Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 120 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ THU HUYỀN


KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC HUYỀN ẢO
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VĂN HỌC


CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM









HÀ NỘI - 2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ THU HUYỀN


KHUYNH HƯỚNG HIỆN THỰC HUYỀN ẢO
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VĂN HỌC

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60 22 01 21




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ PHẠM XUÂN THẠCH







HÀ NỘI - 2012

3




MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 2
PHẦN NỘI DUNG 11
Chương 1 CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN VĂN 11
1.1. Những thay đổi của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 11
1.1.1. Thay đổi tư duy nghệ thuật 11
1.1.2. Thay đổi đề tài 18
1.1.3. Thay đổi kỹ thuật viết 22
1.2. Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong văn học thế giới và Việt Nam 29
1.2.1. Trên thế giới 29
1.2.2. Ở Việt Nam 31
1.3. Hành trình sáng tác tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương 33
Chương 2 BÚT PHÁP HIỆN THỰC HUYỀN ẢO TRONG TỔ CHỨC
TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG 38
2.1. Tổ chức không – thời gian tác phẩm 38
2.1.1. Tổ chức không gian 39
2.1.2. Tổ chức thời gian 48
2.2. Xây dựng kết cấu tiểu thuyết 56
2.2.1. Tính chất đa tuyến 57
2.2.2. Tính chất phân rã 61
Chương 3 BÚT PHÁP HIỆN THỰC HUYỀN ẢO TRONG XÂY DỰNG
NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG 72

3.1. Hệ thống nhân vật 73
3.1.1. Nhân vật huyễn hoặc 73
3.1.2. Nhân vật dị thường 79

4
3.1.3. Nhân vật đi vắng 88
3.2. Những vấn đề của hiện thực 94
3.2.1. Vấn đề tha hóa 95
3.2.2. Vấn đề bạo lực 99
3.2.3. Vấn đề đánh mất lòng tin 101
PHẦN KẾT LUẬN 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO 111

2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là một cấu trúc tự sự lớn, tiểu thuyết có những khả năng riêng trong
việc tái hiện với một quy mô lớn những bức tranh hiện thực đời sống. (…) có
năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động theo hướng tiếp
cận cả bề rộng lẫn chiều sâu của nó. [41, 229] Qua tiểu thuyết, người ta tìm
thấy một đời sống xã hội được khúc xạ sinh động, toàn vẹn từ nhiều chiều
kích. Chính vì vậy, tiểu thuyết luôn được coi là thể loại chủ lực của mỗi nền
văn học với ưu thế vượt trội hơn hẳn các thể loại khác.
Trong tiến trình phát triển, tiểu thuyết nói riêng và văn học nói chung đã
thoát khỏi nguyên tắc tư duy hiện thực trong trạng thái tĩnh để nhận thức
toàn bộ đời sống trong trạng thái động như một dòng chảy lưu chuyển, biến
hóa chẳng bao giờ ngưng nghỉ. [80, 113] Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi
mới đứng trước những yêu cầu, thách thức và cơ hội mới của thời đại, đã thật
sự có một cuộc chuyển mình mạnh mẽ để tạo nên sự phong phú vô tận về nội
dung khám phá và đa dạng vô cùng về hình thức biểu hiện trong các sáng tác

của mình. Sự đổi mới tư duy tiểu thuyết đã tạo thành một cuộc cách mạng để
tiểu thuyết thực sự trở thành một thể loại năng động, dân chủ và mang tính
đối thoại cao. Tinh thần cởi mở của thời đại cùng với tính rộng mở của thể
loại đã tạo điều kiện cho các nhà văn thỏa sức sáng tạo, cách tân và thể
nghiệm nhằm làm phong phú, hấp dẫn văn học nước nhà và tạo nên một “thời
của tiểu thuyết” (Nguyễn Huy Thiệp). Từ các cây bút đã khẳng định được tên
tuổi như Lê Lựu, Chu Lai, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Ma Văn
Kháng, Nguyễn Xuân Khánh, cho đến Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài…, ngày
càng xuất hiện trên văn đàn nhiều cây bút tiểu thuyết với những thể nghiệm
dũng cảm, những cách tân táo bạo, những tìm tòi đáng trân trọng, đó là Võ
Thị Hảo, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Thuận… Một trong số
những gương mặt ấy phải kể đến Nguyễn Bình Phương – người mà nói như
nhà phê bình Phạm Xuân Thạch: nếu cần lựa chọn một hiện tượng văn học
tiêu biểu của tiểu thuyết Việt Nam đương đại thì “ưu tiên số một” là các sáng
tác của Nguyễn Bình Phương.

3
Mặc dù cho đến nay Nguyễn Bình Phương không còn là cái tên xa lạ đối
với giới phê bình nhưng vẫn là một nhà văn chưa được biết đến rộng rãi đối với
độc giả bởi lẽ sáng tác của Phương có phần “khó đọc” và “kén” độc giả. Điều
đáng trân trọng ở nhà văn này là một quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc
với những trăn trở, nỗ lực tìm tòi không ngừng trên cả hai cuộc hành trình: đổi
mới nghệ thuật tiểu thuyết và “tìm kiếm ý nghĩa của đời sống.”[113]. Đã có
nhiều bài viết, ý kiến bình luận đánh giá trái chiều xung quanh các sáng tác của
Nguyễn Bình Phương. Tiểu thuyết của anh có sự thể nghiệm kỹ thuật viết hiện
đại và chịu ảnh hưởng nhất định từ một số khuynh hướng sáng tác của tiểu
thuyết phương Tây, nên khi bàn về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, các nhà
nghiên cứu nói nhiều đến những dấu hiệu của tiểu thuyết hiện sinh, tiểu thuyết
mới, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hậu hiện đại… Nhưng riêng khuynh hướng
hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thì có rất ít bài viết

đề cập đến và hầu như chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào.
Trong khi đây được coi là khuynh hướng chủ đạo trong sáng tác của Nguyễn
Bình Phương, không riêng gì tiểu thuyết - một khuynh hướng ghi nhận những
thành tựu đáng kể, những đóng góp không nhỏ của nhà văn vào tiến trình đổi
mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Chọn đề tài luận văn: Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương, chúng tôi hy vọng có điều kiện đi sâu nghiên
cứu về một trong những nét nổi bật nhất của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
mà chưa có ai nói đến một cách triệt để. Thông qua đó, chúng tôi cũng hy
vọng có thể tìm hiểu khái quát về diện mạo tiểu thuyết đương đại và tìm hiểu
sâu sắc về một trong những khuynh hướng quan trọng của văn học Việt Nam
sau đổi mới: khuynh hướng hiện thực huyền ảo.
2. Lịch sử vấn đề.
1. Với gần 20 năm cầm bút, Nguyễn Bình Phương đã có trong tay 7 tiểu
thuyết, một số tập thơ và truyện ngắn thu hút được sự quan tâm của giới phê bình.
Thế nhưng cho đến nay, các công trình bài viết về Nguyễn Bình Phương chủ yếu
tập trung vào những khía cạnh nghệ thuật trong tiểu thuyết của anh.
Có một số lượng khá nhiều các bài viết về Nguyễn Bình Phương trên
các trang web. Trong đó, Đoàn Cầm Thi là một nhà nghiên cứu sớm có các

4
bài viết về Nguyễn Bình Phương. Từ góc độ tâm lý học hiện đại, tác giả đã
tiếp cận những sáng tác của Nguyễn Bình Phương dưới cái nhìn phân tâm học
và chỉ ra các yếu tố của vô thức và hữu thức, điên và mộng đan quyện trong
các tác phẩm. Ngoài ra trong các bài Sáng tạo văn học: giữa mơ và điên,
Người đàn bà nằm: từ Thiếu nữ ngủ ngày đọc Người đi vắng của Nguyễn
Bình Phương (trên ) Đoàn Cầm Thi còn so sánh, liên
hệ với thơ của Hàn Mặc Tử và Hồ Xuân Hương trong việc sáng tạo hình
tượng, từ đó chỉ ra những đặc sắc trong phương thức khám phá hiện thực và
con người của Nguyễn Bình Phương.

