ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HỒNG
CÁI ĐÓI VÀ MIẾNG ĂN TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA NAM CAO VÀ NGUYÊN HỒNG
TRƯỚC NĂM 1945
LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC
HÀ NỘI – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HỒNG
CÁI ĐÓI VÀ MIẾNG ĂN TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA NAM CAO VÀ NGUYÊN HỒNG
TRƯỚC NĂM 1945
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Lưu Khánh Thơ
HÀ NỘI - 2013
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. 4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 5
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NAM CAO VÀ NGUYÊN HỒNG TRONG DÒNG VĂN HỌC
HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930 - 1945 7
1.1. Bức tranh xã hội Việt Nam trƣớc năm 1945 7
1.2. Nam Cao và số phận những ngƣời cùng khổ 9
1.2.1. Nam Cao – từ cuộc đời đến tác phẩm 9
1.2.2. Những mảnh đời đói nghèo, tủi nhục 11
1.2.2.1. Hình ảnh những đứa trẻ thơ vô tội. 12
1.2.2.2. Hình ảnh những người phụ nữ bất hạnh 14
1.2.2.3. Số phận khổ đau của những bần cố nông 17
1.2.2.4. Vòng đời luẩn quẩn của người trí thức 20
1.3. Nguyên Hồng – nhà văn gắn bó máu thịt với nhân dân lao động nghèo 23
1.3.1. Những ngày thơ ấu không bình yên của Nguyên Hồng 23
1.3.2. Nhà văn của những người cùng khổ 25
1.3.2.1. Những đứa trẻ nghèo không có tuổi thơ 25
1.3.2.2. Những người phụ nữ khổ đau 27
1.3.2.3. Số phận những kiếp người dưới đáy xã hội 29
CHƢƠNG 2: CÁI ĐÓI VÀ MIẾNG ĂN – CHỦ ĐỀ CHÍNH TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ NGUYÊN HỒNG 31
2.1. Tâm lý con ngƣời khi bị cái đói giày vò. 31
2.2. Cái đói trong truyện ngắn Nam Cao 34
2.2.1. Sự ám ảnh về cái đói và miếng ăn của người nông dân 34
2.2.2. Cái đói và miếng ăn - thử thách ghê gớm của người trí thức 47
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
5
2.2.3. Tha hóa nhân cách - vấn đề nhức nhối trong sáng tác Nam Cao 56
2.3. Cái đói trong trang văn của Nguyên Hồng 64
2.3.1. Những nạn nhân khốn khổ của cái đói 64
2.3.2. Xu hướng cưỡng lại sự tha hóa 70
2.4. Khát vọng nhân văn của Nam Cao và Nguyên Hồng qua vấn đề cái đói 75
2.4.1. Nguyên nhân đói khát 75
2.4.2. Khát vọng về một cuộc sống “no cơm” 79
CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN 82
3.1. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện 82
3.1.1. Tình huống bi hài kịch nội tâm 82
3.1.2. Tình huống đói khát cùng đường, miếng ăn là miếng nhục 84
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật 86
3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại gần với tiếng nói quần chúng 86
3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm sâu lắng 92
3.3. Giọng điệu 97
3.3.1. Giọng triết lý 97
3.3.2. Giọng cảm thương thống thiết 98
KẾT LUẬN 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC 109
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cái đói và miếng ăn từ lâu đã trở thành một nỗi ám ảnh lớn trong tiềm thức
của nhân dân ta qua nhiều thế kỉ. Sinh thời Bác Hồ của chúng ta sau khi giành được
độc lập cho nước nhà, nỗi lo cho dân đầu tiên là diệt giặc đói và Người chỉ có: “một
ham muốn, ham muốn tột bậc là đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành…”.
Vậy sự khốn khổ của nhân dân ta bắt đầu từ đâu? Vì đâu mà dải đất hình chữ
S này phải chịu nhiều đau thương đến vậy? Thiên tai, giặc giã triền miên, chế độ
phong kiến lạc hậu và trì trệ kéo dài cùng với nó là ách thực dân vô cùng tàn bạo…
Cái đói và cái rét cũng vì thế trở thành nỗi lo thường trực. Có thể nói cái đói trở
thành vấn nạn khủng khiếp mang tính truyền kiếp chi phối mọi mặt đời sống con người.
Do sức ám ảnh quá lớn mà cái đói và miếng ăn đã đi vào văn chương thật tự
nhiên. Mặc dù không hẹn trước nhưng những tư tưởng lớn thường gặp nhau tại một
điểm, điều đó rất đúng với trường hợp hai nhà văn hiện thực suất sắc Nam Cao và
Nguyên Hồng. Điều lí thú ở hai nhà văn này đó là có những điểm tương đồng trong
con người nghệ sĩ, cũng như trong tác phẩm. Sự gặp gỡ giữa họ ở đề tài cái đói
không phải là sự mô phỏng, sao chép mà là sự gặp gỡ trong sáng tạo nghệ thuật.
Đến với những trang viết của hai nhà văn hiện thực chúng ta đều cảm nhận được ấn
tượng mạnh mẽ nhất đọng lại đó là cái đói, cái nghèo, cái cùng quẫn, bi thương.
Hình tượng con người dẫu là người nông dân hay trí thức đều bị dày vò sau những
lo toan vật chất, suy tính nhỏ nhen về miếng cơm, manh áo. Những chi tiết tưởng
như vặt vãnh, tầm thường ấy lại là nơi nảy sinh những tư tưởng sâu, những tình cảm
lớn. Nam Cao và Nguyên Hồng đã lật ra hết cái lớp áo phủ ngoài đời sống con
nguời Việt Nam để làm hiện lên cái chuyện muôn đời nhức nhối nhất là chuyện
thiếu thốn, đói khổ và cũng thông qua cái vấn đề nhức nhối và đơn giản ấy mà hai
nhà văn định giá tư cách con người, vẽ nên những mối quan hệ đầy đau đớn giữa
con người với con người trước cách mạng tháng Tám.
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
2
Ngày nay nền kinh tế toàn cầu đang có những bước chuyển biến đáng kể, cái
đói ngày càng lùi xa. Tuy nhiên, có không ít kẻ vẫn tiếp tục bị đói. Nhưng cái đói
này nguy hiểm hơn cái đói sinh lí nhiều. Đó là: Đói tình thương – Đói đạo đức –
Đói công bằng – Đói giáo dục – Đói lí tưởng. Thật đau xót vô cùng!
Vì vậy, viết về đề tài “cái đói và miếng ăn”, người viết mong rằng sẽ đánh
thức lương tri của một bộ phận nào đó trong con người Việt Nam: đừng để những
cám dỗ về miếng ăn mà bán rẻ nhân cách. Đây cũng là vấn đề nhức nhối mà Nam
Cao và Nguyên Hồng đặt ra, đến ngày nay vẫn mang tính thời sự nóng hổi.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Cái đói và miếng ăn luôn đeo đuổi nhân dân ta qua nhiều thế kỉ. Thế nhưng
kiểm lại những trang viết về vấn đề này trong lịch sử văn học Việt Nam thấy cũng
chưa nhiều. Kim Lân viết về cái đói (Vợ nhặt), Nguyễn Công Hoan viết về cái đói
(Thằng ăn cắp, Giá ai cho cháu một hào, Bữa no đòn…), Thạch Lam viết về miếng
ăn (Đói, Tối ba mươi…). Phải nói rằng, trong số những tên tuổi nói trên, Nam Cao
và Nguyên Hồng là hai cây bút viết về cái đói nhiều và hay hơn cả. Vì vậy, có thể
xem cái đói và miếng ăn là một trong những nguồn cảm hứng chủ yếu trong những
sáng tác của họ.
