Tải bản đầy đủ (.pdf) (225 trang)

Nhân vật Stephen Dedalus của James Joyce và môtíp mê cung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 225 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN LINH CHI



NHÂN VẬT STEPHEN DEDALUS CỦA JAMES JOYCE
VÀ MÔTIP MÊ CUNG



Chuyên ngành
Mã số
: Văn học Anh
: 62 22 30 10


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH VĂN HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
GS. Phùng Văn Tửu




HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 4
2.1. James Joyce trong phê bình – nghiên cứu văn học ở Việt Nam 4
2.2. Các tài liệu nghiên cứu dịch ra tiếng Việt 9
2.3. James Joyce trong phê bình - nghiên cứu văn học ở nước ngoài . 10
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 21
4. Phạm vi, đối tƣợng và mục đích nghiên cứu 22
4.1. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: 22
4.2. Mục đích nghiên cứu 22
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 23
6. Bố cục của luận án 23
CHƢƠNG 1 KIẾN TẠO MÊ CUNG 24
1.1 Stephen Dedalus và James Joyce 25
1.1.1 Hai cá thể đồng nhất 25
1.1.2 Hai cá thể tương ứng 31
1.1.3 Hai cá thể độc lập 39
1.2 Tính chất tạp chủng của văn bản 46
1.2.1 Tiểu thuyết, tự thuật, ghi chép hay nhật ký 46
1.2.2 Một cõi hỗn mang 53
1.3 Tiểu thuyết James Joyce và sử thi Homer 62
1.3.1 Cặp nhan đề Ulysses - Odyssey 64
1.3.2 Cặp nhân vật Leopold Bloom – Odysseus 70
1.3.3 Cặp nhân vật Stephen - Telemachus 80

Tiểu kết 86



CHƢƠNG 2 BỊ GIAM CẦM TRONG MÊ CUNG 87
2.1 Lúng túng trong tín ngƣỡng tôn giáo 88
2.1.1 Khát thèm và sợ hãi 88
2.1.2 Chối bỏ và đau đớn 94
2.2 Lúng túng trƣớc tinh thần dân tộc 104
2.2.1 Dân tộc hay đại đồng quốc tế 104
2.2.2 Bạo lực hay tình yêu 111
2.3 Lúng túng về công cụ ngôn ngữ 117
2.3.1 Tiếng Gaelic hay tiếng Anh 117
2.3.2 Những “ngôn từ chết” 126
Tiểu kết 131
CHƢƠNG 3 THOÁT RA KHỎI MÊ CUNG 132
3.1 “Epiphany” 133
3.2 Tự do 152
3.2.1 Tự do tôn giáo 152
3.2.2 “Anh có phải là người Ailen không?” 160
3.2.3 Tự do ngôn ngữ 164
3.3 Sáng tạo- mê cung của lối viết 168
3.3.1 Đằng sau những lời chỉ dẫn 170
3.3.2 Trò chơi của ngôn từ 174
3.3.3 Độc thoại nội tâm và Dòng ý thức 180
Tiểu kết 193
KẾT LUẬN 195
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 200
TÀI LIỆU THAM KHẢO 201
PHỤ LỤC 214

BẢNG TRA CỨU 221

3

M U
1. Lớ do chn ti
1.1. Có lẽ không mấy ng-ời của thế kỉ XX truyền đ-ợc cảm hứng cho việc nghiên
cứu và bình luận nhiều nh- nhà văn Ailen James Joyce (1882-1941). J. Joyce là
ng-ời Ailen. Nh-ng khi viết về văn học Anh, các nhà nghiên cứu đều dành cho Joyce
một vị trí trang trọng trong lịch sử văn học Anh. Ông còn giữ một vai trò vô cùng
quan trọng trong công cuộc đổi mới của văn xuôi hiện đại ph-ơng Tây. Ng-ời ta đã
gãn tên tuồi ông vỡi cuốc cch mng vẹ ngôn tú v kỳ thuật viễt cùa chù nghĩa hiến
đại.
1.2. Khi tiếp cận sáng tác của Joyce, thoạt tiên chúng tôi thấy có lẽ không phải vô
cớ mà ông đặt cho nhân vật chính của mình tên Stephen Dedalus. Bởi Dedale
(Daedalus) là một cái tên vô cùng quen thuộc trong văn học ph-ơng Tây, xuất phát từ
huyền thoại Hy Lạp cổ. Từ băn khoăn đó, chúng tôi tự hỏi không biết có mối liên hệ
gì giữa nhân vật Dedalus của Joyce với huyền thoại? Và gắn với huyền thoại phải
chăng là gắn với mê cung? Những băn khoăn trên là nguyên do khiến chúng tôi
h-ớng vào tìm hiểu nhân vật Stephen Dedalus trong sáng tác của J. Joyce.
1.3. Tác phẩm của Joyce thực sự có ý nghĩa thời sự dai dẳng đối với văn học hiện
đại ph-ơng Tây. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về J. Joyce với những h-ớng
đi khác nhau. Nh-ng qua khảo sát, chúng tôi thấy chỉ có vài nhà nghiên cứu đề cập lẻ
tẻ tới vấn đề mê cung trong tác phẩm của ông. Còn chúng tôi lại cảm thấy mê cung
hiện diện khắp nơi và đã trở thành một môtíp trong tiểu thuyết của Joyce. Đây chính
là sợi chỉ đỏ liên kết toàn bộ các thành tố trong tác phẩm của nhà văn ấy. Lý do thứ
ba này củng cố thêm cho định h-ớng của chúng tôi nhằm tìm hiểu tác phẩm của
Joyce ở khía cạnh nhân vật Dedalus trong mối quan hệ với môtip mê cung.
1.4. Kiệt tác Ulysses gồm m-ời tám ch-ơng. J. Joyce dùng m-ời tám màu sắc,
m-ời tám bộ phận cơ thể và m-ời tám kỹ thuật để viết m-ời tám ch-ơng sách. Kỹ

thuật ông dùng để viết ch-ơng thứ m-ời (The Wandering Rocks), ông gọi là kỹ thuật
mê cung. Đây l mốt gới ỷ quan tróng cho chủng tôi. Nhng chủng tôi nhận thấy
kỹ thuật ấy không chỉ đ-ợc vận dụng cho ch-ơng X tiểu thuyết Ulysses mà cho toàn
bộ các tác phẩm của nhà văn. Lý do thứ t- và cũng là lý do cuối cùng này giúp chúng

4

tôi khẳng định mê cung trở thành một môtíp và có mối liên hệ với nhân vật mang tên
Dedalus.
Vì những lý do đã đ-a ra ở trên, chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài Nhân vật
Stephen Dedalus của James Joyce và môtip mê cung để khám phá mối liên quan
giữa nhân vật với môtip mê cung. Hy vọng từ góc độ này chúng tôi có thể góp thêm
một cách nhìn vào việc giải mã tác phẩm của Joyce.

2. Lch s vn
Sáng tác của Joyce ch-a đ-ợc quan tâm nhiều ở Việt Nam. Đứng tr-ớc kho t- liệu
vô cùng phong phú về Joyce bằng tiếng n-ớc ngoài, chúng tôi, với khả năng có hạn
của mình, chắc là khó có thể bao quát đ-ợc đầy đủ. Chúng tôi phân loại những công
trình nghiên cứu thành ba phần: công trình của các nhà nghiên cứu Việt Nam, công
trình của các nhà nghiên cứu n-ớc ngoài đã dịch ra tiếng Việt và những công trình
bằng tiếng n-ớc ngoài chủ yếu của các nhà nghiên cứu ph-ơng Tây. Trong mỗi phần,
để tiện theo dõi, chúng tôi sắp xếp theo trình tự thời gian. Tổng số tài liệu tham khảo
chúng tôi có trong tay đến thời điểm này là 188, trong đó 59 công trình bằng tiếng
Việt, 129 công trình bằng tiếng n-ớc ngoài.
2.1. James Joyce trong phờ bỡnh nghiờn cu vn hc Vit Nam
Có thể nói, ở Việt Nam, tên tuổi Joyce chỉ đ-ợc các nhà nghiên cứu và giảng dạy
văn học biết đến, còn đối với bạn đọc, cái tên đó vẫn hầu nh- hoàn toàn xa lạ. Ngay
cả ở giới nghiên cứu, cũng ch-a hề có một công trình nào tập trung nghiên cứu về
Joyce t-ơng đối đầy đủ. Tên ông đ-ợc nhắc rải rác đây đó trong các cuốn sách, các
bài báo khi ng-ời ta nói về sự đổi mới của Tiểu thuyết hiện đại, về trào l-u Tiểu

Thuyết Mới.
2.1.1. Trong những năm 70, 80 của thế kỉ tr-ớc, các nhà nghiên cứu văn học n-ớc
ngoài ở Việt Nam bắt đầu quan tâm đến J. Joyce. Ph-ơng Tây, văn học và con
ng-ời, Hoàng Trinh, 1969; Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học ph-ơng
Tây, Đỗ Đức Dục, 1971; Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, Đỗ Đức Hiểu,
1978; Về t- t-ởng và văn học hiện đại ph-ơng Tây, Phạm Văn Sĩ, 1986 là những
công trình bắt đầu tiếp cận với những thử nghiệm mới mẻ của Joyce. Nhan đề cuốn

