Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thơ lục bát Việt Nam trong phong trào thơ mới lãng mạn 1932-1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 110 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN








VŨ THỊ HẰNG





THƠ LỤC BÁT VIỆT NAM TRONG PHONG TRÀO
THƠ MỚI LÃNG MẠN 1932 – 1945


LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60.22.34



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Văn Lân









Hà Nội – 2011

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 7
3. Mục đích – đối tượng nghiên cứu 10
3.1. Mục đích nghiên cứu 10
3.2. Đối tượng nghiên cứu 10
4. Phương pháp nghiên cứu 11
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại 11
4.2. Phương pháp phân tích 11
4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu 11
4.4. Phương pháp liên ngành 11
5. Cấu trúc luận văn 12
NỘI DUNG 13
Chƣơng 1
NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ THƠ LỤC BÁT VIỆT NAM 13
1.1. Thể loại và các thể thơ Việt Nam 13
1.1.1. Một số quan niệm về thể loại thơ 13
1.1.2. Các thể thơ Việt Nam 20
1.2. Sự vận động và phát triển của thơ lục bát Việt Nam 25
1.2.1. Lịch sử hình thành thể thơ lục bát 25

1.2.1.1. Nguồn gốc sinh thành 25
1.2.1.2. Lịch sử phát triển thể loại 29
1.2.2. Đặc điểm thơ lục bát 31
1.2.2.1. Niêm, vần, luật 31
1.2.2.2. Nhịp điệu 33
1.2.2.3. Đối 35
1.2.2.4. Các biến thể của lục bát 36
Chƣơng 2
CÁC KHUYNH HƢỚNG LỤC BÁT TRONG THƠ LÃNG MẠN GIAI ĐOẠN 1932 –
1945 42

2
2.1. Bối cảnh lịch sử và ý thức nhà thơ 42
2.1.1. Bối cảnh lịch sử 42
2.1.2. Ý thức nhà thơ 44
2.2. Các khuynh hƣớng lục bát trong thơ lãng mạn giai đoạn 1932 – 1945 47
2.2.1. Diện mạo thơ lục bát 47
2.2.2. Khuynh hướng lục bát dân gian 50
2.2.3. Khuynh hướng lục bát trí tuệ 58
Chƣơng 3
NHỮNG ĐÓNG GÓP TIÊU BIỂU VỀ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT CỦA THƠ LỤC
BÁT TRONG THƠ LÃNG MẠN GIAI ĐOẠN 1932 - 1945 67
3.1. Ngôn ngữ thơ 67
3.1.1. Tiếp thu ngôn ngữ thơ ca truyền thống 69
3.1.1.1. Ngôn ngữ đời thường mộc mạc, giản dị 69
3.1.1.2. Sử dụng” số đếm” trong ca dao 72
3.1.1.3. Đưa thành ngữ vào trong thơ 74
3.1.1.4. Ngôn ngữ thơ cổ điển 76
3.1.2. Sự lạ hóa trong ngôn ngữ, sáng tạo từ mới 78
3.1.3. Sử dụng các từ mờ nghĩa 80

3.2. Hình ảnh thơ 81
3.2.2. Hình ảnh ước lệ tượng trưng 85
3.2.3. Hình ảnh lạ, mang màu sắc siêu thực 87
3.3. Nhịp điệu thơ 92
3.3.1. Khuynh hướng kế thừa nhịp điệu thơ lục bát truyền thống 93
3.3.2. Khuynh hướng hiện đại hóa nhịp điệu thơ lục bát 96
KẾT LUẬN 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105

