Tải bản đầy đủ (.pdf) (203 trang)

Đặc điểm và mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 203 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN ĐỨC DŨNG


ĐẶC ĐIỂM VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA KÝ VĂN HỌC VÀ KÝ BÁO CHÍ

Chuyên ngành :
LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC

Mã số : 5. 04. 01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
Giáo sư HÀ MINH ĐỨC







HÀ NỘI - 2003



Mục lục

Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Mở đầu 1
Chương 1: ký và những quan niệm khác nhau
1.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển của ký
11.1. Sự manh nha, định hình và phát triển 9
1.1.2. Sự xuất hiện và phát triển của ký ở Việt Nam 14
1.2. Tình hình nghiên cứu ký ở Việt Nam
1.2.1. Một số quan niệm khác nhau 18
1.2.2. Vấn đề ký văn học và ký báo chí 34
Chương 2 : Tác phẩm ký văn học
2.1. Đặc trưng của ký văn học
2.1.1. Một loại văn học phản ánh người thật việc thật 45
2.1.2.Nguyên tắc điển hình hoá trong ký văn học 48
2.2. Các thể ký văn học
2.2.1.Bút ký 50
2.2.2.Bút ký chính luận 56
2.2.3.Tuỳ bút 59
2.2.4. Ký sự 62
2.2.5. Phóng sự văn học 69
2.2.6. Nhật ký văn học 76
2.2.7. Truyện ký 80
2.2.8.Hồi ký văn học 84
2.2.9.Chân dung văn học 88

2.2.10. Tạp văn - tiểu phẩm 92
Chương 3: Tác phẩm ký báo chí
3.1. Ký báo chí trong hệ thống thể loại báo chí
3.1.1.Về hệ thống thể loại báo chí 97
3.1.2.Các loại thể báo chí và mối quan hệ của chúng 100
3.1.3.Đặc trưng của ký báo chí 103
3.2. Các thể ký báo chí
3.2.1.Phóng sự 106
3.2.2.Ghi nhanh 114
3.2.3.Ký chân dung 121
3.2.4.Ký chính luận 127
3.2.5.Nhật ký phóng viên 133
3.2.6.Thư phóng viên và sổ tay phóng viên 138
Chương 4: Mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí
4.1. Ký văn học và ký báo chí trong mối quan hệ giữa văn học và báo chí
4.1.1. Về mối quan hệ giữa văn học và báo chí 143
4.1.2. Sự giao thoa, thâm nhập, chuyển hoá giữa ký văn học và ký báo chí 151
4.2. Ký văn học và ký báo chí trong bối cảnh đổi mới hiện nay
4.2.1.Vài nét về nền văn học và báo chí đổi mới 158
4.2.2.Những xu hướng phát triển của ký văn học và ký báo chí 167
Kết luận và kiến nghị 178
công trình công bố của tác giả 184
Tài liệu tham khảo 185




1
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Từ thập kỷ 60 sang đến đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, ở nước ta đã
từng có những cuộc bàn luận, tranh luận về những vấn đề xung quanh ký với
sự tham gia của nhiều nhà văn và các nhà nghiên cứu nổi tiếng. Đã có nhiều
câu hỏi được đặt ra, trong đó có những câu hỏi rất quan trọng như: Ký có phải
là văn học không? Trong ký có hư cấu không? Mối quan hệ giữa truyện và
ký? Đặc trưng của ký là gì? Liệu có nên phân chia thành ký văn học và ký
báo chí không? v.v
Những năm sau này, nhiều người vẫn tiếp tục nêu ra những ý kiến bàn
luận. Mặc dù đều thống nhất khẳng định ký là một loại văn học viết về người
thật việc thật nhưng vẫn tồn tại những ý kiến khác nhau khi xác định đặc
trưng của nó. Có ý kiến nhấn mạnh tính chính luận như là là đặc trưng quan
trọng nhất của ký. Ý kiến khác cho rằng đặc trưng quan trọng nhất của ký văn
học là trần thuật về những người thật, việc thật. Một số ý kiến xác định đặc
trưng của ký văn học là ở tính xác thực, tư liệu. Ngoài ra cũng còn những
quan niệm cho rằng không thể xác định được đặc trưng của ký
Sự không nhất trí về những vấn đề xung quanh ký còn thể hiện ở nhiều
khía cạnh khác. Có thể lấy ví dụ trong cách sử dụng thuật ngữ. Cũng là để chỉ
“ký” nhưng hiện vẫn còn tồn tại những cách gọi khác nhau. Thông thường
nhất, ta hay gặp cách gọi là “thể ký”. Ngoài ra còn một số tên gọi khác thường
xuyên được sử dụng như “thể loại ký”, “loại ký” v.v Thậm chí, khi nói về
ký có người chỉ gọi chung chung là “bút ký”. Trong thực tiễn sáng tạo tác
phẩm, có tác giả đã không gọi đúng tên thể loại đối với tác phẩm của mình.
Thực tế nêu trên cho thấy sự phức tạp của vấn đề và điều này xét cho cùng lại


2
có nguyên do gắn liền với sự năng động của các thể ký trong quá trình phản
ánh hiện thực.
Trong số những câu hỏi đã từng được nêu ra, có lẽ câu hỏi “liệu có nên

phân biệt giữa ký văn học và ký báo chí không ?” đã gây ra nhiều tranh luận
nhất. Mặc dù vẫn còn những ý kiến cho rằng không thể phân biệt được hai
loại ký nhưng đến những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã cơ bản thống
nhất cho rằng đó là một sự phân biệt cần thiết và có thể thực hiện được. Tuy
nhiên, điều đáng chú ý là người ta thường chỉ phân biệt tính chất văn học và
tính chất báo chí trong một số thể loại gần gũi với báo chí như ký sự, bút ký,
bút ký chính luận, tạp văn, tiểu phẩm Ký báo chí vẫn chưa được xem xét với
tư cách là một loại thể với những đặc điểm khu biệt có thể đối sánh với ký văn
học. Điều này có nguyên nhân ở chỗ: cho đến nay loại thể ký báo chí vẫn
chưa được nhận diện một cách rõ ràng trong hệ thống thể loại báo chí, do đó
những ý kiến phân loại thường chỉ giới hạn trong khu vực các thể ký văn học.
Trong lý luận báo chí nước ta, trước những năm 90 việc nghiên cứu về
ký hầu như chưa có thành quả nào. Mặc dù trong chương trình đào tạo đại học
báo chí cũng có phần dành cho ký, nhưng đó chỉ là sự vận dụng những kết
quả nghiên cứu của lý luận văn học bằng cách giới thiệu một số thể loại được
coi là “gần gũi với báo chí” như bút ký, ký sự, tạp văn, tiểu phẩm Trong đó,
đặc điểm chung của các thể ký được xác định là “vừa có tính chất văn học,
vừa có tính chất báo chí”.
Hiện nay, các tác phẩm ký đang phát triển rất mạnh mẽ trong nền văn
học và báo chí đổi mới ở nước ta. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một công
trình nghiên cứu nào đề cập đến đặc điểm và mối quan hệ giữa ký văn học và
ký báo chí. Ngay ở thời điểm này, nhiều câu hỏi về những vấn đề có liên quan
đến ký nói chung vẫn chưa được trả lời một cách thoả đáng.