Nguyễn Chí Hoan là người rất quan tâm đến kỹ thuật viết trong tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương. Ở các bài Cấp độ hiện thực và sự hão huyền
của ý thức trong Thoạt kỳ thủy (), Những hành trình
qua trống rỗng (), tác giả bài viết đặc biệt quan tâm đến
kỹ thuật kết cấu trong Thoạt kỳ thuỷ hay cấu trúc tượng trưng mang đậm yếu
tố tín ngưỡng dân gian trong Ngồi của Nguyễn Bình Phương. Tác giả Trương
Thị Ngọc Hân đã đưa ra một cái nhìn khái quát đánh giá Một số điểm nổi bật
trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương (). Tác giả chỉ ra
rằng: với tư cách là một trong những nhà văn nỗ lực “làm mới văn chương”
Việt Nam, Nguyễn Bình Phương đã tạo được “một lối viết rất riêng biệt, mới
mẻ” trong đó nổi bật ở các điểm: tiếp cận hiện thực từ những “mảnh vỡ”,
những “tiểu tự sự”, xóa sạch những “đại tự sự”; tạo ra một cấu trúc xoắn kép
nhiều mạch truyện chạy song song, hình thành kiểu đa giọng điệu độc đáo; sử
dụng yếu tố kỳ ảo mang đậm màu sắc tâm linh… Bên cạnh đó còn nhiều bài
viết, mỗi bài đóng góp một cái nhìn riêng biệt về sáng tác của Nguyễn Bình
Phương: Hoàng Ngọc An: Xác định người kể chuyện trong Trí nhớ suy tàn
của Nguyễn Bình Phương (), Nguyễn Mạnh Hùng với
Người đi vắng, ai đọc Nguyễn Bình Phương hay nỗi cô đơn của tiểu thuyết
cuối thế kỷ (), Tiểu Linh: Ám ảnh trăng và máu trong
Thoạt kỳ thủy (), Hoàng Nguyên Vũ: Một lối đi
riêng của Nguyễn Bình Phương ()
Song, tiêu biểu nhất phải kể đến tập hợp các bài nghiên cứu có tính chất
chuyên sâu của Thụy khuê đối với từng tác phẩm của Nguyễn Bình Phương

5
được đăng tải trên website: và trang web cá nhân:
Mỗi bài viết đều ghi nhận một cái nhìn có tính chất
khám phá độc đáo với những kiến giải sắc sảo, tinh tế; đem lại hướng gợi mở
quý giá cho những người tìm hiểu, nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương. Đó là
các bài: Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Những đứa trẻ

chết già; Tính chất hiện thực linh ảo âm dương trong tiểu thuyết Người đi
vắng; Những yếu tố tiểu thuyết mới trong tác phẩm Trí nhớ suy tàn; Thoạt kỳ
thủy trong vùng đất Cậm Cam hoang vu của Nguyễn Bình Phương; Thế tĩnh
tọa trong tác phẩm Ngồi của Nguyễn Bình Phương… Những bài viết của Thụy
Khuê về các sáng tác của Nguyễn Bình Phương đều bật lên được những điểm
khác lạ, những nỗ lực tìm tòi đổi mới về kỹ thuật viết trong từng tác phẩm của
tác giả này và chỉ ra một cách cô đọng nhưng sâu sắc: cốt lõi của những thể
nghiệm, sáng tạo nghệ thuật ấy không ngoài mục đích khám phá sâu hơn cái
vấn đề của hiện thực đời sống và bản chất con người.
Trên các báo và tạp chí chuyên ngành có một số bài viết đặc sắc về
Nguyễn Bình Phương. Tiêu biểu phải kể đến Tiểu thuyết như là trạng thái tìm
kiếm ý nghĩa của đời sống của tác giả Phạm Xuân Thạch đăng trên báo Văn
nghệ số 45/2006. Trong bài viết này, nhà phê bình Phạm Xuân Thạch chủ yếu
đưa ra những nhận định về cuốn tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương
và đánh giá khá cao tác phẩm không chỉ ở kỹ thuật viết (cách mở đầu và kết
thúc, sự sáng tạo cấu trúc tiểu thuyết, sáng tạo biểu tượng, sự pha trộn hai lớp
ngôn từ vừa trần trụi, vừa tinh tế và đầy chất thơ…) mà cơ bản là ở chiều sâu
ý nghĩa biểu hiện của tác phẩm – điều đã khiến cho Ngồi trở thành một cuốn
tiểu thuyết về chính cái trạng thái tìm kiếm ý nghĩa của đời sống.
Trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4/2008 có đăng một bài viết rất
công phu của tác giả Đoàn Ánh Dương: Nguyễn Bình Phương, “Lục đầu
giang” tiểu thuyết. Có thể coi đây là một công trình nghiên cứu sâu sắc, toàn
diện và có tính hệ thống về tất cả các sáng tác của Nguyễn Bình Phương. Bài
viết thiên về nghiên cứu cách tổ chức kết cấu tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương với nhiều phát hiện thú vị. Tác giả chỉ ra đặc điểm kết cấu nổi bật của
mỗi tác phẩm như: Vào cõi, Những đứa trẻ chết già: tiểu thuyết – (trong)
tiểu thuyết, Người đi vắng: tiểu thuyết - huyền - sử, Trí nhớ suy tàn: tiểu

6
thuyết – thơ – nhật ký, Thoạt kỳ thủy: tiểu thuyết – điện ảnh và Ngồi: tiểu

thuyết – (có mầu sắc) âm nhạc. Đánh giá khái quát thành công về mặt nghệ
thuật của Nguyễn Bình Phương, tác giả đã chỉ ra hai phương diện tiêu biểu là:
phương thức huyền thoại và thi pháp kết cấu. Đoàn Ánh Dương đã đi từ việc
phân tích đặc trưng cơ bản trong từng chi lưu cụ thể để khái quát thành đặc
điểm thế giới nghệ thuật Nguyễn Bình Phương trong phần hợp lưu và khẳng
định một phong cách riêng biệt của một Nguyễn Bình Phương,“lục đầu
giang” tiểu thuyết trên hành trình tới biển.
Trong 5 năm trở lại đây, có một số lượng khá lớn các công trình khoa
học nghiên cứu chuyên sâu về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thông qua
các báo cáo khoa học, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ… của các sinh
viên, học viên các trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Sư phạm Hà Nội, Viện Văn học… Tiêu biểu trong số đó phải kể đến những
nghiên cứu có tính hệ thống và công phu của tác giả Nguyễn Phương Diệp
(khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) trong khóa
luận tốt nghiệp năm 2007 với đề tài Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương và luận văn thạc sĩ năm 2010 với đề tài Nghệ thuật tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương. Ngay tên của hai đề tài này đã cho thấy cái nhìn khái
quát, tổng hợp xuyên suốt hành trình sáng tác tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương. Tuy thiên về nghiên cứu các phương diện nghệ thuật và đã thật sự
sáng tạo trong phương pháp tiếp cận, song tác giả còn chỉ ra được các tầng ý
nghĩa ẩn sâu dưới lớp vỏ ngôn từ và hình thức nghệ thuật trong các tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương. Chọn điểm cuối cùng của một chặng hành
trình sáng tác làm điểm tựa soi chiếu một cách hệ thống tiến trình vận động
và quá trình lao động nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương, trong khóa luận
tốt nghiệp Đến Ngồi – một hành trình bền bỉ cách tân tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương, tác giả Nguyễn Ngọc Quân (khoa Văn học, trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) - với niềm say mê, tâm huyết – đã
thực sự công phu và sáng tạo khi nghiên cứu về đối tượng. Công trình này
độc đáo từ cách lựa chọn tên đề tài, cách đặt tên chương, tên tiểu mục cho
đến tổ chức cấu trúc luận văn, sử dụng văn phong giàu sức lôi cuốn… và tất