3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thơ ca là hình thức nảy sinh đầu tiên của nghệ thuật ngôn từ và luôn
khẳng định được vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần nhân loại.
Thơ ca ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí, bộc lộ tâm tư, tình cảm của con
người. Xoay quanh định nghĩa về thơ có rất nhiều ý kiến khác nhau. “Thơ ca
xét về nội dung là một nghệ thuật phong phú nhất” (Georg wihelm Friedrich
Hegel), “Thơ ca đồng thời là âm nhạc, hội họa, điêu khắc, thuật hùng biện….”
( Théodore de Banville). “Thơ ca là loại nghệ thuật cao nhất… Thơ ca bao
gồm tất cả mọi yếu tố của các nghệ thuật khác” (Bielinxki). “Thơ ca nếu
không có người tôi đã mồ côi” (Raxum Gamzatôp)… Hay “Thơ là một hồn đi
tìm những hồn đồng điệu”(Tố Hữu), “Thơ là bà chúa nghệ thuật, là cái nhụy
của cuộc sống” (Sóng Hồng). Con người vốn yêu thơ, tôn trọng thơ, coi thơ là
nguồn giá tài sản tinh thần vô giá. Thơ ca có một vai trò rất to lớn trong đời
sống nhân loại. Thơ làm cho đời sống tâm hồn mỗi con người chúng ta thêm
phong phú, tươi trẻ, nhân bản. Thơ nâng đỡ và chắp cánh cho tâm hồn mỗi
chúng ta. Bằng sự tinh vi, khéo léo của nghệ thuật ngôn từ, thơ chắt lọc nhụy
thơm, mật ngọt của cuộc đời, rọi chiếu vào tâm hồn chúng ta sự nhân văn,
nhân bản, những ý nghĩa cao cả nhất, cứu rỗi tâm hồn mỗi chúng ta khỏi sự
cằn cỗi trước cuộc sống mưu sinh cơm áo gạo tiền. Thơ đem lại niềm vui, sự

đầy ắp cho cuộc đời. Thơ làm cho người với người sát lại gần nhau cùng cảm
thông và chia sẻ. Thơ xóa bỏ bức tường rào ngăn cách giữa các quốc gia, sắc
tộc, cùng phấn đấu hướng tới những giá trị cao cả, thiêng liêng chân, thiện,
mĩ. Cuộc sống không có thơ ca chẳng khác gì khi khát nước mà đi trên một
bãi sa mạc khô cằn. Thơ như dòng suối mát chảy bất tận trong trái tim nhân
loại. Tuy nhiên, mỗi thời kì, mỗi tác giả lại có những quan niệm khác nhau về
sự tồn tại của thơ. Điều đó góp phần làm cho kho tàng thơ ca càng thêm chất

4
chứa, bề bộn, bởi tâm hồn thơ trong mỗi con người, mỗi thời đại luôn căng
tràn một tình yêu mãnh liệt. Có thể khẳng định, thơ là một đối tượng phong
phú và sẽ ngày càng phong phú hơn. Cho nên nó mãi mãi sẽ vẫn là mảnh đất
màu mỡ cho người cày, kẻ xới. Biết bao đối tượng yêu thơ đều không bỏ phí
ngòi bút đầy sinh lực của mình nhằm thực hiện khát vọng, đam mê giải mã
những bí ẩn của dòng thơ. Người ta có thể tiếp cận đối tượng từ nhiều phía
nội dung, tư tưởng, hình thức, kết cấu bài thơ, câu thơ, trong đó tiếp cận từ
hướng thể thơ là một phương pháp khoa học được nhiều người lựa chọn, tiến
hành, và đó cũng là định hướng của chúng tôi trong luận văn này.
Thể thơ là phương thức tồn tại của thơ ca. Nó không tự sinh ra, không
tự mất đi mà phải trải qua một quá trình lâu dài hình thành, phát triển, là kết
quả của quá trình sàng lọc nghiệt ngã của thời gian, của tâm lí cộng đồng tiếp
nhận. Có những thể thơ chỉ tồn tại trong một giai đoạn nhất định sau đó tự
mất đi, có những thể trường tồn cùng thời gian trong suốt chiều dài lịch sử
của tiến trình thơ ca, là thứ “vàng mười”, là niềm tự hào của mỗi dân tộc,
cộng đồng.
Dọc theo tiến trình thơ Việt Nam, ta có thể điểm ra được rất nhiều thể
thơ khác nhau, từ cổ phong đến hiện đại như thơ một chữ, hai chữ, ba chữ,
bốn chữ, năm chữ, bảy chữ, tám chữ, thơ tự do, thơ văn xuôi, thơ Đường luật,
thơ song thất lục bát, thơ lục bát… Trong số đó có một thứ “vàng mười”
luôn tồn tại đi suốt chiều dọc tiến trình thơ ca rất âm thầm, lặng lẽ, nhẹ nhàng,