3
Trong khoảng mười năm qua, chúng tôi đã trình bày quan niệm của
mình trong một số bài viết đăng tải trên các tạp chí, các thông báo khoa học,
trong một số chương của các cuốn sách Viết báo như thế nào, Sáng tạo tác
phẩm báo chí và đặc biệt là trong cuốn Các thể ký báo chí. Trong đó, chúng

tôi cho rằng cần phải nhìn nhận ký báo chí với tư cách là một loại thể tồn tại
độc lập, bình đẳng với các loại thể khác trong hệ thống thể loại báo chí và
độc lập với ký văn học. Tuy nhiên, để có thể giải quyết vấn đề một cách toàn
diện, đòi hỏi phải có một công trình nghiên cứu chuyên sâu với một cách tiếp
cận và giải quyết vấn đề bao quát hơn.
Được sự động viên, giúp đỡ của các giáo sư, tiến sỹ và bạn bè đồng
nghiệp, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của giáo sư Hà Minh Đức - người
hướng dẫn luận án, tôi mạnh dạn phát triển đề tài nghiên cứu này. Công việc
này có liên quan trực tiếp tới chuyên môn của tôi - một giảng viên chuyên về
các thể loại báo chí và các thể nằm trong khu vực giao thoa giữa văn học và
báo chí.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận án này không có tham vọng tổng kết toàn bộ những vấn đề đã và
đang đặt ra xung quanh ký văn học và ký báo chí. Với mong muốn đóng góp
một cách nhìn trước những vấn đề hiện vẫn đang gây tranh cãi, bên cạnh việc
trình bày một cách khách quan những quan niệm đã có và những vấn đề đặt
ra, chúng tôi cố gắng trình bày ý kiến riêng của mình từ một góc độ mới.
Để khảo sát những đặc điểm của ký văn học, ký báo chí và mối quan hệ
giữa chúng, trong luận án chúng tôi sẽ lần lượt đề cập đến những nội dung
chủ yếu sau đây:
Một: trình bày khái quát về sự hình thành, phát triển của ký và lịch sử
vấn đề nghiên cứu ký ở Việt Nam với những quan niệm khác nhau, trong đó
đặc biệt chú ý vấn đề ký văn học và ký báo chí.


4
Hai: khảo sát đặc điểm của các thể ký văn học. Công việc này được
tiến hành trên cơ sở kế thừa thành quả của những nhà nghiên cứu đi trước để
xem xét các thể ký văn học trong bối cảnh của đời sống văn học hiện đại ở
nước ta qua việc khảo sát một số thể ký văn học tiêu biểu như: bút ký, bút ký

chính luận, tuỳ bút, ký sự, phóng sự văn học, nhật ký văn học, truyện ký, hồi
ký, chân dung văn học, tạp văn, tiểu phẩm
Ba: xác định diện mạo hệ thống thể loại báo chí ở nước ta hiện nay,
trong đó có loại thể ký báo chí. Công việc này sẽ tạo cơ sở để triển khai
nghiên cứu những đặc điểm của một số thể ký báo chí như phóng sự, ghi
nhanh, ký chân dung, ký chính luận, nhật ký phóng viên, thư phóng viên và sổ
tay phóng viên
Bốn: nghiên cứu mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí. Đây là
mối quan hệ vốn có, được hình thành một cách tất yếu trong quá trình phản
ánh về những con người, sự việc sự kiện có thật trong đời sống. Trong bối
cảnh hiện nay, mối quan hệ này vẫn được thể hiện một cách sinh động trên
nhiều khía cạnh, góp phần tạo ra động lực cho sự phát triển của ký trong đời
sống văn học và báo chí hiện đại nước ta.
Toàn bộ những công việc trên nhằm xây dựng một cách nhìn hợp lý, sát
thực hơn đối với các thể ký trong bối cảnh của đời sống văn học và đời sống
báo chí Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là đặc điểm và mối quan hệ giữa
các thể ký văn học và ký báo chí trong bối cảnh của đời sống văn học và đời
sống báo chí hiện nay ở nước ta.
Mặc dù có chung một đối tượng phản ánh và nhận thức là người thật,
việc thật và thường xuyên có sự giao thoa chuyển hoá lẫn nhau nhưng nhìn
chung ký văn học và ký báo chí vẫn có sự khác biệt về đặc trưng loại thể.


5
Điều đó được thể hiện không chỉ ở những yếu tố như các cấp độ của điển
hình, tính chất và mức độ hư cấu, cảm xúc, suy tưởng, sự chiêm nghiệm của
tác giả, ở những yêu cầu về tính xác thực và tính thời sự mà còn thể hiện ở
những yếu tố hình thức như thể loại, bút pháp, giọng điệu và kể cả về dung

lượng của tác phẩm
Trong những công trình nghiên cứu trước đây, những đặc điểm và năng
lực của các thể ký báo chí chưa được nhận diện một cách đầy đủ và nhìn
chung chưa có sự phân biệt thực sự giữa ký báo chí với ký văn học. Điều này
có nguyên nhân như đã nói ở trên là các tác giả trước đây thường chỉ xem xét
ký văn học trong sự so sánh với các loại thể văn học. Tuy các ý kiến đều lưu
ý tới mối quan hệ giữa ký văn học với báo chí (hoặc ký báo chí) nhưng nhìn
chung những quan niệm đã trình bày vẫn thường chỉ dừng lại ở chỗ xem xét
tính chất văn học và tính chất báo chí của các thể ký văn học. Hơn nữa, do
trước đây đặc trưng của báo chí thường chỉ được xác định một cách giới hạn ở
tính chất chính luận nên “tính chất báo chí” của ký văn học cũng chỉ được
giới hạn ở đặc điểm này. Nguyên nhân của tình hình trên gắn liền với bối
cảnh của đời sống văn học và đời sống báo chí nước ta những thập kỷ trước.
Ngoài ra, còn có nguyên nhân do sự phát triển có phần còn chậm của lý luận
báo chí Việt Nam. Trong thực tế, phải đến đầu thập kỷ 90 lý luận báo chí
nước ta mới bắt đầu tiếp cận các thể loại báo chí trên cơ sở hệ thống nhưng
đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi, bàn luận.
Hiện nay, do khái niệm “báo chí” bao hàm nhiều loại hình với những
đặc trưng rất khác biệt như: thông tấn, báo in, báo nói, báo hình, báo ảnh, báo
trực tuyến (báo trên mạng Internet) nên thuật ngữ “ký báo chí” được sử dụng
ở đây chủ yếu là để chỉ các tác phẩm ký báo chí được sử dụng trên các loại
hình báo chí truyền thống có phương thức in ấn, đăng tải gần với văn học -
chủ yếu là loại hình báo in Với những tác phẩm được sử dụng trên các loại


