Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Jane Eyre từ góc nhìn phân tâm học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.74 KB, 85 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TRỊNH NGỌC TRÂM


JANE EYRE TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI










Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TRỊNH NGỌC TRÂM



JANE EYRE TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC


LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC NƯỚC
NGOÀI

MÃ SỐ: 60 22 02 45

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đào Duy Hiệp






Hà Nội – 2012
LỜI CAM ĐOAN

6

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 8

1.

Lí do chọn đề tài 8

2.


Lịch sử vấn đề 9

3. Phạm vi nghiên cứu 13

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu: 16

5. Phương pháp nghiên cứu: 17

6. Cấu trúc luận văn: 17

CHƯƠNG 1. PHÂN TÂM HỌC NHƯ MỘT LÍ THUYẾT VĂN HỌC 18

1.1. Lược sử về phê bình phân tâm học 18

1.2. Phê bình phân tâm học với văn học 20

Tiểu kết 38

CHƯƠNG 2. CHARLOTTE BRONTË VÀ NHÂN VẬT JANE EYRE39

2.1. Từ những “dồn nén”, ẩn ức trong cuộc đời tác giả 39
2.2. Đến cuộc “chuyển dịch” sang nhân vật 42
2.2.1.

Người mẹ
43
2.2.3.

Những ngôi nhà

48
Tiểu kết 61
CHƯƠNG 3. NHỮNG ẨN ỨC, ÁM ẢNH VỀ CÁI CHẾT, TÌNH YÊU61

3.1. Tần suất và tỉ lệ xuất hiện màu sắc: đỏ/đen 62
3.2. Ý nghĩa và nội dung của biểu tượng màu đỏ và màu đen 64
3.2.1. Buồng đỏ: ám ảnh khủng bố tinh thần
65
3.2.2. Sự u ám, ảm đạm
68
3.2.3. Bản nguyên sống: nam tính, sự phản kháng
71
3.3. Xung năng chết 74
3.3.1. Sương mù, băng giá
75
7

3.3.2. Những giấc mơ, linh cảm ảm đạm
77
3.4. Ánh sáng hạnh phúc 80
3.4.1. Thiên nhiên tươi sáng
80
3.4.2. Cấu trúc nhân cách nhân vật
82
Tiểu kết 84
KẾT LUẬN 85

TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
















8

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Jane Eyre là cuốn tiểu thuyết của Charlotte Brontë (1816 –1855),
được nhà xuất bản Smith, Elder & Company of London in năm 1847 với
bút danh Currer Bell, là một trong những tiểu thuyết có ảnh hưởng sâu sắc
và nổi tiếng nhất của nền văn học Anh. Bên cạnh việc thể hiện một cách
tinh tế và sâu sắc câu chuyện về cuộc đời của Jane, tác phẩm vừa mang
tính chất tự thuật, vừa mang ước mơ thầm lặng của chính Charlotte
Brontë. Tác phẩm cũng mang đến niềm tin và hy vọng cho những cuộc
đời bất hạnh thông qua những tư tưởng tiến bộ về tôn giáo, về nữ quyền,
về quyền con người và đặc biệt trong đó là sự ấm áp của tình người.
Nhưng đóng góp quan trọng của tiểu thuyết thuyết này chính là sự kết hợp
một cách tinh tế giữa tiểu thuyết giáo dục với các dòng tiểu thuyết khác
như tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết tiểu thuyết Gothic, thậm chí còn có

bóng dáng của tiểu thuyết trinh thám được kể thông qua người kể chuyện
ở ngôi thứ nhất tạo cảm giác gần gũi và chân thật. Đây cũng là một thành
công và đóng góp lớn cho dòng tiểu thuyết giáo dục, một trong những thể
loại tiểu thuyết lớn ra đời ở Anh nhưng có ảnh huởng không nhỏ đối với
tiểu thuyết nói riêng và văn chương thế giới. Các nhà nghiên cứu còn thấy
trong tiểu thuyết này vấn đề thiếu nhi trong xã hội nước Anh những năm
30, 40 của thế kỉ XIX với các đề tài về: sự hà khắc của nhà trường, số
phận đen tối của tuổi thơ từng thấy ở cuộc đời các tác giả như: Dickens,
Thackeray. Trong tác phẩm Jane Eyre, Charlotte Brontë đã nhìn vấn đề
này dưới một góc nhìn đầy xác cảm, chân thật từ giọng kể, ngôi kể mang
tính chất tự thuật của một cái “tôi” trải nghiệm theo thời gian niên biểu, từ
lúc nhân vật trung tâm khoảng 10 tuổi, sau nhiều thăng trầm, đau khổ,
9

nếm trải qua các mối quan hệ, các không gian, cho đến khi trưởng thành
và gặp gỡ hạnh phúc, dẫu muộn mằn.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng của lí thuyết hiện đại, luận văn muốn đi sâu
vào tìm hiểu tác phẩm ở một khía cạnh khác: phân tâm học, mặc dù đây
không phải là một hướng đi hoàn toàn mới đối với tác phẩm này.

2. Lịch sử vấn đề
Jane Eyre có thể coi là một nhân vật khá bí ẩn trong văn học thế giới.
Một gương mặt có nhiều hình thái của huyền thoại đã được nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới tìm hiểu ở những khía cạnh khác nhau. Tính chất
phức tạp cũng như sự phong phú trong tổ chức trần thuật và hệ vấn đề mà
cuốn tiểu thuyết nêu ra đã tạo ra nhiều cách đọc khác nhau.
Nghiên cứu về tiểu thuyết Jane Eyre trên thế giới chắc chắn là rất
nhiều, tuy nhiên, do hạn chế của người viết luận văn nên không thể bao
quát hết được các công trình cũng như tài liệu đó. Trên cơ sở những tài
liệu của người hướng dẫn cung cấp, chúng tôi xin được giới thiệu lướt qua

một số vấn đề liên quan đến đề tài luận văn.
Trong một cuộc Nghiên cứu đặc biệt về tác phẩm này (30 janvier
2009), nhà nghiên cứu Claire Bazin [30] đã lần theo những vang âm về
vấn đề nô lệ trong tác phẩm trước hết như là vấn đề đã được xác định qua
những sự khác nhau về chủng tộc và giới tính theo một sơ đồ về cuộc đấu
tranh đối với quyền lực trong xã hội thời Victoria. Trong khi đó Isabelle
Hervouet-Farrar lại nghiên cứu về xung năng chết ở nữ nhân vật trung
tâm. Nhà nghiên cứu đã nhận dạng hai trường đoạn cơ bản đã tạo ra tính
biểu hiện, đó là: căn phòng đỏ, mối nguy cơ về cái chết mà Jane đã từng
sống hồi nhỏ như đồng nghĩa với nguy cơ về sự đày hoả ngục vĩnh cửu và
việc Jane đến Moor House. Căn phòng này đã kết hợp hai màu đỏ và trắng
10