rất duyên dáng, đằm thắm mà cũng rất mới mẻ, tân kì. Thể thơ vừa mới, vừa
cũ đã thu hút biết bao bút lực và tâm lực của người cầm bút ấy chính là thể
thơ lục bát. Thơ lục bát, câu sáu chữ nối tiếp câu tám chữ, vượt qua mọi sự
sàng lọc nghiệt ngã của thời gian đã chứng tỏ sự bất diệt của mình, và không
biết tự bao giờ nó đã trở thành hồn cốt, là điệu hồn, biểu tượng tiêu biểu của
đời sống văn hóa tinh thần của người dân đất Việt. Người ta thuộc câu thơ lục

5
bát như một lẽ tất yếu phải hít thở không khí để sinh tồn. Là nhịp thở của
giống nòi, là điệu hồn dân tộc, người ta có thể dùng những câu lục bát để đọc,
ngâm, hát, ví, kể chuyện, để tâm tình, để giãi bày tâm trạng. Từ những câu ca
dao mượt mà, ngọt ngào say đắm đến Truyện Kiều (Nguyễn Du), đến thơ
hiện đại, lục bát mãi vẫn làm đắm lòng biết bao tâm hồn yêu say đắm tiếng
thơ rủ rỉ tâm tình bởi những nét duyên riêng. Không ồn ào, hối hả, không rộn
rã hoan ca, lục bát cứ âm thầm lặng lẽ, bền bỉ, kiên trì đi theo dọc tiến trình
vận động, phát triển của nền văn học nước nhà. Trong thời hiện đại, giữa bộn
bề các thể thơ mới và cũ ( thơ một chữ, hai chữ, ba chữ, bốn chữ, nâm chữ,
bảy chữ, tám chữ, thơ cổ phong, thơ đường luật, thơ lục bát, song thất lục bát,
thơ tự do, thơ văn xuôi), thể lục bát vẫn giữ một vị trí, một góc sân, một
khoảng trời riêng không dễ pha tạp, vẫn khẳng định được sức sống, sự bền bỉ
trường tồn của mình. Người ta đi từ trăm mọi nẻo đường để đến với lục bát.
Rất dễ kể ra những cây bút kì cựu trong làng lục bát như: Tố Hữu, Nguyễn
Bính, Nguyễn Đình Thư, Nguyễn Duy, Bùi Giáng, Đổng Đức Bốn… Ấy là
còn chưa kể biết bao thế hệ các nhà thơ trong cuộc đời sáng tác của mình ít
nhiều cũng có một vài giây phút thả hồn, buông con thuyền thơ ca trôi theo sự
êm đềm của dòng sáu tám. Thơ lục bát - tinh hoa, hồn cốt dân tộc chính là
điểm nhấn không thể xóa nhòa khi người ta nhắc đến thơ ca dân tộc Việt.
Phong trào Thơ mới giai đoạn 1932 – 1945 là giai đoạn quan trọng
trong tiến trình phát triển của thơ ca Việt Nam đúng như lời nhận xét rất xác
đáng của học giả Hoài Thanh – “một thời đại thi ca”. Phong trào Thơ mới ra

đời trong buổi giao thời của dân tộc với rất nhiều hệ tư tưởng cũ mới, trái
ngược đan xen nhau. Cuộc đấu tranh giữa mới và cũ, truyền thống và hiện
đại, cách tân hay gìn giữ nguyên bản lối sống, truyền thống văn hóa lâu đời
của cha ông của một thế hệ người mới - tầng lớp tiểu tư sản diễn ra rất căng
thẳng. Các nhà trí thức mới ra sức phản đối lối thơ luật cũ của cha ông, họ cho