6
hình báo chí gắn với kỹ thuật hiện đại như phát thanh, truyền hình, báo ảnh,
báo trực tuyến cần phải có những công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có nhiều thuận lợi nhưng cũng

gặp nhiều khó khăn. Thuận lợi lớn nhất là được kế thừa những kết quả quan
trọng của các nhà nghiên cứu đi trước về những vấn đề có liên quan tới ký
văn học. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được mục đích đã đề ra cho luận án
này, chúng tôi cho rằng bên cạnh việc dựa vào những thành quả của lý luận
văn học, còn phải kết hợp vận dụng những kết quả nghiên cứu của lý luận báo
chí. Nói cách khác, để xác định những đặc điểm và mối quan hệ giữa ký văn
học và ký báo chí, phải đặt chúng trong mối quan hệ so sánh với tư cách là
hai loại thể thuộc hai hệ thống thể loại khác nhau. Mà muốn vậy - như đã
trình bày ở trên, trước hết phải nhận diện đúng về loại thể ký báo chí trong hệ
thống của nó. Ngoài ra, để có thể làm sáng tỏ những đặc điểm và mối quan
hệ giữa ký văn học, ký báo chí còn phải xem xét đặc điểm của từng thể loại
trong mối quan hệ với những thể loại khác ở bên trong và bên ngoài loại thể
và hệ thống của nó. Đó cũng là con đường của chúng tôi trong việc tiếp cận
để giải quyết đề tài nghiên cứu này. Đây là một đề tài khó, còn nhiều tranh
cãi, lại do các thể ký có nhiều hình thức biểu hiện đa dạng và phức tạp nên
cần phải có những phương pháp nghiên cứu linh hoạt.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi vận dụng kết hợp một số
phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh Các
phương pháp được vận dụng đều có vai trò quan trọng và tích cực đóng góp
vào kết quả của luận án.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Việc xác định một cách đúng đắn những đặc điểm và mối quan hệ giữa
ký văn học và ký báo chí trước hết có liên quan trực tiếp tới việc điều chỉnh


7
các chương trình đào tạo văn học và báo chí hiện nay. Với các chương trình
đào tạo văn học, cần phải thống nhất một quan niệm về sự phân biệt giữa ký
văn học và ký báo chí. Với các chương trình đào tạo báo chí, việc nhận diện
loại thể ký báo chí trong sự khu biệt với ký văn học và với các loại thể báo chí

khác cũng đang là một yêu cầu bức xúc. Như vậy, công trình nghiên cứu này
có thể góp phần giải quyết một bất hợp lý vốn đã từng tồn tại lâu nay trong
các chương trình đào tạo. Rõ ràng là không thể xác định được một cách đầy
đủ những đặc điểm, đặc trưng của ký văn học nếu không đặt nó trong sự so
sánh với ký báo chí và ngược lại. Ngoài ra, công việc này còn có thể có những
tác động trực tiếp đến thực tiễn sáng tạo tác phẩm của các nhà văn, nhà báo và
tạo cơ sở lý luận cần thiết cho việc đánh giá tác phẩm trong những kỳ xét giải
thưởng văn học và báo chí.
6. Cấu trúc của luận án
Trong luận án này, sau Mở đầu, các nội dung chủ yếu được bố trí trong
bốn chương theo trình tự như sau:
Chương 1: Ký và những quan niệm khác nhau
Chương này gồm hai mục. Mục 1 xem xét vài nét về sự hình thành và
phát triển của ký. Mục thứ hai đề cập đến tình hình nghiên cứu ký ở Việt Nam.
Trong mục này, sau khi trình bày một số quan niệm khác nhau, chúng tôi tập
trung vào vấn đề ký văn học và ký báo chí.
Chương 2: Tác phẩm ký văn học
Chương này cũng gồm hai mục. Mục 1 khảo sát đặc trưng của ký văn
học qua việc xem xét năng lực phản ánh hiện thực và nguyên tắc điển hình
hoá của loại văn học này. Phần lớn nội dung của chương được trình bày trong
mục 2 là mục có nhiệm vụ khảo sát các thể ký văn học. Trong đó, sau khi đã
nêu quan niệm của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi cũng nêu ý kiến
riêng trong việc xác định đặc điểm của một số thể ký văn học tiêu biểu như


8
bút ký, bút ký chính luận, tuỳ bút, ký sự, phóng sự văn học, nhật ký văn học,
truyện ký, hồi ký, chân dung văn học, tạp văn - tiểu phẩm v.v
Chương 3: Tác phẩm ký báo chí
Mục 1 của chương này có nhiệm vụ xác định vị trí, vai trò của ký báo

chí trong hệ thống thể loại báo chí. Sau khi đã trình bày quan niệm của mình
về hệ thống thể loại báo chí ở Việt Nam, chúng tôi xác định các loại thể báo
chí và mối quan hệ giữa chúng và đặc biệt nhấn mạnh đặc trưng của loại thể
ký báo chí. Mục 2 của chương này khảo sát một số thể loại thuộc loại thể ký
báo chí như phóng sự, ghi nhanh, ký chân dung, ký chính luận, nhật ký phóng
viên, thư phóng viên và sổ tay phóng viên Mỗi thể loại sẽ được xem xét
trên các phương diện như sự hình thành và phát triển cùng với những đặc
trưng, đặc điểm thể loại
Chương 4: Mối quan hệ giữa ký văn học và ký báo chí
Mục 1 của chương này đề cập đến mối quan hệ giữa ký văn học và ký
báo chí trong mối quan hệ giữa văn học và báo chí theo trình tự: xem xét mối
quan hệ giữa văn học và báo chí nói chung và mối quan hệ giữa ký văn học
và ký báo chí nói riêng. Mục 2 đề cập tới những đặc điểm của nền văn học và
báo chí đổi mới và trên cơ sở đó xem xét những xu hướng phát triển của ký
văn học và ký báo chí trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Cuối luận án, sau Kết luận và kiến nghị là Công trình công bố của tác
giả và Tài liệu tham khảo.







9




Chương 1

KÝ VÀ NHỮNG QUAN NIỆM KHÁC NHAU

1.1. VÀI NÉT VỀ SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KÝ
1.1.1. Sự manh nha, định hình và phát triển
Trong quá trình nhận thức và phản ánh hiện thực của con người, những
hình thức ghi chép có tính chất ký đã xuất hiện từ rất sớm, gắn liền với sự
xuất hiện của chữ viết. Ban đầu, việc ghi chép những điều mắt thấy tai nghe
thường lẫn với những truyền thuyết, những huyền thoại lưu truyền trong dân
gian. Đó là một hiện tượng phổ biến trong mọi cuốn sách cổ.
Ở thời kỳ đầu tiên, công việc ghi chép vừa là chép sử vừa là văn học,
đồng thời còn thể hiện những tư tưởng triết học. Đó là thời kỳ “văn - sử - triết
bất phân”. Tuy cho đến nay vẫn chưa có một tài liệu nào khẳng định những
tác phẩm ký đầu tiên đã ra đời ở đâu, nhưng nếu xét từ một thực tế hiển nhiên
là những ghi chép đầu tiên phải gắn liền với sự ra đời của chữ viết thì đó có
lẽ đó là những tác phẩm của Trung Quốc cổ đại như Xuân thu, Tả truyện,
Chiến quốc sách
Theo giáo sư (viết tắt: GS.) Hà Minh Đức, “trong văn học phương Tây,
văn học sử cũng trích tuyển cả những bài viết có tính chất ký chính luận từ
nguồn sử học của Misơlê (Michelet), Ôguýtanh Chieri (Augustin Tierry), triết
học của Paxcan (Pascal), chính trị của Mirabô (Mirabeau), Vécnhiô