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao, ông là một
trong những nhà văn lớn của thế kỉ XX được nghiên cứu nhiều nhất, liên tục nhất.
Tuy nhiên, trước Cách mạng tháng Tám, vị trí của Nam Cao chưa được khẳng định.
Giá trị tư tưởng hay chủ đề tác phẩm của Nam Cao hầu như chưa có sự đánh giá
đúng mức. Tên tuổi của ông vẫn chưa được nằm trong bộ sách đồ sộ gồm 79 nhà
văn trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan. Nhận xét về Nam Cao trong thời kì
này chỉ có lời giới thiệu của nhà văn Lê Văn Trương với một vài ý kiến trong lời
giới thiệu tập Đôi lứa xứng đôi (1941): “Dám nói, dám viết những cái khác người,
ông Nam Cao đã đem đến cho ta những khoái cảm mới mẻ và ông đã tỏ ra một
người có can đảm”.
Phải hơn nhiều năm sau, qua những xói mòn, thử thách của thời gian, trong
sự trưởng thành và phát triển của nền văn học mới: khi tác phẩm của Nam Cao được
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
3
in lại và Sống mòn ra mắt độc giả (1956), cùng với những hồi kí, tiểu luận của
Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyên Hồng, giá trị của nhà văn
mới thực sự được khẳng định. Từ đó việc nghiên cứu Nam Cao đã đạt được nhiều
thành tựu và tiến bộ. Giới nghiên cứu phê bình hiện nay đã không dừng lại ở những
kết luận có sẵn mà cố gắng khơi sâu vào những “địa tầng” mới của văn chương
Nam Cao. Vẫn trên cơ sở khẳng định con người và tài năng của Nam Cao nhưng tất
cả đã được nâng lên ở những chiều kích mới, với những phát hiện sâu hơn, tâm đắc
hơn về cuộc đời, về nghệ thuật sáng tạo, về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của
nhà văn, thể hiện trong những bài viết hoặc ý kiến phát biểu ở các hội thảo về Nam
Cao của các nhà nghiên cứu Hà Minh Đức, Phong Lê, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn
Văn Hạnh, Nguyễn Hoành Khung, Trần Đình Sử, Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên
Ân, Trần Đăng Xuyền…
Trên đà nghiên cứu đó, luận văn muốn bàn về cái đói và miếng ăn trong
truyện ngắn trước cách mạng của Nam Cao. Nghiên cứu về chủ đề này các nhà
nghiên cứu chưa đi sâu cụ thể mà chỉ đề cập một cách đơn lẻ trong một số bài viết
như Nguyễn Đăng Mạnh có bài nói về Cái đói và miếng ăn trong truyện Nam Cao
(8 trang), đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay, số 71, (01/11/1991).
Nghiên cứu về Nguyên Hồng cho đến nay ở Việt Nam cũng khá đông đảo
với nhiều công trình phong phú, đa dạng của các tác giả: Vũ Ngọc Phan, Nguyễn
Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Như Phong… Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều có
những ý kiến đánh giá cao lòng nhân đạo thiết tha trong sáng tác của Nguyên Hồng.
Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã khẳng định:
“lòng yêu nhân loại đến cực điểm” và sự thiết tha đến “những người bị ruồng bỏ”
của Nguyên Hồng. Tác giả còn cho rằng “Phải sống trong cảnh nghèo, phải luôn
luôn gần gũi xã hội người nghèo mới có thể viết được những dòng thành thật và
cảm động như Nguyên Hồng” [49,115]. Ông nhận xét Nguyên Hồng có tư tưởng
nhân đạo “tràn lan” và nhận thấy “nhà văn cầu mong ánh sáng rọi đến khắp hang
cùng ngõ hẻm, đến khắp cuộc sống dễ nảy nở nên ở mọi sự cần lao những cử chỉ
công bằng, bác ái và xua đuổi mọi cái tối tăm, cùng khổ của loài người” [49,118].
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
4
Nguyễn Đăng Mạnh và Phan Cự Đệ cũng có những đánh giá gần giống nhau
về Nguyên Hồng. Cả hai ông đều bắt nguồn từ cuộc đời nhà văn gần gũi với nhân
dân lao động. Nguyễn Đăng Mạnh đánh giá “toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng
thấm đượm một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa thiết tha, viết bằng trái tim hơn là
bằng trí tuệ tỉnh táo” [40,23].
Phan Cự Đệ cũng cho rằng chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác Nguyên Hồng
kết hợp được truyền thống dân tộc và hiện đại. Đó là “chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc”,
“chủ nghĩa nhân đạo thức tỉnh”, “chủ nghĩa nhân đạo lạc quan”…
Nhìn chung các bài viết đều có những đánh giá khá thống nhất về những tác
phẩm của Nguyên Hồng trước cách mạng. Tuy nhiên các tác giả cũng chưa đề cập
một cách sâu sắc và toàn diện vấn đề cái đói. Chúng tôi cho rằng, vấn đề mà những
bài viết này đặt ra cần được khai thác sâu hơn và tiếp tục xem xét ở những khía
cạnh mới. Đó cũng chính là lí do thôi thúc chúng tôi chọn đề tài này làm luận văn
tốt nghiệp của mình.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
Với mục đích khoa học đã đề ra, luận văn tập trung xem xét, làm sáng tỏ
những vấn đề cơ bản xung quanh cái đói và miếng ăn trong sáng tác ở thể loại
truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945. Luận văn không xem
xét đến truyện ngắn sáng tác sau 1945 vì số lượng không lớn và nhất là chủ đề cái
đói và miếng ăn không được thể hiện nhiều. Tuy nhiên để làm rõ vấn đề, trong quá
trình nghiên cứu, người viết đã khảo sát thêm tiểu thuyết Sống mòn, vì đây là sáng
tác thể hiện tập trung vấn đề mà Nam Cao đặt ra cho người trí thức.
Để đạt được mục đích khoa học đã đặt ra, người viết muốn đặt vấn đề mà mình
khảo sát trong cái nhìn tổng hợp các luận điểm của các nhà nghiên cứu trước để có
thể nhìn vấn đề một cách toàn diện, sâu sắc, hệ thống hơn.
Có thể nói vấn đề cái đói và miếng ăn là một vấn đề rộng. Ở đây người viết
thật sự quan tâm và muốn đi sâu hơn nữa về cuộc sống cũng như phẩm chất, nhân
cách của con người khi đã gấp lại trang sách của Nam Cao và Nguyên Hồng.
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng nghiên cứu luận văn đã sử dụng các
phương pháp sau:
- Phương pháp so sánh
Như chúng ta đã biết, Nam Cao và Nguyên Hồng đã đạt được những thành
tựu nổi bật và có nhiều đóng góp vào nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nhưng khi
viết về cái đói mỗi nhà văn lại có cách tiếp cận khác nhau. Để thấy được những nét
độc đáo riêng của họ cần phải có sự so sánh về cái đói giữa Nam Cao với Nguyên
Hồng và giữa họ với các nhà văn khác như: Ngô Tất Tố, Kim Lân, Thạch Lam,
Nguyễn Công Hoan… Nghĩa là từ một đề tài hết sức nhỏ nhặt, đời thường là cái đói
và miếng ăn, nhờ so sánh mà ta có thể phát hiện tư tưởng nghệ thuật rất khác nhau
của các tác giả.