(như ở trường đoạn trước) đã đặt nhân vật vào một tình thế ẩn náu và thụ
động gợi lên nỗi ham muốn về sự ứ đọng mà theo Freud là đặc trưng về
xung năng chết, ở đây được coi như phạm vi của mối liên hệ với người
mẹ, bởi vì Moor House hơn bất cứ địa điểm nào khác, nơi mà Jane đã gặp
gỡ hai người phụ nữ khác là chị em nhà Rivers. Cũng tại đây, Jane đã
nhận ra những người nhà Reed không được giới thiệu với nàng trong gia
đình này.
Bóng tối và ánh sáng cũng đóng một vai trò quan trọng trong tác phẩm
này. Nhà nghiên cứu Élise Ouvrard đã đồng nhất lần lượt ba chiều trong
sự tương tác của hai yếu tố đối ngẫu này: sự phát triển dần về phía ánh
sáng được lí giải như sự tiến triển của Jane về hướng hạnh phúc và sự
hân hoan mang tính cá nhân, song cũng như yếu tố trung tâm của một cái
mã chú giải học, nhắm tới giải quyết một sự bí ẩn (đó là sự bí ẩn của
Thornfield Hall và sự tồn tại của Bertha) và cuối cùng, tiến về phía ánh
sáng là tiến tới việc biểu hiện cuộc kiếm tìm tinh thần và tôn giáo của
Jane. Trong ba chiều này, thì bóng tối và ánh sáng được quan niệm trong
mối quan hệ đối ngẫu biểu thị sự kiếm tìm và sự tiến triển của nữ nhân

vật. Trong một phối cảnh khác, Claire Mérias lại chọn hướng khảo sát
những biểu hiện phong phú về tuổi thơ trong tác phẩm này. Tuổi thơ đó
trước hết được đặc trưng bởi sự trấn áp mà Jane và các bạn ở Lowood
được miêu tả như những nạn nhân và cũng bởi sự thiếu thốn tình cảm đã
tác động đến chúng. Kết quả là một hiện tượng đặc biệt, đáng kể nhất là ở
Helen Burns: đứa trẻ được coi như một người trưởng thành “thu nhỏ” đã
lớn rất nhanh. Và khi cái chết đến sớm, nó phải gánh lấy trọng lượng của
các tội lỗi của con người chính bởi sự thơ ngây: cái chết, sẽ đồng nghĩa
với sự canh tân và sự cứu rỗi thánh thần. Tình mẹ, được đánh dấu bằng sự
thiếu vắng – sự thiếu vắng mà Jane đã cảm nhận được khi còn bé thơ về
11

những gương mặt người mẹ khác nhau tất cả đều ít nhiều giảm sút – hoặc
thông qua mối nguy hiểm, sự đe doạ đã làm rõ nét những giấc mơ mà Jane
thấy chính nàng làm mẹ. Ta có thể tự hỏi về sự dai dẳng của các hình ảnh
này về người mẹ trong cuốn tiểu thuyết trong những gì liên quan đến mối
quan hệ giữa Jane và Rochester: Jane thường xuyên bị Rochester đối xử
như là một đứa trẻ, còn đến cuối tác phẩm, chính nàng quay lưng lại với
vai trò đó khi nàng đang hình dung mình dẫn dắt Rochester yếu ớt và mù
loà. Mặc dù khó mà vạch ra đường biên vai trò làm mẹ này, nhưng cuối
cùng tình tiết chứng tỏ về sự phát triển của Jane và sự nhận thức của nàng
về tuổi thơ và về vai trò làm cha mẹ, sự phát triển đã được ghi nhận trong
truyện kể mang tính khai tâm. Đó là một vài công trình có nghiên cứu theo
hướng phân tâm học mà chúng tôi nhận thấy có một số gợi ý cho đề tài
của chúng tôi.
Ngoài ra, ở Việt Nam, về luận văn, có công trình mang đề tài là: “Yếu
tố kì ảo trong tiểu thuyết Jane Eyre” – Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Hà nội năm 2008.
Trên các trang mạng của Việt Nam, chủ yếu là eVan, có một số bài
dịch của Hà Linh, Thanh Huyền về cuộc đời nhà văn hoặc tác phẩm của

bà. Ví dụ: “Charlotte Brontë từng bị đe dọa vì Jane Eyre”, trong đó kể về
việc nhà văn có thể viết lại một số phần trong cuốn tiểu thuyết để làm vừa
lòng ngài hiệu trưởng trường Lowood - ngôi trường được Bronte lấy làm
nguyên mẫu cho trại trẻ mồ côi trong tác phẩm. Ông hiệu trưởng đó đã
viết một bức thư, đe dọa sẽ kiện cô học sinh cũ vì tội vu khống và phỉ
báng ngôi trường. Bronte đã không bao giờ sửa lại bản gốc cuốn sách và
ngài hiệu trưởng cũng không khởi kiện. Bài “Rochester của Jane Eyre là
nhân vật lãng mạn nhất” cho thấy mặc dù không đẹp trai và luôn mang
gương mặt u buồn, nhà quý tộc Rochester trong cuốn tiểu thuyết của
12