10
(Vergniaud) v.v” [36, tr.185,186]. Với sức mạnh là những sự thật được lựa
chọn và phản ánh một cách chân thực, tác phẩm ký là tấm gương phản chiếu
đời sống trong toàn bộ dáng vẻ phức tạp, sinh động vốn có của nó. Ngày nay,
khi muốn tìm hiểu lại cuộc sống thực trong quá khứ, người ta không tìm đọc
thơ ca, tiểu thuyết, kịch mà đọc ký. Chỉ có ký mới có thể cung cấp những sự
thật xác thực, cụ thể nhất về quá khứ. Những tác phẩm ký đã giữ vai trò độc

tôn như vậy trong suốt lộ trình văn học và sức hấp dẫn của nó trước hết cũng
chính nhờ ở đặc điểm quan trọng này .
Sự phát triển của nhận thức - trong đó có ý thức về đặc trưng hình
tượng của văn học dần dần đã khiến cho văn học tách ra khỏi những khoa học
khác như lịch sử, triết học. Trong văn học xuất hiện những hình thức biểu
hiện mới và hệ thống các thể loại ngày càng phong phú hơn.
Theo các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học, mặc dù đã ra đời rất
sớm nhưng phải đến thế kỷ XVII và đặc biệt là từ thế kỷ XIX, “khi đời sống
lịch sử của các dân tộc ngày càng phát triển theo hướng tăng tốc, khi kỹ nghệ
in ấn và báo chí phát triển, văn học mở cửa, xé rào để thâm nhập vào các lĩnh
vực hoạt động tinh thần khác, nhà văn ngày càng có ý thức tham gia trực tiếp
vào các cuộc đấu tranh xã hội, ký mới thực sự phát triển mạnh mẽ” [56,
tr.112]. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cũng cho rằng tác phẩm ký thường
thịnh hành ở các thời kỳ xã hội có sự khủng hoảng của các quan hệ cũ, nảy
sinh một nếp sống mới, làm tăng cường sự miêu tả về các thói tục. Ông lấy ví
dụ: “ Ở nước Anh đầu thế kỷ XVIII, khi các tạp chí châm biếm của R. Steel
và J. Addison đăng những bài phác hoạ chân dung và cảnh sinh hoạt hoặc ở
Nga giữa thế kỷ XIX khi chế độ nông nô khủng hoảng, quý tộc suy thoái, hạ
lưu bị bần cùng, thể ký trở thành một trong những thể loại chủ đạo của văn
học” [5, tr.180].


11
Theo giáo sư tiến sỹ khoa học (viết tắt: GS. TSKH.) Phương Lựu, ở
phương Tây tác phẩm ký văn học thịnh hành từ chủ nghĩa Khai sáng với
Những bức tranh Pari của Mécxiê, Tự thú của Rútxô v.v “Đến chủ nghĩa
lãng mạn, tuy ký không thật phát triển nhưng cũng để lại một số tác phẩm nổi
tiếng như Những hồi ức chỉ công bố sau ngày đã mất của Satôbriăng. Những
nhà văn hiện thực kiệt xuất như Đíchkenx và Thácơrây đều có viết ký” [157,
tr.274].

Ở nước Nga, thể loại truyện ký đã được thừa nhận về phương diện lý
luận từ những năm 40 của thế kỷ XIX khi nó được hình thành như một thể
loại thế sự điển hình và có tên gọi là “sinh lý học”. Các nhà văn của “trường
phái tự nhiên” Nga khi đó đã thực hiện việc dân chủ hoá nền văn học và
nghiên cứu kỹ đám đông bằng con đường “chính luận-nghệ thuật”. Đó là
những tác phẩm khá nổi tiếng như Những xó xỉnh Pêtecbua của N.
Nhêcraxốp, Những người chơi đàn Sacmansica lang thang ở Pêtecbua của Đ.
Grigrôvich, Người Côdăc vùng Uran của V. Đal. Theo các nhà nghiên cứu
văn học Nga, “truyện ký thế sự đạt được những thành tựu mới trong văn học
Nga vào những năm 1860 - 1870 nhờ sáng tác của M. Santưcôp - Sêđin, G.
Uspensky, V. Slepxôp, A. Lêvitôp” [147, tr.409, 410].
Theo hồi ức của V. Bôntsơ - Bruêvits về V.I. Lênin, trong khi đã đấu
tranh quyết liệt với Mikhailôpxki, V. Vôrônxtôp và các nhà lý luận khác của
phái dân tuý, Lênin lại rất lưu ý đến tác dụng sâu sắc của các nhà văn thuộc
phái này. Người đã tỏ ra đặc biệt quan tâm đến tác phẩm ký Những tập tục ở
phố Raxtêraiêva của U penxki và những bài ký về đời sống của giai cấp công
nhân trong các bút ký của Zlatôvraxki. Trong một lá thư gửi M. Gorki đề
ngày 7-2-1908, Lênin đã đề nghị: “Song nếu anh có cả hứng thú cộng tác với
một tờ báo chính trị, - thì tại sao anh lại không tiếp tục, không có thói quen


12
viết cái thể loại mà anh đã bắt đầu bằng Bút ký về giai cấp tiểu tư sản ở báo
Đời mới, mà theo tôi, anh đã mở đầu một cách tốt đẹp” [91, tr.299].
Là những hình thức ghi chép linh hoạt về hiện thực một cách chân thực
và trực tiếp, văn học ký thường phát triển mạnh ở những thời điểm xã hội
đang có những biến động, gắn với những thay đổi mạnh mẽ. Trong tác phẩm
Mười ngày rung chuyển thế giới, Giôn Rít đã vẽ lại trước mắt người đọc một
bức tranh sinh động về cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại thông qua
“hàng loạt những hình ảnh sống, những hình ảnh điển hình đến nỗi bất cứ