- Phương pháp lịch sử
Phương pháp này đòi hỏi việc nghiên cứu phải gắn liền với hoàn cảnh lịch sử
cụ thể của Việt Nam. Từ đó thấy được cuộc sống đói nghèo, cơ cực của nhân dân ta
trước năm 1945. Có như vậy mới đảm bảo tính khách quan, khoa học.
- Phương pháp hệ thống
Việc đặt các yếu tố trong một hệ thống sẽ giúp người nghiên cứu thấy rõ hơn ý
nghĩa của chúng, bởi vì tác phẩm văn chương là một chỉnh thể toàn vẹn, các yếu tố
trong tác phẩm có mối liên hệ mật thiết với nhau, giá trị của yếu tố này là do giá trị
của các yếu tố xung quanh quy định. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
không xem xét từng tác phẩm của Nam Cao và Nguyên Hồng ở dạng đơn lẻ, tách
biệt mà sẽ đặt chúng trong một chỉnh thể toàn vẹn.
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng các thao tác phân tích, tổng hợp
Phân tích, tổng hợp là một trong những thao tác không thể thiếu đối với mọi
công trình. Trên cơ sở những tư liệu đã được thống kê, phân loại, chúng tôi sẽ tập
trung vào những tiêu điểm cần thiết, tìm ra những nét đặc sắc và độc đáo qua vấn đề
cái đói trong sáng tác Nam Cao và Nguyên Hồng.
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
6
5. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn triển
khai làm ba chương:
Chƣơng 1: Nam Cao và Nguyên Hồng trong dòng văn học hiện thực phê
phán 1930 - 1945
Chƣơng 2: Cái đói và miếng ăn – nguồn cảm hứng lớn trong truyện ngắn
của Nam Cao và Nguyên Hồng
Chƣơng 3: Những đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
7
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NAM CAO VÀ NGUYÊN HỒNG TRONG DÒNG VĂN HỌC
HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930 - 1945
1.1. Bức tranh xã hội Việt Nam trƣớc năm 1945
Bức tranh xã hội Việt Nam trước năm 1945 đã đi vào văn học khá sớm, nhưng
mỗi trào lưu, mỗi nhà văn lại phản ánh những khía cạnh khác nhau. Văn học lãng
mạn tiêu biểu là tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã cho chúng ta những bức tranh quê
tuy có lúc là cảnh bùn lầy nước đọng nhưng nhìn chung đều đẹp đẽ, thơ mộng. Xã
hội Việt Nam chỉ thực sự được tái hiện khi các tác phẩm của dòng văn học hiện
thực ra đời với những đóng góp đặc sắc của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng… Với họ, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ
không có cảnh êm đềm, thi vị mà đó là nơi diễn ra nhiều thảm cảnh đau lòng.
Xã hội Việt Nam những ngày tiền cách mạng thật là đen tối. Đó là thời kỳ
mà nước ta phải sống trong cảnh một cổ hai tròng. Thực dân Pháp và phát xít Nhật
câu kết với nhau thi hành nhiều chính sách bóc lột vô cùng thâm độc, thực chất chỉ
nhằm mục đích vơ vét về kinh tế. Thực dân Pháp đã thi hành chính sách kinh tế độc
quyền biến Việt Nam trở thành một thuộc địa cung cấp nguồn nhân công rẻ mạt và
nguồn nguyên liệu béo bở cho chính quốc, là nơi cho vay nặng lãi cắt cổ và thu thuế
vô tội vạ, nơi mua rẻ hàng nông phẩm và bán đắt hàng công nghiệp, và là nơi độc
quyền ngoại thương, độc quyền bán rượu, thuốc phiện, tăng thuế khóa và hàng trăm
thứ hạch sách, phu phen, tạp dịch khác.
Trong và sau đại chiến lần thứ nhất, đế quốc Pháp đã hai lần khai thác thuộc
địa đẩy nhân dân ta lún sâu hơn nữa vào cảnh bần cùng. Tiếp đó, chúng lại tăng
cường bóc lột để bù đắp cho những thiệt hại ghê gớm do cuộc khủng hoảng trầm
trọng đã đẩy lùi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vào cuối thế kỉ XIX. Chúng hạ lương
viên chức, đình chỉ sản xuất, làm cho hàng hóa trong nước bị đình trệ, buộc người
dân phải tiêu thụ hàng hóa ứ đọng của Pháp. Ngân hàng Đông Dương lại rút bớt
giấy bạc làm cho hàng hóa, nông phẩm rẻ mạt, đẩy nông dân và công thương nghiệp
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
8
phá sản, vỡ nợ (năm 1929 có 177 nhà buôn phá sản, con số đó lên tới 209 vào năm
1933). Hàng triệu người (kể cả trí thức) không có việc làm, lại thêm mấy năm lũ lụt,
hạn hán liên tiếp nên nạn đói càng trầm trọng.
Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, nhân dân ta lại càng rơi vào cảnh khốn
cùng. Thực dân Pháp và phát xít Nhật lại hùa nhau vơ vét đến tận cùng tài nguyên
thiên nhiên của ta để phục vụ cho chiến tranh, làm cho giá cả sinh hoạt năm 1945
đắt gấp 25 lần năm 1939, nhân dân chết đói đầy đường, thế mà phát xít Nhật vẫn
xuất cảng 50 vạn tấn gạo. Số gạo này có thể nuôi 10 triệu dân trong bảy tháng, vậy
mà chúng âm mưu để cho hai triệu đồng bào ta chết đói.
Bên cạnh mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp cũng hết sức gay gắt. Dưới
chế độ phong kiến, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ bởi sự bóc lột vô cùng tàn
bạo của bọn cường hào, ác bá. Chúng ra sức đấu đá nhau để giành giật miếng ăn,
mà nạn nhân không ai khác chính là tầng lớp lao động nghèo. Đâu đâu cũng thấy
cảnh hà hiếp, cướp đoạt, đánh đập, cùm kẹp của bọn cường hào trút lên đầu những
người nghèo khổ. Đời sống nhân dân vốn vô cùng cực khổ lại thêm vào đó hàng
trăm thứ sưu cao, thuế nặng. Chúng ta có thể thấy rõ cái không khí ngột ngạt của
làng quê Việt Nam trong những năm trước Cách mạng tháng Tám qua tác phẩm Tắt
đèn của Ngô Tất Tố. Tác phẩm cho ta cảm nhận được cái chộn rộn, lo âu đến vò xé,
đến nghẹn thở của mùa sưu thuế. Nhân dân rơi vào cảnh đói khát triền miên. Khủng
khiếp nhất đó là cái đói năm Ất Dậu, đâu đâu ta cũng bắt gặp những xác chết,
những bóng ma dật dờ. Thi sĩ Bàng Bá Lân đã ghi lại cảnh chết đói kinh hoàng đó
như sau:
“ Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường
Rồi ngã gục không đứng lên vì đói!”
Nếu như đời sống nông thôn cực khổ là vậy, thì ở xã hội thành thị Việt Nam
cũng bị nghèo đói xơ xác. Dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, giai cấp
tiểu tư sản cũng là một trong những giai cấp phải chịu đựng nhiều cay đắng, đe dọa
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
9
về đời sống nhất. Tầng lớp tiểu tư sản nghèo sống bấp bênh và khổ cực. Ngay đến
những viên chức, trí thức tự do cũng lâm vào hoàn cảnh khó khăn về vật chất, tù
túng về tinh thần. Họ bị khinh rẻ, chà đạp, sống một cuộc sống có hôm nay mà
không biết đến ngày mai, hàng ngày bị kinh tế khủng hoảng, bị chiến tranh, nạn thất
nghiệp và bệnh tật, nghèo đói đe dọa.
