ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẶNG NGỌC HUYỀN
ĐẶC ĐIỂM HỒI KÍ CỦA CÁC NHÀ THƠ
LƯU TRỌNG LƯ – HUY CẬN – XUÂN DIỆU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại
Hà Nội-2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẶNG NGỌC HUYỀN
ĐẶC ĐIỂM HỒI KÍ CỦA CÁC NHÀ THƠ
LƯU TRỌNG LƯ – HUY CẬN – XUÂN DIỆU
Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại
Mã số:60.22.34
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Văn Lân
Hà Nội-2010
1
Trang
Mục lục…………………………………………………………………
PHN M U
2. Lch s v
2.1 Nghiên cứu khái quát về sự nghiệp của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân
Diệu
2.1 Nghiên cứu về hồi kí của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu
u
3.1. Đối tượng nghiên cứu
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Phương pháp phân tích tổng hợp
3.2.2 Phương pháp khảo sát thống kê
3.2.3 Phương pháp so sánh
4. Nhim v nghiên ca lu
4.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2 Đóng góp của luận văn
5. Cu trúc ni dung lu
CKhái quát v hi kí
1.1.
1.1.1. Định nghĩa hồi kí
1.1.2. Quan niệm về hồi kí của người viết
1…………………………….
1
4
4
4
5
6
7
7
8
8
8
8
8
8
8
8
9
9
9
13
17
2
……………………
,
…………………………………………………………………
…………………………………………………
2.1.1 Hình ảnh người mẹ và người cha thân yêu .………………………….
2.1.2 Gương mặt những người thân và những câu chuyện đáng nhớ của tuổi
thơ
2.2 Tháng ng và ………………………
2.2.1 Cuộc sống dưới mái trường…………………………………………
2.2.2 Những người thầy tài năng và tâm huyết……………………………
2.2.3 Những người bạn đáng quý ……………
2.2.3.1 Nhà thơ Xuân Diệu…………………………………………………
2.2.3.2 Nhà văn Nguyễn Tuân ……………………………………………
2.2.3.3 Nhà thơ Phạm Hầu ………………………….……………………
2.2.3.4 Những nhà văn cùng thời khác……………………………………
……………………………………………
2.4 Quá trình sáng tác ………………………………………………………
2.4.1 Bức tranh đời sống xã hội ………………………………………………
2.4.2 Quá trình trưởng thành và sáng tác ………………………………….
2.5. ………………………………………………………
2.5.1 Nghề nghiệp ………………………………………………………….
2.5.1.1 Nghề giáo…………………………………………………………
2.5.1.2 Nghề báo…………………………………………………………
2.5.1.3 Viên chức…………………………………………………………
2.5.2 Công tác cách mạng …………………………………………………
22
26
26
26
31
33
33
36
38
39
41
42
44
46
53
53
59
61
61
62
64
65
66
3
,
………………………………………………………………….
3.1. …………………………………….
………………………………………………
3.2.1 Giọng trữ tình thấm thía ……………………………………………
3.2.2 Giọng điệu ngọt ngào ………………………………………………
3.2.3. Giọng suy tư, triết lý………………………………………………….
…………………………………………………
3.3.1 Ngôn ngữ trang trọng, giàu hình ảnh …………………………………
3.3.2 Ngôn ngữ đan xen giữa lời kể, lời cảm và miêu tả……………………
KT LUN
TÀI LIU THAM KHO
68
68
72
74
77
79
82
83
89
95
97
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồi kí phát triển mạnh mẽ ở Phương Tây từ thế kỉ XIX và đã trở thành một
thể loại văn học Việt Nam vào những năm 30, 40 của thế kỉ XX. Sự thay đổi
mạnh mẽ của xã hội về tất cả mọi mặt, sự giao lưu văn hóa Đông Tây trở nên
gần gũi và sâu rộng hơn bao giờ hết đã thúc đẩy tinh thần dân chủ phát triển.
Nhu cầu bộc lộ bản thân, hoặc trình bày thẳng thắn những suy tư, quan điểm
được tự do thoải mái hơn trước. Hồi kí như một dòng sông âm ỉ chảy theo dòng
phát triển xã hội khi nhiều người có nhu cầu viết về mình. Người ta có quyền nói
ra tất cả sự thật mà họ biết, đã trải qua, hay đã được chứng kiến; có quyền lên
tiếng đánh giá sự việc, hiện tượng nào đó theo cách nhìn của cá nhân. Hồi kí là
thể loại hữu dụng được lựa chọn, vì không thể loại văn học nào cho phép người
biết tự do trình bày kí ức, tâm tư, tình cảm của mình như hồi kí. Viết hồi kí, cũng
không phân biệt nghề nghiệp, giới tính, lĩnh vực hoạt động. Người viết có thể là
chính trị gia, ca sĩ, diễn viên, người mẫu, nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn
học…thậm chí có thể là một cá nhân vô danh nào đó nhờ các trang báo điện tử,
diễn đàn mạng đăng tải. Sự xuất hiện của các tác phẩm hồi kí đều được dư luận
chú ý. Trong số đó, hồi kí do các nhà văn, nhà thơ, những người hoạt động ở lĩnh
vực văn học nghệ thuật viết vẫn được độc giả quan tâm hơn cả. Đề tài nghiên
cứu Đặc điểm hồi kí Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu của chúng tôi mong
muốn đóng góp một phần nhỏ bé làm sáng rõ những đặc trưng nội dung và hình
thức của thể loại này qua các tác phẩm hồi kí của ba nhà thơ lớn trong nền văn
học Việt Nam hiện đại.
5
Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, là ba nhà thơ tiêu biểu, với ba phong
cách riêng tạo nên sự phong phú cho thơ ca Việt Nam. Trong cả sự nghiệp cầm
bút, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu đã gặt hái được nhiều thành công và có
vị trí xứng đáng trong nền văn học nước nhà. Xuân Diệu, Huy Cận được nhận
giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I) năm 1996, đến năm 2000
– Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cũng có tên Lưu Trọng Lư.