Charlotte Brontë vẫn dẫn đầu trong những nhân vật văn học lãng mạn
nhất, cuộc bình chọn do Mills & Boon - NXB chuyên ấn hành các tác
phẩm lãng mạn - tổ chức. Rochester đã vượt qua những nhân vật không
kém phần hấp dẫn độc giả như Darcy (Kiêu hãnh và định kiến của Jane
Austen) và Heathcliff (Đồi gió hú của Emily Brontë). Ngoài ra, Phạm Mi
Ly còn cho biết đã xuất bản truyện ngắn L'Ingratitude (Sự vong ân) bằng
tiếng Pháp đã bị thất lạc gần 100 năm nay, đề ngày 16/3/1842, kể về một
chú chuột rời bỏ người cha của mình để tìm kiếm một cuộc phiêu lưu và
rồi đi đến kết cục bất hạnh. Sáng tác này bị thất lạc vào năm 1913. Tác
phẩm được nữ văn sĩ Anh viết tặng một gia sư tiếng Pháp, người bà đem
lòng yêu. Gần đây, Phạm Mi Ly trong một bài viết khác đã cho biết tiểu
thuyết mới có tiêu đề Jane của nhà văn April Lindner kể lại câu chuyện
kinh điển của Charlotte Bronte với những nhân vật thời hiện đại. Cha mẹ
mất, Jane Moore rơi vào cảnh túng quẫn. Cô phải thôi học đại học, nhận
làm cô trông trẻ cho bé Maddy 5 tuổi, con gái của ngôi sao nhạc rock Nico
Rathburn. Nico có tình cảm với Jane, cô gái trẻ trung, độc lập. Anh cảm
thấy ở cô sự chân thành và tươi mới, không giống như những con người
chỉ biết răm rắp nghe lời xung quanh anh. Tình cảm giữa hai người trở nên
mãnh liệt khi Jane cứu Nico thoát khỏi một vụ nổ đáng ngờ. Sau khi Jane

bị gia đình Nico buộc rời khỏi thành phố, nam ca sĩ nhận ra mình đã yêu
cô sâu nặng. Anh đuổi theo Jane nói lời cầu hôn, nhưng một vụ bê bối lớn
xảy ra khiến Jane đau khổ, một lần nữa trốn chạy khỏi biệt thự của Nico ở
Connecticut.
Mặc dù thêm vào những tình tiết và vấn đề hiện đại, tác giả April
Lindner vẫn giữ nguyên vẹn cốt truyện của tác phẩm gốc. Nhân vật Nico
mang hơi hướng Edward Rochester, ủ ê và vô tâm, nhưng có điểm khác là
khá thờ ơ với con gái mình. Anh chỉ dành thời gian chơi với Maddy để
13

tiện gần gũi Jane. Còn Jane của Lindner sôi động hơn nhưng cũng yếu
đuối hơn nàng Jane thế kỷ 19 của Bronte.
Điểm qua những bài viết hoặc luận văn, chúng tôi nhận thấy chưa có đề
tài hay công trình nào chuyên biệt nghiên cứu về tiểu thuyết Jane Eyre từ
góc nhìn phân tâm học.
3. Phạm vi nghiên cứu
Có một số bản dịch khác nhau về tác phẩm Jane Eyre:
- Bản dịch của dịch giả Trần Anh Kim, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2 tập, đến
1998 đã thấy ghi “In lần thứ V”, tái bản 2011 thành 1 tập.
- Bản dịch của dịch giả Nguyễn Tuyên, Nxb. Văn học, 2005.
- Bản dịch của Vũ Thu Hà, Nguyễn Thị Hợp, Bùi Liên Thảo, Nxb. Văn
hoá thông tin, 2011.
- Các bản dịch trên các website như là được dịch từ một văn bản khác hẳn
nào đó, chẳng hạn trước mỗi Chương người dịch cho thêm các tiêu đề vào
mà nguyên bản không có, và nội dung cũng không đúng với nguyên bản.
Dưới đây chúng tôi dẫn ra các đoạn đầu để minh chứng và so sánh mấy
bản dịch:
Đoạn đầu trong bản dịch của Văn Hoà trên vnthuquan:
1. “Chương 1. Ở GATESHEAD HALL
Gió lạnh mùa đông mang theo những áng mây đen và mưa tầm tã,

đến nỗi chẳng ai nghĩ đến chuyện đi ra ngoài. Tôi chẳng bao giờ đi
đâu xa, nên cảm thấy thích thú vào những buổi chiều se lạnh như thế
này. Thật ngao ngán khi trở về nhà trong bầu không khí âm u buồn tẻ
như thế, với các ngón chân tay lạnh cóng, với lòng chán nản vì phải
bị chị vú Bessie la mắng. Ngoài ra, tôi lại thường có mặc cảm thua
sút đối với John Reed và mấy đứa em gái của nó là Eliza và
Georgiana”.
14

Một “bản dịch khác” không thấy tên người dịch :
/>en&t=134328347&page=1&ipp=10:
2. “Chương 1. Cô bé khốn khổ
Tôi không bao giờ thích dạo chơi lâu. Vì tôi luôn luôn thấy khổ mỗi
khi trở về lúc trời đã tối. Khổ vì bị Bessie, chị trông trẻ, mắng mỏ,
chị đâu có hiểu là chân tay tôi bị băng giá làm cho đau buốt. Tôi còn
cảm thấy xấu hổ trước mặt Eliza, John và Georgiana Reed, chúng
không bao giờ than phiền, và tôi thật thèm muốn được dai sức và
khỏe mạnh như chúng”.

Bản dịch của Vũ Thu Hà, Nguyễn Thị Hợp, Bùi Liên Thảo (Nxb. Văn hoá
thông tin):
3. “Hôm đó quả thực không phải là ngày để đi dạo nhưng buổi sáng
hôm đó chúng tôi cùng nhau rảo bước bên những bụi cây đã trơ trọi hết
lá hơn một tiếng đồng hồ. Nhưng kể từ khi kết thúc bữa ăn tối, những
cơn gió lạnh mùa đông bắt đầu gào thét, trời xầm xì xám xịt và mưa bắt
đầu tuôn xối xả thì dù có thích đi mấy chăng nữa cũng không thể có
một hoạt động ngoài trời nào như thế”.

Bản dịch Nguyễn Tuyên:
4. “Không thể dạo chơi được ngày hôm ấy. Thực ra vào buổi sáng,

chúng tôi cũng đã thơ thẩn lang thang suốt cả tiếng đồng hồ bên các
lùm cây trụi lá, nhưng sau bữa tối (mỗi khi không có khách, bà Reed
thường dọn cơm ăn sớm) thì gió đông chợt tràn về cuốn theo những
đám mây tối sầm, rồi đến một trận mưa lạnh buốt đến nỗi chẳng có ai
nghĩ đến việc bước chân ra khỏi nhà”.
15

Bản dịch của Trần Anh Kim:
5. “Ngày hôm ấy không còn đi chơi đâu được nữa. Thực ra buổi sáng
chúng tôi cũng đã tha thẩn suốt một giờ bên các lùm cây trụi lá,
nhưng đến bữa ăn trưa (khi nào không có khách, bà Rit thường ăn
sớm) thì gió lạnh mùa đông cuốn về những đợt mây tối sầm, tiếp đến
một trận mưa lạnh buốt, đến nỗi không còn ai nghĩ đến bước chân ra
khỏi cửa”.