cả đã làm bật lên một chất lượng nội dung phong phú, sâu sắc.

7
Ngoài ra còn rất nhiều các công trình nghiên cứu khác, mỗi công trình
khơi mở một khía cạnh khác nhau của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương chủ
yếu là phương diện cách tân nghệ thuật: Cốt truyện và nhân vật trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương, khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thúy Hằng
khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, năm 2010,
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, Luận
văn thạc sĩ văn học của Vũ Thị Phương, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, 2008, Nguyễn Bình Phương với việc khai thác tiềm năng thể loại
để hiện đại hóa tiểu thuyết, Luận văn thạc sĩ văn học của Hồ Thị Bích Ngọc
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008…
2. Tuy nhiên có thể nhận thấy: riêng về khuynh hướng hiện thực huyền ảo
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương chưa có một công trình nào nghiên cứu
chuyên biệt và hệ thống. Hầu hết các tác giả chỉ đề cập đến vấn đề này trong
một phần mục nhỏ của một chương trong khóa luận, luận văn hoặc trong những
bài viết có tính khái quát chung và thường chỉ xem xét nó dưới góc độ của cái
kỳ ảo hay phương thức huyền thoại… chứ không đề cập đến hiện thực huyền
ảo như là một khuynh hướng sáng tác đặc trưng của tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương. Mặc dù trên thực tế luôn có sự xâm nhập của cái kỳ ảo và huyền thoại
vào trong các sáng tác hiện thực huyền ảo, song các khái niệm này không đồng
nhất với nhau. Văn học hiện thực huyền ảo là bước phát triển cao hơn hẳn so
với văn học huyền ảo, văn học kỳ ảo ở các giai đoạn trước.
Yếu tố kỳ ảo được bàn đến nhiều trong các khóa luận, luận văn. Nổi bật
trong số đó là khóa luận tốt nghiệp năm 2007 Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương của Nguyễn Thị Phương Diệp. Tác giả đã soi chiếu tất
cả sáng tác của Nguyễn Bình Phương dưới màu sắc kỳ ảo và coi yếu tố kỳ ảo
là chất liệu chính – một trong những phương diện nghệ thuật thành công tiêu
biểu trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương. Trong luận án tiến sĩ Yếu tố kỳ

ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam, tác giả Bùi Thanh Truyền cũng tiến
hành khảo sát một số tác phẩm của Nguyễn Bình Phương trên phương diện
các kỳ ảo như là những minh họa tiêu biểu cho đặc điểm sáng tác của một giai
đoạn văn học. Hầu hết các công trình nghiên cứu đã nhắc đến ở trên đều đề
cập đến yếu tố kỳ ảo trong một chương, hoặc phần mục nào đó của đề tài như:

8
Xây dựng nhân vật mang màu sắc huyền thoại – kỳ ảo (Khóa luận tốt nghiệp
của Nguyễn Thúy Hằng), Sử dụng yếu tố kỳ ảo – một thủ pháp nghệ thuật
trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương (Luận văn thạc sĩ của Vũ Thị
Phương), Thực và ảo hai chất liệu chính trong Ngồi của Nguyễn Bình
Phương (Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Ngọc Quân)…
Trong bài Nguyễn Bình Phương, “Lục đầu giang” tiểu thuyết, tác giả
Đoàn Ánh Dương khẳng định phương thức huyền thoại là thành công nổi bật
và là nhân tố khu biệt tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Đoàn Ánh Dương
cho rằng Nguyễn Bình Phương là nhà văn có ý thức rất sớm trong việc sử
dụng các yếu tố huyền ảo và vô thức [71,73] và giải mã tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương từ vấn đề huyền thoại, vừa như một phương thức sáng tạo vừa
như một cảm quan nghệ thuật, có lẽ sẽ là một hướng đi thích hợp. [71, 72].
Tác giả Đoàn Minh Tâm trong bài Những đặc trưng của bút pháp
huyền ảo trong tiểu thuyết Ngồi đã chỉ ra rằng chất huyền ảo trong Ngồi là
sự pha trộn của ba dòng bút pháp huyền ảo: đó là bút pháp huyền ảo phi lý
của Kafka, bút pháp huyền ảo siêu nhiên (có sự kết hợp giữa những yếu tố
kỳ lạ siêu nhiên với bản sắc văn hóa của dân tộc) và bút pháp huyền ảo tâm
lý. Trong đó, bút pháp huyền ảo siêu nhiên được sử dụng nhiều hơn cả với
chủ ý rõ rệt, nhưng cũng lại là điểm chưa thành công của Nguyễn Bình
Phương ở tác phẩm này.
Thụy Khuê có lẽ là tác giả sớm nhất và đi sâu nhất trong việc nghiên cứu
sáng tác của Nguyễn Bình Phương từ góc độ hiện thực huyền ảo. Trong bài
Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già,

Thụy Khuê cho rằng với tác phẩm này, Nguyễn Bình Phương “dường như
muốn đưa hiện thực huyền ảo vào văn học Việt” và xem đây là một thử
nghiệm đáng trân trọng. Tác giả bài viết chỉ ra chất hiện thực huyền ảo trong
Những đứa trẻ chết già được biểu hiện ở hành trình tiểu thuyết chia làm hai lộ
song song: hiện thực người sống và hiện thực người chết, cõi âm và cõi
dương giao hòa, xâm nhập trong nhau và gặp nhau ở bến cuối cùng cũng là
bến khởi đầu: cái chết. Còn với bài Tính chất hiện thực linh ảo âm dương
trong tiểu thuyết Người đi vắng, Thụy Khuê đã phân tích chất hiện thực
huyền ảo trong tác phẩm này được biểu hiện ở những hiện tượng siêu linh