người nào đã được chứng kiến cuộc sống cách mạng cũng hình dung ra ngay
những cảnh tương tự mà mình đã sống” (Lời tựa của N. Cơ-rup-xcai-a cho lần
xuất bản đầu tiên bằng tiếng Nga) [155, tr.7].
Nối tiếp truyền thống vẻ vang của quá khứ, văn học Trung Quốc đầu
thế kỷ XX đã sinh một trong những nhà viết ký bậc thầy là Lỗ Tấn. Văn
chương của ông có tính chiến đấu mạnh mẽ, được biểu hiện ở cái phần quan
trọng nhất trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông là tạp văn. Trong một tài
liệu nghiệp vụ báo chí do Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản năm từ 1960 (có
tên là Bài giảng về tạp văn) có trích dẫn ý kiến của tác giả Cù Thu Bạch viết
từ năm 1933 in trong “Tuyển tập tạp cảm Lỗ Tấn”. Trong đó, Cù Thu Bạch
nhận xét rằng chính cuộc đấu tranh xã hội kịch liệt khiến cho nhà văn không
thể ung dung nhào nặn tư tưởng tình cảm của mình vào trong sáng tác, đồng
thời sự áp chế tàn bạo cũng không cho phép nhà văn có thể tự do ngôn luận
bằng hình thức thông thường. Chính vì thế, “tài năng hài hước của Lỗ Tấn
giúp ông biểu hiện lập trường chính trị của mình, sự quan sát sâu sắc đối với
xã hội của mình, sự đồng tình nhiệt liệt của mình đối với đấu tranh của dân
chúng bằng hình thức nghệ thuật” [74, tr.6]. Nhận xét này được coi là tiêu
biểu cho cách nhìn khoa học và đúng đắn về lý do sự xuất hiện và tinh thần
chiến đấu của tạp văn Lỗ Tấn trong bối cảnh xã hội Trung Quốc thời kỳ đó.


13
Tài liệu này còn cho biết Lỗ Tấn đã “rất cảm động và vui thích” khi đọc bài
viết nói trên của Cù Thu Bạch.
Những biến động dữ dội của thế kỷ XX đã có những tác động sâu sắc
đến đời sống văn học và đời sống báo chí trên thế giới, tạo ra sự phát triển có
tính chất bùng nổ của phóng sự - một thể loại quan trọng của cả văn học và
báo chí. Với năng lực phản ánh hiện thực một cách trực tiếp, với khả năng
khám phá, phơi bày, điều trần và với sức tố cáo mạnh mẽ, các tác phẩm
phóng sự đã góp phần khẳng định sức mạnh của văn học và báo chí trong việc

tham gia cuộc đấu tranh xã hội. Trong những thời kỳ có những biến cố lịch sử
nhanh chóng, phóng sự là thể loại đầu tiên có thể bắt mạch sự kiện, có thể
nhận xét đâu là những nhân tố mới, có thể làm bản kiểm kê của thời đại một
cách sinh động với những sự thật xác thực. Ở nước Pháp hồi đầu thế kỷ,
người ta thấy trên tờ Tin tức văn học xuất hiện những tên tuổi nổi tiếng như
Giăng Cốctô, Gioocgiơ Gira, Ăngđrê Môroe Những tác giả ấy với những tác
phẩm nổi tiếng đã khiến cho phóng sự trở thành “phản quang của những
khuynh hướng xã hội và đạo đức của thời đại” và “người ta còn khinh rẻ
người phóng viên, người ta còn coi anh nhà báo ở bậc thang thấp nhất chừng
nào những tác phẩm của Giôn Rit và của Laritxa Raixnơ chưa chứng tỏ rằng
việc thông tin về hiện thực có thể trình bày một cách độc lập và có nghệ
thuật” [159, tr.211]. Ngay từ những năm 30, phóng sự nổi tiếng Nước Trung
Hoa bí mật của Êgôn Écvin Kít đã có những ảnh hưởng rất lớn đến các nhà
văn, nhà báo Trung Quốc. Họ khâm phục tài năng một người nước ngoài đã
mô tả xã hội Trung Hoa những năm 30 giỏi hơn chính bản thân họ. Phóng sự
này đã trở thành tác phẩm gối đầu giường của nhiều nhà văn Trung Quốc,
thậm chí nhiều người đã thuộc lòng nhiều trang trong cuốn sách đó. Theo
nhận xét của nhà nghiên cứu Pháp Nôen Duytơre, “phóng sự của E. E. Kit nổi
bật ở chỗ tác giả đã can thiệp trực tiếp vào câu chuyện để bày tỏ sự công phẫn


14
trước những sự việc mà ông kể lại đôi khi với một giọng mỉa mai châm biếm
sâu cay” [27].
Theo các tác giả Lưu Liên và Lê Sơn, trong lịch sử phát triển của văn
học Xô-viết trước đây, chưa bao giờ những tác phẩm thuộc ký lại “được mùa”
như thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai. “Riêng trong 1941, năm đầu tiên và
cũng là năm khó khăn nhất của cuộc chiến tranh, trong số 1.027 tác phẩm văn
học được xuất bản thì thể ký chiếm tới một phần ba”. Trên báo chí Xô viết khi
đó thường xuyên xuất hiện những bài ký chứa chan tinh thần yêu nước, căm

thù giặc. Những bài ký chính luận của I. Êrenbua được ví như “một cuộc tấn
công vũ bão vào kẻ địch”, những bài ký của A. Tônxtôi được so sánh với
“hoả lực của những khẩu đại liên và đại bác”. Nhiều tác phẩm ký đã được
đem ra đọc trước hàng quân. Nhiều tên tuổi nổi tiếng của văn học Xô-viết đã
gắn liền với văn học ký như A.Tônxtôi, Êrenbua, Pôlêvôi, Ximônôp,
Nêcraxôp, Sôlôkhôp, Fađêep, Goocbatôp, Grôxman Với năng lực phản ánh
hiện thực một cách nhạy bén và sốt dẻo, với sự phóng khoáng trong việc lựa
chọn chất liệu và với khả năng phổ biến rộng rãi trong công chúng, “thể ký đã
thực sự trở thành thể loại đầu tàu của văn học Xô-viết trong cuộc chiến tranh
cứu nước. Hầu hết các nhà văn xô viết ít nhiều đều sử dụng thứ vũ khí lợi hại
này” [96, tr.74].
1.1.2. Sự xuất hiện và phát triển của ký ở Việt Nam
Ở nước ta, hoàn cảnh xã hội những năm nửa cuối thế kỷ XVIII và đầu
thế kỷ XIX có nhiều biến động sâu sắc. Chính trong giai đoạn được coi là
đỉnh cao của văn học dân tộc thuộc ý thức hệ phong kiến này đã xuất hiện
một số tác phẩm ký xuất sắc, tiêu biểu cho mảng văn xuôi giàu tính hiện thực
ở nước ta. Theo nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc, “thích ứng với một
đối tượng phản ánh đa dạng và biến động như vậy, trong văn xuôi chữ Hán
giai đoạn này xuất hiện một thể loại mới là ký sự” [97, tr.241]. Có thể lấy ví