6
rằng thơ phải chứa đựng tình cảm của con người. Vì thế cho dù sáng tác của
họ theo thể truyền thống hay thể loại mới cũng luôn mới mẻ trong nội dung và
cách thức thể hiện. Chúng ta rất dễ nhận thấy sự giao thoa giữa những nét
truyền thống, mẫu mực, cổ điển, với luồng gió mới đến từ phương Tây xa lạ -
tiêu biểu là nước Pháp trong tư tưởng, phong cách của họ. Hàng loạt các bài
viết tranh luận diễn ra trên diễn đàn, “một cuộc cách mệnh trong thi ca đã
nhóm dậy” với sự thắng thế của phong trào Thơ mới, bài thơ Tình già của
Phan Khôi đăng trên báo Phụ nữ tân văn “đã chính thức khép lại cả một nền
văn học Việt Nam trung cận đại mở ra một thời kì mới văn học Việt Nam
bước vào giai đoạn hiện đại” (7;4). Từ đó hàng loạt các thể thơ mới hình
thành và phát triển bên cạnh sự trường tồn, bền bỉ của các thể loại thơ ca
truyền thống, khẳng định sự tìm tòi sáng tạo, cách tân của các nhà thơ thông
qua các thể thơ mới như thơ hai chữ, ba chữ, bốn chữ, thơ tự do, thơ văn
xuôi…… Trong giai đoạn giao thoa này cũng khẳng định sức sống bền bỉ,
trường tồn mãnh liệt của các thể thơ cổ truyền. Thi nhân tìm về với thơ lục bát
như trở về với những giá trị nhân bản, vĩnh cửu, với điệu hát ru ầu ơ của bà
của mẹ bên cánh nôi đưa giữa bao la hương lúa ngọt ngào. Tuy nhiên, cái thể
thơ xinh xắn, hài hòa, cân xứng, nhịp nhàng, du dương, uyển chuyển, mượt
mà, lắng đọng, như thủ thỉ, tâm tình, như ru, như than, như giãi bày chia sẻ ấy
phù hợp biết bao với tạng người Việt Nam. Thể thơ tương đối dễ làm nhưng
khó hay ấy rất “kén chọn nhà thơ”. Trong quá trình sáng tác rất dễ đưa một
tác phẩm thơ thành bài ve vẻ vè ve để người ta ngâm nga giải trí. “Nó đi cheo
leo trên một sợi dây vô hình giữa một bên là thi phẩm làm rung động lòng

người và một bên là bài vè thô thiển” (46;5).Ai cũng có thể làm được thơ lục
bát, nhưng để làm được một câu, một bài lục bát hay để đời thì không dễ chút
nào. Nguyễn Phan Cảnh đã từng tổng kết trong Ngôn ngữ thơ: “Thơ lục bát
làm được tốt thì là tính dân tộc, làm không tốt sẽ trở thành diễn ca” (5). Vì thế

7
số lượng thi nhân thành công với thể thơ lục bát không nhiều chỉ là những con
số đếm đơn thuần, nhưng thơ của họ lại chiếm một vị trí quan trọng trong
làng thơ Việt Nam. Thơ lục bát Việt Nam trong phong trào Thơ mới là một
dẫn chứng tiêu biểu. Giai đoạn 1932 – 1945 nở rộ với biết bao thi nhân và biết
bao thi phẩm hay, mới lạ, nhưng đều được viết dưới hình thức thơ mới hoặc
thơ vay mượn, còn số người trở về với thể thơ dân tộc và thành công nhờ thể
thơ này chỉ có một số tác giả tiêu biểu như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Cận,
Bàng Bá Lân, Nguyễn Bính, Xuân Diệu v.v… Họ tìm đến với thể lục bát để
giãi bày những tâm tư, tình cảm một cách trong sáng, thuần túy nhất.
Xoay quanh việc sử dụng thơ lục bát Việt Nam trong sáng tác của các
nhà thơ mới lãng mạn 1932 – 1945, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, khen có,
chê có. Cũng đã có một số công trình nghiên cứu về thơ lục bát của các nhà
thơ mới và đạt được những thành công nhất định, là nguồn tư liệu quý giá cho
thế hệ đi sau, nhưng vẫn còn mang tính nhỏ lẻ trong từng tác giả cụ thể chứ
chưa mang tầm khái quát về một trào lưu. Vì thế chúng tôi bước đầu khảo sát,
tiến hành nghiên cứu thơ lục bát Việt Nam trong phong trào Thơ mới lãng
mạn 1932 – 1945 với hy vọng giúp bạn đọc thấy được sự kế thừa những giá
trị truyền thống tốt đẹp và nhìn ra những nét độc đáo, cách tân, mới mẻ trong
sáng tác của các nhà thơ mới qua thể thơ truyền thống lục bát.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lục bát và song thất lục bát là hai thể thơ thuần Việt, thoát thai từ ca
dao và tục ngữ, được người Việt lựa chọn từ khi con người có nhu cầu về lời
ru, tiếng hát, tâm tình, truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm trong cuộc
sống lao động và chiến đấu. Đắm mình trong dòng sáu tám ta như được về với