Trong khi đó nguyên bản

[6] là:
6. “There was no possibility of taking a walk that day. We had been
wandering, indeed, in the leafless shrubbery an hour in the morning; but
since dinner (Mrs. Reed, when there was no company, dined early) the
cold winter wind had brought with it clouds so sombre, and a rain so
penetrating, that further outdoor exercise was now out of the question”
[JE; 03].

Và bản dịch sang tiếng Pháp của bà Lesbazeilles Souvestre trên

7. “Il était impossible de se promener ce jour-là. Le matin, nous
avions erré pendant une heure dans le bosquet dépouillé de
feuillages ; mais, depuis le dîner (quand il n’y avait personne, Mme

Reed dînait de bonne heure), le vent glacé d’hiver avait amené avec
lui des nuages si sombres et une pluie si pénétrante, qu’on ne pouvait
songer à aucune excursion”.

Các bản dịch 1 và 2 khiến chúng tôi băn khoăn không rõ có một cuốn
Jane Eyre nào khác hay không? Hai bản dịch trên mạng này hoàn toàn
16

khác về nội dung với các bản 4, 5, 6 và 7. Bản dịch 3, kéo câu dài không
chấm như nguyên bản và tước bỏ đoạn trong ngoặc đơn.
Tìm hiểu trên mạng về cuốn tiểu thuyết Jane Eyre thì hầu hết nguyên
bản tiếng Anh đều thống nhất như cuốn mà chúng tôi đang có của nhà xuất
bản Wordsworth Classics, 1999. Người hướng dẫn giúp chúng tôi hiểu nghĩa
của bản dịch sang tiếng Pháp trên mạng thì thấy khá trung thành với bản
tiếng Anh.
Qua so sánh chúng tôi nhận thấy bản dịch của Trần Anh Kim là trung
thực và hay nhất so với nguyên bản tiếng Anh và bản tiếng Pháp. Bên
cạnh đó là sự mềm mại, uyển chuyển của cách dùng từ, ngữ pháp.
So sánh như trên để : một, chúng tôi có cơ sở để tin tưởng và sử dụng
văn bản nào cho luận văn; hai, cũng là dịp tìm hiểu thêm về cách dịch và
ba, cuối cùng, thêm một lần thấy rằng các trang mạng chỉ nên tham khảo
hơn là sử dụng trong công việc nghiên cứu khoa học.
Luận văn sẽ sử dụng bản dịch của Trần Anh Kim của lần tái bản gần
đây nhất, năm 2011[4]. Bên cạnh đó, trong luận văn, khi cần thiết, chúng
tôi có tham khảo thêm nguyên tác tiếng Anh: Charlotte Brontë, Jane Eyre,
Wordsworth Classics, Dr Sally Minogue như chú thích trên để phân tích
hoặc đối chiếu.
Từ cơ sở lí thuyết phân tâm học, luận văn tập trung làm rõ những yếu
tố phân tâm học trong tác phẩm Jane Eyre.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu sâu hơn về văn học Anh thời
Victoria và người phụ nữ Anh thế kỉ 19 thông qua một tác giả nữ nổi tiếng.
Nhiệm vụ là xuất phát từ lí thuyết phân tâm học, luận văn tìm hiểu,
khám phá thế giới tâm lí của nhân vật qua nghệ thuật tiểu thuyết của
Charlote Brontë như một nhà văn về nữ quyền của thời hiện đại.
17

Từ đó, góp thêm phương pháp luận hay đúng hơn là cách ứng dụng
một lí thuyết vâo tìm hiểu một tác phẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Áp dụng các phương pháp lí thuyết phân tâm học, phê bình xã hội học,
phần nào đó phê bình nữ quyền.
- Sử dụng các thao tác thống kê, so sánh.
6. Cấu trúc luận văn:
Chương 1. Phân tâm học như một lí thuyết phê bình văn học
Chương 2. Charlotte Brontë và nhân vật Jane Eyre
Chương 3. Những ẩn ức, ám ảnh về cái chết và tình yêu.















18

CHƯƠNG 1. PHÂN TÂM HỌC NHƯ MỘT LÍ THUYẾT VĂN HỌC

1.1. Lược sử về phê bình phân tâm học
Phê bình phân tâm học là một trường phái nghiên cứu văn học rất phát
triển ở phương Tây đầu thế kỷ XX. Chúng ta đều biết nguồn gốc của phân
tâm học không phải xuất phát từ các lí thuyết văn học mà là từ ngành tâm
lí, tâm bệnh học của bác sĩ người Áo S.Freud. Những phát hiện về tính
dục và mặc cảm Oedipe của Freud đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu nhân văn lúc bấy giờ. Lí thuyết về cổ mẫu (archétype) của
K.Jung như là yếu tố cốt yếu của tâm lí học các chiều sâu, nền tảng của vô
thức tập thể đã thực sự đã tạo nên sự chú ý trong phê bình văn học. Từ nền
tảng lí thuyết của hai nhà bác học này, phân tâm học đã phát triển thành
rất nhiều hướng nghiên cứu khác nhau trong phê bình văn học: nghiên cứu
văn hóa với tâm bệnh học tộc người (G.Devereux), phân tâm học và Thiền
(E.Fromm), phân tâm học và folklore (V.Dundes), nghiên cứu chủ đề
(Ch.Mauron, G.Bachelard), nghiên cứu tác giả, tác phẩm (M.Bonapart,
J.Delay, J.Bellemin-Noel), người đọc (N.Holland). Phê bình phân tâm học
như một sự cộng sinh giữa trường phái cấu trúc - kí hiệu học Pháp. Người
khai sinh ra nó là J.Lacan với nhận định nổi tiếng: “Vô thức được cấu trúc
như một ngôn ngữ”.
Phê bình phân tâm học đã được nói đến nhiều ở ta. Nhiều công trình
dịch thuật, phê bình đã xuất hiện rải rác trong khoảng trên dưới 20 năm trở
lại đây. Nhưng trước đây khá lâu, vào những năm 30 của thế kỉ XX, các nhà
phê bình và cả sáng tác đã ít nhiều vận dụng lí thuyết này vào công việc của
họ. Có thể kể Vũ Trọng Phụng với các tác phẩm Làm đĩ, Giông tố, Số đỏ,
còn trong phê bình là Trương Tửu với Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hương
(1936) và cùng năm Nguyễn Văn Hanh với Hồ Xuân Hương: tác phẩm,