15
dụ bằng tác phẩm Thượng kinh ký sự (in năm 1885) của Hải thượng Lãn ông
Lê Hữu Trác. Tác phẩm này kể về chuyến đi của tác giả lên kinh đô để chữa
bệnh cho thế tử Trịnh Cán và Trịnh Sâm. Ngoài việc thể hiện cái tâm thế coi
khinh danh lợi, tác giả còn thể hiện một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên
nhiên tươi đẹp
Sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của báo chí đã thổi một luồng sinh
khí mới vào đời sống văn học, đặc biệt là đối với các thể ký. Có thể khẳng
định rằng báo chí đã tạo ra những điều kiện rất quan trọng cho ký phát triển

ngày càng mạnh mẽ hơn. Không chỉ trên phương diện in ấn, đăng tải, truyền
bá, báo chí đã thúc đẩy văn học hình thành những thể loại mới năng động hơn
để bám sát cuộc sống ngày càng chặt chẽ và nhất là trong việc phản ánh hiện
thực đang xảy ra ở cái thế trực tiếp. Là những ghi chép còn tươi rói những
chất liệu của đời sống thực, các thể ký - nhất là những thể loại xung kích như
phóng sự văn học, tiểu phẩm, tạp văn, bút ký chính luận có thể giúp nhà văn
có thể phản ánh toàn bộ sự phong phú đa dạng của đời sống thực đang phát
triển - đặc biệt là trong một hoàn cảnh xã hội dưới chế độ thực dân phong
kiến đầy rẫy mâu thuẫn như ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, những tác phẩm ký bằng Việt văn
đã được mở đầu bằng những tác phẩm của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu trong
các năm 1915, 1916, 1917 như các bài Luận về ăn ngon, Thằng người ngây
cưỡi con ngựa hay và nhiều bài khác nữa đăng trong Đông dương tạp chí của
nhà thi sĩ này. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Vũ Đức Phúc lại nêu ý kiến khẳng
định tác phẩm “Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất hợi” (1876) đã mở đầu cho thể loại
văn hồi ký, ký sự tiếng Việt” [140, tr.36]. Tác giả Vương Trí Nhàn thì cho
rằng phải đến thế kỷ XX thì các thể văn thuộc loại ký như bút ký, phóng sự,
tuỳ bút, du ký “mới trở nên những thể tài độc lập và có sự phát triển liên tục
trong nền văn học Việt Nam hiện đại”. Ông nhắc lại một số tác phẩm được


16
coi như “những bước khởi đầu còn mò mẫm của thể ký theo nghĩa hiện đại”
đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhưng phần nào đã bị lãng
quên như:
“1876: Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi ( Trương Vĩnh Ký).
1888: Như Tây nhật trình ( Trương Minh Ký)
1914: Hương Sơn hành trình ( Nguyễn Văn Vĩnh).
1918: Mười ngày ở Huế ( Phạm Quỳnh).
1919: Một tháng ở Nam Kỳ ( Phạm Quỳnh).

1921: Hãn mạn du ký (Nguyễn Bá Trác).
1922: Pháp du hành trình nhật ký ( Phạm Quỳnh)” [132].
Sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của phóng sự gắn liền với sự phát
triển của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX. Những tên tuổi gắn liền với phóng
sự văn học thời kỳ này cũng là tên tuổi của những nhà văn hiện thực xuất sắc
như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Vũ Bằng, Nguyễn Đình Lạp, Tam Lang
Vũ Đình Chí, Trọng Lang Trần Tán Cửu Ngay từ những thập niên 20, 30
của thế kỷ XX, một loạt phóng sự đã tạo nên sự bùng nổ trong đời sống văn
học và báo chí nước ta. Do đặc điểm của tình hình thời bấy giờ, những phóng
sự này đi theo những khuynh hướng khác nhau. Có loại được viết ra để nhằm
ca ngợi chế độ thực dân, xuyên tạc cách mạng tháng Mười Nga, xoá nhoà đấu
tranh giai cấp bằng cách đề cao những kẻ đi “bảo hộ”. Khuynh hướng thứ hai
là những phóng sự viết theo lối giật gân hoặc tỏ thái độ hoài nghi bi quan
trước hiện thực. Bên cạnh đó còn có những phóng sự viết về cuộc sống của
những con người bần cùng, đề cập đến những bất công trong xã hội nhưng lại
không đề ra được biện pháp giải quyết hoặc chỉ đề ra những biện pháp cải
lương. Nhận xét về thể loại xung kích này, ngay từ năm 1942 Vũ Ngọc Phan
đã cho rằng: “Lối văn này thật hoàn toàn mới ở nước ta, và cũng như ở các
nước, nó là con đầu lòng của nghề viết báo”. Ông khẳng định: “Những nhà


17
viết báo nổi danh nhất hoàn cầu đều là những nhà báo đã nổi danh về phóng
sự ( ). Những thiên phóng sự xứng đáng với cái tên của nó đều có cái chức
vụ giúp cho người đời trong sự đào thải và cải cách” [137, tr.504].
Trong thời kỳ còn hoạt động ở nước ngoài đầu những năm 20 của thế
kỷ XX, nhà báo cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều tác phẩm ký xuất
sắc, vạch trần bộ mặt tàn bạo của chủ nghĩa thực dân xâm lược, đồng thời
góp phần thức tỉnh nhân dân bị áp bức ở các thuộc địa. Đó là những tác phẩm
không chỉ phục vụ rất kịp thời và hiệu quả mục đích cách mạng mà còn đặt

nền móng vững chắc cho các sáng tác văn học cách mạng Việt Nam sau này.
Đó là những tác phẩm “phong phú về thể tài, đa dạng về phong cách, bao quát
không gian và thời gian rộng lớn, sâu sắc về nội dung, hấp dẫn về hình thức”
được ký dưới nhiều bút danh khác nhau hoặc không ký tên nhưng đều nhằm
một chủ đề duy nhất: “Chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ,
tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” như sinh thời Người từng
nói” {111, tr.5] .
Trong nền văn học và báo chí cách mạng nước ta từ sau năm 1930 cũng
đã xuất hiện những tác giả viết ký xuất sắc. Do đặc điểm của tình hình lúc bấy
giờ, những tác phẩm này đều tập trung vào các nhiệm vụ cách mạng là đánh
đuổi kẻ thù dân tộc, giải phóng đất nước. Trên các báo cách mạng thời kỳ này
như Việt Nam độc lập, Cờ giải phóng, Cứu Quốc, Lao Động thường xuyên
xuất hiện những bài ký của các nhà báo Nguyễn Ái Quốc (và nhiều bút danh
khác), Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Hải Triều v.v
Hiện thực sôi động của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta đã tạo điều kiện cho văn học và
báo chí thu về những mùa ký bộn bề. Từ sau 1945, chúng ta đã có Truyện và
ký sự của Trần Đăng, Vỡ tỉnh của Tô Hoài, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy
Tưởng, Ở rừng của Nam Cao, tuỳ bút của Nguyễn Tuân Trong thời kỳ