cội nguồn, về với những nét bản sắc dân tộc, trở về với điệu trầm bổng du
dương mê đắm lòng người. Nghiên cứu về thể thơ này là một khoa học
nghiêm túc, cẩn trọng bởi nó chính là chìa khóa để chúng ta giải mã những

8
nét độc đáo, bản sắc, hồn cốt dân tộc đã được hun đúc, gìn giữ và lưu truyền,
phát triển từ ngàn đời nay. Viết và nghiên cứu về thể thơ này đã tốn không ít
giấy mực của các nhà nghiên cứu, phê bình có lòng yêu, niềm đam mê với thể
thơ cổ truyền của dân tộc Việt.
Các công trình nghiên cứu về ca dao, tục ngữ ít nhiều cũng dành phần
nghiên cứu cho thể thơ lục bát, đã góp tiếng nói rất quan trọng trong hành
trình nghiên cứu đầy gian nan và phức tạp về thể thơ cổ truyền. Trong cuốn
Tục ngữ Việt Nam, Chu Xuân Diên đã bước đầu khẳng định: “Tục ngữ (vần
và nhịp) là nguồn gốc ra đời lục bát và song thất lục bát”. Theo Nguyễn Xuân
Kính trong Thi pháp ca dao, có đến 95% ca dao được sáng tác bằng thể lục
bát. Hay cuốn Những thế giới nghệ thuật ca dao (tác giả Phạm Thu Yến)
cũng nhấn mạnh ý nghĩa của lục bát trong những sáng tác dân gian và dòng
văn học viết. Qua đây chứng tỏ thể lục bát có vị trí rất lớn trong nền văn hóa,
văn học dân tộc. Càng có ý nghĩa hơn khi dòng thơ này vẫn bền bỉ cùng sự
trường tồn của dân tộc Việt, đi từ dân gian đến hiện đại ngoài việc giữ gìn
những nét bản sắc mang phong cách dân gian, thơ lục bát không ngừng được
cách tân, hiện đại hóa theo nhịp sống hiện đại đáp ứng đầy đủ nhu cầu bộc lộ
thế giới tình cảm đa chiều phức tạp của con người thời mới.
Phan Diễm Phương trong những nghiên cứu của mình về thể thơ lục bát
luôn đặt nó trong sự đối sánh với thể song thất lục bát. : Lục bát và song thất
lục bát – lịch sử phát triển, đặc trưng thể loại – Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 1998. Những biến đổi trên dòng thơ lục bát hiện đại – Tạp chí
Văn học số 10 năm 1994; Nghiên cứu so sánh sự phát triển về cấu trúc âm
luật và chức năng biểu đạt của hai thể thơ lục bát và song thất lục bát –
Luận án Tiến sĩ; Thơ lục bát ở một thế hệ nhà thơ hiện đại – Tạp chí Văn

học số 2 năm 1998; Thể thơ dân tộc và sự lựa chọn của nền văn học mới.
Tạp chí Văn học số 11 năm 1995 v.v…