9
không thể giải thích, được Nguyễn Bình Phương "trình bày như một quan
niệm bao quát về vũ trụ nhân sinh, kết hợp cỏ cây vật giới, hiện tượng và âm
dương". Quan điểm tạo vật hòa đồng khiến cho toàn thể vũ trụ hiện diện trong
một trạng thái vô cùng linh ảo, không thể nắm bắt. Thế giới loài người được
phơi bày trong sự tha hóa, đi vắng mọi phương diện. Con người được trình
bày như là nhân quả của những tiền kiếp và “bị kết án ngàn đời là khối cô đơn
khổng lồ, sinh ra và chết đi, vĩnh viễn, cô lập” [109] . Tuy nhiên, Thuỵ Khuê
cũng mới chỉ dừng việc khảo sát yếu tố hiện thực huyền ảo ở hai tiểu thuyết
tách rời chứ chưa có cái nhìn hệ thống về khuyng hướng này trong tất cả các
tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương.
Như vậy, qua khảo sát các tư liệu, bài viết, công trình nghiên cứu về
Nguyễn Bình Phương, chúng tôi nhận thấy vấn đề hiện thực huyền ảo chưa
được nhìn nhận một cách cụ thể và có hệ thống. Vì vậy, luận văn hy vọng sẽ
có điều kiện đi sâu nghiên cứu về khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các nghiên cứu
của người đi trước, hướng tới một cái nhìn toàn diện và khách quan về một
phương diện đóng góp nổi bật của Nguyễn Bình Phương vào hành trình cách
tân chung của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
3. Phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là bảy cuốn tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương xuất bản từ 1991 đến 2006: Bả giời, Vào cõi, Trí nhớ
suy tàn, Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Thoạt kỳ thủy và Ngồi.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng khảo sát thêm mảng thơ và một số truyện
ngắn của tác giả này như là những đối tượng tham khảo để có được một cái
nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về tư tưởng và phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Bình Phương.
Đồng thời, chúng tôi cũng có sự đối chiếu so sánh tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương với sáng tác của các nhà văn cùng thời, nhất là cùng
khuynh hướng hiện thực huyền ảo, để thấy được những nỗ lực tìm tòi thể
nghiệm kỹ thuật viết hiện đại và quá trình bền bỉ kiên trì một lối đi riêng của
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.

10
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chính để soi chiếu toàn bộ hệ
thống tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đó là phương pháp thi pháp học kết
hợp với lý thuyết tự sự học. Luận văn đi từ việc khảo sát những cách tân trong
nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương để thấy được các vấn đề của hiện
thực đời sống được làm bật lên thông qua các yếu tố hình thức của tác phẩm.
Ngoài ra, để có cái nhìn tổng quan và chính xác hơn về đối tượng, trong
quá trình tiến hành đề tài nghiên cứu, luận văn còn kết hợp sử dụng các thao
tác như so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp…
5. Cấu trúc luận văn:
Luận văn có cấu trúc ba phần: phần mở đầu, phần nội dung chính và
phần kết luận. Trong đó, luận văn tập trung vào phần nội dung chính được
triển khai với ba chương:
Chương 1 với tiêu đề Cơ sở thực tiễn và lý thuyết của luận văn, chúng
tôi khái quát những thay đổi của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 ở các mặt đề
tài, phương thức phản ánh, kỹ thuật viết và chỉ ra những thay đổi ấy đều xuất

phát từ sự đổi mới quan niệm về hiện thực – một tiền đề quan trọng cho sự
xuất hiện yếu tố huyền ảo trong văn chương. Bên cạnh đó chương 1 còn giới
thiệu về khuynh hướng hiện thực huyền ảo trên thế giới và ở Việt Nam, cùng
với việc khái quát hành trình sáng tác của Nguyễn Bình Phương.
Chương 2: Bút pháp hiện thực huyền ảo trong tổ chức tác phẩm của
Nguyễn Bình Phương, luận văn chủ yếu khảo sát những đặc điểm của
khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ở
cách tổ chức không - thời gian và xây dựng kết cấu tiểu thuyết với sự đan xen,
hòa quyện không thể tách rời của hai yếu tố hiện thực – huyền ảo.
Chương 3 lấy tiêu đề Bút pháp hiện thực huyền ảo trong xây dựng
nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, chúng tôi tập trung làm rõ sự chi
phối của bút pháp hiện thực huyền ảo vào việc xây dựng các dạng thức nhân
vật tiêu biểu trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, để từ đó làm bật lên các
vấn đề của đời sống đương đại được ngầm ẩn đằng sau những hình tượng này.

11
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN VĂN

1.1. Những thay đổi của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
Mặc dù những tín hiệu dự báo về sự thay đổi của văn học đã được ghi
nhận trong sáng tác của một số nhà văn thời kỳ tiền đổi mới (1975-1985) như
Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Trí Huân,
Nguyễn Mạnh Tuấn, Khuất Quang Thụy, Ma Văn Kháng… song cao trào đổi
mới chỉ thực sự diễn ra quyết liệt và triệt để từ sau thời điểm 1986. Công cuộc
Đổi mới toàn diện được khởi xướng từ sau Đại hội lần thứ VI (1986) của
Đảng đã mở ra một không khí dân chủ, thẳng thắn và cởi mở, tạo điều kiện
thuận lợi cho văn học có những bước chuyển mình. Vì vậy có thể nói, chính
những chuyển biến sâu sắc trong đời sống xã hội Việt Nam từ nửa sau thập kỷ

80 là tiền đề quan trọng cho quá trình đổi mới quan niệm nghệ thuật, đổi mới
tư duy sáng tác để tạo thành cuộc chuyển đổi mạnh mẽ trong đời sống văn
học Việt Nam đương đại. Cuộc chuyển đổi ấy diễn ra ở mọi thể loại và cơ bản
được xuất phát từ ý thức sâu sắc về tư cách nghệ sĩ, về cá tính sáng tạo của
mỗi nhà văn. Với tiểu thuyết – thể loại văn chương duy nhất đang biến
chuyển và chưa định hình [33, 23] – những thay đổi đó diễn ra toàn diện, sâu
sắc cả về nội dung khám phá, phương thức phản ánh lẫn kỹ thuật biểu hiện.
1.1.1. Thay đổi tư duy nghệ thuật
1.1.1.1. Đổi mới tư duy tiểu thuyết
Mặc dù trên thực tế, mọi công cuộc đổi mới đều có tiền đề từ thực tiễn,
nhất là thực tiễn vật chất, song những định hướng cơ bản làm thay đổi thực
tiễn ấy lại xuất phát từ tư duy, ý thức con người. Đối với văn chương cũng
vậy, những thay đổi trong đời sống xã hội đòi hỏi văn học phải có sự đổi mới
phù hợp với quy luật phát triển khách quan cũng như phù hợp với nguyện
vọng của nhà văn và người đọc. Song những đổi mới trong văn học trước hết
phải xuất phát từ tư duy người sáng tác. Sự đổi mới tư duy nghệ thuật sẽ đem

12
đến những thay đổi toàn diện về quan niệm nghệ thuật, quan niệm về hiện thực
và con người, cũng như làm biến đổi cách nhìn nhận các giá trị thẩm mĩ…
Văn học đã chuẩn bị cho cuộc đổi mới của mình bằng hàng loạt những
vấn đề lí luận được tranh luận sôi nổi trong các cuộc hội thảo hay trên các
diễn đàn báo chí. Nguyễn Minh Châu – một trong số những nhà văn mở
đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hôm nay (Nguyên Ngọc) – đã
khởi đầu bằng bài tiểu luận Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ
minh họa, trong đó người viết đặc biệt nhấn mạnh: văn học cần phải được trở
về với chính mình, cần phải chống nguy cơ “nhà văn đánh mất cái đầu và
những tác phẩm đánh mất tư tưởng”. Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài Đổi
mới trước hết là sự tỉnh táo cho rằng không nên dùng từ “đổi mới” mà dùng
từ “trở lại”: Có một lúc nào đó ta đã nhìn nhận không đúng, hành động không