19

thân thế và văn tài (Aspar, Sài Gòn). Sang những năm 80 trở lại đây, các
công trình dịch thuật, ví dụ công trình cấp Bộ do Viện Văn học chủ trì, có
mục “Phê bình phân tâm học” dịch của nhiều chuyên gia nước ngoài khá
toàn diện và đầy đủ. Trong đó, chương về “Phân tâm học và văn học” đã
“đọc” tác phẩm văn học ở các cấp độ của cái vô thức: “Đọc từ khi có phân
tâm học”, “Đọc cùng Freud”; “Đọc cái vô thức”; “Đọc con người”; “Đọc
một người”; “Đọc văn bản”,… rất phong phú. “Từ việc khám phá các giấc
mơ, người ta được dẫn dắt tới trước tiên là phân tích các sáng tạo thi ca, sau
đó là các nhà thơ, các nghệ sĩ [ ], những vấn đề quyến rũ nhất với tất cả
những ai ưng áp dụng phân tâm học” (Freud).
Carl Gustav Jung (1875-1961) là người cùng thời với Freud, một nhà
phân tâm học tại Zurich. Lúc đầu, Jung là môn đệ trung thành của chủ
thuyết Freud (Freudianism) sau khi tiếp xúc với Freud tại Áo, vào năm
1907. Nhưng sau đó, ông từ chối hoàn toàn chủ thuyết của Freud, cho rằng
đó là lý thuyết dục tính đã bị đồng hóa bởi dục tính cá nhân của Freud; và
do đó, ông nỗ lực xây dựng một lý thuyết mới, gọi là “tâm lý trị liệu”.
Theo đánh giá của Calvin S. Hall và Gardner Lindzey, trong Theories of
Personality, thì Jung luôn luôn sáng tạo trong cách phân tích tâm lý của
mình. Với ông, nhân tính (personality) như là một tổng thể bao gồm các
mặt của đời như: ý thức, vô thức, cảm thức, cá nhân, xã hội, nữ tính, nam
tính, nhân tính, thú tính, tri giác, trực giác, v.v , tất cả tính chất đó được
xem như những tác năng của một “trục nhân tính” (axis of the
personality). Do đó, theo Jung, trong nam giới có chứa những nữ tính,
trong nữ giới có chứa những nam tính. Tương tự như thế đối với những
thú tính (animal nature) và nhân tính (personality) trong cùng một con
người. Cũng từ đó, Jung phân tích bệnh lý qua các hội chứng như: dồn nén
(repression), mặc cảm (oedipc), giận dữ, tức tối (truculent), trầm mặc
20


(inhibited), qui kỷ (egocentric), đa cảm (hyperémotivité) v.v đều xuất
sinh từ ý thức tự ngã, những ấn tượng, tri giác, ký ức, cảm xúc đã qua và
bị dồn nén vào vô thức tạo thành những xung năng (pulsion) gây nên trạng
thái bất bình, bất an, bực tức, căng thẳng cho dòng chảy của tâm lí. Mặc
dù Jung phê bình Freud, như vừa đề cập ở trên, nhưng chúng ta thấy lí
thuyết của Jung nhằm vào các hiện tượng tâm lí nhiều hơn là bản chất của
tâm lí như ở tâm lí học Freud. Tuy nhiên, lí thuyết của cả Freud và Jung
đều đặt ra những nguyên tắc quan trọng trong lịch sử tâm lý học hiện đại.

1.2. Phê bình phân tâm học với văn học
Thế kỉ XX có thể coi là thế kỉ của phê bình văn học, nhiều lí thuyết
phê bình văn học đã ra đời: Trường phái hình thức Nga; Chủ nghĩa cấu
trúc; Phê bình Mới; Phê bình ý thức; Phê bình hiện sinh chủ nghĩa; Phê
bình huyền thoại;Thi pháp;… trong đó có Phê bình phân tâm học.
Phê bình phân tâm học đã có một vị trí quan trọng trong nghiên cứu văn
học. Trong một bài viết rất hay “Phân tâm học trong nghiên cứu văn học”
của Evelyne Grossman do Nguyễn Thị Từ Huy dịch trên trang Web Lý luận
văn học [31] mà chúng tôi lược thuật những điểm cốt yếu dưới đây đã khơi
gợi nhiều ý kiến quý báu cho sự triên khai luận văn của chúng tôi.
Theo Evelyne Grossman, diễn giải theo hướng phân tâm học được
thực hiện theo hai cách hoặc là tiến hành phân tâm tác giả (phân tâm tiểu
sử, phân tâm-phê bình); hoặc là tiến hành phân tâm nhân vật, khi đó ít
nhiều người ta xem nhân vật như là những con người thực; hoặc là hình
dung rằng sẽ có một “vô thức của văn bản” thuộc về tác phẩm.
Tiếp theo, Evelyne Grossman đã nói đến “Sự hiểu biết tâm lý nội tại”
trong quan niệm của Freud: nhà văn, nhà thơ có “thiên nhãn”, anh ta sở
hữu một con đường trực tiếp dẫn tới vô thức, nhưng lại không nhận biết
21