18
chống Mỹ, ký đặc biệt phát triển trong cả văn học và báo chí. Có thể nói thời
kỳ này không có nhà văn nào ở nước ta lại không viết ký. Bên cạnh những tác
giả lớp trước như Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên đã
xuất hiện lớp tác giả mới với những tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu đậm trong
lòng công chúng. Đó là Nguyễn Thi với Ước mơ của đất, Người mẹ cầm
súng; Trần Đình Vân với Sống như Anh; Nguyễn Trung Thành với Trên quê
hương những anh hùng Điện Ngọc, Đường chúng ta đi; Nguyễn Khải với Họ
sống và chiến đấu, Tháng Ba ở Tây Nguyên; Hoàng Phủ Ngọc Tường với Rất

nhiều ánh lửa; Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân với Miền đất lửa; Bùi Hiển với
Trong gió cát, Trên đường lớn Một số tác phẩm ký của các nhà báo như
Lưu Quý Kỳ, Thép Mới, Hồng Hà, Phan Quang cũng góp phần làm cho ký
trở thành vũ khí xung kích trong việc tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập,
giải phóng dân tộc và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển mạnh mẽ của ký trong văn học và báo chí đã tạo cơ sở
cho sự phát triển của lý luận thể loại. Sau những cuộc tranh luận về ký mà
chúng tôi đã nhắc ở trên, một số bài viết và công trình nghiên cứu tiếp tục
được đăng tải, từng bước làm sáng tỏ những vấn đề lý thuyết và kỹ năng sáng
tạo tác phẩm. Trong đó, công trình nghiên cứu Ký viết về chiến tranh cách
mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhà nghiên cứu Hà Minh Đức (xuất
bản năm 1980) đã đề cập một cách khá toàn diện những thành tựu to lớn cả về
thực tiễn sáng tạo tác phẩm và lý luận thể loại của văn học ký nước ta trong
giai đoạn lịch sử quan trọng này.
Thời kỳ đổi mới với những biến động sâu sắc trong đời sống kinh tế, xã
hội đã tạo ra những điều kiện quan trọng cho sự bùng nổ của ký trong văn học
và báo chí ở nước ta. Sự bùng nổ đó đã thu hút sự quan tâm của những người
làm công tác nghiên cứu, lý luận. Trên báo chí thường xuyên xuất hiện những
bài viết khẳng định năng lực phản ánh hiện thực của tác phẩm ký văn học.


19
Một số bài khác tập trung nghiên cứu về các tác giả và tác phẩm đang được
dư luận chú ý. Trong lý luận báo chí cũng có nhiều bài viết về những vấn đề
có liên quan đến tác phẩm ký văn học và ký báo chí.

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU KÝ Ở VIỆT NAM
1.2.1. Một số quan niệm khác nhau
Ngay từ năm 1942, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã dành ba chương
đầu quyển ba với hơn 170 trang trong bộ sách Nhà văn hiện đại của ông để

bàn bạc về “các nhà viết bút ký” (Nguyễn Tuân, Phùng Tất Đắc), các nhà viết
“truyện ký và lịch sử ký sự” (Phan Trần Chúc, Đào Trinh Nhất, Trần Thanh
Mại, Nguyễn Triệu Luật, Trúc Khê), các nhà viết “phóng sự” (Vũ Đình Chí,
Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang, Ngô Tất Tố) v.v Thông qua công việc này,
tác giả đã khẳng định năng lực phản ánh hiện thực của các tác phẩm ký trong
việc phản ánh một hiện thực xã hội nhiều mâu thuẫn, khi “Hán học đã xế
bóng và ánh sáng của Tây học đang tỏ rạng” [137, tr.414].
Trong tác phẩm Mấy vấn đề nguyên lý văn học xuất bản từ đầu những
năm 60, nhà nghiên cứu Nguyễn Lương Ngọc đã dành một chương để khảo
sát “một số loại thuộc văn xuôi” mà ông gọi là “tản văn”. Trong đó, ông đã
gộp nhiều thể loại với nhau trong “ba thể chính” là đặc tả, tuỳ bút; bút ký,
truyện ký, phóng sự; tạp văn và cho rằng “tính chất của các thể tản văn này
không được các nhà văn tự định rõ; trên thực tế, những thể này cũng không có
tính chất loại biệt rõ rệt” [114, tr.77].
Trong công trình nghiên cứu Những nguyên lý về lý luận văn học tập III
xuất bản từ năm 1962, Hà Minh Đức đã dành chương thứ tư để khảo sát các
thể tuỳ bút, bút ký, phóng sự và coi đó là “những hình thức văn xuôi được viết
theo lối tự sự” [34, tr.147].


20
Trong cuốn sách “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể”
xuất bản năm 1970, chương V do nhà nghiên cứu Hoàng Như Mai viết đã đề
cập đến vấn đề “ký và giảng dạy ký”. Trong đó, tác giả đã khảo sát một cách
khá toàn diện về những vấn đề có liên quan đến ký với tư cách là một loại thể
văn học như: mối quan hệ giữa truyện và ký; vấn đề hư cấu trong ký; vai trò
của cái tôi tác giả trong tác phẩm ký; đặc trưng của ký; Ông xác định:
“Trong các loại ký, có loại nghiêng về tự sự, có loại nghiêng về trữ tình, có
loại nghiêng về chính luận” [29, tr.63]. Trên cơ sở đó, tác giả đã lần lượt khảo
sát một số thể loại như ký sự, phóng sự, hồi ký, bút ký, nhật ký, tùy bút, truyện

ký v.v và đi sâu vào những kỹ năng giảng dạy tác phẩm ký trong nhà
trường Như vậy, đây là quan niệm đầu tiên ở nước ta sử dụng thuật ngữ
“ký” để chỉ một loại văn học bao gồm một số thể loại với những đặc điểm
riêng biệt trong tương quan so sánh với các thể loại văn học khác.
Những quan niệm nêu trên đã đóng góp tiếng nói lý luận cho những
cuộc bàn bạc, tranh luận về ký ở thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70 mà chúng tôi đã
đề cập tới ở trên. Cũng cần lưu ý thêm rằng trong những ý kiến tham gia bàn
luận về ký thời kỳ này hầu hết là của các nhà văn trực tiếp tham gia viết ký
như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyễn
Khải, Hoàng Phủ Ngọc Tường Cũng có thể coi những cuộc bàn luận này là
hệ quả trực tiếp gắn với sự phát triển mạnh mẽ của các tác phẩm ký trong bối
cảnh ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ ở thời điểm đó.
Chúng tôi sẽ lần lượt trình bày những ý kiến bàn luận về ký qua một số
vấn đề chủ yếu sau đây:
1.2.1.1. Về năng lực phản ánh hiện thực của ký văn học
Mặc dù trong cách sử dụng thuật ngữ có khác nhau, nhưng hầu hết các
ý kiến nêu ra đều tập trung khẳng định năng lực phản ánh hiện thực của các
thể ký văn học với những ưu điểm cơ bản như : năng động, nhạy bén trước