Bên cạnh những vần thơ tha thiết, nồng nàn, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân
Diệu cũng viết hồi kí như để tổng kết lại quãng thời gian cuộc đời đã qua. Ki ức
của bất kì ai cũng có những điểm tối và những ánh sáng lấp lánh. Hồi kí của các
ông bên cạnh những câu chuyện riêng tư vẫn đậm đà tư liệu xã hội. Dù thơ ca
mới là lĩnh vực sáng tác chính nhưng hồi kí vẫn mang dấu ấn phong cách đặc sắc
của các nhà thơ. Cùng những công trình nghiên cứu sâu sắc về sự nghiệp thơ văn
của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, chúng tôi, muốn góp thêm một tiếng
nói khẳng định sự đa dạng trong sáng tác của các nhà thơ thông qua việc khảo
sát một số tác phẩm hồi kí: Những bước đường tư tưởng của tôi (Xuân Diệu –
1958), Hồi kí song đôi (Huy Cận – 1986), Mùa thu lớn (Lưu Trọng Lư – 1978),
Nửa đêm sực tỉnh (Lưu Trọng Lư 1987) Số lượng tác phẩm dù không nhiều
nhưng những cuốn hồi kí của các nhà thơ thực sự có một nội dung tư tưởng
phong phú và đặc sắc về nghệ thuật.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Nghiên cứu khái quát về sự nghiệp của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân
Diệu.
Là những nhà thơ lớn, có phong cách độc đáo, sáng tác của các Lưu Trọng
Lư, Huy Cận, Xuân Diệu rất được giới nghiên cứu phê bình quan tâm. Số lượng
công trình nghiên cứu về ba nhà thơ mới tài hoa này thực sự đồ sộ và phong phú.
6
Dường như việc nghiên cứu về họ là nguồn không bao giờ cạn. Sau gần một thế
kỉ xuất hiện trên văn đàn, cho đến nay Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu vẫn
là những chân dung được chú ý.
- Thơ Lưu Trọng Lư – Những lời bình. Mai Hương - tuyển chọn và biên soạn.
Nxb. Văn hóa thông tin, 2000
- Xuân Diệu – về tác gia và tác phẩm. Lưu Khánh Thơ tuyển chọn và giới
thiệu. NXb Giáo dục, 1995.
- Huy Cận – về tác gia và tác phẩm. Trần Khánh Thành, Lê Dục Tú tuyển
chọn và giới thiệu. NXb Giáo dục, 2000
…
2.2 Nghiên cứu về hồi kí của Lưu Trọng Lư – Huy Cận – Xuân Diệu
Hồi kí không phải là lĩnh vực sáng tác chính của Lưu Trọng Lư, Huy Cận,
Xuân Diệu. Viết hồi kí với các nhà thơ chỉ là nhu cầu tâm lí, muốn được giãi
bày, được sống lại một thời đã qua. Những câu chuyện của các nhà thơ chính là
nguồn tư liệu phong phú để người đọc hiểu thêm về bức tranh xã hội mà họ đã
sống, về cuộc đời, về những tác động sâu sắc đến tư tưởng thơ văn của họ.
Mùa thu lớn (1976), Nửa đêm sực tỉnh (1989) của Lưu Trọng Lư viết về kí
ức tuổi thơ và những mối tình thơ mộng, đã thu hút người đọc ở những câu
chuyện cảm động và lối kể có duyên.
Hồi kí song đôi (2000) được Huy Cận viết từ những năm 90 nhưng đến năm
2000 sau khi sửa chữa, bổ sung mới cho xuất bản. Đây là hồi kí Huy Cận viết khi
Xuân Diệu mất, ông đang ở Pari không về kịp. Nỗi đau ấy ngoài Huy Cận không
ai có thể hiểu được. Xuân Diệu đâu chỉ là đồng nghiệp mà trên hết Xuân Diệu
với Huy Cận là người bạn thân thiết nhất. Hai người như hai anh em sinh đôi. Vì
vậy mà Huy Cận đặt tên hồi kí của mình là “Hồi ki song đôi”. Cuộc sống và thơ
7
đã cho tôi người bạn thân nhất, cho tôi tâm hồn tri kỉ, tấm lòng tri âm nơi Xuân
Diệu(…). Tôi đang viết hồi kí chung cho cả hai người…Phần hồi kí của Xuân
Diệu do Xuân Diệu kể lại với Hoàng Trung Thông và Tịnh Hà (em trai ông)
nhưng được Huy Cận viết lại cho gọn lời và mạch lạc.
Những bước đường tư tưởng của tôi (1959) được biết đến là tác phẩm tiểu
luận, phê bình. Trong đó ông cũng kể lại một cách thành thực quá trình lột xác
của mình, chuyển bờ tư tưởng, từ ý thức cá nhân, tiểu tư sản trở thành ý thức
công dân, ý thức Cách mạng. Cách mạng đã thay đổi đời và thay đổi thơ ông,
đem lại cho ông cũng như nhiều nhà Thơ mới cuộc giải phóng thực sự về tư
tưởng, hướng tới cái chung của Tổ quốc, của cộng đồng và nhân dân.
Qua những trang hồi kí, các nhà thơ đã thể hiện được suy nghĩ của mình ở
nhiều phương diện: nghệ thuật, xã hội và con người.
Có thể nói rằng việc nghiên cứu hồi kí của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân
Diệu còn là một đề tài mới mẻ, chưa được chú ý. Nhưng chúng tôi hi vọng rằng
sau công trình này sẽ có thêm nhiều nghiên cứu, chuyên luận cùng đề tài để hoàn
thiện và làm phong phú hơn sự nghiệp sáng tác của Lưu Trọng Lư, Huy Cận,
Xuân Diệu cũng như của văn học Việt Nam hiện đại.
Hiện nay chúng tôi chưa tìm thấy công trình nghiên cứu nào về hồi kí của ba
nhà thơ. Có chăng chỉ là một số bài báo nhận xét, đánh giá khi các cuốn hồi kí
xuất bản, hoặc trong một vài bài báo nghiên cứu về hồi kí của các nhà văn, nhà
thơ Việt Nam nói chung có nhắc đến như:
- Đặc điểm của Hồi kí 1975-2000, Nguyễn Quang Hưng, (Tạp chí văn học
nghệ thuật, số 4.2006).
- Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới, Lý Hoài Thu, Tạp chí văn học nghệ
thuật số 10.2008
8
Vì thế hi vọng qua đề tài nghiên cứu này chúng tôi sẽ đem tới cái nhìn tương
đối đầy đủ về số lượng hồi kí hạn chế của ba nhà thơ.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc điểm nổi bật trong hồi kí của
các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu qua các tác phẩm Mùa thu lớn,
Nửa đêm sực tỉnh (Lưu Trọng Lư), Hồi kí song đôi (Huy Cận), Những bước
đường tư tưởng của tôi (Xuân Diệu).