được nó. Chính nhà phân tâm sẽ vén bức màn bí mật về sự hiểu biết này.
Những phân tích của Freud về tác phẩm Œdipe của Sophocle, về Hamlet
của Shakespeare, hay về Macbeth, cho thấy một dạng thức thất bại gắn
liền với thành công : tại sao phu nhân Macbeth phát điên chỉ đúng vào lúc
chồng mình lên ngôi trị vì xứ Ecosse. Câu trả lời của Freud : đó là vì nỗi
sợ hãi trước sự thành công, nỗi sợ hãi ở trong vô thức.
E.Grossman chỉ ra hai trường phái phê bình đã từng áp dụng phân tâm
học vào văn học (ở Pháp cũng như ở nước ngoài): trường phái làm việc
trên tác giả và tiểu sử tác giả (Marie Bonaparte, Edgar Poe, cuộc đời và sự
nghiệp - 1933). Khi đọc tác phẩm của Edgar Poe, Marie Bonaparte đã
khám phá hình ảnh người mẹ mất sớm của ông, và cả hình ảnh của vợ
ông, Virginia, nàng cũng chết khi còn rất trẻ. Marie Bonaparte chứng
minh được bằng cách nào ta có thể tìm thấy cái hình bóng ám ảnh của
người mẹ trong toàn bộ tác phẩm của Poe.
Và trường phái tập trung vào văn bản (Charles Mauron, người kết hợp
cả hai khuynh hướng văn bản và tiểu sử: Những ẩn dụ ám ảnh về huyền
thoại cá nhân. Nhập môn phê bình tâm lí, và Vô thức trong tác phẩm và
cuộc đời của Racine). Mauron cho rằng trước hết cần phải hiểu và đánh
giá văn bản trong tư cách là văn bản, và văn học trong tư cách là văn học,
chứ không phải như một tập hợp các dấu hiệu lâm sàng. Nói cách khác,
ông không tìm kiếm các triệu chứng trong tác phẩm. Như vậy, phê bình
tâm lý [psychocritique] trước hết là một phương pháp làm sáng tỏ văn bản,
một kỹ thuật đọc.
Mauron gọi “ẩn dụ ám ảnh” rốt cuộc tạo thành một “huyền thoại cá
nhân” trong đó con người vô thức của nhà văn được biểu hiện, huyền
thoại cá nhân này không chỉ giải thích các cấu trúc của tác phẩm mà còn
giải thích cả động tính của tác phẩm.
22

Gerard Genette đã phân tích tác phẩm của Mauron trong cuốn Figure

I, chương “Psycholecture” [đọc theo lối phân tích tâm lý]. Ông nhận thấy
Mauron nghiên cứu về các ẩn dụ ám ảnh và các diễn giải của ông rất
phong phú. Genette kết luận: “Phê bình tâm lý đặt ra cho văn học những
câu hỏi tuyệt vời, nó cũng tìm thấy ở văn học những câu trả lời tuyệt vời,
chúng càng làm cho thái độ của chúng ta đối với tác phẩm trở nên giàu có
đa dạng hơn ; phê bình tâm lý chẳng được gì mà phải giấu (hay tự giấu
mình) vì thông thường phần hiển nhiên nhất của câu trả lời đã nằm sẵn
trong câu hỏi rồi”[12].
E.Grossman đã nhắc tới Didier Anzieu [10], người đã nghiên cứu rất
nhiều về vấn đề sự hình thành của công việc sáng tạo của các nhà văn.
Ông cho rằng trong quá trình sáng tạo có một cái gì đó gần gũi với chứng
loạn tâm thần, sự khác biệt là ở chỗ: sáng tạo là một chứng loạn tâm thần
thành công, nếu có thể nói như vậy.
Bài viết của E.Grossman còn dài, nhưng luận văn chỉ tóm lược một số
gợi ý quan trọng trên đây cho luận văn của chúng tôi.
Tiếp theo đây, luận văn được sự giúp đỡ của người hướng dẫn, sẽ tiếp
tục lược thuật về quá trình hình thành và phát triển của phương pháp phê
bình này.
Jean-Yves Tadié bắt đầu công trình bằng: “Phê bình tưởng tượng,
nếu không muốn lang thang ở nơi trống rỗng, thì phải gặp phê bình
phân tâm học. Bachelard sử dụng từ ngữ, nhưng để chuyển hướng ý
nghĩa của nó (…). Jean-Pierre Richard, sau khi đã khước từ không
chuyển các cảm giác cho sự vật khác ngoài ý thức, đã sử dụng trong các
công trình của ông Proust và thế giới cảm xúc và Vi đọc, những khái
niệm thuộc về phân tâm học bắt chúng phụ thuộc, mà không sáp nhập
chúng vào một hệ thống” [23].
23

Về lịch sử phê bình phân tâm học đã được ứng dụng vào phân tích văn
học đã có các công trình của Anne Clancier, Phân tâm học và phê bình

văn học, 1973; Jean Bellemin-Noel, Phân tâm học và Văn học, 1978; Max
Milner, Freud và diễn giải văn học, 1980. Khi đề cập đến phê bình phân
tâm học, thông thường bao giờ người ta cũng bắt đầu với Freud và các lí
thuyết của ông. Trong La critique littéraire au XX siècle, Jean-Yves Tadié
cũng bắt đầu như vậy. Những phân tích về tác phẩm văn học của Sigmund
Freud (1858-1939) đã nâng đỡ cho phê bình. Freud đã đồng nhất tác phẩm
với các giấc mơ và quan niệm nó như sự thỏa mãn của tưởng tượng về các
ham muốn vô thức thức dậy và làm thỏa mãn ở những người khác nhau về
cùng những khát vọng. Trong khi đó nghiên cứu các văn bản văn học
mang lại những yếu tố rõ ràng hơn. Giấc mơ “được gán cho các nhân vật
tưởng tượng bởi các nhà tiểu thuyết” và ông bắt chúng phục tùng việc
kiểm tra theo hai con đường: “các giấc mơ được tưởng tượng bởi các nhà
văn trong một trong những cuốn tiểu thuyết của anh ta” và “so sánh tất cả
các ví dụ” tìm thấy được trong tác phẩm của mọi nhà văn. Freud đã đi
theo con đường thứ nhất. Ông bắt đầu bằng việc tóm tắt cuốn tiểu thuyết
(vài nhận xét mang tính tâm lí học, các kỉ niệm bị dồn nén): ta chỉ có thể
hiểu được chi tiết thông qua cái tổng thể. Sau đó, thông qua các ảo ảnh và
những hoang tưởng của nhân vật trung tâm, ông tìm kiếm cái “động cơ
nhục cảm vô thức”, thuật lại các giấc mơ của nhân vật trung tâm, thay thế
chúng vào trong cái tổng thể của truyện kể và dựa vào Khoa học về các
giấc mơ của ông. Điều quan trọng là nối sự “lĩnh hội về những nét cơ bản”
của giấc mơ với “sự gia nhập của nó vào sợi ngang của truyện kể”. Để
diễn giải một giấc mơ, cần phải “gia nhập nó vào số phận mang tính tâm lí
học của nhân vật”, trong khi dựng lên theo chiều dài truyện kể, “những chi
tiết khả thể nhất về cuộc đời bên ngoài và bên trong của người mơ”. Freud
24

chỉ ra rõ ràng rằng tâm phân tâm học đi tìm cách “nhận biết với một chiều
sâu nào của những ấn tượng và những kỉ niệm cá nhân mà tác giả đã xây
dựng nên tác phẩm của anh ta” hay nói cách khác, từ văn bản đến tiểu sử,