5

sách của Đỗ Đức Hiểu đã nói lên quan điểm của ông về văn học hiện sinh. Trong
phần viết về Kafka, ông chỉ dành một đôi dòng nhắc đến Joyce trên cơ sở phân tích
nhừng đnh gi cùa cc nh Tiều Thuyễt Mỡi: cùng với Proust
*
và Joyce, Kafka là
ngội đ khai tụ cho tiều thuyễt bô lo kiều Balzac và mở đầu cho một thời đại
mỡi cùa tiều thuyễt, tú tiều thuyễt dòng ỷ thửc đễn tiều thuyễt mỡi [22, 85]. Hoàng
Trinh vẫn xễp Joyce v Proust vo hng ng nhừng nh văn thuốc tro lu văn hóc
duy tâm t- sản chán ch-ờng tr-ớc cuộc sống, đang hiệp đồng chống lại văn học hiện
thữc phê phn v văn hóc cch mng cùa giai cấp vô sn [51, 210]. Mặc dù thừa
nhận vai trò ngội khai sng cho kự nguyên tiều thuyễt hiến đi cùa châu Âu ờ thễ
kự XX [51, 216] cùa Joyce nhng Hong Trinh không mấy tn đọng vỡi kỳ thuật
phanh xẽ thội gian [51, 219] trong tiều thuyễt cùa Joyce. Thữc ra, sữ mơ họ, rỗi
rãm m Hong Trinh nhận thấy trong Ulysses cũng là điều đã gây ra nhiều phiền
toái cho cả các nhà nghiên cứu - phê bình văn học ph-ơng Tây. Rõ ràng hơn, trong
Về t- t-ởng và văn học hiện đại ph-ơng Tây, Phm Văn Sĩ đ xem Joyce nh mốt
nhà hiện sinh chủ nghĩa mà tiểu thuyết thể hiện sự bại hoại của nhân vật, thể hiện ý
thửc c nhân đầy lo âu [45, 102]. Đỗ Đức Dục nhắc tới những khám phá của các nhà
tiểu thuyết hiện đại trong việc thể hiện tiềm thức, vô thức, trực giác và bản năng của
con ng-ời

Nguyễn Đức Nam đã tỏ rõ sự quan tâm của mình tới sáng tác của Joyce khi ông
dành hẳn một bài viết về Joyce trên tạp chí Văn học số 5/1978. Ông cho rằng tác
phẩm A Portrait of the Artist as a Young Man (ông dịch là Một chân dung của
ng-ời nghệ sĩ thời trẻ) cõ ỷ nghĩa to lỡn trong qu trệnh sng tc cùa nh văn. Nõ
chứng tỏ những khả năng to lớn của nhà nghệ sĩ, đồng thời cũng phơi bày nguồn gốc
nhừng sửc mnh cuỗi cợng đ đè bép ti năng cùa ông [33, 140]. Nguyễn Đức Nam
cũng không có mấy lạc quan khi nhìn nhận về sự nghiệp văn ch-ơng của J. Joyce.
Nh- vậy, các tác giả của những công trình vừa nhắc đến ở trên tuy xuất phát từ
nhiều quan điểm khác nhau nh-ng cùng thống nhất ở điểm ch-a đánh giá cao những



*
Tr-ớc đây tên các nhà văn ph-ơng Tây th-ờng đ-ợc phiên âm trong các tài liệu tiếng Việt. Chúng
tôi xin phép khôi phục lại nguyên dạng cho nhất quán .


6

thụ nghiếm cùa Joyce. Hó coi nhừng tệm tòi, khm ph đõ l không mch lạc và
lan man, cha thấy đớc ỷ nghĩa cùa nhừng lan man không mch lc ấy.
2.1.2. Mở ra một h-ớng khám phá mới mẻ và chuyên sâu hơn đối với tiểu thuyết
ph-ơng Tây hiện đại nói chung và sáng tác của Joyce nói riêng là một loạt những
sách giáo trình và chuyên luận ra đời từ những năm cuối thập kỉ 90 của thế kỉ XX:
Lịch sử văn học Anh, Nguyễn Thành Thống, 1997; Văn học ph-ơng Tây - Nhiều
tác giả- 1999; Một vài g-ơng mặt văn xuôi Pháp thế kỷ XX, Đặng Thị Hạnh, 2000;
Văn học Mỹ - mấy vấn đề và tác giả, Lê Đình Cúc, 2001
Nguyễn Thành Thống nêu những đóng góp to lớn của Joyce vào văn ch-ơng hiện
đại thế giới, đồng thời đ-a ra những trích đoạn các tác phẩm của ông để sinh viên
phân tích. Vì là một giáo trình giảng dạy văn học Anh cho sinh viên ngoại ngữ, nên

những trích đoạn tiểu thuyết đều ngắn và ở dạng nguyên ngữ. Lê Đình Cúc dành đôi
dòng nõi vẹ cuốc trỗn chy khi lịch sụ cùa nhân vật Stephen Dedalus. Đặng Thị
Hạnh sơ qua vài nét về h-ớng tìm tòi của tiểu thuyết ph-ơng Tây giữa hai cuộc chiến
với sự đóng góp đáng kể của Proust, Woolf và Joyce. Khi viết về kịch tác gia Bernard
Shaw trong Văn học Ph-ơng Tây, Phùng Văn Tửu điểm đôi nét về toàn cảnh nền văn
học Anh hiện đại trong đó có những nét về tiểu sử và sáng tác của Joyce với lời nhận
xẽt tồng hớp: đóc Joyce, phi cõ chệa kho riêng đề gii m mỡi hiều đớc, m
nhiều khi các chuyên gia vẹ Joyce cng không gii thích nồi [39, 605].
Cùng nằm trong xu h-ớng đổi mới trên, những nhà nghiên cứu về văn học ph-ơng
Tây của Việt Nam nh- Phùng Văn Tửu trong Tiểu thuyết Pháp hiện đại- những tìm
tòi đổi mới - 1990; hay Đặng Anh Đào trong Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết ph-ơng
Tây hiện đại - 2001 khi nhắc đến Joyce là nhắc đến kiệt tác của ông: Ulysses và
Finnegans Wake với nghệ thuật thể hiện thời gian đồng hiện và nghệ thuật dòng ý
thức. Tuy ch-a tập trung nhiều vào Joyce nh- đối với các nhà văn hiện đại khác,
nh-ng các chuyên luận này thực sự là những cánh cửa dẫn ta vào thế giới diệu kỳ của
sự đổi mới lối viết; nó gợi mở cho chúng ta những h-ớng tiếp cận văn bản vô cùng
mới mẻ. Có thể nói, ở Việt Nam, từ đó, Joyce mới đ-ợc tôn vinh nh- là một bậc thầy
của chủ nghĩa hiện đại.

7

Cùng là các nhà văn đ-ợc coi nh- những ng-ời đi tiên phong trong cuộc cách
mạng của văn học hiện đại, tên tuổi Joyce và Proust luôn đ-ợc nhắc đến mỗi khi
ng-ời ta bàn đến vấn đề này. Viết về thời gian nghệ thuật trong Đi tìm thời gian đã
mất của Marcel Proust, Lê Phong Tuyết đã nói đôi chút về vấn đề kĩ thuật dòng ý
thức trong sáng tác của Joyce. Bà cho rằng, với Ulysses, Joyce đ lm vở tung quan
hệ Thời gian-sự việc, Thời gian-không gian [48, 49]. Cũng nghiên cứu về thời gian
nghệ thuật trong tác phẩm của Proust, Đào Duy Hiệp lại dày công đi sâu về vấn đề
ny trong công trệnh luận n tiễn sĩ năm 2003. Ông khàng định: Tính đa chiẹu vẹ
thời gian trong sáng tác của Proust đã đ-ợc đẩy đi xa hơn đến dòng ý thức hay còn

đ-ợc gọi là dòng tâm t- ở các nhà văn nh- Dos Passos, Woolf, Joyce khiến cho các
nhà văn này luôn phải tham gia vào văn bản để phát biểu, lí giải, chỉ dẫn thì độc giả
mỡi cõ thề hiều nồi. Qu thữc, chính viếc trốn lẫn thội gian qu khử, hiến ti v
t-ơng lai vào trong một dòng chảy hỗn độn của ý thức đã góp phần khiến cho sáng
tác của Joyce trở nên khó tiếp cận. B-ớc vào cung điện lộng lẫy đó, chúng ta dễ
chong ngớp v nễu không cõ ngội dẫn động thệ khõ lòng tệm đớc lỗi ra! Chính
vì thế mà có nhà nghiên cứu đã nói rằng Joyce nên viết một cuốn từ điển để giải mã
tác phẩm của mình.
2.1.3. Năm 2005 trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI đánh dấu một b-ớc tiến
mới trong việc giới thiệu tác phẩm của Joyce đến với bạn đọc Việt Nam. Đặng Thị
Hạnh một lần nữa khẳng định vị trí kiệt xuất của Joyce, bên cạnh Proust và Kafka,
trên văn đàn thế giới thế kỉ XX trong bài viết Văn học Tây Âu thế kỉ XX: Những
vấn đề đặt ra từ các tác phẩm lớn. Theo quan điểm của bà, để hiểu đ-ợc tác phẩm
của Joyce (Ulysses), ngội đóc phi cõ mốt vỗn liễng kh sâu vẹ văn hõa v văn
hóc phơng Tây [19, 13]. Cho rng tc phẩm cùa Joyce còn lâu mỡi đớc dịch ờ
nỡc ta đọng thội b đề ng mốt kh năng nhng ai biễt trỡc đớc?. Kh thủ vị l
dự cảm của bà đã trở thành hiện thực sau khi bà viết bài báo này không lâu: tạp chí
Văn học N-ớc ngoài đã dành hẳn một số (số 6/2005) cho J. Joyce và văn học Ailen.
Dù mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu trích đoạn tiểu thuyết A Portrait of the Artist as