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Phương pháp phân tích tổng hợp
Đây là phương pháp chủ đạo được sử dụng trong việc nghiên cứu của đề tài.
Trên cơ sở phân tích các dẫn chứng tiêu biểu, giá trị nội dung và nghệ thuật của
các cuốn hồi kí chúng tôi sẽ khái quát đặc trưng nổi bật ở hồi kí Lưu Trọng Lư,
Huy Cận, Xuân Diệu.
3.2.2 Phương pháp khảo sát thống kê.
Chúng tôi sử dụng phương pháp khảo sát thống kê để có được những dẫn
chứng cho việc nghiên cứu đề tài.
3.2.3 Phương pháp so sánh
Để làm nổi bật đặc trưng ở mỗi cuốn hồi kí của các nhà thơ, chúng tôi sử
dụng phương pháp so sánh, đối chiếu với các tác phẩm hồi kí của nhiều nhà văn,
nhà thơ khác.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp của luận văn
4.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có gắng tổng hợp các thành tựu nghiên cứu trước đây về giới thuyết
về hồi kí. Đồng thời, luận văn đi tìm hiểu nội dung của các cuốn hồi kí để tái
9
hiện chân dung người kể chuyện với các tư cách đời sống: con người nghệ sĩ,
con người bình thường và nhân chứng lịch sử xã hội. Cùng với khía cạnh nội
dung, luận văn cũng làm sáng rõ đặc điểm nghệ thuật trong các cuốn hồi kí từ
cách chọn lọc, dẫn dắt tình tiết, đến ngôn ngữ trần thuật và giọng điệu trần thuật.
4.2 Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần tạo một cái nhìn rộng mở, linh hoạt hơn về thể loại hồi kí,
đồng thời có những đóng góp nhất định nhằm làm sáng rõ vị trí, đặc điểm của các
nhà thơ ở thể loại này. Có thể khẳng định, đây là công trình đầu tiên đặt vấn đề
nghiên cứu đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của hồi kí Lưu Trọng Lư, Huy Cận,
Xuân Diệu.
Từ những cuốn hồi kí được nghiên cứu, độc giả sẽ có thêm cái nhìn sâu sắc
hơn về cuộc đời, sự nghiệp và con người của các nhà thơ thông qua những gì họ
bộc lộ qua dòng hồi ức.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về hồi kí
Chương 2: Đặc điểm nội dung hồi kí của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân
Diệu.
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật biểu hiện hồi kí của Lưu Trọng Lư, Huy
Cận, Xuân Diệu.
10
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỒI KÍ
1.1 Giới thuyết về thể loại hồi kí
1.1.1 Định nghĩa hồi kí
Theo 150 thuật ngữ văn học “Tác phẩm hồi kí là một thiên trần thuật từ
ngôi tác giả (“tôi” tác giả, không phải là tôi hư cấu ở một số tiểu thuyết, truyện
ngắn), kể về những sự kiện trong quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến.
Hồi ký rất gần với nhật ký ở hình thức giãi bày, ở chỗ không dùng các thủ pháp
cốt truyện, ở cách kể theo thứ tự thời gian, ở việc chú ý đến các sự kiện mang
tính chất tiểu sử” (1;155). Sách Từ điển văn học định nghĩa “Hồi kí: còn được gọi
là hồi ức ( ) Lời văn của hồi kí cốt xác đáng, trung thực, giàu suy nghĩ và cảm
tưởng cá nhân” (10;319). Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm Hồi kí là ghi chép
dựa trên sự hồi tưởng lại những sự việc đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người
chứng kiến hoặc tham dự”, “là thể văn thuật lại những sự việc mà tác giả đã trải qua
hoặc chứng kiến, phần nào có mối liên hệ với thời đại” (9;61). Như vậy, hầu hết
các từ điển đều thống nhất cho rằng hồi kí có tính xác thực về sự kiện và tính chủ
quan của người viết.
Ở châu Âu, hồi kí ra đời sớm, từ thời cổ đại Hi Lạp phát triển liên tục ở các
thời trung đại, Phục Hưng, Khai Sáng, cho đến hiện nay. Trong văn học hiện đại,
hồi kí là thể loại thông dụng, với rất nhiều tác phẩm nổi tiêng của các nhà văn
tiêu biểu.
Hồi kí vì thế trở thành nguồn cung cấp thông tin về tiểu sử, về tư liệu lịch sử,
xã hội. Nhưng không phải tất cả hiện thực xã hội, hay tất cả tiểu sử cuộc đời đểu
có trong hồi kí mà chỉ những phần hiện thực thuộc về tầm nhìn, thuộc về quãng
11
thời gian mà người viết trực tiếp trải qua và thực sự mới được tái hiện. Cho nên
trong hồi kí, nhân vật chính, vẫn là cái tôi cá nhân của tác giả, người cung cấp
thông tin về con người, hiện thực quanh mình. Như Huy Cận nói: Viết hồi kí là
sống lại một lần nữa cuộc đời mình, mà cũng là san sẻ cho người khác trong
thiên hạ vui buồn của mình, thân phận của mình và phần nào những trải nghiệm
dọc đời tôi đã sống. Có nhiều nhà văn lớn viết hồi kí và không ít trường hợp, các
cuốn hồi kí đó đã trở thành sáng tác làm nên sự nghiệp văn chương của họ.
Hồi ký thường mang đậm tính chủ quan, các sự kiện được kể lại ở đây là ấn
tượng của trí nhớ nhưng không phải lúc nào cũng chính xác và đầy đủ tuyệt đối.
Kí ức luôn bị bao phủ bởi lớp sương mờ ảo của thời gian, cho nên đôi khi những
sự kiện, thông tin từ hồi kí còn mang tính phiến diện, chủ quan. Tuy nhiên ở một
khía cạnh nào đó những sự thiếu hụt về sự kiện, sự phiến diện đó lại được bù đắp
bằng sự diễn đạt sinh động của tác giả. Chính điều này đem đến cho hồi kí giá trị
như một tư liệu của đương thời. Do không đòi hỏi nhiều ở tính định hình cấu trúc
và định hướng thẩm mĩ nên một số tác phẩm hồi kí có mối quan hệ gần giống
với: văn xuôi lịch sử, truyện, chân dung văn học, tự truyện, nhật kí…Tôn trọng
tính chân thật về số liệu, thời gian, địa điểm hồi kí gần với văn xuôi lịch sử và có
cốt truyện, tình tiết, đề tài cuộc sống như truyện. Ở một phương diện nào đó, khi
các nhà văn, nhà thơ viết hồi kí, nhớ lại về bạn bè, về đồng nghiệp thì hồi kí gần
với chân dung văn học. Nhưng phải nói rằng hồi kí giống với nhật kí và tự
truyện hơn cả.