9
Lục bát là một thể thơ bền bỉ và sâu lắng, nó đồng hành cùng với tiến
trình phát triển của lịch sử và xã hội. Nó thể hiện những cảm thức của cộng
đồng, là sự thăng hoa trong tư tưởng con người, là sự kết tinh những nét tiêu
biểu nhất trong trong tinh hoa văn hóa và ngôn ngữ dân tộc. Là thể thơ dễ
đọc, dễ hiểu, dễ thuộc, ra đời từ rất sớm, mang âm hưởng trữ tình dân gian rõ
nét, nhưng lại chứa đựng trong nó nhiều khả năng cách tân, biến đổi và hiện
đại hóa. Nghiên cứu thể thơ này dưới góc độ thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật
cũng có rất nhiều công trình đạt được những thành tựu lớn, là nguồn tư liệu
quý giá để thế hệ đi sau định hướng, tiếp tục cày xới trên cánh đồng lục bát.
Là một thể thơ cổ có yêu cầu khắt khe về cấu tứ, ngôn ngữ, giọng điệu, điều
đó không có nghĩa là trong thơ không có đặc sắc về nghệ thuât, ngược lại
nghệ thuật thơ lục bát rất phong phú. Đến nay đã có khá nhiều công trình
nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu lục bát ở khía cạnh âm luật. Các công trình
nghiên cứu tiêu biểu như: Mai Ngọc Chừ - Vần nhịp, thanh điệu và sức
mạnh biểu hiện của lục bát biến thể; Phan Ngọc, Nguyễn Xuân Kính, Hà
Quảng, Vũ Duy Thông – Về sự phá vỡ truyền thống trong thơ lục bát v.v…
Các công trình nghiên cứu trên đi sâu vào nghiên cứu vần, nhịp, điệu của lục
bát. Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác cũng nghiên cứu về thể
lục bát như: Bùi văn Nguyên, Hà Minh Đức – Thơ ca Việt Nam- Hình thức
và thể loại; Mã Giang Lân – Thơ hình thành và tiếp nhận v.v…
Thơ lục bát Việt nam đi từ ca dao mộc mạc, đằm thắm, chân tình đến
Truyện Kiều (Nguyễn Du) đến thời hiện đại trải qua bốn giai đoạn cơ bản, từ
những nét sơ khai nhất đến đỉnh cao Truyện Kiều và những thành tựu nổi bật
là lục bát hiện đại còn có rất nhiều điểm nhấn, rất nhiều nốt trầm làm cho
dòng tiến triển của lục bát được liền mạch. Ngoài hai giai đoạn đỉnh cao là
Truyện Kiều và lục bát hiện đại giai đoạn 1975 – 2000, trong các giai đoạn có

thể coi là gạch nối không phải là không có những bài thơ để đời, không phải

10
là không có những cá nhân xuất sắc, ưu việt. Chính những gạch nối ấy góp
phần bổ sung cho sự phong phú của lục bát Việt Nam về tác giả và thể tài.
Thơ lục bát Việt Nam trong phong trào Thơ mới lãng mạn là một minh chứng
tiêu biểu. Dù dóng góp không nhiều, nhưng trong giai đoạn này các nhà thơ
mới đã có những sự tìm tòi sáng tạo, những cách tân độc đáo, thổi luồng gió
mới vào cái áo cổ. Là bước đệm, là nền tảng là cơ sở cho sự cách tân, sáng tạo
thể nghiệm của lục bát Việt Nam giai đoạn sau 1975 – 2000.
3. Mục đích – đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu
những nét cơ bản nhất của thể thơ lục bát Việt Nam trong phong trào Thơ mới
1932 – 1945 thông qua việc nghiên cứu lịch sử hình thành thể lục bát, nội
dung tư tưởng mà các nhà thơ phản ánh dưới hình thức thể loại. Đồng thời tìm
hiểu những đặc sắc, cách tân nghệ thuật có gì đặc trưng, đâu là điểm kế thừa
truyền thống, đâu là những nét hiện đại, mới mẻ làm nên đặc trưng tiêu biểu
của thơ lục bát dưới ngòi bút thi nhân lãng mạn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích đề ra, luận văn của chúng tôi tập trung đi
sâu vào nghiên cứu thể loại thơ lục bát trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại
giai đoạn từ năm 1932 – 1945 thông qua cuốn: Tuyển tập thơ mới lãng mạn
Việt Nam 1932 – 1945. Các tác phẩm mà chúng tôi sử dụng trong bài nghiên
cứu này chủ yếu là thơ lục bát giai đoạn 1932 – 1945 của các nhà thơ như:
Lưu Trọng Lư; Thế Lữ; Lưu Kỳ Linh; Xuân Diệu; Huy Cận; Nguyễn Bính;
Hồ Dzếnh; Bàng Bá Lân; Phan Thanh Dật; Phan Thanh Phước; Hằng
Phương; Mộng Huyền; Nguyễn Đình Thư; Trần Huyền Trân v.v… Ngoài ra,
còn một số tác phẩm thơ lục bát của một số tác giả cùng thời và kế cận như:
Tố Hữu; Phạm Công Trứ; Đổng Đức Bốn; Nguyễn Duy được đưa ra nhằm

mục đích so sánh đối chiếu làm sáng tỏ luận điểm mà chúng tôi nghiên cứu.