8

a Young Man
*
(Chân dung một nghệ sĩ thời trẻ) và một vài truyện ngắn của Joyce,
nh-ng đây thực sự là một công trình có giá trị khi nó mở ra tầm nhìn rộng rãi hơn cho
bạn đọc quan tâm đến văn ch-ơng hiện đại nói chung và Joyce nói riêng!
Năm 2009 tiếp tục đón nhận hai công trình nghiên cứu của Huy Liên và Lê Huy
Bắc. Tuy tập trung nghiên cứu Văn học Mỹ: nghệ thuật viết văn và kỹ xảo nh-ng tác
giả Huy Liên vẫn đề cập đến kỹ thuật dòng ý thức của J.Joyce trong khi so sánh với

cc nh văn Mỳ hiến đi v đơng đi. Ông cho rng: James Joyce trong Ulysses sử
dụng kỹ thuật dòng ý thức nhằm xáo trộn thời gian, khiến cho bản thân sự kiện không
còn quan trọng nữa, nó chỉ là xuất phát điểm gợi nên những hồi t-ởng và liên t-ởng
triền khai mốt cch tữ do trong tc phẩm [28, 255]. Đặc tr-ng truyện ngắn Anh-Mỹ
cùa Lê Huy Bãc đ dnh hàn mốt chơng đề nõi vẹ James Joyce v truyến ngãn
đỗn ngố. Tc gi đ tôn vinh vai trò cùa Joyce trong viếc khai ph v dẫn động
cho c mốt thễ kự văn chơng cùa nhân loi [5,195]. Cùng với việc tập truyện đầu
tay Dubliners (Ng-ời Dublin) của Joyce đ-ợc Vũ Mai Trang chuyển ngữ sang tiếng
Việt, công trình của Lê Huy Bắc chắc chắn sẽ giúp cho độc giả nói chung và giới
nghiên cứu văn học ph-ơng Tây nói riêng tiếp cận gần hơn nữa với nghệ thuật sáng
tác của một trong những nhà văn bậc thầy của thế kỷ XX.
Ngoài ra, chúng tôi xin phép không kể tên rất nhiều bài viết, các loại từ điển văn
học, các công trình nghiên cứu khác nữa cả có liên quan và không liên quan trực tiếp
tới đề tài của luận án nh-ng đã giúp chúng tôi trong quá trình nghiên cứu cũng nh-
định h-ớng ph-ơng pháp chung (xin xem thêm phần Tài liệu tham khảo).
Điểm qua các tài liệu nghiên cứu chúng tôi thu thập đ-ợc ở trên, có thể thấy rằng,
cùng với thời gian, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu chú ý hơn đối với những sáng tác
của Joyce. Sự quan tâm này thể hiện bằng số l-ợng và chất l-ợng các công trình viết
về Joyce ngày càng nhiều hơn. Tuy vậy, chúng tôi cũng ch-a thấy có một công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu về Joyce và sáng tác của ông liên quan tới đề tài luận án
của chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn và tự tin trong khi triển khai h-ớng nghiên
cứu của mình về nhân vật Stephen Dedalus trong mối quan hệ với môtip mê cung.



*
Từ đây, chúng tôi xin viết tắt tên tác phẩm là A Portrait

9


2.2. Cỏc ti liu nghiờn cu dch ra ting Vit
2.2.1. Trong những năm đầu thập kỉ 60 của thế kỉ XX, những công trình nghiên
cứu về tiểu thuyết hiện đại nh- Những m-u toan đổi mới trong nền tiểu thuyết hiện
đại - 1961; Số phận của tiểu thuyết-1963 đã thể hiện những ý kiến trái chiều nhau
khi nhận định về Joyce. Đề cập tới những đổi mới của nền tiểu thuyết hiện đại nh-ng
lại chỉ giới hạn ở các nhà Tiểu Thuyết Mới, nhất là Robbe-Grillet, nhà nghiên cứu
Nga V. Dnieprov trong Những m-u toan đổi mới trong nền tiểu thuyết hiện đại
d-ờng nh- cũng đã bỏ qua một trong những nhà cách tân lớn nhất của tiểu thuyết
hiện đại ph-ơng Tây. Trong khi đó, các nhà Tiểu Thuyết Mới đánh giá Joyce hết sức
cao, nhất là Nathalie Sarraute, nừ văn sĩ Php, coi tc phẩm cùa ông đ lm thay
đồi hàn diến mo văn hóc[40, 16]. Những nhận định trái chiều nh- thế cho thấy
những thể nghiệm đổi mới kỹ thuật tiểu thuyết của Joyce là vô cùng khác lạ ở thời
điểm bấy giờ.
2.2.2. Gần đây, năm 2003-2004, có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị đ-ợc
dịch sang tiếng Việt nh-: Tiểu thuyết hiện đại của Dorothy Brewster & John Burrell
và Thi pháp của huyền thoại của E.M.Meletinsky Meletinsky đã đề cập đến vấn đề
huyền thoại, trong đó có huyền thoại trong sáng tác của Joyce. Trong khi xếp những
tác phẩm của Joyce vào dạng thức của huyền thoại hiện đại, tác giả đã nói đến sự bào
mòn ranh giới giừa cc nhân vật, cc nhân vật không chỉ biến hóa lẫn nhau mà
còn bị tch ra v sãp xễp li, chia nh v nhân lên . Chủng ta sẻ thấy điẹu ny thề
hiện rõ ràng trong tác phẩm của Joyce, từ A Portrait đến Ulysses. Ngay việc định
hình nhân vật Dedalus cũng là một công việc không hề đơn giản. Xuất phát từ huyền
thoại trong cái tên của vị kiến trúc s- tài ba, trải qua nhiều lần hóa thân và phân thân
giữa ng-ời sáng tạo và sản phẩm sáng tạo, cuối cùng vẫn hiện diện một Dedalus đ-ợc
bao phủ trong lớp s-ơng mù kì diệu của cả huyền thoại và hiện thực. Meletinsky rất
nhiẹu lần nhãc đễn sữ lặp li, hay xoay tròn ti chổ trong cc đỗi snh huyẹn
thoại và các hình t-ợng trong tác phẩm của Joyce. Ông còn coi những đ-ờng ngang
ngõ tắt của thành phố Dublin l nhừng mê lố nơi Stephen Dedalus v Leopold
Bloom lang thang rất lâu m không gặp nhau [31, 411].


10

Trong Tiểu thuyết hiện đại, các tác giả khi bàn về tác phẩm A Portrait , đã nói
đễn cc mng lỡi (tú dùng trong tác phẩm của Joyce) bao bọc lấy nhân vật và cản
trở sự phát triển tri thức và sự nghiệp nghệ thuật của anh. Các tác giả khẳng định bút
pháp kì tài của Joyce, nhấn mạnh lối văn giễu nhại của ông Bên cạnh đó, cuốn sách
cũng xem xét Ulysses trong sự đối chiếu với Odyssey của nhà thơ Hy Lạp cổ đại
Homer, trên cơ sở đó nhấn mạnh đến cuộc phiêu l-u tinh thần của nhân vật Đây là
nhừng vấn đẹ quan tróng trong tiều thuyễt cùa Joyce. Nhừng mng lỡi m nhân
vật Dedalus v-ớng vào đó phi chăng cng chính l nhừng mê cung? Còn mê
cung m Meletinsky đề cập đến liệu có phải chỉ đơn giản là không gian vật chất của
thành phố Dublin?
Những công trình này chắc chắn là những tài liệu vô cùng quý giá đối với chúng
tôi khi triển khai luận án. Nhân vật Dedalus ở đây đ-ợc đặt trong cả hệ thống những
nhân vật khó định hình, mong manh của huyền thoại hiện đại. Việc các công trình
trên cõ nhãc đễn mê cung tuy chì nh mốt khi niếm thong qua nhng cng đ
giúp chúng tôi mạnh dạn tiến tới những khẳng định trong luận án của mình.
2.3. James Joyce trong phờ bỡnh - nghiờn cu vn hc nc ngoi
Mảng tài liệu viết về Joyce bằng tiếng n-ớc ngoài vô cùng đa dạng và phong phú.
Với sự phát triển của công nghệ thông tin, những ng-ời làm nghiên cứu chúng ta hôm
nay có điều kiện kết nối đ-ợc với kho tri thức vô tận của văn hóa nhân loại. Trong
điều kiện còn hạn chế về mặt kỹ thuật cũng nh- kỹ năng giao dịch thanh toán bằng
thẻ tín dụng, chúng tôi chỉ đặt mua đ-ợc một phần trong kho tài liệu khổng lồ đó,
phần còn lại có quyển chúng tôi in ra đ-ợc từ mạng internet, có quyển chúng tôi chỉ
có thể đọc tóm tắt ở dạng sách điện tử có bản quyền.
2.3.1. Nh- trên chúng tôi đã nói, tác phẩm của Joyce gây ra một cuộc tranh luận
kéo dài trong giới nghiên cứu - phê bình ph-ơng Tây ngay khi nó vừa ra mắt văn đàn.
Từ năm 1917 đến 1927, đã có khoảng gần ba trăm công trình lớn nhỏ đề cập đến lối
viết nh- một hiện t-ợng lạ của Joyce thời bấy giờ. Chúng tôi chỉ xin tổng hợp đ-a ra
vài ý kiến quan trọng theo cái nhìn chủ quan của mình.