Xã hội thực dân phong kiến ở nông thôn cũng như thành thị ngày càng bộc lộ
những ung nhọt đang tấy lên trầm trọng không thể nào che dấu được.
Trong những ngày xã hội lâm vào cảnh bế tắc ngột ngạt nhất, Nam Cao và
Nguyên Hồng cho ra đời những đứa con tinh thần của mình. Những sáng tác đó đã
đem đến cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam trước năm 1945,
trong đó con người với những nỗi thống khổ của mình đã rung lên hồi chuông báo
động: Hãy cứu lấy con người.
1.2. Nam Cao và số phận những ngƣời cùng khổ
1.2.1. Nam Cao – từ cuộc đời đến tác phẩm
Nam Cao vốn sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo. Ông thân sinh
ra Nam Cao vốn làm nghề chạm trổ và bốc thuốc Bắc. Sau cha ông trở thành chủ
một hiệu đồ gỗ ở phố hàng Tiện – Nam Định, nhưng vì chơi bời nên của hàng đóng
cửa, lại trở về làm ruộng, đời sống gia đình càng lâm vào cảnh nghèo túng. Làng
của Nam Cao là một vùng ít ruộng đất, bình quân mỗi đầu người chưa đạt một sào
nên mẹ ông đã phải làm nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Ngoài nghề làm
ruộng, bà còn làm vườn, dệt vải.
Quê hương nhà văn là vùng đất chiêm trũng, xa phủ huyện nên bọn cường
hào địa chủ càng hoành hành. Trong làng thường chia làm nhiều phe cánh. Quanh
năm thường xảy ra các vụ kiện tụng, đánh chém nhau giữa người giàu, kẻ nghèo và
giữa những bọn địa chủ kì hào có thế lực. Vì vậy, cuộc đời người dân ở đây thật là
cay cực, quanh năm phải chịu nạn đói. Những chuỗi ngày mù xám kéo dài, nợ nần,
thuế má, tạp dịch đè nặng trên lưng họ. Nhưng chính đặc điểm này đã trở thành chất
liệu quý cho Nam Cao khi viết về nông thôn và người nông dân. Sau này, trong
sáng tác Nam Cao, những tư liệu về nông thôn, về những người nông dân đói kém
đều được nhà văn lấy từ vốn sống thuở nhỏ, từ chính những người thân của nhà văn.
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
10
Nam Cao là con trai cả trong một gia đình đông anh em, có bốn em trai và ba
em gái. Trong số các anh em chỉ có một mình Nam Cao được ăn học. Nhưng cuộc
sống đói nghèo và bệnh tật đã đeo đuổi Nam Cao từ khi ông còn nhỏ. Năm 1935,
sau kì thi Thành Chung bị trượt, Nam Cao theo người nhà vào Sài Gòn kiếm sống
bằng rất nhiều nghề “kể cả những nghề mà những người tự xưng là trí thức không
làm” [3, 542]. Rời bỏ cái làng quê nghèo đói và tù túng, Nam Cao mang theo nhiều
ước mơ và dự định lớn lao. Những tưởng cuộc sống nơi đất khách sẽ mở ra một
chân trời mới lạ cho ông, nhưng rốt cuộc bệnh tật lại trả Nam Cao về với nơi chôn
rau cắt rốn.
Trở lại quê nhà, hoàn cảnh gia đình Nam Cao lúc đó càng rơi vào tình trạng
cùng quẫn “Lũ em lúc nhúc rất đông không được học, không được mặc, thường
thường không đến cả ăn, gầy guộc, rách rưới, bẩn thỉu”. Ông bố vẫn rượu chè, mẹ
ông phải “đảm đương mọi công việc trong gia đình, một mình cố nâng đỡ cả cái thế
giới đang sụp đổ kia như một con ngựa già cố kéo một cái xe nặng lên khỏi dốc, tuy
biết mình kiệt sức rồi, không thể nào còn kéo nổi nhưng vẫn kéo!” [3, 543]
Nam Cao ở làng ít lâu, ôn lại kiến thức cũ và thi đậu bằng trung học. Nam
Cao định xin làm công chức nhưng do bệnh tật ông không được chấp nhận. Sau đó
ông được mời lên Hà Nội dạy học cho một trường tư thục của một người trong họ
mở. Mang tiếng là cậu giáo nhưng đời sống của ông cũng không hơn gì những
người hàng xóm, nghĩa là vẫn thiếu ăn, thiếu mặc, vợ con đói rách. Cứ thế, cuộc đời
túng thiếu, tù hãm cuốn chặt lấy ông không buông tha lúc nào. Và chính cuộc sống
của anh giáo khổ trường tư nơi đây đã cung cấp cho Nam Cao một sự cảm nhận sâu
sắc về thân phận người trí thức tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ.
Có thể nói cuộc đời của Nam Cao từ nhỏ cho tới lúc trưởng thành là một chuỗi
ngày dài cực khổ. Nói như Nguyễn Minh Châu thì cuộc đời Nam Cao “giống như
một quả lắc đồng hồ cứ xang đi xang lại mãi giữa thành phố và cái làng quê Đại
Hoàng rất lâu đời của ông – nơi ông vật lộn với cuộc sống hàng ngày để kiếm
miếng sống và nơi ông trở về bên gia đình vợ con, không phải để ngắm cảnh đẹp
làng quê, thậm chí chẳng có được một phút đứng “dưới bóng hoàng lan” mà để lại
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
11
những tiếng thở dài, những câu than vãn, những lời rủa trách, để chứng kiến những
trận ốm của vợ con, nói tóm lại, để tiếp tục chứng kiến và nếm trải, gặm nhấm và
“thưởng thức” một lần nữa cái vị đời chua lòm đã từng sống, đã từng một lần nếm
trải và chứng kiến trong cuộc vật lộn hàng ngày để kiếm miếng sống ở ngoài thành
phố” [28, 8].
Trước cách mạng, Nam Cao luôn sống trong tâm trạng đau khổ, u uất, bất đắc
chí. Ốm yếu, thất nghiệp, Nam Cao sống lay lắt bằng nghề viết báo, viết sách và dạy
học tư… làm nhiều nghề như thế nhưng vẫn không đủ sống. Ôm ấp những hoài bão
lớn về tương lai, về sự nghiệp, nhưng những ước mơ đó luôn bị át đi, ghìm lại trong
những tính toán nhỏ nhen hàng ngày về miếng cơm, tiền nhà, tiền quà bánh…
Chính vì vậy, trong sáng tác của mình, Nam Cao luôn bị ám ảnh bởi cái đói và
miếng ăn. Tuy nhiên, chuyện cơm áo lúc này không phải là chuyện riêng đối với
nhà văn mà dường như chung cho tất cả giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ. Xuân Diệu đã
từng than thở:
“Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ”.
Lận đận trong cuộc đời, Nam Cao cũng không gặp may mắn trên con đường
văn chương. Ông viết văn từ năm 1936 và thử nghiệm qua nhiều thể loại khác nhau
như: thơ, kịch, truyện ngắn… nhưng đều không thành công. Gần mười năm viết
trước cách mạng, Nam Cao dường như không có vị trí trên văn đàn đương thời. Hầu
hết bản thảo không được in thành sách, thất lạc. Có thể nói hiếm có nhà văn nào
bước vào làng văn một cách chật vật và bị đối xử bất công như Nam Cao.