đúng, không đúng với hiện thực, không đúng với quy luật. Nay trở lại chỗ
đúng. Đổi mới không phải là bịa ra một cái gì mới, chưa từng có, mà là trở
lại nhìn nhận hiện thực sao cho tỉnh táo hơn khách quan hơn, hiện thực hơn,
hiện thực đúng như nó có, không tô vẽ, không che giấu, không cắt xén. Nhìn
nhận một cách tỉnh táo và dũng cảm. [94]
Tập trung nhiều nhất các ý kiến bàn luận là vấn đề số phận tiểu thuyết,
đổi mới tư duy tiểu thuyết. Hai diễn đàn lớn nhất thu hút được sự tham gia
của hàng loạt cây bút đương đại đó là cuộc tọa đàm Tiểu thuyết những năm
gần đây – Đi tìm lời giải (12/11/1996) và hội thảo Đổi mới tư duy tiểu thuyết
(7/11/2002). Các ý kiến tập trung vào phân tích thực trạng tiểu thuyết cũng
như những yêu cầu đổi mới thể loại. Hơn bất kỳ thể loại nào khác tiểu thuyết
phải biểu hiện được tính dân chủ, phải mang tính đối thoại cao, phải phát huy
được cá tính sáng tạo của nhà văn, phải đổi mới cách nhìn nhận, tiếp cận con
người và hiện thực đời sống, khám phá con người trong những mối quan hệ
đa dạng phức tạp, quan tâm đến số phận cá nhân…
Có thể thấy văn học thời kỳ đổi mới đã có bước chuyển đổi quan trọng
về tư duy: tư duy sử thi từng chi phối các sáng tác văn chương thời kỳ trước
dần thay thế bằng tư duy tiểu thuyết, cùng với nó là sự chuyển đổi cảm hứng
sáng tác: từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng thế sự đời tư. Các sáng

13
tác không nhằm phát biểu những chân lý, đề cao những tư tưởng… mà chỉ
khắc họa hiện thực như nó vốn có: một hiện thực bề bộn, nhức nhối, chưa
hoàn chỉnh với những tốt xấu đan xen, trắng đen lẫn lộn. Ở đó không có
những cá nhân tuyệt đối tốt hoặc tuyệt đối xấu, đời sống không đơn giản, một
chiều. Tư duy tiểu thuyết đã trả lại cho văn học bộ mặt chân xác của đời sống.
Cùng với sự thay đổi ấy, hiện thực được khám phá dưới nhiều góc nhìn mới
mẻ và số phận con người đã trở thành vấn đề trung tâm luận của tiểu thuyết,
nhất là con người cá thể, con người đời thường.
1.1.1.2. Khám phá hiện thực đa chiều

Do điều kiện hoàn cảnh lịch sử đất nước những năm trước 1975, văn học
nói chung và tiểu thuyết nói riêng vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn
bó sâu sắc với vận mệnh dân tộc và thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm là
phục vụ kháng chiến, cổ vũ tinh thần chiến đấu. Hiện thực cách mạng, đời
sống kháng chiến chính là nội dung của văn học. Những năm từ 1975 – 1985
có thể coi là chặng đường văn học chuyển tiếp, trăn trở tìm kiếm con đường
đổi mới. Mặc dù vệt dư âm của chiến tranh vẫn chi phối đời sống văn học và
nội dung các sáng tác văn chương, nhưng những tín hiệu đổi mới đã xuất hiện
trong hàng loạt những tiểu thuyết: Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Trong
cơn gió lốc (Khuất Quang Thụy), Năm 1975 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí
Huân), Đứng trước biển (Nguyễn Mạnh Tuấn), Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng
trong vườn (Ma Văn Kháng)… Dấu hiệu đổi mới xuất hiện trong cả thi pháp
thể loại lẫn cách nhìn nhận các vấn đề hiện thực. Bên cạnh cảm hứng ngợi ca
đã xuất hiện cảm hứng phê phán và nội dung hiện thực dịch chuyển dần về
phía đạo đức, sinh hoạt, thế sự đời tư.
Song phải đến 1986 – năm bản lề đánh dấu bước ngoặt chuyển biến –
tiểu thuyết mới thực sự bước vào cao trào đổi mới. Sự đổi mới tư duy tiểu
thuyết đã mở ra khả năng khám phá hiện thực đa dạng, đa chiều. Nhà văn
Nguyễn Tuân đã phát biểu về quá trình chuyển đổi này: Lâu nay, người ta đề
cập đến một thứ hiện thực một chiều chứ không phải hiện thực như nó đang
có (…) Đổi mới trong văn học theo tôi phải gọi sự vật đúng với cái tên của

14
nó, phải phản ánh hiện thực trong cái vẻ toàn diện, nhiều chiều, nhiều mặt
của nó chứ không chỉ một chiều [94]. Nhà văn phải có nhận thức đúng, nhận
thức đủ, nhận thức sáng tạo về hiện thực để vừa đi sâu khám phá bản chất lại
vừa mở rộng biên độ phản ánh hiện thực.
Có thể thấy ba xu hướng khám phá hiện thực nổi bật. Trước hết là khuynh
hướng nhận thức lại hiện thực. Các vấn đề tưởng như quá cũ mòn của đời sống
như chiến tranh, người lính, người nông dân, đời sống nông thôn… được khai

thác dưới một trường nhìn mới, đem lại những nhận thức hoàn toàn mới mẻ:
khách quan hơn và đúng như nó vốn có. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là
các tác phẩm: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai),
Bến không chồng (Dương Hướng), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Thời xa
vắng (Lê Lựu), Bên kia bờ ảo vọng (Dương Thu Hương), Thời của thánh thần
(Hoàng Minh Tường)… Khuynh hướng thứ hai là khuynh hướng mở rộng biên
độ hiện thực, khai thác cả những mảng hiện thực mà xưa nay vẫn xem là “nhạy
cảm” của văn học như: các biến cố và nhân vật lịch sử, vấn đề bản năng và tình
dục… Sự mở rộng trường khai thác đã đem lại cho tiểu thuyết sự phong phú,
đa dạng về đối tượng và khiến cho tiểu thuyết hấp dẫn hơn bao giờ hết. Hàng
loạt các tiểu thuyết lịch sử kiểu mới liên tiếp xuất hiện: Hồ Quý Ly (Nguyễn
Xuân Khánh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Bão
táp cung đình (Hoàng Quốc Hải)… Vấn đề bản năng và tình dục được mô tả
như những biểu hiện tự nhiên và nhân bản, có mặt trong không ít tác phẩm:
Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Bến không chồng (Dương Hướng), Ăn
mày dĩ vãng (Chu Lai), Ngày hoàng đạo (Nguyễn Đình Chính), Gia đình bé
mọn (Dạ Ngân), Ngồi (Nguyễn Bình Phương)… Khuynh hướng thứ ba là
khuynh hướng sáng tạo hiện thực. Các nhà văn tăng cường chiều hướng khai
thác, chiếm lĩnh cả những hiện thực giấc mơ, vô thức, hiện thực tâm lý, tâm
linh… Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các tác phẩm: Góc tăm tối cuối cùng
(Khuất Quang Thuỵ), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Người đi vắng, Thoạt kỳ thuỷ
(Nguyễn Bình Phương), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái), Mẫu
thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh)…