Năm 1917 có thể đ-ợc xem nh- một khởi đầu thành công đối với sự nghiệp văn
ch-ơng của Joyce khi tên tuổi của ông chiếm lĩnh văn đàn và là mối quan tâm của

11

hầu hết các nhà nghiên cứu phê bình. Nhà thơ Mỹ Ezra Pound viễt nh reo: Tôi
tuyên bố rằng đó là một cuốn sách đáng đọc, rằng đó là một áng văn xuôi tuyết vội
[150,21]. Bản thân nhan đề bài viết At last the Novel Appears (Cuối cùng tiểu thuyết
xuất hiện) đã cho thấy hết niềm ng-ỡng mộ của Pound đối với A Portrait Cùng
quan điểm với Pound, nhà văn Anh H.G.Wells đ chủ ỷ hơn tỡi kỳ thuật viễt cùa
Joyce v nhãc đễn đố tin cậy trong nhân vật Stephen Dedalus. Trong khi Wells cho
rng ngội ta tin vo Stephen Dedalus nh tin vo mốt vi nhân vật trong tiều
thuyễt [171, 158], thì một số quan điểm khác đã hiện thực hóa hơn vai trò của nhân
vật này. Clutton-Brock tệm thấy li đớc hệnh bõng tuồi tr hoang di cùa chính
bản thân mình khi đọc A Portrait Hơn thế nữa, ông còn cho rằng cuốn sách thật
đặc biết vệ nõ mang tính chất ton thề [73, 103]. Cả hai nhà phê bình đ-ơng thời,
Francis Hackett và John Quinn, đều thống nhất ý kiến cho đây là một cuốn tiểu
thuyễt tữ thuật. Hó khàng định Joyce đ viễt vẹ chính bn thân ông đề bốc lố
nhừng hon cnh cùa cuốc đội ông [106, 138]. Bên cạnh nhiều ý kiến khẳng định thì
cũng có những nhà phê bình ngập ngừng tr-ớc thân phận của nhân vật Stephen
Dedalus. J.C. Squire muốn đứng ngoài cuộc tranh luận về thân phận hiện thực hay h-
cấu cùa nhân vật ny. Trong khi vấn đẹ đõ đang đớc tất c bo chí London bn
ci, thệ ông thn nhiên: Tôi không biễt mà cũng chẳng quan tâm cho dù nó có là
mốt cuỗn tiều thuyễt hay tữ thuật [163,40]. Ông đã nhìn nhận tác giả trên cả hai vai
trò: vừa là ng-ời ngoài cuộc vừa là ng-ời trong cuộc. Diego Angeli cũng không hoàn
toàn khẳng định yếu tố tự thuật chiếm vị trí chủ đạo trong khi Joyce xây dựng nhân
vật trung tâm Stephen Dedalus. Ông tch bch hai con ngội, ngội ny l mốt
ngội Ailen còn ngội kia l mốt nh văn. Nhng dẫu rỏ rng nh thễ, Angeli
cũng vẫn không phù nhận sữ giỗng nhau giừa hon cnh sỗng cùa Joyce v nhân
vật cùa ông. Ông cho rng, bời Joyce đ tri qua nhừng tri nghiếm giỗng nh

vậy v đ chịu đững nhừng cơn khùng hong giỗng nh vậy [63, 2] nên mới có thể
đ-a ra những phân tích sâu sắc và thấu hiểu đến thế với nhân vật của mình. Chúng tôi
sẻ nêu ỷ kiễn cùa mệnh vẹ vấn đẹ ny tú gõc đố mê cung trong luận n.
2.3.2. Phê bình ph-ơng Tây trong thập niên 20 của thế kỷ XX tiếp tục dành nhiều
quan tâm cho tác phẩm của Joyce. Những tranh luận về A Portrait (1916) ch-a kịp

12

lắng xuống, Ulysses (1922) lại đã thổi bùng lên một cuộc tranh luận khác, gay gắt
hơn và cũng phức tạp hơn nhiều.
Valéry Larbaud cho rằng lần tái xuất hiện thứ ba này, nhân vật Stephen Dedalus bị
che phù dỡi lỡp v cùa chù nghĩa tớng trng, vệ vậy nên anh ta vúa l nhân vật
mang tính chất biều tớng vúa mang tính chất thữc tễ [139, 387].
Vẫn một Squire thận trọng của bốn năm về tr-ớc khi đ-a ra những nhận định về
thân phận của nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết của Joyce, giờ đây, với sự xuất
hiện của Ulysses, ông khàng định Joyce: chãc chãn không trờ thnh mốt nh tiều
thuyết đi chủng. V tuy vẫn ngởng mố văn phong tuyết vội cợng trí tuế đầy uy
lữc v tuyết diếu cùa Joyce thệ, vỡi t cch mốt nh phê bệnh nhng nhện nhận tc
phẩm bằng con mắt của bạn đọc nói chung, Squire nghi ngờ cách viết quá mới lạ của
Joyce cõ thề dẫn ông đi vo ngỏ cũt [164, 53]. Không bi quan nh- Squire, nh-ng
hầu hết mọi ng-ời đều nhận thấy Ulysses thực sự rắc rối. Vì thế, Arnold Bennett, nhà
văn Anh, cho rng nhiẹu ngội không thề tiễp tũc đóc hó tú b; còn
C.C.Martindale thì bị ám ảnh bởi sự rắc rối của Ulysses đễn mửc nghi ngộ ton bố
phơng php cùa cuỗn sch ny sai chăng? [141, 274]. Chúng tôi sẽ lý giải vấn đề
này theo h-ớng đặt ra trong luận án.
Không khó tìm thấy những lời phê phán hay ngợi ca Ulysses trên báo chí ph-ơng
Tây lúc bấy giờ. Nh-ng, bên cạnh hai luồng ý kiến rất rõ ràng đó, chúng tôi còn nhận
ra một bộ phận các nhà phê bình đang băn khoăn nh- đứng ở ngã ba đ-ờng. John
Murry, nhà phê bình Anh, dẫu thừa nhận quan điểm của nhà văn Pháp Valéry
Larbaud cho rng cuỗn sch cùa Joyce đ khiễn cho Ailen thữc hiến sữ ti nhập đầy

no đống vo trong văn hóc châu Âu [145, 124] thệ cng vẫn nghi ngộ sữ qu ti
của tác phẩm. Holbrook Jackson tuyên bỗ: Ulysses của James Joyce là một sự lăng
m đọng thội l mốt thnh tữu [113, 47]. Những băn khoăn ấy khiến chúng tôi thích
thú và củng cố thêm định h-ớng nghiên cứu của mình.
Nh- vậy, ngay từ những năm cuối thập kỷ 10 và cả thập kỷ 20 của thế kỷ tr-ớc, tác
phẩm của Joyce đã trở thành một trong những chủ đề chính trên diễn đàn nghiên cứu
và phê bình văn học ph-ơng Tây. Mặc dù có rất nhiều ý kiến khen chê, tựu trung lại,
ta thấy bên cạnh những đánh giá chung chung cũng đã bắt đầu xuất hiện những quan
điểm chụm hơn về nhân vật và lối viết của Joyce.