1.2.2. Những mảnh đời đói nghèo, tủi nhục
Xuất thân trong một gia đình nghèo Nam Cao hiểu và thấm thía số phận của
những con người nghèo khổ. Những nhân vật ấy gợi lên trong ta một niềm thương
xót không bờ bến. Đó là những em nhỏ cần được chăm sóc (Dần, Tí, Ninh…). Đó là
những người già có số phận khổ đau (Lão Hạc, bà cái Tí, bà Quản Thích…), là
những người phụ nữ bất hạnh (Nhi, Nhu, Thị Nở, mụ Lợi, dì Hảo…). Đó là những
kẻ bị tha hóa như (người bố tham ăn, anh cu Lộ, Trạch Văn Đoành, Chí Phèo…
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
12
Hay đến cả những trí thức nhưng luôn sống trong cảnh cơm áo ghì sát đất (Thứ,
Điền, Hài, Hộ…). Mỗi nhân vật ấy là một nạn nhân của xã hội, viết về cuộc đời của
mỗi nhân vật ấy như một bản tố cáo, một lời nguyền rủa muôn đời chế độ xã hội bất công.
1.2.2.1. Hình ảnh những đứa trẻ thơ vô tội.
Bác Hồ đã từng nói:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ biết học hành là ngoan”.
Thế nhưng trong cái xã hội thực dân, phong kiến Việt Nam những năm tiền
cách mạng trẻ em bị rơi vào những hoàn cảnh rất đáng thương. Đến cái ăn cũng
không có, nói gì đến việc học hành. Xuất phát từ tấm lòng nhân đạo, Nam Cao luôn
hướng những trang viết của mình về những đứa trẻ thơ vô tội. Sinh ra trong hoàn
cảnh nghèo đói chúng thường xuyên bị cái đói hành hạ đến nỗi mắt lờ đờ như chết
lả. Trong truyện ngắn Nghèo những đứa con vô tội của chị đĩ Chuột phải ăn những
thứ đáng lẽ ra không phải thức ăn của con người: chè cám - một “đặc sản” của
người nghèo những ngày đói kém.
Trong truyện ngắn Trẻ con không được ăn thịt chó tác giả đã xót xa khi miêu
tả nỗi vui mừng của những đứa trẻ sắp được ăn thịt chó:
- Thầy giết chó nhỉ?
- Ừ, thầy giết con chó để làm thịt chén
- Thích nhỉ, cu Con nhỉ?
- Thầy cho cả chúng ta ăn thịt chó nhỉ?
- Tao cũng ăn thịt chó
- Ừ, thầy cho cả mày, cả tao.
- Cả chị Gái…[3,125].
Chúng đâu biết rằng cha chúng là một kẻ tham ăn, ăn tranh cả phần vợ con,
đau xót hơn khi chứng kiến cảnh những đứa trẻ đói ăn đang sốt ruột đợi những thức
ăn thừa mứa của bố chúng “đứa nào cũng nhăn nhăn nhó nhó” [3, 131], “thằng cu
con khóc òa lên (…) Người mẹ đỏ mũi lên và mếu xệch đi, rưng rưng khóc. Cái Gái
và cu Nhớn, cu Nhỡ cũng khóc theo” [3, 132].
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
13
Dần trong Một đám cưới ngay từ nhỏ đã phải rời xa gia đình đi ở cho nhà giàu
để kiếm miếng cơm, manh áo, để đỡ đi một miệng ăn, một gánh nặng trong gia
đình. “Dần đi ở từ năm chửa mười hai. Khi ấy đầu nó còn để hai trái đào. Nó mới
biết cầm vững cái chổi để quét nhà và thổi một niêu cơm con con không sống không
khê” [3, 282]. Mẹ Dần vốn nghèo từ trong trứng nghèo ra nên cứ hay liệu hay lo
“Thị nghĩ rằng con mình đã lớn rồi phải uốn nắn ngay đi, nhà mình vườn ít, ruộng
không, cửa vải cũng không, nghĩa là công việc chẳng có gì, nó ở nhà cũng chỉ
chơi… chi bằng cho nó đi ăn đi ở với người ta để người ta cất nhắc việc nọ việc kia
cho nó quen tay” [3, 283]. Nhưng rồi mẹ Dần đã tính nhầm, bởi vì ăn được miếng
cơm của nhà giàu đâu phải đơn giản, cơm nhà giàu thường khó nuốt “Ăn của họ mà
không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa mật ra mà giả họ” [3, 284].
Dần sống khổ cực, luôn mơ ước tình thương yêu, đùm bọc của cha mẹ, của anh chị
em. Dần đi ở cho người ta được hai năm thì phải về, khi người mẹ xấu số của Dần
đã qua đời vì đau ốm. Còn nhỏ nhưng Dần đã giúp bố quán xuyến mọi công việc
gia đình. “Nhưng ông trời hình như không muốn cho bố con Dần ngóc đầu lên.
Cuộc sống mỗi ngày một khó thêm: gạo kém, thóc cao, ngô khoai cũng khó chuốc
được mà ăn” [3, 286], cái chết như đang đứng sau lưng mọi người.
Cũng chung số phận với Dần là cái Tí (Một bữa no). Nhưng nếu Dần còn có
cha để nương tựa thì cái Tí có số phận thật đáng thương tâm. Nó mồ côi cha, mẹ bỏ
đi lấy chồng để nó lại cho bà nó đã ngót bảy mươi tuổi. Bà già, cháu nhỏ côi cút
nương tựa vào nhau. Nhưng “khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi cho
người ta lấy mười đồng” [3, 226].
Dường như trong các sáng tác của Nam Cao ta bắt gặp rất nhiều những đứa trẻ
thơ vô tội có hoàn cảnh giống nhau. Đó còn là số phận khổ đau của chị em Ninh (Từ
ngày mẹ chết), chúng thiếu tình yêu thương của mẹ từ khi còn thơ dại. Mẹ chết đã
ba năm rồi mà “Ninh vẫn còn buồn. Buồn rũ rĩ. Ninh ngẩn ngơ như mất vía. Có lúc
Ninh làm gì cũng không biết nữa” [3, 160]. Mẹ chết, thầy Ninh chịu cảnh gà trống
nuôi con. Nhưng số phận thật nghiệt ngã khi thầy Ninh lại vương vào nạn cờ bạc,
chị em Ninh trở thành những đứa trẻ bơ vơ, không nơi nương tựa, không nhà cửa,
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
14
thầy đã bán nhà vì thua xóc đĩa, thua ngót ba trăm bạc. Chúng chỉ còn biết khóc.
Những giọt nước mắt, những cái nhìn ngơ ngác của hai đứa con nhỏ như xoáy sâu
vào lương tâm của người cha tội lỗi “Thầy nhếch mép cười, cái cười vạch hai nếp
nhăn trên đôi má hõm, thầy cười thế trông già sọm. Có lí nào thầy chúng già đi quá
thế [3, 167].
Có những trang viết Nam Cao trực tiếp viết về những đứa trẻ thơ nhưng có lúc
hình ảnh chúng chỉ hiện lên thấp thoáng mà gợi bao xót xa, đau đớn như những đứa
trẻ đáng thương của gia đình anh Phúc (Điếu văn). Khi anh nhắm mất lìa đời nào
chúng đã biết gì “chúng ngây ngây, giương đôi mắt ngẩn ngơ, thỉnh thoảng nước
mắt chúng mới ứa ra thì chúng lại vội quẹt ngang tay áo”. Rồi đây chúng biết bấu
víu vào đâu? “Chúng biết đời anh là đời chúng. Anh chết đi chúng chỉ còn một cách
là đi ăn mày” [3, 217].