Nhật ký là loại văn ghi chép hàng ngày, vốn thiên về tóm tắt sự kiện đang
diễn ra trong chính cuộc sống thường nhật của người viết theo hình thức trần
thuật ngôi thứ nhất số ít, có đáng số ngày tháng. Nhật kí là sự ghi chép lại câu
chuyện, cảm xúc của cá nhân, nó thường rất chân thành, không hề có yếu tố hư
12
cấu hay bịa đặt. Nhật kí ghi lại những gì đã xảy ra, đã trải nghiệm. được viết ra
chỉ cho bản thân người ghi chứ không tính đến việc công bố ra dư luận. Người
viết nhật kí tôn trọng sự thật, nhưng cũng có cách đánh giá theo cảm nhận chủ
quan của mình. Nhật kí giống hồi kí ở chỗ không có sự cách biệt giữa thời gian
viết và thời gian được nói tới.
Tự truyện bao gồm cả yếu tố truyện (hình thức, một thể loại tự sự) và yếu tố
tự thân (nội dung, bản thân) của người của người viết truyện. Tác phẩm tự truyện
thường có thiên hướng lý giải cuộc sống đã qua của tác giả như một chỉnh thể,
tạo nên những đường nét mạch lạc cho cuộc sống kinh nghiệm của mình. Người
viết tự truyện có khi vận dụng hư cấu, thêm thắt hoặc xắp xếp lại các chi tiết của
cuộc đời mình. Nếu tác giả tự truyện thường tập trung vào quá trình hình thành
và lịch sử thế giới nội tâm của mình trong sự tương tác với thế giới bên ngoài, thì
hồi ký thường lưu ý trước hết đến thế giới bên ngoài ấy, với những con người,
cảnh quan đã được tác giả tiếp xúc, nếm trải. Sự khó khăn trong việc phân định
loại thể của tự truyện so với hồi ký sẽ chỉ được các nhà nghiên cứu, phê bình văn
học giải quyết với từng trường hợp cụ thể, tác phẩm nhấn mạnh ở khía cạnh tự
truyện hơn hay hồi ký hơn, mà thôi.
Trong thực tế sáng tác, hồi ký có thể được khai thác theo nhiều hướng. Có tác
phẩm chủ yếu nhằm miêu tả cuộc sống khách quan với những bức tranh xã hội
rộng rãi mà người viết có dịp chứng kiến và thể nghiệm. Tác giả ít nói đến mình,
cái tôi như lui về bình diện thứ hai, còn nhân vật chính là quần chúng, là nhân
dân.
1.1.2 Quan niệm về hồi kí của người viết
Viết hồi kí là một nhu cầu chính đáng của con người nhằm kể lại cuộc đời của
mình hoặc một giai đoạn lịch sử mà mình là nhân chứng tham gia.
13
Hồi kí là thể loại đặc biệt. Nó làm sống lại thời kì lịch sử mà tác giả đã trải
qua với những dấu tích độc đáo về mọi phương diện của cuộc sống. Hồi nghĩa là
quay lại, trở lại. Hồi kí nghĩa là ghi lại những sự việc, sự kiện thuộc về quá khứ
đã đi qua, nó là phần hồi ức, kỉ niệm sâu đậm của người viết. Mọi câu chuyện
trong hồi kí đề được khơi lại từ màn sương kí ức của tác giả.
Hồi kí là một thể loại thuộc loại hình kí kể lại những biến cố đã xảy ra trong
quá khứ, thuộc về cái đã qua. Hồi kí có thể nặng về người hoặc việc, có thể theo
dạng kết cấu - cốt truyện hoặc kết cấu – liên tưởng. Trên cơ sở những ấn tượng
của hồi ức, người viết hồi kí tiếp nhận và ghi chép lại hiện thực ở bình diện ngôi
thứ nhất. Vì vậy, hồi kí có thể không tránh khỏi phiến diện, mang tính chủ quan.
Theo quan niệm của nhà văn Tô Hoài, một người có rất nhiều tác phẩm hồi kí
xuất sắc, muốn viết cho được hồi kí, người viết rất cần có sự dũng cảm và trung
thực. Trong cuộc sống bộn bề phức tạp, dám nhìn thẳng vào sự thật là một điều
hết sức đáng quý. Không phải ai cũng sẵn sang và đủ bản lĩnh để đối đầu lại với
những cái đã qua đặc biệt là những cái đã qua mang ấn tượng không vui, không
tốt đẹp. Viết hồi kí, cũng như sáng tác các thể loại khác cần phải có tài năng,
kinh nghiệm sống dồi dào được đào sâu tích luỹ từ hiện thực khách quan. Nếu ai
cho rằng viết hồi kí là dễ dàng bởi chỉ đơn thuần là trần thuật lại sự việc, biến cố,
kỉ niệm theo trí nhớ thì thật sai lầm. Nhớ lại quá khứ thì dễ, nhưng làm sông dậy
quá khứ ấy lại chẳng dễ chút nào.