13

2.3.3. Những năm 30, 40 của thế kỷ XX, bên cạnh những nghiên cứu quen thuộc
về văn phong và nhân vật của tiểu thuyết, ng-ời ta bắt đầu quan tâm hơn tới ảnh
h-ởng của Joyce trong sự phát triển của văn học. Giai đoạn này, tác phẩm cuối cùng
của Joyce ra đời càng gây hoang mang hơn cho giới phê bình. Nh-ng tính chất quá
phức tạp của Finnegans Wake (1939) đã khiến nó không đ-ợc đón nhận nồng nhiệt
nh- với Ulysses. Ng-ời ta vẫn đọc nó, bàn luận về nó nh-ng đều thống nhất là quá
khó hiểu. Một trong những chủ đề trung tâm trên các diễn đàn phê bình tác phẩm của
Joyce là về ngôn ngữ, kỹ thuật độc thoại nội tâm và dòng ý thức. Michael Stuart khi
bn vẹ nhừng sng to cùa Joyce đ khàng định: Vỡi Joyce, Tú ngừ l cơ thề sỗng
[88, 568]. Edith Sitwell thì cho rằng, trong tác phẩm của Joyce, ngôn ngữ đã đ-ợc
họi sinh; hay nõi theo cch cùa Eugène Jolas ngôn ngừ đớc sinh ra mốt lần nừa
trỡc mãt chủng ta [88, 632]. Chúng tôi cũng sẽ tìm cách giải thích hiện t-ợng ngôn
ngừ ấy tú gõc đố mê cung.
Có thể thấy, những điều quan trọng nhất khẳng định tài năng của Joyce trong sáng
tạo của văn ch-ơng hiện đại đều đ-ợc các nhà phê bình nghiên cứu quan tâm. Trong
khi bàn về cấu trúc tác phẩm, về sự cách tân ngôn ngữ, về sự phức tạp đan xen của
cc chù đẹ, hay vẹ sữ phửc hớp cùa cc loi chù nghĩa hoặc trộng phi sng tc
trong tác phẩm của Joyce, các nhà nghiên cứu đ-ơng nhiên không thể bỏ qua nhân

vật. Có nhà nghiên cứu chỉ xem xét nhân vật trong từng tác phẩm riêng biệt; có nhà
nghiên cửu đẹ cập đễn sữ ti xuất hiến cùa nhân vật nh mốt cch đề khiễn cho
thân phận anh ta ngày càng phức tạp thêm lên. Tiếp cận những h-ớng nghiên cứu này
giúp chúng tôi có cái nhìn lạc quan và tự tin hơn trong ph-ơng h-ớng đề ra cho đề tài
luận án. Tiếp thu những ý kiến của những ng-ời đi tr-ớc, chúng tôi sẽ cố gắng xem
xét nhân vật Stephen Dedalus một cách toàn diện trong toàn bộ sáng tác của Joyce.
2.3.4. Chúng tôi nhận thấy bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XX, các công trình nghiên
cứu về Joyce có khuynh h-ớng chuyên sâu hơn. Hàng chục chuyên luận có giá trị ra
đời ghi nhận sức sống bền bỉ đồng thời cho thấy những sáng tác của Joyce thực sự trở
thành mối quan tâm của các nhà nghiên cứu lịch sử phát triển của văn học ph-ơng
Tây.

14

Trong The Literary Symbol (Biểu t-ợng văn học), William York Tindall bàn về
những hình ảnh, những từ ngữ chứa đầy chất biểu t-ợng trong cuốn sách của Joyce,
qua đó để thấy đ-ợc những quan niệm của tác giả về đất n-ớc, về gia đình, về tôn
gio. Frank OConnor, nhà văn đồng h-ơng Ailen với J. Joyce, trong Joyce and
Dissociated Metaphor (Joyce và phép ẩn dụ phân ly) nói về phép ẩn dụ trong tác
phẩm; nơi mà mỗi hình ảnh, mỗi con chữ t-ởng nh- vô tình nh-ng lại hàm chứa sức
mạnh của sự biểu hiện. Lần đầu tiên, năm 1957, với James Joyces Fraudstuff,
(M-u mẹo của James Joyce), Kimberly Devlin đã cho chúng ta thấy quá trình
tr-ởng thành của nhân vật Stephen Dedalus xuyên suốt ba tác phẩm, tuy mức độ ít
nhiều có khác nhau. Devlin tập trung vào cảm hứng sáng tạo của Joyce khi xây dựng
nhân vật ny. Ông cho rng cm hửng đõ bãt nguọn tú sữ ngởng mố Dante [90,5].
Trên cơ sở đó ông đi sâu phân tích những cảnh địa ngục trong A Portrait và Thần
khúc của Dante. Richard Ellmann - chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về Joyce - trong
chuyên luận mang tiêu đề James Joyce, đã nhấn mạnh đến cái quá khứ mà Joyce
phơi bày nh- là một minh chứng cho sự phát triển tâm hồn mình. Quá khứ đó đ-ợc
nhìn lại qua nhân vật trung tâm Stephen Dedalus.

Năm đầu tiên mở đầu thập kỷ 60, với The Rhetoric of Fiction (Tu từ học tiểu
thuyết), Wayne Booth đ-a ra vấn đề khoảng cách để phản đối cách hiểu đồng nhất
nhân vật v tc gi khai sinh ra nõ. Qua đõ, ông khàng định rng: Đề đóc văn
ch-ơng hiện đại, chúng ta phải hoàn toàn từ bỏ yêu cầu đ-a ra những câu hỏi không
thích đng vẹ nõ: chủng ta phi chấp nhận bửc chân dung v không đ-ợc hỏi thêm
liệu tính cách bức họa chân dung này là tốt hay xấu, đúng hay sai, cũng nh- không
nên thãc mãc ngội đn b trong tranh cùa Picasso l cõ đửc hnh hay không[122,
460]. Chúng tôi thật sự tâm đắc với ý kiến ấy.
Bốn năm sau, năm 1965, Anthony Burgess, một nhà nghiên cứu âm nhạc và ngôn
ngữ ng-ời Anh, tác giả của nhiều tiểu thuyết và phê bình, đã cho ra đời cuốn Re
Joyce (Về Joyce) để kỷ niệm hai m-ơi ba năm ngày mất của Joyce. Burgess cho rằng
tác phẩm của Joyce (tập trung vào Ulysses) chứa đựng quá nhiều ẩn dụ và biểu t-ợng.
Cuốn sách chia làm ba phần, phần thứ hai mang tựa đề The Labyrinth (Mê cung).

15

Theo Burgess, mê cung trong tác phẩm Ulysses nằm ở vô số những ẩn dụ và biểu
t-ợng đó.
Một trong những điều khiến tác phẩm của Joyce khó đọc nằm ở sự phức tạp của
nó, trên nhiều bình diện. Hiểu cho đ-ợc các vỉa tầng của ẩn dụ và biểu t-ợng là một
viếc khõ khăn. Trong khi nhiẹu ỷ kiễn đọng thuận cho rng Joyce đ vận dũng lỷ
thuyễt vẹ sữ hổn mang (chaos theory) để viết Ulysses, thì d-ờng nh- có một quan
điểm đi ng-ợc lại số đông. Michael Seidel, vào năm 1976, đã xuất bản cuốn sách có
nhan đề gợi sự tò mò của công chúng: Epic Geography (Địa lý sử thi). Có thể nói
đây là một công trình cực kỳ công phu. Seidel đã dày công vẽ lại toàn bộ bản đồ hành
trình của các nhân vật chính trong Ulysses. Nh- mục đích nêu lên trong lời nói đầu
cuỗn sch, Seidel tập trung nghiên cửu vẹ địa lỷ mang tính sụ thi v cch trần thuật
trong Ulysses của James Joyce. Quan tâm hơn tỡi vai trò mốt công dân v nghế sĩ
của Joyce đối với Ailen bấy giờ, C.H. Peake, chuyên gia văn học Anh ở đại học
London, đã để tâm nghiên cứu những -ớc mơ và khát vọng của ng-ời nghệ sĩ tài

năng. Năm 1977, với James Joyce, the Citizen and the Artist (James Joyce, công
dân và nghệ sĩ), Peake lần đầu tiên mang đến cho ng-ời đọc một cảm giác nhẹ nhàng
thoải mái khi tiếp cận sáng tác của Joyce. Bên cạnh vô vàn những điều phức tạp dễ
nhận thấy trong những trang viết ấy, Peake đã kết luận rằng, tất cả những gì Joyce
muỗn mang đễn cho đốc gi l niẹm vui. Bời theo Joyce, khi ngội nghế sĩ mang
đễn niẹm vui cho đốc gi, anh ta mỡi đt tỡi bủt php hon ho cùa nghế thuật
[148, 340]. Và tất nhiên, khi bàn về vai trò công dân và nghệ sĩ của Joyce, Peake
không thể bỏ qua nhân vật Stephen Dedalus, ng-ời đã từng đ-ợc coi là hình bóng tuổi
trẻ của nhà văn. Vấn đề này có liên quan đến luận án của chúng tôi.
2.3.5. Đến tận những năm 80 của thế kỉ tr-ớc, ý kiến về Joyce vẫn ch-a hoàn toàn
thống nhất. Điều này cho thấy ý nghĩa tác phẩm của Joyce thực sự không nằm trên bề
mặt văn bản. Trong Modern Literary Theory (Lý luận văn học hiện đại), Jefferson và
Robey đã dẫn ý kiến của triết gia và nhà phê bình Hungari nổi tiếng G. Lukacs cho
rng Joyce cng mãc mốt lổi lầm khc: đõ l thề hiến mốt thễ giỡi đớc to thnh
bời sữ hon ton mơ họ nh thề đõ l ton bố hiến thữc [118,140]. Cũng bàn về chủ
đề này, Jeremy Hawthorne và Phillip Brockbank lại xem xét mối quan hệ giữa Joyce,