từ nhân vật đến nhà văn. Freud đã tập hợp một số bài viết của ông vào
công trình Tiểu luận về phân tâm học ứng dụng dẫn tới việc tự hỏi liệu phê
bình phân tâm học có thuật lại được các phương diện khác của tác phẩm
hay không. Trong “Sự sáng tạo văn học và giấc mơ thức tỉnh” (1908) ông
đã đặt ra vấn đề về nguồn gốc của các đề tài, sự xúc động mà chúng khơi
dậy trong chúng ta. Các nhân vật trung tâm đã hiện thân cho các dòng đời
sống tâm lí khác nhau của nhà tiểu thuyết, và nếu, trong các tiểu thuyết
khác nhau, nhân vật trung tâm chỉ là một nhân chứng thì nó cũng hiện
thân như thế trong một vài giấc mơ khác. Freud đã đề xuất việc đồng nhất
sáng tạo văn học với giấc mơ thức tỉnh, trở lại với những mối quan hệ
giữa cuộc sống với tác phẩm. “Một biến cố dữ dội và hiện tại làm thức dậy
ở người sáng tạo kỉ niệm của một biến cố cũ xưa, thường xuyên nhất là
biến cố thủa thiếu thời; từ biến cố sơ khai đó đã phái sinh ham muốn tìm
thấy được tự thực hiện trong tác phẩm văn học; ta có thể nhận ra trong
chính tác phẩm những yếu tố về ấn tượng hiện thời cũng như kỉ niệm xưa
cũ”. Tác phẩm là một “sự thay thế của trò chơi con trẻ ngày xưa”. Một
giấc mơ của đứa trẻ, cũng có thể thực như của huyền thoại, “ham muốn
của toàn thể các dân tộc”, “các giấc mơ ngàn đời của tuổi xuân nhân loại”.
Bài viết này đã đề xuất một sự nghiên cứu về hình thức tác phẩm, trong
các mối quan hệ giữa nhân vật, kí ức của chúng, cuộc đời của các ham
muốn của chúng, mối quan hệ với thời gian của chúng, trò chơi về phong
cách. Nếu như ta chưa hỏi được tác giả, ta sẽ tìm thấy cái mạng lưới
những ám ảnh, các kỉ niệm trẻ thơ của anh ta, và qua tất cả những điều đó,
những mặt nạ của anh ta lần lượt được nhấc lên.
25

Charles Baudouin, nghiên cứu Jacques Riviere về Proust và Freud.
Trong Một vài tiến bộ trong nghiên cứu trái tim con người ông đã áp dụng
phân tâm học vào phân tích văn học. Các tác phẩm: Phân tâm học và nghệ
thuật, 1929; Biểu tượng ở Verhaeren, tiểu luận về phân tâm học của nghệ

thuật (1924); Phân tâm học của Hugo (1943); Lễ khải hoàn của người anh
hùng (1952).
Phân tâm học và nghệ thuật hướng tới việc “tìm lại các mối quan hệ
mà nghệ thuật bảo tồn với các phức cảm, hoặc mang tính cá nhân, hoặc
mang tính nguyên thủy ở người nghệ sĩ sáng tạo cũng như ở người thưởng
thức tác phẩm” và ông đề cập đến 3 phần: sự sáng tạo, sự trầm tư, các
chức năng của nghệ thuật. “Huyền thoại là nội dung biểu lộ một giấc mơ
mênh mông mà các phức cảm nguyên thủy sẽ là cái nội dung tiềm ẩn”.
Tác giả nhập vào với các phức cảm Oedipe trong nghệ thuật: ông tìm thấy
trong motif người cha-bạo chúa ở Don Carlos và Guillaume Tell của
Schiller; anh em cừu địch ở Britannicus. Ông cũng tóm tắt vở Hamlet và
Oedipe của Jones: cuốn sách đó đã cho phép bổ sung những lí giải của các
chuyên gia về Shakespeare khi đọc trong tác phẩm của ông xung đột mang
tính Oedipe. Tiếp đó ông đề cập đến vấn đề “tự mê” (narcisse): “Mọi nhà
thơ đều tự mê” (Schlegel). Ví dụ về Tolstoï: những kỉ niệm đầu tiên của
nhà văn nơi ông khám phá ra cơ thể mình và đối lập với thế giới bên ngoài
thông qua những tiếng kêu gào, “chúng đã thâu tóm được toàn bộ một
nhân cách”. “Từ đó các nhân vật của Tolstoï không thể phân tích được
những tình cảm về tình yêu của họ mà không kết luận rằng ở đó chỉ có sự
tự phỉnh mình mà thôi. Ta nhớ tới ấn tượng trong Bản sonate ở Kreutzer”.
Những phân tích của Baudouin cho phép hiểu tâm lí học và cách ứng xử
của các nhân vật Tolstoï, nhưng cũng (tiếp sau Rank) hiểu rất nhiều tác
phẩm đề cập đến vấn đề của tính hai mặt (Musset, Andersen, Hoffmann,
26

Wilde, Maupassant, Poe, Dostoïevski); nó đã được tập hợp từ các motif cổ
điển của chủ nghĩa tự mê, như gương soi nơi mà nỗi sợ tuổi già, và nhân
vật hoang tưởng bởi bị truy hại bởi cái tính hai mặt của anh ta: những nhà
văn đã chọn đề tài này đều đã phải chịu đựng những ảo giác trong đời họ,
chịu đựng tính hai mặt về nhân cách, về thần kinh, đôi khi về sự sa sút của