15
Khám phá hiện thực đa chiều, tiểu thuyết không xây dựng các cực đối
lập, các giá trị tuyệt đối, bên cạnh cái tốt đẹp, cao cả, tiểu thuyết phản ánh cả
những mặt xấu xa, thấp hèn, phi nhân tính, đôi khi hiện hữu đầy đủ ngay
trong một hình tượng nghệ thuật. Cuộc sống hiện lên trong những trạng thái
phức tạp, các khuynh hướng trái ngược cùng đấu tranh và cùng tồn tại. Một

mô hình thế giới nghệ thuật mới được kiến tạo với cả hiện thực đời thực, hiện
thực tâm lý, hiện thực tâm linh và được tiếp cận từ nhiều phía, bằng nhiều
cách thức. Dù ở góc độ nào hiện thực ấy vẫn thấm đẫm hơi thở thời đại và
trăn trở bao số phận con người.
1.1.1.3. Khai thác số phận cá nhân
Tiểu thuyết cũ với cảm quan sử thi chủ yếu khai thác các hình tượng tập
thể, khắc hoạ hình tượng con người cộng đồng, con người mang tính đại diện
cho chân lý thời đại. Tiểu thuyết mới đi sâu khám phá con người cá nhân
trong tính đa dạng, phức tạp của nó. Từ Kinh, Lữ (Dấu chân người lính –
Nguyễn Minh Châu) đến Kiên (Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh), Hai Hùng
(Ăn mày dĩ vãng – Chu Lai), không chỉ ghi dấu những biến động của lịch sử
đất nước mà còn đánh dấu những đổi thay mang tính bước ngoặt trong quan
niệm, cách nhìn nhận về con người trong văn học. Các nhà tiểu thuyết Việt
Nam đã phá vỡ cái nhìn đơn phiến, tĩnh tại để tạo ra một cái nhìn phức tạp
hơn, đa diện hơn và vì thế sâu sắc hơn về con người [118]. Viết về con người,
tiểu thuyết đương đại đặc biệt quan tâm đến số phận con người cá nhân, con
người cá thể. PGS.TS Nguyễn Bích Thu còn nhận định Số phận con người trở
thành mối quan tâm hàng đầu của nhà văn, thể hiện cái nhìn dân chủ đối với
sự phức tạp của tính người. Nhiều cuốn tiểu thuyết đã hướng tới miêu tả số
phận những con người bình thường với những bi kịch của đời họ. Bi kịch giữa
khát vọng và thực trạng, giữa cái muốn vươn lên và cái kìm hãm, giữa thanh
lọc và tha hoá, giữa nhân bản và phi nhân bản [118].
Con người với tư cách là đối tượng của văn học, phải được nhìn nhận
trong tính tổng thể và toàn vẹn, phải được soi chiếu từ mọi góc độ và được
nhìn nhận ở mọi giá trị. Tiểu thuyết đương đại, vì thế, đã vừa mở rộng biên độ
khai thác, vừa tăng cường chiều sâu khám phá, tiếp cận con người trên nhiều

16
bình diện: con người xã hội, con người đời tư, con người tự nhiên, con người
tâm lý, tâm linh… Nhìn nhận con người như một cá thể bình thường giữa đời

thường, tiểu thuyết đi sâu vào thân phận con người, khắc hoạ những nỗi đau
nhân sinh, phơi bày những “mảnh vỡ”, những bi kịch, khẳng định khát vọng
sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Khám phá con người từ góc độ cá nhân,
với mọi mặt phong phú, phức tạp của đời sống hàng ngày, tiểu thuyết đã thật
sự tìm được mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thoả sức khai vỡ [104]. Và
điều đó được đánh dấu bằng sự ra đời của hàng loạt các tiểu thuyết xuất sắc:
Thời xa vắng (Lê Lựu), Bến không chồng (Dương Hướng), Đám cưới không
có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Lão Khổ (Tạ Duy Anh), Cơn giông (Lê Văn
Thảo), Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Dòng sông mía (Đào Thắng), Cơ hội
của Chúa (Nguyễn Việt Hà)… Các cây bút tiểu thuyết khám phá con người
cả ở những khía cạnh bản năng, tính dục, những nhu cầu tự nhiên đầy nhân
bản của con người: Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Ngược dòng nước lũ (Ma Văn
Kháng), Ngồi (Nguyễn Bình Phương), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Ngày
hoàng đạo (Nguyễn Đình Chính), Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái)… Bên
cạnh đó, tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đã thật sự mở cánh cửa bước vào thế giới
tâm linh của con người nhằm khám phá chiều sâu bản thể và nhận thức hiện
thực đa tầng, đa sắc diện hơn. Khám phá con người tâm linh, các cây bút tiểu
thuyết đã mở ra một thế giới của những điều bất khả tri, phi lý tính, thế giới
của tiềm thức, vô thức, giấc mơ với những trực cảm, linh cảm, năng lực thần
bí… Các tác phẩm tiêu biểu khai thác phương diện này phải kể đến Mảnh đất
lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Góc tăm tối cuối cùng (Khuất
Quang Thuỵ), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Người đi vắng, Thoạt kỳ thuỷ
(Nguyễn Bình Phương), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái),
Người sông mê (Châu Diên), Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Giàn
thiêu (Võ Thị Hảo)…
1.1.1.4. Gia tăng tính chất triết luận
Khuynh hướng triết lý hay triết luận trong tiểu thuyết xuất hiện gắn liền
với sự thay đổi mô hình cấu trúc tiểu thuyết từ cấu trúc lịch sử - sự kiện sang
cấu trúc lịch sử - tâm hồn. Khuynh hướng này được khơi mở trong văn học từ


17
sau 1975 với sáng tác của các nhà văn như Nguyễn Khải (Xung đột, Một
người Hà Nội, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người, Cha và con và…),
Nguyễn Minh Châu (Bức tranh, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa,…). Song
yếu tố triết luận thực sự được tăng cường và trở thành một đặc điểm quan
trọng trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1986, khi mà tính chất bất trắc của
đời sống và sự bất ổn của tinh thần con người [58,141] ngày một gia tăng.
Các tác phẩm không chỉ chứa đựng những chiêm nghiệm, đúc kết sâu sắc của
nhà văn về cuộc đời và con người mà còn thể hiện những suy tư, trăn trở
không ngừng của người cầm bút trước các vấn đề phức tạp, nhức nhối của đời
sống đương đại, đặc biệt là vấn đề đạo đức nhân sinh và thân phận con người.
Có thể quan sát thấy những giai đoạn biến chuyển của tính chất triết luận
trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau đổi mới dưới sự tác động của những hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Trước hết đó là khuynh hướng suy lý, chiêm nghiệm về
lịch sử và con người của một thời đã qua sau khi đã có được một độ lùi thời
gian cần thiết. Tính chất triết luận của sáng tác thời kỳ này nằm trong dòng
truyện ngắn và tiểu thuyết luận đề với vẻ đẹp trí tuệ sắc sảo, lối tư duy sắc
bén, tầm khái quát và ý nghĩa triết học sâu rộng. Truyện ngắn mang tính luận
đề xuất hiện nhiều trong sáng tác của Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu như
đã nói ở trên. Với tiểu thuyết, tính chất triết luận thấm đẫm trong các tác
phẩm: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Thời xa vắng (Lê Lựu), Đám cưới
không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Bến
không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc
Trường), Thuỷ hoả đạo tặc (Hoàng Minh Tường), Bên kia bờ ảo vọng (Dương
Thu Hương)… Trong đó Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh chứa đựng
những suy ngẫm, chiêm nghiệm, những triết lý sâu sắc về lẽ sống, chân lý,
thân phận cá nhân và lịch sử, đôi khi có cả cái nhìn thấm màu sắc bi quan và
tuyệt vọng về chiến tranh. Thời xa vắng của Lê Lựu đã thực sự tái tạo được
lịch sử tâm hồn của một thế hệ, khắc hoạ được bi kịch tinh thần của cả một
thời đại qua nhân vật bi kịch Giang Minh Sài. Các tiểu thuyết Mùa lá rụng

trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú… của Ma Văn Kháng chứa đựng
những triết lý về sự mâu thuẫn muôn thuở giữa lý tưởng, khát vọng cao đẹp