16

ngọn cờ đầu của cuộc cách mạng hiện đại với văn ch-ơng truyền thống trong James
Joyce and modern Literature (James Joyce và văn học hiện đại). Phản đối lại những
ý kiến cho rằng Joyce không bao giờ trở thành một nhà văn đại chúng (trong đó có ý
kiến của Squire), R.B.Kershner khàng định: thi đố cùa Joyce đỗi vỡi văn hóc đi
chúng không đơn gin l sữ khinh thị [135,2]. Nh- vậy, cộng thêm sự góp mặt của
The Quiet Hero (Anh hùng trầm lặng) và Byron & Joyce through Homer (Byron &
Joyce qua Homer), những công trình nghiên cứu về Joyce ở ph-ơng Tây trong thập
kỷ 80 thế kỷ tr-ớc tập trung mô tả diện mạo khái quát. Nhân vật Stephen Dedalus trở
thành mối quan tâm thứ yếu.
2.3.6. Năm 1984, tạp chí tiếng Pháp Europe Revue Littéraire ra số đặc biệt về
James Joyce, số 657-658. Chuyên san tập hợp đ-ợc nhiều bài viết có giá trị về sáng

tác J. Joyce của một số nhà nghiên cứu quốc tịch khác nhau. Nhân vật Stephen
Dedalus đã trở thành một trong những chủ đề chính gợi ra nhiều h-ớng nghiên cứu
thú vị và mới mẻ. Nelly Stéphane khi bàn về con ng-ời-h- cấu trong Lhomme-
fiction (Con ng-ời-h- cấu) đã coi không gian thành phố trong tác phẩm Ulysses nh-
mốt nhân vật chù chỗt. Vậy l, cợng vỡi nhân vật-con ng-ời bằng x-ơng bằng thịt,
còn hiện diện một nhân vật-không gian. Không gian ở đây không giới hạn ở thành
phố Dublin nhỏ bé mà là cái không gian phổ quát của toàn thế giới. Lấy câu nói nổi
tiếng trong A Portrait làm nhan đề cho bài viết của mình, Es-tu bien Irlandais ou
non? (Anh có phải là ng-ời Ailen hay không?), Manulea Dumay cho thấy mối quan
hệ mật thiết giữa Joyce và quê h-ơng ông. Qua sự gắn bó này, chúng ta có thể hiểu
tại sao cuộc đời của Joyce cũng nh- cuộc đời của Stephen Dedalus lại là một khối
mâu thuẫn lớn. Nhận định về sáng tác của Joyce, Dumay cho rằng: Đốc gi lỷ tờng
của Joyce là ng-ời sinh ra ở Dublin, có vốn liếng văn hóa nhân văn vững chãi, biết
một ít tiếng La Tinh, tiếng Pháp, tiếng Ailen, tiếng Italia, ham mê thần học, có khiếu
hi hỡc v cõ khiễu âm nhc [181, 16]. Với tiêu chí ông đ-a ra khó ai có thể đáp
ứng nổi. Một cách nói về sự rắc rối phức tạp và có liên quan đến việc triển khai đề tài
cùa chủng tôi. Nhng không phi vệ thễ m đốc gi không lỷ tờng không đóc
đ-ợc Joyce. Giọng điệu hơi chút hài h-ớc của Dumay cho thấy ông muốn đánh giá
cao tài năng của Joyce.

17

Quan tâm tới A Portrait of the Artist as a Young Man và vấn đề tự thuật (A
Portrait of the Artist as a Young Man et le problème de lautobiographie), James
Dauphiné xác định những mối liên quan giữa cuộc sống trải nghiệm của nhà văn và
việc chuyển vào văn ch-ơng, đào sâu mối dây liên hệ giữa Joyce và nhân vật Stephen.
Theo ông, Joyce vúa triền khai thữc tễ, vúa biễn đồi thữc tễ [184,85]. Trong khi
Jean Paris quan tâm đến sự phát triển của độc thoại nội tâm (Du monologue et de ses
précurseurs - Về độc thoại nội tâm và về những ng-ời đi tr-ớc), Phillip Herring lại
muốn xem xét Joyce kết thúc các ch-ơng và các tác phẩm của ông thế nào (Comment

Joyce finit ses chapitres et ses livres - Joyce kết thúc các ch-ơng và các cuốn tiểu
thuyết của ông nh- thế nào). Trữc tiễp v gin tiễp nhãc đễn tú mê cung là Samuel
Rosenberg và Daniel Ferrer. Rosenberg cho rằng có sự giống nhau giữa nội dung
truyện A Study in Scarlet (1887) của Conan Doyle và Ulysses của Joyce, bởi nhân
vật Jefferson Hope, li xe ngữa, theo đuồi bm riễt con mọi l Drebber trong ci mê
cung rỗi nh bòng bong cùa phỗ x London; còn Bloom cng bị m nh theo đuồi
Stephen trong ci mê cung cc phỗ x cùa Dublin [186,106-107]. Ferrer thì tỏ thái
độ không tin t-ởng vào bảng sơ đồ mà Joyce đ-a ra cho Ulysses. Ông cho rằng tất cả
đõ chì l mốt ci bẫy, cỗt khiễn ngội đóc lc động giỗng nh ngội ta dợng
g-ơng để bẫy chim. Nh- vậy, mê cung trong Conan Doyle et James Joyce (Conan
Doyle và James Joyce) mang tính không gian vật chất; còn tú lc động mà Ferrer
đ-a ra trong Miroirs aux sirènes (Những mảnh g-ơng bẫy các nàng tiên cá) có lẽ
cũng ít nhiều gợi đến hình ảnh một mê cung với nhằng nhịt lối đi khiến ng-ời ta lạc
lối. Chúng tôi quan tâm đến các ý kiến ấy nh-ng không nghĩ rằng mê cung trong tác
phẩm của Joyce chỉ giới hạn ở bình diện không gian.
Chúng tôi xin phép không kể tên ra đây hàng loạt các công trình khác nh- từ điển,
hợp tuyển, lịch sử văn học ph-ơng Tây. Những công trình này cung cấp cho chúng tôi
một cái nhìn toàn cảnh và nguồn tài liệu quý giá giúp chúng tôi hiểu đ-ợc tại sao là
một nhà văn Ailen nh-ng trong lịch sử văn học thế giới, Joyce luôn đ-ợc xếp trong
hàng ngũ các nhà văn Anh. Tất nhiên, nh- vậy không phải Ailen chối bỏ Joyce nh-
đã từng có lúc phản đối tác phẩm của ông. Công trình Anglo-Irish Literature (Văn

18

học Anh-Ailen) của Maurice Harmon đã đem đến cho ng-ời đọc một th- mục t-ơng
đối đầy đủ về các nhà văn Ailen trong thời kỳ phức tạp của lịch sử Ailen bấy giờ.
Chúng tôi chú ý đến một tài liệu viết bằng tiếng Nga, Istoriya zarubejnoi
literatury XX veka; 1917-1945, (Lịch sử văn học n-ớc ngoài thế kỷ XX; 1917-1945),
do L.G.Andreev chủ biên. Phần văn học Anh trong sách này (từ trang 243 đến trang
290) do bà V.V.Ivatseva phụ trách. Ngoài phần Khái quát Văn học Anh, bà Ivatseva

chỉ đề cập phân tích riêng ba nhà văn là James Joyce, Bernard Shaw và Sean
OCasey. Tệnh cộ c ba tc gia nồi tiễng kề trên cùa nẹn văn hóc Anh đẹu l ngội
Ailen. Nhìn chung, bà Ivatseva thiên về phân tích nội dung t- t-ởng trong các tác
phẩm của Joyce (đặc biệt là Ulysses). Bà đánh giá các tiểu thuyết của ông thuộc
dòng nhừng tc phẩm u m nhất v bi quan nhất cùa văn hóc thễ kự XX. Theo b,
Ulysses trở thành tc phẩm tiêu biều nhất cùa chù nghĩa hiến đi [176,276] nh-ng
không phải với ý thức đề cao.
Ng-ời ta đã rất dè dặt khi đánh giá, nhận định về Joyce. Phải chăng, vì lối viết của
ông đ-ơng thời đ-ợc coi là một sự thể nghiệm hết sức táo bạo? Ng-ời ta đang quen
với loại tiểu thuyết truyền thống của thế kỷ XIX dễ đọc, dễ hiểu, giờ đây phải tiếp
nhận một cách viết hoàn toàn mới mẻ, không theo lối mòn cũ nữa nên cần có thời
gian để đánh giá các thể nghiệm ấy? Còn với chúng tôi, chính những nhận định sơ
bộ, phức tạp, thậm chí trái chiều của các nhà nghiên cứu đã giúp chúng tôi ngày càng
khàng định ỷ tờng cùa mệnh l cõ cơ sờ. Chính ci hệnh thợ không rỏ rết, sữ mơ
họ, nhừng ngỏ cũt khiễn chủng tôi hệnh dung rỏ rng hơn bao giộ hễt lỗi viễt
mê cung vỡi vô sỗ nhừng hnh lang dẫn tỡi động cũt, không cõ lỗi ra.
2.3.7. Dáng dấp mơ hồ và khó hiểu của những trang viết bí ẩn ấy luôn là động lực
thôi thúc niềm đam mê của các nhà nghiên cứu. Thập kỷ cuối cùng, thập kỷ 90 của
thế kỷ XX tiếp tục chứng minh sức lôi cuốn diệu kỳ trong những sáng tác của Joyce.
James Joyce and the question of history (James Joyce và vấn đề lịch sử) của James
Fairhall, Joyces Effects (Những ảnh h-ởng của Joyce) của Derek Attridge; James
Joyces Ireland (Ailen của James Joyce) của David Pierce và Joyce, Chaos, and
Complexity (Joyce, hỗn mang và sự phức tạp) của Thomas Jackson Rice tiếp tục
mở ra những h-ớng nghiên cứu mới. Những tác giả của chuyên luận vừa chú trọng