trí tuệ. Cũng như Freud, phân tâm học cho phép Baudouin hiểu và giảm
bớt được một vài khó khăn của ý nghĩa các các văn bản. Nhưng chủ nghĩa
tự mê đã hợp nhất người nghệ sĩ với sự hướng ngã (introversion). Nó được
gắn với thị hiếu về sự phô trương, với “phức cảm gây ấn tượng”: Tolstoï
hoặc còn có ở Rousseau nữa. Trưng ra hoặc giấu đi là thông qua sự kìm
nén, như nhìn thấy và biết mà Freud đã phân tích thấy ở Léonard de Vinci.
Baudouin phân tích cái “Ý thức” của Hugo trong Truyền kì các thế kỉ.
Nghiên cứu bài thơ đặc biệt này được dựa trên việc nghiên cứu các biểu
tượng trong toàn bộ các tác phẩm của Hugo, bởi vì “tác phẩm của một
nghệ sĩ cần phải được nhìn nhận qua việc phân tích như một cơ thể sống,
mà ở đó mỗi một phần đều chuyển biến theo cái toàn thể và chỉ được hiểu
rõ bởi chính nó. Phân tích chiều sâu của một bài thơ không phải không
phân tích toàn bộ tác phẩm của nhà thơ”. Phương pháp bao gồm việc phân
tích “chùm ý tưởng”. Nếu đề tài của bài thơ là huynh đệ tương tàn, thì nó
tương ứng với một “phức cảm quan trọng của Hugo”, trong việc cạnh
tranh vào những năm đầu đời của nhà thơ với các anh, chị em của ông. Sự
cạnh tranh này, sau đó được kìm nén, đã để lại “những dấu vết vô thức sâu
xa”. Những con quái vật, quái thai trong tác phẩm của Hugo (Han
d’Islande, Quasimodo) phản ánh tuổi thơ dị dạng mà ông đã sợ bị như thế;
ghen ghét đối với các anh em trai đã có ở trong nhiều bài thơ của ông, nơi
tình cảm về tội lỗi trong “ý thức” được gắn với hai motif quan trọng: sự
truy đuổi và con mắt.
27

1. Sự truy đuổi: được thấy trong nhiều bài thơ Hình đại bàng trên mũ,
Ông vua tí hon ở Galice, Huynh đệ tương tàn. Sự trốn chạy của
Caïn đã lí giải “sự trốn chạy trước người cha” và sự “tự-trừng phạt
vô thức”.
2. Con mắt: có tầm quan trọng trong hệ đề tài về cái nhìn ở Hugo;
những kỉ niệm đầu tiên của ông gắn với cái nhìn, với sự trưng bày;

chúng đã sản sinh ra một “hệ thống các ý tưởng đặc thù được dẫn
dắt bởi sự phạm tội và nỗi lo âu”.
Phần thứ hai của công trình quan trọng này dành cho “trầm tư”
(contemplation), nghĩa là ở sự phản ứng của tiềm thức (subconscient) của
độc giả, bị bỏ mặc cho tới lúc đó bởi phê bình. Phương pháp đó là tập hợp
các ý tưởng, sự phát hiện ra cái vô thức. Vấn đề cơ bản là vấn đề thông
báo giữa tác giả và độc giả “về bố cục vô thức”: nó được sinh ra nhất là
khi tác phẩm mang những “hình ảnh tiêu biểu về những phức cảm nguyên
thủy”, có “chung với mọi người”, nhưng người “trầm tư” cũng ngoại xuất
trong các tác phẩm và những xung đột mang tính cá nhân, những điều
không có chút gì có với những điều của người nghệ sĩ. Việc nghiên cứu
này nhấn mạnh tính chất gần gũi của nghệ thuật và giấc mơ: tác phẩm
“khiến mơ mộng”, nghĩa là tập hợp các hình ảnh và các ý tưởng, nhưng
không làm mất đi nguồn gốc của cái nhìn, nó “cho đi và nhận lại không
ngừng”, bởi vì nó ấn định phạm vi “một trường ý thức chặt chẽ”. Phân
tâm học sau đó tìm thấy lại được ý tưởng về sự thanh lọc, sự thuần khiết,
thăng hoa của Aristote. Baudouin thâu tóm hành trình của người nghệ sĩ:
“Sau một giai đoạn người sáng tạo đã ở rất xa trong sự biểu hiện trung
thực những tình cảm thầm kín nhất của anh ta, anh ta bắt gặp một sự
kháng cự bất thần, quy vào một kiểu ngõ cụt, mà anh ta chỉ có thể thoát ra
được bằng cách tìm được dạng thức của một nghệ thuật mang tính khách
28

quan hơn và thế giới hơn”. Tác phẩm được cấu tạo bằng các biểu tượng.
Những cái đó tập hợp các yếu tố mang tính chất “nguyên thủy, bản năng,
ấu thơ”, sau đó là các yếu tố “được vay mượn từ cuộc đời tình cảm cá
nhân”, cuối cùng là những “yếu tố cao siêu, trật tự đạo đức, xã hội, triết
học, tôn giáo”. Trong Lễ khải hoàn của người anh hùng, Baudouin đã
nghiên cứu 16 anh hùng ca, để nhận biết được kịch bản nguyên thủy,
huyền thoại gốc, “hình ảnh thuần phác, hình ảnh của một Persée giết rồng

để cứu Andromède”; mỗi sự diễn lại sự “cao thượng” từ kịch bản này,
chúng ta đều không nhận ra được sự vô thức của người nghệ sĩ.
Charles Mauron dường như tiếp tục công việc của Baudouin mà ông đã
dẫn ra trong công trình của ông Phân tâm học của Mallarmé. Trước ông
đã có những công trình danh tiếng: Edgar Poe, nghiên cứu về phân tâm
học (1933) của Marie Bonaparte và Sự thất bài của Baudelaire của
Laforgue (1931). Đề tài đã đặt dấu chấm quan trọng trong phương pháp
của ông: Từ những ẩn dụ ám ảnh đến huyền thoại cá nhân, nhập môn phê
bình phân tâm học (Baudelaire, Nerval, Mallarmé, Valéry, Corneille,
Molière), 1963. Tiếp theo đó là những ứng dụng: Phê bình phân tâm học
thể loại hài kịch (1964), Baudelaire cuối cùng (1964), Các nhân vật của
Hugo trong V.Hugo, Tác phẩm, II, Phèdre (1968), Kịch của Giraudoux
(1971). Trong Nhập môn phân tâm học Mallarmé (1950) ông đặt ra như
một nguyên lí tầm quan trọng của một sự kiện mà cho đến đó ông vẫn
chưa để ý: khi Mallarmé 15 tuổi, thì ông đã mồ côi mẹ từ 5 tuổi, mất em
gái 13 tuổi. Biến cố đó dẫn tới một sự giải thích về cuộc đời và về tác
phẩm của nhà thơ. Cần phải quay trở lại với phân tâm học. Từ một phía,
đó là chấn thương tâm thần, từ phía khác, đó là “một mạng lưới các hình
ảnh bền vững (…) được nhắc lại từ bài thơ này qua bài thơ khác”. Mạng
lưới các tập hợp (mái tóc, ngọn lửa, hoàng hôn, chiến thắng của tình yêu,

×