18
của con người với hiện thực tầm thường, dung tục, những day dứt, lựa chọn
của con người trên hành trình đi tìm lẽ sống…
Mang đậm hơi thở đời sống đương đại, những tiểu thuyết gần đây tập
trung biểu hiện các vấn đề đạo đức nhân sinh, số phận con người, ý nghĩa đời
sống, khát vọng nghệ thuật… Sự đa dạng trong phương pháp sáng tác,
phương thức tiếp cận hiện thực cũng như trong biện pháp nghệ thuật đã cho
phép các nhà văn mở rộng trường sáng tạo, chuyển tải những chân lý đời
sống, những thông điệp sự sống bằng nhiều hình thức phong phú. Tính chất
triết lý, triết luận được biểu hiện rõ hơn cả trong các tiểu thuyết của Nguyễn
Việt Hà, Tạ Duy Anh. Hai cuốn tiểu thuyết Cơ hội của Chúa và Khải huyền
muộn của Nguyễn Việt Hà thể hiện cái nhìn đầy trăn trở của người trí thức về
đời sống đương đại đa diện phức tạp thông qua những cấu trúc tác phẩm được
xây dựng theo khuynh hướng kiến trúc mê lộ văn chương. Cơ hội của Chúa là
một tiểu thuyết đa chủ đề, trong đó có đa dạng các mối quan hệ xã hội và các
vấn đề chính trị - xã hội, rất giàu triết lý thế sự và nhiều triết thuyết Thiên
Chúa giáo. Các tiểu thuyết của Tạ Duy Anh hầu hết đều có tính luận đề rất rõ
nét, đó là Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối… Ở đó, hình tượng
nhân vật trung tâm được xây dựng như là biểu trưng của thời đại, của lịch sử,
của số phận con người (Tạ Duy Anh). Những triết lý thân phận, cuộc tìm
kiếm bản ngã, bản sắc cá nhân hay những thông điệp sự sống được bộc lộ qua
tính chất tự đối thoại, tự giác ngộ rất cao trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh.
Khuynh hướng tiểu thuyết triết luận trong tiểu thuyết Việt Nam sau đổi
mới luôn hướng đến tính đối thoại, tính dân chủ trong văn chương. Các sáng
tác đều dành rất nhiều khoảng lặng để người đọc tự suy ngẫm, chiêm nghiệm
và rút ra kết luận của riêng mình từ những vấn đề được nêu ra trong tác phẩm.
1.1.2. Thay đổi đề tài

Công cuộc Đổi mới đã đem lại nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều
lĩnh vực, làm thay đổi bộ mặt xã hội. Song cùng với nó, những mặt trái của cơ
chế thị trường cũng làm cho đời sống xã hội ngày càng phức tạp với hàng loạt
những thay đổi lệch chuẩn nhiều giá trị, nhiều tiêu chí đạo đức, hàng loạt

19
những mâu thuẫn xung đột vừa ngấm ngầm vừa công khai diễn ra trên mọi
bình diện. Tính đa diện, đa tầng của hiện thực đời sống, tính đa dạng phức tạp
của tính cách con người đã phá vỡ thế ngự trị của kiểu, loại đề tài đơn nhất để
làm nên sự phong phú vô tận các đề tài sáng tác. Có thể khái quát thành ba
nhóm đề tài tiêu biểu:
1. Đề tài “vết thương”: Xuất hiện gắn với nhu cầu nhìn nhận lại và phản
ánh chân xác những vấn đề của lịch sử đương đại, dòng văn học “vết thương”
đáp ứng đúng khát vọng của thời đại: nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện và
miêu tả đúng sự thật lịch sử, sự thật tâm hồn con người. Các vấn đề nhức nhối
một thời mà vì lý do hoàn cảnh lịch sử, do cơ chế xã hội hay ấu trĩ trong nhận
thức đã khiến cho các vấn đề đó bị né tránh hoặc chưa có điều kiện đề cập đến
nay được các nhà văn mổ xẻ không thương tiếc và trả về đúng vị trí, đúng bản
chất như nó vốn có. Đó là các vấn đề như cải cách ruộng đất, cơ chế bao cấp,
sự thật chiến tranh, tâm lý hậu chiến… Tất cả khi đi qua đều để lại trong đời
sống con người những vết thương: vết thương thể xác, vết thương tinh thần,
vết thương cá nhân, vết thương thời đại… Nguyên nhân chủ yếu của những
nỗi đau ấy xuất phát từ sự khác biệt giữa chiến tranh và hòa bình, sự khập
khiễng giữa lý luận và thực tiễn, sự vênh lệch giữa tinh thần và vật chất, thể
xác và tâm hồn… Dòng tiểu thuyết này giúp chúng ta nhận thức rõ những bi
kịch lịch sử, bi kịch thời đại nhiều khi được dồn nén trong một cuộc đời bình
thường [58, 144], những bi kịch đời thường.
Khuynh hướng văn học “vết thương” đã xuất hiện ngay từ những năm
đầu thập kỷ 80 trong sáng tác của các nhà văn như Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Trọng Oánh… Tiêu biểu cho

đề tài này phải kể đến các tiểu thuyết: Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh) Thời
xa vắng (Lê Lựu) Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai) Những thiên đường mù, Bên kia
bờ ảo vọng (Dương Thu Hương) Ác mộng (Ngô Ngọc Bội) Thủy hỏa đạo tặc,
Thời của thánh thần (Hoàng Minh Tường)… và đặc biệt là chùm ba tiểu
thuyết đạt Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1991 đó là Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng (Dương Hướng) và Mảnh đất lắm
người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường).

20
Có thể thấy hai vấn đề được nói đến nhiều nhất ở đề tài này là cải cách
ruộng đất và chiến tranh từ một góc độ tiếp cận mới. Ở đề tài chiến tranh, mạch
nội dung dường như là tiếp tục nhưng mạch cảm hứng đã có sự thay đổi. Cảm
hứng ngợi ca, khuynh hướng sử thi, hình tượng anh hùng đã lui xuống nhường
chỗ cho cảm hứng thế sự đời tư, hình tượng con người bình thường với những
vết thương, những chấn thương, những bi kịch do chiến tranh gây ra. Vấn đề
hậu chiến, tâm lý hậu chiến được khai thác, sự thật lịch sử, mặt trái của tấm
huy chương và những hào quang chiến thắng được phơi bày. Các tác phẩm viết
về đề tài chiến tranh vì thế vừa phản ánh chân thực sự thật lịch sử, vừa thấm
đượm ý nghĩa nhân văn cao đẹp khi cốt lõi của mỗi tác phẩm đều khẳng định
khát vọng muôn thuở của con người: hòa bình, tình yêu và hạnh phúc!
Các tác phẩm viết về những sai lầm trong cải cách ruộng đất hay mặt trái
trong cơ chế quản lí quan liêu bao cấp như Ác mộng (Ngô Ngọc Bội), Ba người
khác (Tô Hoài), Thời của thánh thần (Hoàng Minh Tường), Những thiên
đường mù, Bên kia bờ ảo vọng (Dương Thu Hương)… đã dũng cảm nhìn thẳng
vào sự thật, phản ánh trung thực những nỗi đau, những oan khuất, những bi
kịch trớ trêu, hậu quả của những sai lầm, ấu trĩ mà lịch sử để lại. Các tác phẩm
này đều chứa đựng giá trị nhân đạo, ý nghĩa nhân bản sâu sắc khi mục đích
cuối cùng của mỗi tác phẩm đều hướng đến viết về con người và vì con người.
Cùng với độ lùi thời gian cần thiết, kết hợp với tinh thần dân chủ, cởi mở
của thời đại, tiểu thuyết “vết thương” đã phát triển mạnh mẽ và thu được