19

vào lối viết của Joyce, vừa tập trung khai thác những khía cạnh của tiểu thuyết nh-
quan điểm của Joyce về các vấn đề chính trị, xã hội và tôn giáo thể hiện trong tác
phẩm. Hiểu đ-ợc thái độ của ông tr-ớc các vấn đề đó, mới rõ thêm những ẩn ý mà

ông không trực tiếp nói trong tác phẩm của mình. Rice đã đ-a ra cái nhìn tổng quan
về tác phẩm của Joyce. Tác giả đã đặt sáng tác của Joyce trong mối quan hệ nhiều
tầng bậc với văn hóa, khoa học và toán học cùa thễ kì XX. Thuật ngừ Chaos
theory (lỷ thuyễt hổn mang) m Rice tung ra dộng nh rất phợ hớp vỡi cm gic
của đa số bạn đọc có tham vọng tiếp cận tác phẩm của Joyce, bởi nếu không cẩn
thận, họ có thể bị rơi vào tình trạng hỗn loạn không lối thoát. Còn đối với chúng tôi,
thuật ngữ ấy có sức gợi mở nhiều cho việc triển khai đề tài.
Đặt Ulysses của Joyce nh- một cấu trúc song song với Odyssey của Homer, A.
Nicholas Fargnoli và Michael Patrick Gillespie (James Joyce A to Z - James Joyce từ
A đến Z) cho rằng nhân vật Stephen Dedalus trong tác phẩm không những chính là
hình bóng của Telemachus trong Odyssey mà còn là Hamlet trong vở kịch cùng tên
của Shakespeare. Nh- vậy, sự hóa thân của nhân vật trở nên phức tạp hơn nhiều.
Chúng ta sẽ phải đối mặt với cả những lí thuyết về kiếp luân hồi, những ẩn ức theo
kiểu Freud Joseph Campbell cùng quan điểm với các tác giả trên khi đặt Ulysses
bên cạnh Odyssey. Hơn nữa, ông còn rất quan tâm đến vấn đề huyền thoại trong
Ulysses, một thế giới huyền thoại với những từ ngữ hiện đại
Điểm qua những bài viết và công trình nghiên cứu trên, có thể thấy rằng quả thật
những tác phẩm của Joyce đã gây ra một cuộc tranh luận kéo dài trên văn đàn châu
Âu không những trong thời điểm lịch sử chúng ra đời mà còn đến tận nhiều năm sau
này khi chúng đã khẳng định đ-ợc vị trí của mình. Theo thời gian, ngay từ những
năm cuối thập kỷ đầu tiên cho đến những năm cuối cùng của thế kỷ XX, các nhà
nghiên cứu vẫn tập trung giải mã những câu đố ẩn tàng trong sáng tác J. Joyce. Cũng
bởi tác phẩm của Joyce đặt ra quá nhiều vấn đề nên những khuynh h-ớng nghiên cứu
về ông rất đa dạng. Có những công trình không đề cập đến những thử nghiệm về kĩ
thuật tiểu thuyết của ông mà đ-a ra hàng loạt những vấn đề mang tính thời sự nh-
tình hình chính trị, tôn giáo, xã hội, giáo dục của đất n-ớc Ailen trong thời kì là
thuộc địa của Anh, qua đó nhằm nêu bật quan điểm của nhà văn về những vấn đề ông

20


trăn trở nh-ng không đề cập một cách trực tiếp trong sáng tác của mình. Trong sáng
tc cùa Joyce, đõ l nhừng gõc khuất không dể pht hiến, l nhừng gnomon theo
chữ dùng của M. Seidel trong cuốn James Joyce - A Short introduction (James
Joyce - B-ớc đầu tìm hiểu) (2002). Có những công trình dày công vẽ hàng loạt những
bản đồ chỉ rõ hành trình của các nhân vật trung tâm trong Ulysses. Lại có những công
trình đi tìm những dấu vết của văn học truyền thống trong những trang viết đậm mầu
sắc hiện đại
Bên cạnh những khuynh h-ớng đó, xuất hiện một dòng nghiên cứu bắt đầu xem
xét nhân vật trung tâm Stephen Dedalus trong toàn bộ sáng tác của Joyce. Trong rất
nhiều ý kiến nhận định tác phẩm của Joyce cực kỳ rắc rối, đã rải rác xuất hiện đây đó
thuật ngữ mê cung, cả gián tiếp và trực tiếp. Declan Kiberd d-ờng nh- đã hàm ý nói
về hình ảnh mê cung khi đề cập tới hành trình phiêu l-u lạc lối của Stephen Dedalus
trong cuộc kiếm tìm một sự giải thoát cảm xúc, nh-ng đó chỉ là một ý kiến nhỏ, tác
giả ch-a thực sự đi sâu vào vấn đề này. Harry Levin, William York Tindall và
Anthony Burgess cũng trực tiếp nhắc đến từ mê cung. Nh-ng ở hai tác giả tr-ớc, từ
mê cung chỉ xuất hiện một lần; với Levin thì đó là mê cung của nhân vật Stephen
Dedalus; với Tindall mê cung lại chính là nơi ông b-ớc vào khi tiếp cận tác phẩm của
Joyce. Còn Anthony Burgess đã dành hẳn một phần trong cuốn sách của mình nói về
mê cung. Mục đích của ông là tìm đ-ờng thoát ra khỏi mê cung tác phẩm của Joyce.
Các nhà nghiên cứu ấy hầu nh- ch-a chú ý đến mê cung nh- kỹ thuật viết nằm trong
dụng ý của J. Joyce.
Tiếp tục triển khai ý kiến của Kiberd, chúng tôi nhận thấy việc Dedalus đánh mất
ph-ơng h-ớng d-ờng nh- cũng là một trong những biểu hiện của việc anh ta đang lạc
lối trong mê cung. Không phải chỉ ở Joyce mới xuất hiện kiểu nhân vật mất ph-ơng
h-ớng. Chúng ta bắt gặp kiểu nhân vật này ở tác phẩm của Kafka. Nhân vật của
Kafka đã từng phải đối mặt với một dạng mê cung hiện diện ở khắp mọi nơi; từ căn
phòng trọ của anh ta đến khu nhà nơi tòa án ngự trị trong âm u của bóng tối bao trùm
và những dãy hành lang nhằng nhịt. T-ởng chừng mỗi b-ớc đi của nhân vật đều là
b-ớc vào một hành lang mới, nơi mà tận cuối của nó là một ngõ cụt không lối thoát.
Những mê cung nhỏ bé, hạn hẹp đó lại đ-ợc đặt trong một mê cung rộng lớn không


21

cùng, đó chính là cõi nhân sinh. Có lẽ chính vì vậy, mà nhân vật của Kafka rơi vào
tình trạng tuyệt vọng, đáng th-ơng, bế tắc.
Cũng là một dạng lạc lối, mất ph-ơng h-ớng trong cuộc đời, nh-ng nhân vật của
Joyce không mang màu sắc bi thảm nh- vậy. Ai cũng biết đã lạc vào mê cung chỉ có
hai cch đề thot ra ngoi: mốt l quay trờ li đủng lỗi vo nhộ sới chì Ariadne dẫn
đ-ờng, hai là tìm đến trung tâm của nó, dỡ mái và chắp cánh để bay lên. Vậy cái
hành trình phiêu l-u lạc lối của Dedalus qua nghiên cứu của Kiberd liệu có liên quan
đến hành trình mê cung hay không? Và điều gì sẽ chờ đợi anh ta ở cuối hành lang mê
cung: đ-ờng cụt hay ngả rẽ tới thiên đàng?
Tõm li, trú mốt vi ti liếu cõ đẹ cập chủt ít đễn mê cung ờ nhừng khía cnh
khc nhau, chủng tôi cha thấy công trệnh nghiên cửu no đi sâu nghiên cửu mê
cung nh mốt kỹ thuật viết có dụng ý của J. Joyce, nh- một môtip bao quát hầu
nh- toàn bộ các tác phẩm của ông qua nhân vật Stephen Dedalus. Vì vậy, tuy không
mốt lần no J. Joyce trữc tiễp nhãc đễn hai tú mê cung trong các tiểu thuyết của
ông, mà từ đó chỉ xuất hiện một lần khi ông gọi tên ph-ơng pháp của một trong m-ời
tám ch-ơng sách Ulysses là mê cung, chúng tôi vẫn mạnh dạn lựa chọn Nhân vật
Stephen Dedalus của James Joyce và môtip mê cung làm đề tài luận án, và hy
vóng tệm ra thêm sới chì Ariadne gõp phần lm sng t sữ nghiếp sng tc cùa nh
văn lỗi lạc ấy.