21
cái mới; phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp với sự xuất hiện của tác giả
trong vai trò là nhân vật trần thuật. Nhà thơ Xuân Diệu coi các thể ký văn
học là những thể loại từ trong cuộc sống mà ra, mang theo tất cả sự mới mẻ
và chất xanh tươi của cuộc đời. Nguyễn Tuân lại đặc biệt lưu ý đến những khả
năng diễn đạt đa dạng của ký. Ông cho rằng không chỉ trong tiểu thuyết hay
trong kịch mà trong ký cũng có đối thoại, độc thoại. Không những thế, “ký có
quyền dùng tất cả các cách của truyện, kịch, thơ, ca và cả các cách của điện
ảnh, ca vũ, hội hoạ, điêu khắc nếu mình có tài” [108, tr.135].
Trong văn học, bên cạnh văn chương thẩm mỹ, sự góp mặt của các thể

ký đã tạo ra sự phong phú, nhiều màu sắc và giàu tính hiện thực, tính chiến
đấu. Chính Gorki đã nhiều lần phải lên tiếng uốn nắn thái độ coi thường ký
của một số nhà phê bình thời ấy. Ông nói: “Bút ký xưa nay vẫn bị giới phê
bình coi là một thể loại thấp kém trong văn học: nói chung đó là một quan
niệm bất công và sai lầm” [48, tr.335]. Bằng những kinh nghiệm phong phú
của mình, Tô Hoài cho rằng ký là ghi chép nhưng ghi chép không phải là một
công việc đơn giản ai cũng có thể làm được. “Ghi chép cũng đòi hỏi vốn sống
và tài năng như ở bất kỳ thể loại sáng tác nào khác” [108, tr.137].
Ở nước ta trước đây cũng có quan niệm coi ký là “thể loại đàn em” so
với các thể loại văn học khác và viết ký chỉ là công việc “tay trái”. Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã bày tỏ thái độ không tán thành trước hiện tượng đó: “Tôi
thường gặp một cái nhìn thiếu tín nhiệm đối với thể ký. Ở đây, ký chỉ được
xem là một loại thủ công nghiệp mang tính chất gia công; thậm chí nó là
phương tiện để các nhà văn của các thời đại “lấy ngắn nuôi dài”, nói chung ký
là một sản phẩm văn học thứ cấp (sous littérature). Hiển nhiên đấy là những
thành kiến vô lý” [36, tr.187].
Nói về năng lực phản ánh cuộc sống hiện thực của ký, trong khi vẫn
lưu ý về “nhiệm vụ thông tin” của ký văn học, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn


22
cho rằng chính nhiệm vụ này đã mở ra cho thể ký “một khả năng tháo vát
hiếm có so với những thể loại văn xuôi khác” [108, tr.129]. Ông nhấn mạnh:
“Cùng với cảm xúc văn học bút ký còn chứa đựng tất cả sức nặng vật chất của
các sự kiện được giữ lại trong cái cõi thực vốn là bản gốc của tác phẩm” [108,
tr.130]. Theo ông, ký hoàn toàn có khả năng “vừa thực hiện sứ mệnh thông
tin của mình, vừa phá rào thoát khỏi người thực việc thực để đạt đến những
yêu cầu nghệ thuật khác” và “tất cả chỉ còn tuỳ thuộc vào bản lĩnh của người
viết” [108, tr.131,132].
Trong các công trình nghiên cứu lý luận mà chúng tôi đã nêu trên, tác

phẩm của Nguyễn Lương Ngọc chưa thấy nói nhiều đến đặc điểm và năng lực
phản ánh hiện thực của ký, nhưng trong công trình nghiên cứu Những nguyên
lý về lý luận văn học của Hà Minh Đức khi đó đã nêu nhận xét: các thể văn
xuôi như bút ký, tuỳ bút, phóng sự đã thể hiện rõ hai yếu tố lịch sử và nghệ
thuật. “Yếu tố lịch sử bộc lộ ở tính chất phản ánh và và tái hiện chân thực
những sự kiện trong đời sống. Hiện thực trong các tác phẩm văn xuôi này gần
gũi với chất hiện thực trong đời sống; nhưng điều đó không có nghĩa là các sự
kiện lịch sử và hiện tượng xã hội được tái hiện đơn thuần mà được giải thích
theo những quan điểm mỹ học nhất định, và được phản ánh thông qua những
hình tượng nghệ thuật cụ thể” [34, tr.147].
Trên cơ sở xác định đặc điểm cơ bản của ký “là thể văn dùng để ghi lại
sự việc, ý nghĩ, cảm xúc”, nhà nghiên cứu Hoàng Như Mai nhấn mạnh: “Lịch
sử văn học đã cho thấy là ký thường phát triển mạnh mẽ trong những thời kỳ
mà xã hội có nhiều sự biến động. Điều này cũng dễ hiểu, vì trong những thời
kỳ đó bản sắc của cuộc sống, của con người bộc lộ một cách rõ rệt hơn mọi
lúc khác” [29, tr.62]. Ông cũng lưu ý đến vai trò của tác giả trong tác phẩm
ký: “Ký mang tính chất xác thực, chất liệu của ký vốn đã có sẵn trong cuộc
sống; vì vậy công việc lựa chọn lại là trách nhiệm rõ ràng của người viết ( ).


23
Qua cái cách nhà văn lựa chọn, người ta đánh giá vốn sống và thế giới quan
của nhà văn một cách chính xác cho nên nếu đọc truyện thường là người ta
quên sự có mặt của tác giả; thì khi đọc ký người ta luôn luôn thấy vai trò của
tác giả” [29, tr.62,63].
Trong cuốn sách Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ
nghĩa xã hội (xuất bản năm 1980), nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã trình bày
khá cặn kẽ về vấn đề này. Ông khẳng định: ký là những hình thức ghi chép
linh hoạt, đa dạng, nhiều vẻ trong văn xuôi. “Mọi hình thức ghi chép đó đều
nhằm trực tiếp hay gián tiếp miêu tả, phản ánh con người và sự kiện có thực

trong cuộc sống theo những cách tiếp cận khác nhau về đối tượng miêu tả”
[35, tr.18]. Năm 1993, trong giáo trình Lý luận văn học, GS. Hà Minh Đức
trở lại với vấn đề này. Trên cơ sở coi đặc điểm mấu chốt xác định ranh giới
của các thể ký văn học và các thể loại khác là ở chỗ “viết về cái có thật và tôn
trọng tính xác thực của đối tượng được miêu tả”, ông đã xác định đặc điểm
bao quát cho các thể ký văn học: “Các thể ký văn học chủ yếu là những hình
thức ghi chép linh hoạt trong văn xuôi với nhiều dạng tường thuật, miêu tả,
biểu hiện, bình luận về những sự kiện và con người có thật, trong cuộc sống,
với nguyên tắc phải tôn trọng tính xác thực và chú ý đến tính thời sự của đối
tượng miêu tả” [36, tr.191].
Những ý kiến nêu trên đã cho thấy năng lực phản ánh hiện thực của ký
trong bối cảnh sôi động và khốc liệt của những năm tháng trước đây. Cùng
với sự vận động phát triển của đời sống văn học, các thể ký cũng có sự vận
động, phát triển rất mạnh mẽ. Sự xuất hiện của báo chí cùng với việc giao
thoa giữa các thể loại, các loại cũng đã góp phần vào sự biến đổi đặc trưng
của ký văn học qua các thời kỳ khác nhau.
Chúng tôi cho rằng việc tái hiện sự thật ở cái thế trực tiếp với vai trò
quan trọng của tác giả trong tư thế của nhân vật trần thuật đã khiến cho một

×