Trải qua biết bao nhiêu phong ba bão táp của lịch sử với cả vinh quang và cay
đắng, con người càng muốn được viết lại, ôn lại kí ức. Nhiều cái hồi trẻ ta thấy
đúng thấy hay, về già lại thấy sai thấy xấu, đó cũng là đối cực tạo cảm xúc, nhu
cầu muốn viết lại. Thời đã qua đối với người đọc mọi thế hệ đều là kho thông tin
bí mật và giàu có để có thể hiểu sâu sắc hơn về xã hội về cuộc đời. Hồi kí giống
14
như những thước phim quay ngược lại để “xem” lại những gì mình trải qua trong
quá khứ. Hồi kí ghi nhận lại dòng hồi tưởng, hồi ức bằng trí nhớ nhớ về những
sự việc đã xảy ra đối với bản thân trong quá khứ. Tất nhiên chỉ những sự kiện
thực sự có ấn tượng mạnh mới đủ sức in sâu đậm trong tâm trí người viết, ít có
yếu tố hư cấu, thường kể ở ngôi thứ nhất. Hồi kí rất gần với tiểu thuyết tự truyện
khi cùng khai thác về cuộc sống của cá nhân mình và đem vào đó cuộc sống của
nhiều người khác nữa. Viết hồi kí là thêm một lần được “sống lại” như Lưu
Trọng Lư đã nói. Thời gian cuộc đời chẳng chờ đợi ai cả, chẳng cho ai cái quyền
được thắm lại lần thứ hai. Nhưng con người hoàn toàn có quyền cho mình cơ hội
được là mình, được kinh qua lại những cảm giác xa xưa bằng cách hồi tưởng,
bằng cách nhớ nhung. Và tất nhiên bao giờ niềm thương, nỗi nhớ ấy cũng để lại
trong tâm hồn chúng ta sự xót xa vì hoài niệm và nhớ tiếc, “tiếc nhớ những cái gì
chỉ đến một lần mà thôi” (Lưu Trọng Lư). Tôn trọng và yêu thương quá khứ là
tôn trọng và yêu thương bản thân mình. Dù cái ngày đã qua nhiều tiếng cười hay
thấm đẫm nước mắt nó vần là một phần không thể nào chối bỏ. Soi vào kí ức là
để nhận ra mình, để được cùng buồn, cùng vui với cái ngày xưa.
Mười năm trở lại đây, khi các tác phẩm văn học ít gây được tiếng vang đối
với bạn đọc thì các cuốn hồi kí hay tự truyện xuất bản và không xuất bản lại tạo
ra một làn sóng xã hội mạnh mẽ. Vậy tại sao hồi kí lại thu hút được đông đảo
người viết và người đọc trong xã hội Việt Nam những năm gần đây đến như vậy?
Sự phát triển mạnh mẽ của nó có đơn thuần chỉ là sự a dua theo trào lưu hay thực sự
là nhu cầu tự thân của người viết?
Tất nhiên trước hết, viết hồi kí là một nhu cầu khách quan. Nhưng không phải
ai, tác giả nào khi bắt tay viết hồi kí đều có sự suy xét kĩ về hiệu ứng dư luận khi
hồi kí được tung ra. Cho nên không phải cuốn hồi kí nào được xuất bản, hay
15
được truyền tải đến độc giả đều thực sự có giá trị. Có những cuốn hồi kí tạo ra ấn
tượng mạnh mẽ tác động vào lương tâm bạn đọc, có cuốn dựng lên sự choáng
váng bởi nó vén mở một bí mật hay một nhân vật một sự thật nào đấy, và cũng
có những cuốn hồi kí u ám hận thù. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin, tự do
ngôn luận, tự do báo chí đặc biệt là báo chí mạng (internet)…đôi khi lại trở
thành công cụ hữu dụng cho những cuốn hồi kí “đen”. Thực tế xã hội cho thấy,
có nhiều cuốn hồi kí, hay trang hồi kí ra mắt bạn đọc đem đến tranh luận gay gắt
trong cộng đồng về nhiều vấn đề thậm chí cả những vấn đề liên quan bí mật quốc
gia, hay bôi nhọ, xuyên tạc khía cạnh nào đó của lịch sử. Không phải chưa từng
có cuốn hồi ki nào bị cấm xuất bản hay bị Cục Văn hóa thông tin cấm lưu hành
(trường hợp hồi kí của Nguyễn Đăng Mạnh). Lịch sử vẫn diễn ra liên tục, người
viết hồi kí mang sứ mệnh như một nhà sử gia, ghi chép và phản ánh chân thực
đời sống xã hội này chứ không phải tô nhọ, bôi đen hay bóp méo, xuyên tạc sự
thật, con người nào đó. Nếu đi quá xa, người viết hồi kí không những sẽ làm ảnh
hưởng tới cuộc sống của người khác mà còn xúc phạm đến danh dự của người
khác. Khi viết hồi kí, không thể vì ý nghĩa cá nhân mà sao lãng mối quan hệ với
đồng loại. Khi ấy, chính người viết hồi kí sẽ trở thành “thủ phạm” bóp méo hình
ảnh của mình. Hồi kí dựa trên sự hồi tưởng của kí ức một cách khách quan góp
phần xác minh khôi phục sự thật lịch sử, liên quan đến một thời đại, một cộng
đồng lớn hoặc nhỏ, cho đến một nhóm người hoặc một cá nhân. Trong những
trường hợp nào đó, hồi kí nhằm đính chính lại những sai lầm về nhận thức quá
khứ, trả lại công bằng và công lao đích thực cho những nhân vật bị lãng quên
hay bị hiểu lầm, tìm lại chính xác nguyên nhân của những thất bại, những thiếu
sót trước đây. Như thế có thể thấy, hồi kí là một phương tiện hữu hiệu để con
người bày tỏ quan điểm một cách công khai về chính bản thân mình cũng như về
16
người khác, để thực hiện trên diễn đàn công khai sự minh oan chính đáng cho
những con người mà mình yêu mến, cảm phục. Nhưng viết hồi kí cũng là một
công việc thực sự khó khăn, bởi mấy ai can đảm nhìn vào sự thật một cách công
tâm, khách quan, nhất là những sự thật phũ phàng. Khi nói không đúng sự thật
thì không phải là hồi kí nữa. Viết hồi kí là đấu tranh với bản thân mình.
Ở góc độ là một tác phẩm văn học, hồi kí là nơi để người viết giãi bày tâm sự,
bộc lộ suy ngẫm của mình, có thể liên quan đến cuộc đời, lẽ sống và cả đến
những vấn đề lớn lao của nhân loại, của đất nước. Yêu cầu giãi bày hay bộc lộ
này thường gặp ở những người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sáng tạo nghệ
thuật hay hoạt dộng chính trị - xã hội. Rất nhiều người trong số họ đã để toàn bộ
tâm sức còn lại vào những năm tháng cuối cùng của mình để có được một thiên
hồi kí như cầu mong sự đồng cảm của người đời nay và cả người đời sau.