Hình ảnh những đứa trẻ thơ đi vào tác phẩm của Nam Cao đã gợi lên trong ta
một niềm xót thương không bờ bến, điều đó chứng tỏ tấm lòng nhân đạo sâu sắc
của nhà văn.
1.2.2.2. Hình ảnh những người phụ nữ bất hạnh
Trong xã hội ấy, bị bóc lột nhiều nhất có lẽ là người phụ nữ. Đó là cuộc đời
đầy khổ đau và cái chết bi thảm của bà cái Tí (Một bữa no). Lấy chồng, sinh được
một đứa con thì chồng chết, bà ở vậy thắt lưng buộc bụng nuôi con “nuôi nó từ tấm
tấm, tí tí giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ
nhờ một li nó lăn cổ ra nó chết, công bà thành công toi (…) thành thử bà đã ngót
bảy mươi, lại phải làm còm cọm, làm mà nuôi đứa con gái ấy cho chúng nó” [3,
226]. Ở cái tuổi của bà đáng lẽ ra phải được nghỉ ngơi, sống an nhàn bên con cháu
để vui thú tuổi già. Thế nhưng bà vẫn phải “chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến
chợ xa” [3, 226] để kiếm mấy đồng xu mỗi ngày. Nhưng do tuổi già, sức yếu, bệnh
tật đeo đẳng nên bà bị đói đã lâu. Bà đã nghĩ ra một cách đó là đi ăn chực, bà ăn
được một bữa no, ăn no quá đến mức bội thực, một bữa no đã kết thúc cuộc đời cơ
cực, khổ đau của bà.
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
15
Dì Hảo là một thiên truyện ngắn như cô đọng tất cả mọi nỗi ngậm ngùi, u uất
của một kiếp người đàn bà. Cuộc đời dì Hảo đã mất hết tươi vui từ cái ngày mà dì
phải rời mẹ đẻ đi làm con nuôi trong một gia đình khác để trừ vào món nợ của bố
mẹ. Dì là một người đàn bà hiền lành, cam chịu, suốt đời chỉ biết hi sinh cho chồng
con. Với một con người như thế, đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc đời hạnh
phúc trong tình yêu thương. Nhưng không, dường như số phận trớ trêu luôn đùa cợt
con người tội nghiệp ấy. Cả cuộc đời dì không có được một nguồn an ủi nào. Chồng
đã thế, con lại chết, dì thì bị tê liệt. Dì không làm ra tiền cho chồng uống rượu, hắn
chửi “hắn bỏ dì mà đi, bỏ dì bơ vơ, đau ốm, để đi tìm rượu” [3,336]. Rồi chồng dì
có vợ bé “Dì chẳng hé răng nói nửa lời, nhưng dì khóc ngấm ngầm khi chúng cười
vui, dì nhịn quắt ruột khi chúng ăn phung phí. Dì héo hắt đi, dì còm cõi đúng như
con mèo đói” [3, 337].
Hình ảnh người phụ nữ cần cù, chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh, thương
yêu chồng con trở đi trở lại rất nhiều lần trong sáng tác của Nam Cao. Đức hi sinh
và tấm lòng nhân hậu đó còn thể hiện qua nhân vật bà Quản Thích (Nửa đêm). Bà
nhận một đứa trẻ bị bỏ rơi về nuôi như làm một việc tốt. Bà nâng niu, chăm sóc cho
nó như chính con ruột của bà. Vì góa chồng lại không có con cái nên bao nhiêu tình
yêu thương bà đều dành cho nó cả những mong sau này già yếu nó sẽ phụng dưỡng
bà tử tế nhưng cái đứa con nuôi ấy chỉ là một cái họa cho bà, nó là một kẻ cướp, nó
hung bạo, tàn ác, nó chỉ biết hành hạ tuổi già của bà. Khi hắn chết đi bà lại nhẫn
nhục nai lưng làm nuôi con cho hắn. Hình ảnh bà được nhà văn khắc họa thật tiều
tụy, đáng thương. Đến lúc tuổi già bóng xế, bà trơ trọi một mình với “đau yếu”,
“đói khát”, “cái kiếp sống vất vưởng ấy cứ bập bùng trực tắt mà không tắt”[3, 319
]. Tác giả so sánh với giọng triết lí thật chua chát: “Bà cứ sống dai dẳng như nỗi
lầm than ở trên đời” [3, 319]. Cả cuộc đời bà Quản Thích sinh ra chỉ để hi sinh vì
người khác. Đọc truyện Nửa đêm thấy khá rõ nỗi niềm trăn trở, sự day dứt khôn
nguôi và thái độ cảm thông, xót thương của Nam Cao trước số phận bất hạnh của
người đàn bà rất hiền hậu, tội nghiệp này.
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
16
Ngoài hình tượng những người vợ, người mẹ, người bà có cuộc đời đau khổ
nhưng bao dung, độ lượng, Nam Cao còn rất thành công khi đề cập đến những
người phụ nữ xấu xí, bất hạnh nhưng vẫn khát khao tình yêu hạnh phúc.
Thị Nở (Chí Phèo) là một người phụ nữ xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn. Đã xấu
thị lại còn nghèo, lại dở hơi, lại là dòng giống của một nhà có mả hủi. Bởi thế cho
nên “người ta tránh thị như tránh một con vật ghê tởm” [3, 50]. Tất cả những thứ ấy
biến thị thành một thứ “phế thải” vô giá trị. Tuy nhiên, với tấm lòng nhân đạo, trân
trọng, thương yêu con người, Nam Cao nhìn thấy trong con người ấy cũng có tình
yêu. Một người xấu đến tột bậc như thế nhưng khi yêu cũng trở nên có duyên. Thị
cảm thấy hạnh phúc với cuộc tình mới. Sau khi gặp Chí Phèo thiên chức của một
người phụ nữ trỗi dậy trong thị, thị đã thoát khỏi lớp bọc xấu xí để trở thành một
người đàn bà. Thế nhưng, hạnh phúc đó chỉ diễn ra vẻn vẹn có năm ngày. Đến ngày
thứ sáu thì thị chợt nhớ ra rằng mình còn có một bà cô ở trên đời. Thế là hết, hạnh
phúc mong manh cũng chấm dứt từ đây.
Mụ Lợi trong truyện ngắn Lang Rận cũng thuộc mô típ người xấu xí “Không
còn một người đàn bà nào có thể xấu hơn. Mụ béo trục béo tròn, mặt rỗ như tổ ong
bầu, mắt trắng, môi thâm, má đen như thằng quỷ”. Đau xót hơn “người ta lấy tên
mụ ra mà dọa trẻ” [3, 274]. Mụ nghèo hèn, đi ở quanh năm nên dù đã bước sang cái
tuổi ba mươi mà vẫn chưa có chồng. Nhưng cũng có lần người ta hỏi mụ làm lẽ,
tưởng “nửa quả hồng còn hơn chùm sung chát! Ai ngờ mụ phải lừa” [3, 277].