3. í ngha khoa hc v thc tin
Qua việc tìm hiểu nhân vật Stephen Dedalus trong tiểu thuyết của J. Joyce từ góc
độ môtíp mê cung, luận án hy vọng góp phần khám phá phong cách của nhà văn, làm
sáng tỏ vai trò của mê cung nh- một môtip ngầm ẩn nh-ng có sức mạnh tiềm tàng
thống trị toàn bộ văn bản, nh- kỹ thuật viết của J. Joyce, một trong những đóng góp
quan trọng vào việc đổi mới văn xuôi hiện đại ph-ơng Tây.
Việt Nam, luận án sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện sáng tác tiểu

thuyết J. Joyce từ góc độ nhân vật trung tâm và kỹ thuật viết, hy vọng đó sẽ là nền
tảng cho việc giảng dạy J. Joyce nói riêng, và tìm hiểu sự đổi mới văn xuôi hiện đại
ph-ơng Tây nói chung.

22

4. Phm vi, i tng v mc ớch nghiờn cu
4.1. Phm vi v i tng nghiờn cu:
Sự nghiệp sáng tác của Joyce gồm bốn tiểu thuyết: Stephen Hero (viết năm 1904,
xuất bản năm 1944), A Portrait of the Artist as a Young Man (1916), Ulysses (1922)
và Finnegans Wake (1939). Trên cơ sở khảo sát cả bốn tiểu thuyết trên văn bản Anh
ngữ, chúng tôi giới hạn chỉ tìm hiểu những yếu tố nội dung và hình thức tác phẩm có
mối liên quan giữa nhân vật Stephen Dedalus và môtíp mê cung. Dựa trên huyền
thoại về mê cung, chúng tôi sẽ triển khai theo các b-ớc: kiễn to mê cung (bao
gồm cả ng-ời kiến trúc s- và công trình của anh ta), bị giam cầm trong mê cung v
cuối cùng thot ra khi mê cung. Phm vi nghiên cửu, do đõ, không bao qut ton
bộ đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn. Các khảo sát của chúng tôi sẽ đ-ợc
tiến hành không đồng đều trên mọi ph-ơng diện nêu trên ở mỗi tiểu thuyết. Chỉ
những điểm nổi bật nhất trong cấu trúc tiểu thuyết có liên quan đến môtíp mê cung
trong mối quan hệ với nhân vật Stephen Dedalus mới đ-ợc lựa chọn phân tích, và
đ-ơng nhiên, những điểm đó tồn tại ở mỗi tác phẩm d-ới các hình thức và độ đậm
đặc khác nhau. tác phẩm cuối cùng, Finnegans Wake, tuy nhân vật trung tâm
không phải là Stephen Dedalus, chúng tôi linh cảm thấy d-ờng nh- vẫn là anh ta d-ới
hình hài và tên gọi khác. Có lẽ đây cũng chính là một biểu hiện nữa của kỹ thuật mê
cung trong lối viết của Joyce. Trong kiệt tác Ulysses không phải chỉ một mình
Stephen là nhân vật trung tâm, nh-ng vì mục đích nghiên cứu, chúng tôi lấy nhân vật
này làm đối t-ợng chính, tất nhiên có đặt trong sự song chiếu với những nhân vật
khác có liên quan tới hành trình phiêu l-u tinh thần của nhân vật.
Khi chọn tên đề tài Nhân vật Stephen Dedalus của James Joyce và môtip
mê cung, chúng tôi không có ý nối hai vấn đề đ-ợc nêu bằng một chữ và. Chúng tôi

muốn tìm hiểu nhân vật Stephen Dedalus bao quát trong tiểu thuyết của Joyce và mối
liên quan của nhân vật với môtip mê cung.

4.2. Mc ớch nghiờn cu
- Xỏc nh mờ cung tr thnh mt mụtớp ngm n trong ton b tiu
thuyt ca Joyce, chi phi t nhõn vt, cu trỳc n th loi. T ú mờ cung c th

23

hiện như những tính chất mơ hồ, rối rắm, phức tạp.
- Xem xét nhân vật trung tâm trong mối liên hệ với môtíp mê cung để
thấy mê cung đã trở thành một kỹ thuật viết thống trị bút pháp của Joyce.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên
cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu hệ thống nhằm khám phá những liên hệ nội tại của
các thành tố nằm trong một cấu trúc tổng thể nhất định là văn bản nghệ thuật.
- Phương pháp nghiên cứu loại hình trong việc phân loại để xác định vị trí và
ý nghĩa của từng thành tố trong hệ thống văn bản nghệ thuật, đồng thời nhận dạng
cấu trúc của hệ thống đó.
- Phương pháp phê bình tiểu sử nhằm tìm hiểu thế giới quan của tác giả thông
qua mối quan hệ của ông với thời đại qua đó hiểu được ý nghĩa hình tượng văn học
trong tác phẩm.
- Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp để làm nổi bật cá tính sáng tạo của
nhà văn.

6. Bố cục của luận án
Luận án gồm phần Mở đầu, nội dung ba chương, phần kết luận, tài liệu tham
khảo, phụ lục và bảng tra cứu.


CHƢƠNG 1 – KIẾN TẠO MÊ CUNG
CHƢƠNG 2 – BỊ GIAM CẦM TRONG MÊ CUNG
CHƢƠNG 3 – THOÁT RA KHỎI MÊ CUNG






24

CHNG 1
KIN TO Mấ CUNG
Nói tới mê cung, chắc hẳn chúng ta liên t-ởng ngay đến nơi nhốt vị thần nửa ng-ời
nửa bò Minotaur trong huyền thoại Hy Lạp. Dẫu đây chỉ là một trong bốn mê cung
đ-ợc các phát hiện khảo cổ học cho là tồn tại trong thời cổ đại nh-ng nó lại quen
thuộc và phổ biến nhất có lẽ bởi gắn với huyền thoại. Vua Minos ở đảo Crete đã phải
mời cho bằng đ-ợc ng-ời thợ danh tiếng nhất đô thành Athen đến để xây dựng cho
mình một cung điện với kiến trúc vô cùng phức tạp sao cho Minotaur không thể tìm
đ-ợc lối ra.
Huyền thoại cổ x-a đã khơi nguồn cảm hứng cho hiện tại, cả ở ý nghĩa biểu t-ợng
lẫn cụ thể vật chất. Ngoài những công trình kiến trúc phức tạp, cầu kỳ theo kiểu mê
cung, mê cung còn đ-ợc dùng để gọi tên những vấn đề rắc rối, khó tìm ra lời giải
đáp. Chính ở đây, văn học cũng đã tìm đ-ợc cho mình biểu t-ợng để chỉ những vấn
đề phức tạp, gây ra quá nhiều tranh cãi mà vẫn không tìm ra câu trả lời cuối cùng.
Một mê cung ngầm ẩn nh- vậy đã thống trị toàn bộ những tiểu thuyết của James
Joyce.
Đặt tên ch-ơng đầu tiên của luận án là Kiến tạo mê cung, chúng tôi có ý tr-ớc hết
muốn tìm hiểu xem ai là kiến trúc s- xây dững nên công trệnh mê cung. Sau đó,
đứng ở góc độ ng-ời quan sát từ bên ngoài, chủng tôi muỗn xem xem mê cung đõ

có thực sự rắc rối không. Từ những góc nhìn ấy, chúng tôi h-ớng đến mục đích xem
mê cung nh- là một kỹ thuật viết độc đáo của J. Joyce.
Mê cung trong huyền thoại, theo đúng nghĩa đen của nó, là tác phẩm của chàng
Dedale. Nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết của Joyce có tên là Stephen Dedalus.
Nh- vậy, liệu có mối liên hệ gì giữa Dedale của huyền thoại và Dedalus của Joyce
hay không? Vấn đề còn trở nên rắc rối hơn khi chính nhà văn đã ký tên Stephen
Dedalus trong những truyện ngắn viết thời kỳ đầu sáng tác (sau này in trong tập
Dubliners). Lấy tên của ng-ời thợ tài hoa thành Athen x-a để đặt cho nhân vật trung
tâm của mình, thậm chí là cho mình, có lẽ ngay từ khi ấy nhà văn đã đặt ra câu hỏi
khó khiến cho biết bao ng-ời, cả những nhà nghiên cứu phê bình, lẫn độc giả say mê
tc phẩm cùa ông đửng trỡc mốt mê cung. Chng Dedale xây mê cung đề nhỗt

×