Từ những trang hồi kí văn học của các nhà văn, nhà thơ bên cạnh tư liệu lịch
sử, cuộc sống chúng ta còn tìm thấy rất nhiều tư liệu quý giá về người viết như
quá khứ tuổi thơ, gia cảnh gia đình, mối quan hệ bạn bè…Cái người ta mong đợi
nhất ở một cuốn hồi kí chính là phần liên quan đến nghề nghiệp của tác giả trên
nền chung của xã hội mà nghề đó có liên quan. Đọc hồi kí của Tố Hữu, ta thấy
ông đã khẳng định mình thuộc dòng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Hay
Lưu Trọng Lư tự đánh giá mình trong Nửa đêm sực tỉnh qua lời nhận xét của cụ
Phan Khôi về tập truyện ngắn “Người sơn nhân”: “Tôi là người viết truyện giỏi
nhất, từ Hoàng Ngọc Phách đến Tự lực văn đoàn cũng không ai hơn tôi”. Tô
Hoài lại rất tâm đắc với câu nói về mình “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba
mươi năm trước 1945, và viết như chạy thi”.
Tuy nhiên vị trí của hồi kí chưa được chú ý nhiều. Xuân Diệu cũng suy nghĩ
“hồi kí nước mình như một thửa ruộng bắt đầu cày; không ai, hay ít ai chịu viết
17
hồi kí trong khi ở các nước Âu Tây người ta đào sâu từng li, từng tí vào các kỉ
niệm. Các nhà văn ở nước mình ít ai kể lại tỉ mỉ về mình, cũng như thể người ta
ăn mía nhai dâp dập đã nhả bã. Sống qua loa đại khái, chưa hút hết nước mía đã
nhả bả rồi” (3;121).
Do đó, viết hồi kí và nghiên cứu về hồi kí cần được chú ý nhiều hơn nữa. Một
mặt để xây dựng được kho tư liệu sử quý giá, một mặt để có định hướng phát
triển với tương lai. Hồi kí tập trung vào cái đã qua, vào ấn tượng của quá khứ
nên tất nhiên nó sẽ phản ánh, phong tục tập quán, hay đặc điểm cuộc sống của
con người và xã hội thời đó. Đấy là nguồn tư liệu xác đáng và vô cùng dồi dào,
phục vụ đắc lực cho công tác nghiên cứu lịch sử, xã hội, văn hoá… khi nó thực
sự có giá trị và tuân thủ đúng chức năng của một tác phẩm văn học: nhận thức –
giáo dục – thẩm mĩ.
1.2 Hồi kí trong văn học Việt Nam hiện đại
Viết hồi kí là một nhu cầu chính đáng của mỗi người khi muốn kể lại cuộc
đời của mình hay kể lại một giai đoạn lịch sử đáng nhớ nào đó mà mình là nhân
chứng. Đại hội Đảng năm 1986 không chỉ đặt gạch dấu đầu tiên cho sự nghiệp
Đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực xã hội mà còn đặt ra vấn đề đổi mới văn học
nước nhà. Không phải ngẫu nhiên mà từ cuối những năm 1990 của thế kỉ XX thể
loại hồi kí lại phát triển nhanh mạnh đến thế. Sự ra đời hàng loạt tác phẩm hồi kí
đặc biệt của các nhà văn, nhà thơ đã tạo nên không khí vô cùng sinh động cho
văn học Việt Nam. Nhiều sự kiện văn học, nhiều số phận cùng vô vàn vấn đề
phức tạp của quá khứ gần xa…được trải lên mặt giấy.
Có người viết để tái hiện một thời đại lịch sử với những nhân vật của thời đại
đó. Có người viết để suy ngẫm hay độc thoại với chính mình. Có người viết để
tôn vinh, để bày tỏ tình cảm với người khác…Có nhiều tác phẩm được xuất bản
18
tạo được một ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Nhiều cuốn hồi kí đã xuất bản từ
lâu khi tái bản vẫn được độc giả yêu mến đón nhận. Cho đến nay, số lượng hồi kí
trong văn học Việt Nam hiện đại là vô cùng đồ sộ và phong phú, bao gồm cả
những tác phẩm được xuất bản thành sách và hàng trăm trang hồi kí đăng tản
mát trên các báo, tạp chí…đã tạo nên bức tranh sinh động trong nền văn học
nước nhà. Tác giả của các cuốn hồi kí không chỉ là những người hoạt động trong
lĩnh vực văn chương, mà còn thuộc nhiều ngành nghề khác nhau: chính trị gia,
ca sĩ, cầu thủ bóng đá, diễn viên, người mẫu… Thậm chí, đôi khi có những
người còn xem viết hồi kí là một cơ hội để nổi tiếng, chứ không hẳn chỉ đơn giản
là nhìn lại quãng thời gian đã sống và trải nghiệm của mình. Chính vì thế không
phải tác phẩm hồi kí nào cũng thực sự có giá trị cho người đọc. Hồi kí phải tôn
trọng sự thực lịch sử, xã hội, kể lại nó với tất cả diễn biến như đã diễn ra, nhưng
khi sự thật đó được tung ra trước công chúng rộng rãi thì không phải chỉ là
chuyện quyền được nói, quyền được biết nữa. Người viết hồi kí không thể vin
vào chiêu bài “sự thật trên hết”, “sự thật lên tiếng” mà quên đi hậu quả xã hội
của nó. Ở đây, chúng tôi chỉ xin được nói tới hồi kí của các nhà văn, nhà thơ, nhà
lí luận phê bình văn học, tức là những tác giả sống và gắn bó với văn chương
nghệ thuật. Hầu hết tác phẩm của họ đều có giá trị đóng góp cho đời sống văn
học Việt Nam hiện đại. Các tác giả phần lớn đều trưởng thành từ trước Cách
mạng tháng tám, trải qua hai cuộc kháng chiến và chứng kiến nhiều biến động
lớn của văn học nước nhà. Hồi kí của họ ra đời cũng tạo nên những tiếng vang
nhất định. Nhiều sự kiện văn học trong quá khứ, nhiều số phận, gương mặt được
tái hiện lại theo cách nhìn mới.
