. Các nhà lí luận, phê bình, nghiên cứu văn học ở các viện nghiên
cứu
Các viện nghiên cứu văn học, văn hóa trong nước và khu vực có một
lực lượng đông đảo các nhà nghiên cứu về văn học trong và ngoài nước. Có
thể kể tên các tác giả như: Hoàng Trinh, Vũ Đức Phúc, Phong Lê, Lê Thị Đức
Hạnh, Nguyễn Huệ Chi, Phan Trọng Thưởng, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn
Hữu Sơn, Nguyễn Đức Mậu, Lê Dục Tú, Tôn Phương Lan, Phan Diễm
Hương, Lưu Khánh Thơ, Bích Thu, Trịnh Bá Đĩnh, Đào Tuấn Ảnh, Vũ Tuấn
Anh, Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Văn Dân, Phan Ngọc, Nguyễn Xuân Kính,
Trương Đăng Dung,… Đặc điểm chung của nhóm tác giả này cũng giống như
các tác giả ở trường đại học là đi vào nghiên cứu các vấn đề lí luận chuyên
sâu hoặc biên soạn, tổng kết các hiện tượng văn học. Xét từ góc độ tác giả có
tư tưởng, có phương pháp và thành tựu có thể kể Phong Lê, Phan Ngọc, Đỗ

Lai Thúy.
23

Ở giai đoạn văn học 1986 đến nay, ngoài các nhà lí luận, phê bình văn
học trong nước còn có thể kể thêm các tác giả Việt Nam ở hải ngoại. Có thể
kể tên Thụy Khuê, Đặng Tiến (Pháp); Hoàng Ngọc Tuấn (Ôxtrâylia),… Đó là
những cây bút sắc sảo về học thuật. Do chưa có đủ tư liệu, chúng tôi chưa giới
thiệu nhiều về họ.
Nhìn lại nền lí luận phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn
1986 đến nay, chúng ta có thể thấy: đó là một quá trình phát triển mau lẹ, liên
tục và không ít kịch tính. Tuy vẫn còn có phần hạn chế nhưng những thành
tựu mà lí luận, phê bình văn học nước nhà đạt được trong giai đoạn này đã
thực sự đồng hành với văn học dân tộc và với lí luận, phê bình văn học thế
giới trong những trào lưu lớn.
1.2.2. Vị trí phê bình văn học của Vương Trí Nhàn
Vương Trí Nhàn (sinh năm 1942), quê ở Thuận Thành, Bắc Ninh. Ông
là nhà phê bình viết nhiều, có cách nhìn riêng về đời sống văn học từ phương
diện đạo đức, văn hóa. Ông là tác giả của hàng ngàn trang phê bình với nhiều
công trình nghiên cứu đặc sắc, kể từ: Bước đầu đến với văn học cho tới Nhà
văn Việt Nam và quá trình hiện đại hóa. Chỉ tính riêng các tác phẩm lí luận
phê bình, có thể coi Vương Trí Nhàn là một “đại gia”, đặc biệt là những tác
phẩm tìm hiểu về các nhà thơ cổ điển, về văn học cách mạng, văn học Việt
Nam hiện đại xứng đáng là những công trình tầm cỡ, chỉ những nhà khoa học
thực sự tài hoa uyên bác mới vươn tới được.
Có thể nói, lịch sử phê bình văn học Việt Nam đã ghi nhận sự đóng góp
của nhiều nhóm phê bình: từ thế hệ những nhà phê bình đầu tiên như: Phan
Kế Bính, Phạm Quỳnh, Phan Khôi đến các nhà phê bình theo xu hướng tổng
kết như: Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan; các nhà phê bình mácxit
như: Hải Triều, Đặng Thai Mai và các nhà phê bình kiêm công tác quản lí văn
nghệ như Tố Hữu, Trường Chinh đến các nhà phê bình thuộc giới văn nghệ sĩ

×