Người ta lừa mụ vì tưởng mụ dành dụm được nhiều tiền, cưới mụ về để bòn của và
làm con ở không công cho người ta. Cuộc đời của mụ không lấy một chút ánh sáng,
bóng đen đau khổ luôn vây quanh lấy mụ. Thế nhưng, một tia hi vọng chợt lóe lên
khi mụ nhận được tình yêu thương của ông Lang Rận. Niềm vui không lâu, liền sau
đó mụ đã thất vọng và phải trả giá bằng cái chết khi trong xã hội có những con
người độc ác đã phá tan cái hạnh phúc mong manh của mụ.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ là thân phận nô lệ, họ luôn bị chà đạp
thô bạo, bất công có khi họ là nạn nhân khốn khổ của những kẻ mà họ phải thờ
phụng. Những thằng chồng vũ phu, tham ăn tục uống, hành hạ vợ con một cách dã
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
17
man (Ở hiền, Dì Hảo, Đòn chồng, Trẻ con không được ăn thịt chó). Đi vào cuộc đời
của những con người bị ức hiếp nhiều nhất, càng hiền lành càng lụi xuống bùn đen,
Nam Cao đã làm nổi bật lên tình trạng bất công ghê gớm trong xã hội: “Tại sao trên
đời này nhiều sự bất công đến thế?” [3, 238]. Câu hỏi không có lời giải đáp, qua đó
thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm thông của nhà văn đối với những số phận khổ đau.
1.2.2.3. Số phận khổ đau của những bần cố nông
Nam Cao không chỉ viết về những đứa trẻ, những người phụ nữ bất hạnh, ông
còn quan tâm đến số phận khổ đau của những bần cố nông như: Lão Hạc (Lão Hạc),
anh Phúc (Điếu văn), anh đĩ Chuột (Nghèo)…
Ở thời đại của Nam Cao xã hội Việt Nam đang ở vào thời kỳ vô cùng đen tối.
Người nông dân đang phải rên xiết, quằn quại dưới bao tầng áp bức, bóc lột của
phong kiến thống trị và ngoại bang. Bằng cảm quan hiện thực sắc bén Nam Cao
nhận thấy nông dân là một trong những lực lượng chủ yếu của cuộc cách mạng Dân
chủ mới nhưng họ cũng là những người phải chịu nhiều nỗi bất hạnh, nghèo khổ
nhất trong xã hội.
Chính vì vậy, số phận người nông dân rất được Nam Cao chú ý quan tâm và
ông đã dành cho họ những trang viết trân trọng, mến yêu đầy xúc động. Vốn xuất
thân trong gia đình trung nông, tuổi thơ Nam Cao đã gắn bó, gần gũi với cuộc sống
lam lũ, vất vả của những người nông dân nghèo cho nên ông rất am hiểu về họ. Ông
đã nhận thấy rằng bản chất của họ vô cùng tốt đẹp. Họ là những người lương thiện,
chịu thương, chịu khó, cần cù, có ý thức về quyền sống và nhân phẩm, có khát vọng
tình yêu và hạnh phúc. Họ đáng được sống cuộc đời ấm no và hạnh phúc, đáng
được hưởng một số phận tốt đẹp. Nhưng thực tại họ đang sống một cuộc đời nghèo
khổ cơ cực, đang phải chịu đựng nỗi bất công vô lí. Số phận của họ vô cùng bi
thảm. Cuộc đời của họ là những tấn bi kịch lớn.
Đọc truyện ngắn Lão Hạc ta thấy lão là một người nông dân lam lũ nhưng giàu
lòng tự trọng. Dù bị cái đói ấn vào tận chân tường nhưng vẫn không chịu ngã quỵ,
vẫn đứng thẳng sừng sững với lấp lánh một niềm đau nhân cách. Lão đã khóc vì
“trót lừa một con chó”, một người nhịn ăn để tiền lại làm ma bởi “không muốn liên
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
18
lụy đến hàng xóm láng giềng”, cho dù phải ăn củ khoai, củ chuối, ăn sung luộc, rau
má còn hơn phải tiêu lạm vào số tiền dành dụm cho con. Ấy thế mà lão phải chịu
một cái chết vô cùng đau đớn. Lão “vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo
xộc xệch, hai mắt long lên sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra khắp người chốc
chốc lại bị giật mạnh một cái… nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè
lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết” [3, 256]. Trước thảm cảnh
ấy, nhân vật ông giáo đau đớn cảm nhận: “Cái chết thật là dữ dội”. Cái chết của lão
Hạc hàm chứa rất nhiều ý nghĩa. Qua việc tái hiện số phận bi thương của lão, Nam
Cao đã đặt ra vấn đề nhìn nhận con người bằng quan điểm tiến bộ, vượt qua những
hàng rào định kiến trong xã hội. Cái chết hủy diệt số phận của lão Hạc, song cái
chết cho thấy ở Lão một nhân cách cao thượng. Tình thương và trách nhiệm của
một người cha đối với con ở Lão vô cùng lớn lao. Nhân vật lão Hạc trở thành một
hình tượng đẹp về người cha trong văn học. Càng đọc ta càng thấy sức rung cảm
mạnh mẽ của thiên truyện ngắn này. Có được những điều đó, chính vì Nam Cao đã
gần gũi với với thế giới nhân vật của mình, chính vì Nam Cao có sự cảm thông và
thương yêu sâu sắc đối với người cùng khổ.
Trong Điếu văn, tác giả đã xót xa, đau đớn trước số phận một người nông dân
nghèo xấu số: anh Phúc. Cuộc đời của anh được so sánh không đáng bằng một con
trâu: “Con trâu là một món tiền to. Nó làm lợi rất nhiều”, “còn anh, anh chỉ là một
thằng hèn (…). Cả cái thân hình ọp ẹp của anh không đáng một đồng xu” [3, 219].
Người ta rẻ rúng anh, khinh anh. Rồi anh Phúc cũng có vợ. Dường như “lấy vợ là
điều bất hạnh nhất của cuộc đời anh” anh luôn “gắng gượng lấy sự nuông chiều, sự
hạ mình, bù lại sự kém cỏi về dung mạo của mình, để mong giữ được lòng yêu của
cô vợ đẹp” [3, 222]. Nhưng rồi kết cục cuộc đời anh thật bi thảm, thèm ăn một bát
chè đỗ đen để chết cũng không có được.
Trong những trang viết của Nam Cao con người lúc nào cũng phải vật lộn với
cái nghèo, cái khổ. Anh đĩ Chuột trong truyện ngắn Nghèo cũng không nằm ngoài
cái vòng đời luẩn quẩn đó. Tuy nhiên, cho dù cuộc sống có khó khăn đến đâu đi
chăng nữa anh vẫn giữ được phẩm chất trong sạch của mình. Trước những khốn
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
19
khó của cuộc đời, anh đã không muốn kéo dài thêm cuộc sống. Không muốn làm
khổ vợ, khổ con. Vì vậy, anh đã kết thúc số phận của mình bằng cái chết bi thảm:
“Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ văng
xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc trong da giãy giụa như một
con gà bị bẫy, sau cùng, nó còn giật từng cái chậm dưới sợi dây thừng lủng lẳng”
[3, 21]. Anh chết như để chạy trốn kiếp nghèo, chết trong khi “Ở ngoài ngõ, mẹ con
chị Chuột, vừa kêu khóc vừa van lạy. Bà Huyện nhất định bắt mẻ gạo mới đong để
trừ sáu hào nợ chị Chuột vay từ hai tháng trước cho chồng uống thuốc” [3, 22]. Cái
chết của anh như vẫn còn dội mãi vào lòng người đọc, ám ảnh mãi không thôi.
Bóng tối ảm đạm ấy còn đè nặng lên số phận của đàn con thơ dại, là lời dự báo
trước cho cái chết của những người thân của anh.