Nhóm nhà văn có: Nguyên Hồng với Những ngày thơ ấu, Nguyễn Công Hoan
với Đời viết văn của tôi, Tô Hoài với Cỏ dại, Tự truyện, Những gương mặt –
19
chân dung văn học, Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Vũ Bằng với Bốn mươi năm
nói láo, Phan Tứ với Trong mưa núi, Bùi Hiển với Bạn bè một thuở, Duy Khán
với Tuổi thơ im lặng, Phùng Quán với Tuổi thơ dữ dội…Trong đó, Tô Hoài là
cây bút viết nhiều, viết khỏe hơn cả. Cỏ dại (1943) là kí ức của tuổi thơ bất hạnh,
nhọc nhằn. Cát bụi chân ai (1992) là cái nhìn cận cảnh chân thực, sâu sắc và có
phần tàn nhẫn khi nói đến một số nghệ sĩ lớn. Chiều chiều (1999) đầy ắp sự kiện
quen và lạ trong cuộc sống đời thường cũng như cuộc sống văn học. Tự truyện
(1978) là chuyện cá nhân, gia đình, làng xóm với một màu xám, một điệu buồn
vì sự quẩn quanh bế tắc. Những gương mặt – những chân dung văn học (1988)
được dành đề viết về các cây bút văn xuôi cùng thế hệ, những người bạn thơ văn
bằng giọng điệu hóm hỉnh mà không khinh bạc, trần trụi mà đáng nhớ vô cùng.
Vũ Bằng trong Bốn mươi năm nói láo phát hiện và miêu tả những khía cạnh
nhếch nhác, những thói tật gàn dở, nhiều khi thành chướng cách “hơi điên điên”
ở người nghệ sĩ. Vũ Bằng trình bày những điều đó với tư cách là người cùng hội
cùng thuyền, cùng tài cùng tật, cùng một kiếp “văn tinh chiếu mệnh”. Cũng với
cách viết dung dị, chân thực như Tô Hoài, Vũ Bằng đã tái hiện rõ ràng không khí
sinh hoạt văn chương nghệ thuật thời bấy giờ.
Những ngày thơ ấu, Tuổi thơ im lặng, Tuổi thơ dữ dội, đúng như tên gọi là
bức tranh chân thực về tuổi thơ vất vả, buồn rầu không thể nào quên được. Đời
viết văn của tôi là tâm sự của Nguyễn Công Hoan về cuộc sống văn chương, số
phận văn chương của ông.
Nhóm các nhà thơ phải kể đến các thi sĩ của phong trào Thơ mới. Lưu
Trọng Lư cho ra đời cuốn Nửa đêm sực tỉnh năm 1989 là sự hồi tưởng lại những
mối tình nên thơ, phần nào khắc họa về đời sống văn học với những nhà văn tên
tuổi. Thi sĩ Anh Thơ với Từ bến sông Thương (1984) đã làm một bước đột phá
20
vượt qua sự kín đáo nữ tính để đi đến bộc lộ, giãi bày tình cảm bằng chính cuộc
đời mình: tư tưởng vươn lên, ý thức tự giải phóng ra khỏi những định kiến, trở
ngại của xã hội. Sau đó là hai cuốn Tiếng chim tu hú, Bên dòng chia cắt và năm
2000 in chung thành bộ Hồi ký Anh Thơ. Tiếng chim tu hú được viết ở Pari vào
tháng 3-1994; Bên dòng chia cắt hoàn thành tại Hà Nội vào cuối năm 2000. Qua
đó, chân dung của tác giả và của nhiều văn nghệ sĩ thời trước tháng 8-1945 cũng
như trong cuộc cách mạng trường chinh của dân tộc được miêu tả đậm nét.
Còn Nguyễn Vỹ ở tác phẩm Văn thi sĩ tiền chiến (1994) với một cách kể
tự nhiên, dung dị và nhiều chỗ đã phác họa ra được những chân dung sống động,
những khoảng cách giữa hiện tại và quá khứ không có độ chênh lệch khác biệt
lắm, những kỷ niệm, những vui buồn hằng ngày trong mối quan hệ giữa các văn
nhân thi sĩ với nhau, toàn những chuyện người đọc muốn biết mà ít có điều kiện
để biết được thấy ở đây.
Bên cạnh đó còn có hồi ký của các tác giả như Vũ Hoàng Chương: Ta đã
làm chi cho đời ta, Nguyễn Xuân Sanh: Những gương mặt đáng yêu (2001).
Một gương mặt nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam không thể không
nhắc đến đó là Tố Hữu – thi sĩ cách mạng với hồi kí Nhớ lại một thời (2000). Tố
Hữu, đã tái hiện lại một thời hoạt động và một thời làm thơ. Với quan niệm thơ
là đời, Tố Hữu kể về những con người đã đánh thức tâm hồn ông, giác ngộ lí
tưởng cách mạng cho ông, về những con người đã đi vào thơ ông. Thơ ca và
chính trị không tách rời nhau, với Tô Hữu sống là phải làm thơ và hoạt động.
Những ngày tháng gian khổ, tù tội, vượt ngục cũng được ông kể lại tường tận.
Nhóm các nhà nghiên cứu, phê bình văn học cũng phong phú về số lượng và
có nhiều tác phẩm giá trị. Hồi ký Đặng Thai Mai (tái bản năm 2000) là niềm tự
hào về truyền thống gia đình, sự tu dưỡng nghệ thuật, một nhật lệnh thượng khẩn
21
trong tình thế văn hóa lúc bấy giờ. Nguyễn Hiến Lê với cuốn Hồi ký Nguyễn
Hiến Lê xuất bản lần đầu 1985 và tái bản có bổ sung vào năm 2000. Cuộc đời tác
giả trực tuyến trôi cùng dòng chảy thời gian, trải qua bao thăng trầm của lịch sử.
Ở đây tác giả nghiêng về những đánh giá chính mình. Qua quan niệm dịch văn
học, quan niệm viết sách, người đọc nhận ra một học giả đầy nhân cách và đáng
khâm phục về những đóng góp cho văn học nước nhà.
Vũ Ngọc Phan viết Những năm tháng ấy (1987) với quan niệm “Mình viết
về mình nếu không tốt đẹp thì cũng đầy thơ mộng. Điều quan trọng là nó có biểu
hiện tính chân thật hay không”. Trên quan niệm đó, từ những câu chuyện của kí
ức tác giả đánh giá những nhà văn, tác phẩm của họ rồi tập trung đánh giá công
tác phê bình của văn học nước nhà trước Cách mạng tháng Tám. Cuốn hồi kí là
cái nhìn chân thực, thẳng thắn vào một sự tồn tại của phê bình văn học là chủ
quan, cảm tính. Ngoài ra có thể kế đến Tầm xuân (1999) của giáo sư Đặng Anh
Đào – thế hệ phê bình sau Cách mạng tháng Tám - thiên về tư liệu của quá khứ,
tập hợp những lời nói, cử chỉ, sự việc xảy ra trong đời, đặc biệt là hình ảnh người
cha – giáo sư Đặng Thai Mai. Với sự chính xác và cô đọng trong cách viết, ít lời
mà nhiều gợi mở, một thực tại của quá khứ được sàng lọc. Năm 1987, Đào Xuân
Quý bắt tay viết cuốn Nhớ lại và hoàn thành vào năm 1990, xuất bản năm 2002.