nhiều thành tựu rực rỡ.
2. Đề tài lịch sử: Một trong những khuynh hướng sáng tác được phát
triển mạnh mẽ trong văn học đương đại, xuất phát từ nhu cầu phản ánh chân
thực các vấn đề của hiện thực, đó là khuynh hướng nhận thức lại quá khứ.
Cùng với khuynh hướng này, tiểu thuyết chuyển dịch theo chiều nghịch đảo:
từ xu hướng lấy lịch sử làm trọng tâm sang xu hướng con người làm trung
tâm, làm đích quy chiếu của lịch sử [77, 41] và con người không còn chịu sự
phán xét của lịch sử mà ngược lại qua con người, lịch sử được nhận thức lại
– khách quan, tỉnh táo và chân thực hơn. Đề tài lịch sử phát triển gắn với sự
ra đời của hàng loạt tiểu thuyết lịch sử kiểu mới với một phương thức tiếp

21
cận mới và một “quá trình cá nhân hóa hư cấu” (Phạm Xuân Thạch). Không
chịu sự chi phối của quan niệm cộng đồng, sự phán xét của lịch sử, các nhà
văn đương đại tiến cận lịch sử và nhân vật lịch sử từ một góc độ mới, mang
màu sắc cá nhân và tính chất hư cấu đậm nét. Theo ông Trương Đăng Dung,
sự khác biệt cơ bản của tiểu thuyết lịch sử kiểu mới chính là nó đã chấm dứt
việc phản ánh trung thực hiện thực lịch sử vốn là sức mạnh của tiểu thuyết
lịch sử cổ điển [60, 456]. Nhưng điều đó không có nghĩa là tiểu thuyết lịch
sử hiện đại làm sai lệch sự thật lịch sử mà ngược lại, nó sẽ lý giải quá khứ
khác với tiểu thuyết lịch sử cổ điển, thậm chí còn phát triển ra những giá trị
của lịch sử mà tiểu thuyết lịch sử cổ điển chưa có điều kiện nhìn thấy [60,
456]. Như thế tiểu thuyết lịch sử kiểu mới không đi sao chép lịch sử mà
thông qua việc nhận thức lại lịch sử, các nhà văn đem đến một cánh hình
dung mới về sự kiện, nhân vật lịch sử và hơn thế qua đó để nhận thức lại
chính mình, nhận thức lại thực tại từ những hồi quang quá khứ.
Tiêu biểu cho mảng đề tài này phải kể đến các tác phẩm Thăng Long ký
(Nguyễn Khắc Phục), Hội thề (Nguyễn Quang Thân), Sông Côn mùa lũ
(Nguyễn Mộng Giác), Giàn Thiêu (Võ Thị Hảo),… đặc biệt là tiểu thuyết của
hai tác giả Nguyễn Xuân Khánh với Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn, Đội gạo

lên chùa và Hoàng Quốc Hải với bộ sách bốn tập: Bão táp cung đình, Thăng
Long nổi giận, Huyền Trân công chúa, Vương triều sụp đổ.
Mượn đề tài cũ để biểu hiện những phương diện đổi mới, tiểu thuyết lịch
sử không chỉ đem đến những quan niệm mới về con người, về hiện thực mà
còn cho thấy sự đổi mới trong tư duy tiểu thuyết, phương thức tiếp cận và
hàng loạt sự thay đổi trong cấu trúc tiểu thuyết, kỹ thuật tự sự… để tạo nên
một sắc diện thẩm mĩ mới, gây hứng thú tiếp nhận và đem lại hiệu quả đặc
sắc về nghệ thuật, giá trị sâu sắc về nội dung.
3. Đề tài đời sống đương đại: Bối cảnh xã hội Việt Nam những năm cuối
thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI với nhiều biến động đổi thay từ đời sống vật chất
cho đến các giá trị tinh thần đã làm nên một mảnh đất phì nhiêu cho các sáng
tác văn chương khai phá. Nguyễn Minh Châu cho rằng hiện thực ấy nảy sinh
nhiều tình huống, thời khắc đậm đặc để con người bộc lộ tính cách mãnh liệt.

22
Còn Nguyễn Khải gọi đó là “cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn” [104] với sự
tổng hòa của bao mặt đối lập, đối nghịch đan xen, tạo nên bao biến động, bất
ngờ. Hiện thực chưa bao giờ phức tạp như bây giờ và vì vậy cũng chưa bao
giờ phong phú, hấp dẫn đến thế đối với văn chương. Bước ra từ chiến tranh và
thoát khỏi dư âm thời hậu chiến, văn học trở về với cuộc sống đời thường, với
cái hiện thực hàng ngày và khai thác nó dưới một trường nhìn mới.
Tiểu thuyết với khả năng và ưu thế vượt trội của mình đã chứng tỏ có
tính xã hội cao hơn các thể loại khác và có khả năng phân tích các quan hệ
xã hội lịch sử quan trọng nhất, những mâu thuẫn thời đại chủ yếu nhất
[60,402]. Các vấn đề nhân sinh, những bi kịch, những mảnh vỡ, những số
phận con người trong đời sống đương đại được tiểu thuyết phơi bày dưới cái
nhìn trung thực, nghiêm khắc nhưng cũng đầy nhân ái bao dung. Các sáng tác
không chỉ giàu tính thời sự, tính chân thực mà còn chứa đựng chiều sâu nhân
bản và thấm đẫm cảm hứng nhân văn.
Đề tài đời sống đương đại có mặt trong mọi thể loại. Ở truyện ngắn, nó

xuất hiện đậm đặc trong sáng tác của những cây bút tên tuổi như Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y
Ban… Với tiểu thuyết, nó đã làm nên thành công xuất sắc cho nhiều tác
phẩm: Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Đám cưới
không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Thiên sứ
(Phạm Thị Hoài), Thoạt kỳ thủy, Ngồi (Nguyễn Bình Phương), Cơ hội của
Chúa, Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), Thiên thần sám hối, Đi tìm nhân
vật (Tạ Duy Anh), Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái) Cơn giông
(Lê Văn Thảo), Sự trở lại của vết xước (Trần Nhã Thụy)…
1.1.3. Thay đổi kỹ thuật viết
Những đổi mới về tư duy tiểu thuyết, quan niệm hiện thực và con người,
những đòi hỏi khám phá hiện thực và số phận con người đa diện, đa chiều,
cùng với sự tiếp cận và học hỏi những phương pháp, những kỹ thuật viết hiện
đại của các nền văn chương trên thế giới đã thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu đổi
mới kỹ thuật viết của nhiều thể loại trong đó có tiểu thuyết. Sự thay đổi kỹ
thuật viết của tiểu thuyết đã diễn ra ở mọi mặt, trên tinh thần tìm tòi, thể

×