Qua những cái chết đau thương ở trên, Nam Cao ý thức rằng cái chết là một
thế lực vô cùng tàn bạo đã cướp đi mọi giá trị của sự sống. Trước sự hủy diệt của
cái chết, nhà văn đã phải thốt lên: “Chao ôi cái chết! Chao ôi! Cái chết còn hung
bạo hơn những thằng hung bạo” [3, 330]. Biết bao điều cần được giữ gìn, trân
trọng, nâng niu đều trở thành nạn nhân của cái chết. Tưởng chừng như không còn gì
có thể đáng sợ hơn, ấy thế mà còn có một thứ còn ghê sợ hơn cả cái chết, đó là khi
con người không còn là chính mình, khi họ bị cướp đi cả khuôn mặt và linh hồn, bị
đẩy vào tình trạng bần cùng hóa và lưu manh hóa. Đại biểu cho lớp người này là
Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ (Chí Phèo), Trương Rự (Nửa Đêm), Binh Tư (Lão
Hạc) và Trạch Văn Đoành (Đôi móng giò). Các nhân vật này có nhiều nét khác
nhưng nói chung họ cùng một loại người, một sản phẩm của chế độ thực dân phong
kiến. Họ vốn là những người dân lao động cần cù, bản chất hiền lành nhưng bị bọn
cường hào, quan lại bóc lột, đàn áp, dồn họ vào bước đường cùng nên họ buộc phải
có những hành động phản kháng lại xã hội bất công ấy.
Cuộc đời của các nhân vật này cũng là những tấn bi kịch lớn. Họ luôn muốn
quay trở lại làm người lương thiện, mơ ước một cuộc sống giản dị: có một gia đình
nho nhỏ, vợ chồng con cái vui vầy bằng chính sức lao động của đôi tay. Thế nhưng
giai cấp thống trị đã khước từ một cách tàn nhẫn mọi yêu cầu và mơ ước của đời họ.
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
20
Họ cứ tiếp tục bị xã hội cũ xô đẩy ngày càng sâu vào con đường tội lỗi. Vì vậy, họ
bị mọi người xa lánh, bị trục xuất ra khỏi xã hội loài người.
Với cái nhìn nhân đạo, với nhận thức khá sâu sắc về những kiểu người cùng
khổ đó, Nam Cao như đã dựng lên một bản cáo trạng hùng hồn, lên án cái xã hội bất
công thối nát.
1.2.2.4. Vòng đời luẩn quẩn của người trí thức
Bên cạnh đó, Nam Cao cũng đi sâu vào tìm hiểu cuộc sống của những người
trí thức nghèo. Đồng thời thể hiện những nét tâm lý đầy phức tạp, đầy mâu thuẫn ở
những con người này. Rất nhiều nhân vật trí thức tiểu tư sản trong sáng tác Nam
Cao ở các mức độ khác nhau mang dáng dấp của chính ông. Thành thực, dũng cảm
tự mổ xẻ mình, tầng lớp mình trên những trang viết đau đớn, day dứt, vừa thiết tha
tâm huyết, điều ấy đã làm nên thành công lớn ở đề tài này của Nam Cao.
Nhiều truyện ngắn của Nam Cao đã phản ánh chân thực cuộc sống nghèo
túng, tủi cực và bi hài của con người trí thức trong xã hội thời ấy. Họ sống trong
hoàn cảnh xã hội hết sức tù túng, chìm đắm trong hiện tại, không tìm thấy chút ánh
sáng của tương lai. Tác giả đã dành nhiều trang để phản ánh đậm nét cuộc sống đa
dạng của họ. Tính cách của họ không chỉ có ý nghĩa tiêu biểu cho tầng lớp tiểu tư
sản trí thức nghèo mà còn nói lên hoàn cảnh bế tắc chung của giai cấp tiểu tư sản
cũng như phản ánh được một phần vận mệnh tăm tối của cả dân tộc.
Hầu hết các nhân vật trí thức của Nam Cao đều có một con đường xuất thân
giống nhau. Họ là những thanh niên con nhà tạm coi là “hơi có máu mặt ở nhà quê
đã có cái hứng khởi muốn cho con mình vượt khỏi chế độ bức bối, trói buộc của
cha ông” [3, 645]. Hiện diện trong tác phẩm thì họ thực sự là những trí thức nhưng
nói về nguồn gốc thì họ không hề xuất thân từ những gia đình “thượng lưu trí
thức”. Trái lại ông bà, cha mẹ họ phần đông chỉ là những người nông dân lam lũ
quê mùa. Chỉ vì những người thân này không muốn cho con cháu sống cái cuộc
sống cơ cực trước kia của mình, nên gắng sức cho họ kiếm một chút ít tri thức sách
vở để họ có thể nhập cuộc mở mặt với đời, để vượt khỏi cuộc đời bức bối, trói
buộc mà tìm đến một con đường tươi sáng, lạc quan hơn.
Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
HVCH: Nguyễn Thị Hồng
21
Thế nhưng đáng buồn là thực tế lại không như họ mong đợi. Hoàn cảnh chung
của xã hội là đen tối, kéo theo hoàn cảnh riêng của nhân vật cũng không sáng sủa gì
hơn. Thật đáng thương cho những con người này là họ vừa phải chống chọi đến mệt
mỏi với cuộc sống lại vừa phải đau đớn vì hoài bão không thể thực hiện, cái hoài bão
không chỉ đến với họ một lần trong tuổi trẻ nhiều ước mơ mà đã từng theo đuổi, day
dứt họ trong suốt cuộc đời. Vì vậy, nhân vật cảm thấy “còn gì đau đớn hơn một kẻ
vẫn khát khao làm một cái gì đó nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục
chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt” [3, 341]. Hộ ý thức được
rằng phải gác lại những giấc mộng sôi nổi trong lòng để lo cho sự sống còn của gia
đình. Nghĩ là như thế nhưng khi Hộ gặp Trung và Mão, biết cuốn Đường về của một
tác giả trước đây Hộ đã coi thường được dịch ra tiếng Anh thì cái ảo vọng ngày xưa
về một “tác phẩm làm mờ những tác phẩm khác cùng thời” [3, 340] có dịp bùng lên
trong lòng: người hắn bồi hồi và ngay lập tức hắn quên tất cả mọi thứ diễn ra xung
quanh mình, quên vợ, quên con hắn lại uống rượu để huênh hoang bày tỏ cùng bạn
bè cái ý định được nuôi dưỡng từ lâu trong lòng mình.
Đôi khi đứng trong hoàn cảnh không lấy gì làm sung sướng, người trí thức vẫn
suy tưởng rồi mơ ước về quá khứ, về những ước nguyện xa xưa của mình. Thứ
(Sống mòn) chẳng đã cứ nghĩ về mơ ước mong sang Pháp để mở mang trí óc và tài
năng. Ta thấy sức mạnh ghê gớm của những ước mơ kia, nó theo đuổi họ gần như
trong suốt hành trình cuộc đời, bất chấp cuộc sống khó khăn. Nhưng họ lại bị hụt
hẫng vì luôn luôn nhức nhối về “những nguyện vọng bị đè nặng dưới những trở lực
không bao giờ vượt nổi”, họ đau đớn về những “số kiếp của những người có chân
ống sậy mà mang những nguyện vọng quá to tát” [3, 645].
Trong những lúc không còn con đường nào để đi nữa. Những con người ra đi
từ miền quê tù túng năm nào giờ đây lại phải quay về kiếp sống bó buộc của cha
ông, họ sẽ chết dần chết mòn ở đó. Ngay cả Đích trong Sống mòn khi sắp chết mà
vẫn nói với bạn mình một lời nhắn nhủ chua chát về cuộc sống “Hãy can đảm nhé!
Tương lai còn dành cho các chú nhiều nỗi chua chát nữa” [3, 711]. Điều Đích nói
ra cũng đúng với Thứ, tương lai đã đóng cửa trước mắt y, y cảm thấy đời mình gần