Đây là cuốn hồi ký đi vào những hiện tượng văn học một thời, đặc biệt dựng lại
một không khí sinh hoạt văn học: Đại hội Nhà văn; những nhận xét có tính lý
luận như quan niệm văn học, dịch văn học như thế nào?
Mỗi cuốn hồi kí là một nguồn tư liệu quý báu về bản thân tác giả và muôn
mặt của đời sống xã hội quanh họ.Các tác phẩm đó luôn mang cái nhìn thật chân
thực và rất mực dung dị về người văn, nghề văn, không bao giờ thần thánh hóa
con người nghệ sĩ, hoặc thần bí hóa hoạt động sáng tạo của văn nghệ của họ. Dù
22
viết về quá khứ, nhưng hồi kí mang giá trị thực tại to lớn. Đó là những bài học,
tư liệu cho người đương thời.
Nhìn chung số lượng các nhà văn viết hồi kí có nhiều hơn so với việc viết hồi
kí của các nhà thơ. Những cuốn hồi kí của các nhà thơ mà chúng tôi khảo sát
nằm trong số ít đó. Đặc biệt, các tác phẩm này đều là “đứa con tinh thần” của ba
nhà thơ mới tiêu biểu, những gương mặt thân thiết của làng văn nghệ.
1.3 Hồi kí của Lưu Trọng Lư – Huy Cận – Xuân Diệu
Hồi kí không phải là thể loại sở trường của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân
Diệu. Trong sự nghiệp của các ông, thơ mới chính là thể loại yêu thích, và thành
công. Tuy nhiên, các nhà thơ lại có những suy nghĩ rất nghiêm túc về hồi kí, và
xem đây là một thể loại rất đặc biệt. Huy Cận băn khoăn về những câu chuyện
nên hay không nên kể lại và rồi ông quyết định “nhưng tôi nghĩ cứ nên ghi, cứ
nên kể vì đây là đời mình, đời xương thịt, nó chứa đựng cả đời tâm hồn và làm
nền cho đời tâm hồn. Và lại ai cũng chỉ sống có một đời, tôi không kể đời tôi
trọn vẹn thì ai sẽ kể thay cho tôi trong thăm thẳm của thời gian.”(5;54-55). Chính
suy nghĩ đó đã thôi thúc Huy Cận phải kể chi tiết và kể chân thực về cuộc đời
của mình. Thi sĩ tài hoa Xuân Diệu cũng cho rằng “Tôi nghĩ rằng mỗi con người
có nhiệm vụ phải đào sâu vào kỉ niệm của mình, vào quá khứ tình cảm của mình
để làm giàu thêm cái vốn nhân đạo trong mỗi con người chúng ta(…)Chính nhà
văn kể lại tuổi ấu thơ của mình sẽ làm cho các em thiếu niên có tâm hồn, nuôi
dưỡng tình cảm”(3;122 ) Như vậy là ông đã nhận thức và đề cao giá trị giáo dục
của những tác phẩm hồi kí chân chính – đứa con tinh thần của người nghệ sĩ.
Qua những câu chuyện về cuộc đời của người viết, độc giả, đặc biệt là độc giả
trẻ tuổi sẽ tìm thấy nhiều bài học bổ ích, nhiều kiến thức phong phú, có giá trị.
Xuân Diệu không ngần ngại kể cho chúng ta về tuổi thơ bất hạnh của ông, về
23
những tháng ngày đi học, về những gương mặt đáng nhớ đã in dấu trong cuộc
đời nhà thơ. “Tôi thấy những kỉ niệm như thế là một thế giới phong phú, nếu
mình kể cho con em mình nghe thì tâm hồn của chúng được giàu thêm. Chúng sẽ
căm thù lạc hậu, nghèo khổ…Chúng ta chớ làm lòng con người khô cạn, coi
những tình cảm thường là tình cảm nhỏ. Có những cuộc đời bình thường mà vĩ
đại, nhưng cũng phải nói thêm: bình thương và sâu sắc nữa chứ(…) Tôi hơi tiếc
là tôi hầu như không bỏ thì giờ vào việc viết hồi kí để nhớ lại cái thế giới rất là
phong phú của tuổi nhỏ, vì con người từ 7,8 tuổi đến 20 tuổi là ở trong thời kì
phong phú nhất của tình cảm. Tôi nghĩ rằng chúng ta xây dựng con người mới
không chỉ xây dựng bằng tư tưởng, mà còn phải xây dựng bằng nội tâm nữa.
Chính nội tâm mới đẻ ra tình cảm, mà tình cảm mới làm hậu thuẫn cho tư tưởng”
(3;124)
Dù tác phẩm hồi kí của các nhà thơ không nhiều, nhưng thực sự là những
cuốn hồi kí có giá trị. Giá trị đầu tiên nằm ở ngay mục đích sáng tác. Có hai cuốn
được viết khá sớm Những bước đường tư tưởng của tôi (Xuân Diệu 1958), Mùa
thu lớn (Lưu Trọng Lư-1978), Hồi kí song đôi (Huy Cận) viết năm 1986 đến
năm 2002 xuất bản có bổ sung phần hồi kí của Xuân Diệu và Nửa đêm sực tỉnh
(Lưu Trọng Lư) viết năm 1989 cũng được chỉnh sửa lại cho xuất bản năm 2001.
Hồi kí song đôi có ghi rõ tập 1, tập 2 và trong mỗi tập cũng lại tách bạch các
phần, các câu chuyện. Hồi kí song đôi đúng như nhan đề mà tác giả đặt, không
chỉ là hồi kí của Huy Cận mà còn là hồi kí của Xuân Diệu. Hai cuộc đời, hai quá
khứ của hai người bạn thân thiết bậc nhất trong văn học Việt Nam hiện đại.
Cuốn hồi kí này song song đồng thời cung cấp cho người đọc bức chân dung
cuộc sống, những ấn tượng không bao giờ phai mời của hai nhà thơ Huy Cận và
Xuân Diệu. Hồi kí được viết sau ngày Xuân Diệu mất cho nên phần hồi kí của