11
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề triệt để, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
sau đây.
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Đây là phương pháp quan trọng góp phần hình thành những nhận định
đánh giá chính xác, khoa học về đặc điểm thể thơ, tiến trình hình thành và
phát triển thể loại, những đặc điểm nổi bật về nội dung và hình thức nghệ
thuật của thơ lục bát trong phong trào thơ mới Lãng mạn 1932 – 1945. Chúng
tôi tiến hành thống kê, phân loại đối tượng theo tiêu chí nội dung và hình thức
nghệ thuật để làm sáng tỏ luận điểm đã nêu.
4.2. Phương pháp phân tích
Thông qua phương pháp này, luận văn sẽ nêu bật những đặc trưng về
nội dung và hình thức nghệ thuật trong thơ lục bát giai đoạn 1932 – 1945.
Đồng thời tránh được những nhận xét, kết luận cảm tính về khuynh hướng
cũng như thành tựu của các nhà thơ mới làng mạn trong dòng lục bát.
4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Đây là phương pháp quan trọng không thể thiếu khi chúng tôi tiến hành
nghiên cứu. Như chúng tôi đã nói ở trên, thơ lục bát giai đoạn 1932 – 1945 là
nốt trầm trong tiến trình phát triển thể loại. Nhưng không phải vì thế mà giai
đoạn này không có thành tựu nổi bật và các cá nhân xuất sắc. Để thấy được
đặc trưng của lục bát giai đoạn này, chúng tôi thực hiện so sánh đối chiếu
sáng tác của các tác giả lãng mạn với sáng tác của các tác giả ở các trào lưu
khác cùng thời và các tác giả đương đại. Qua đó những nét tiêu biểu trong
sáng tác của các tác giả lãng mạn sẽ được sáng tỏ và có sức thuyết phục cao.
4.4. Phương pháp liên ngành
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi luôn kết hợp chặt chẽ hữu
cơ các phương pháp kể trên nhằm mục đích giải quyết vấn đề nêu ra một cách


12
triệt để, khoa học, có hệ thống, đem lại những thông tin hữu ích nhất cho đối
tượng tiếp cận đề tài.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chúng tôi triển khai theo
3 chương:
Chương 1: Những hiểu biết chung về thơ lục bát Việt Nam
Chương 2: Các khuynh hướng lục bát trong thơ lãng mạn giai đoạn
1932 - 1945
Chương 3: Những đóng góp tiêu biểu về hình thức nghệ thuật của thơ
lục bát trong thơ lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945



13
NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ THƠ
LỤC BÁT VIỆT NAM
Văn học là hình thức nghệ thuật ngôn từ, thông qua thế giới nghệ thuật
đó, mọi tâm tư, tình cảm của con người được chuyển tải một cách phong phú
và sâu sắc nhất. Tuy nhiên thế giới nội cảm của con người không ngừng biến
động, và ngày càng đa đạng, phức tạp, điều đó đòi hỏi phải có những thể loại
văn học phù hợp thích ứng để có thể diễn tả đấy đủ mọi cung bậc của thế giới
nội tâm con người.
1.1. Thể loại và các thể thơ Việt Nam
1.1.1. Một số quan niệm về thể loại thơ
Là cụm từ được sử dụng khá rộng rãi và phổ biến. Tuy nhiên, tại Việt
Nam vấn đề này vẫn còn gây rất nhiều tranh cãi chưa tìm được tiếng nói

chung, thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Chúng ta vẫn thường hiểu nôm na
“thể” là hình thức tác phẩm, ta thường gọi thể một chữ, thể hai chữ v.v…, hay
thể thơ có vần, thể thơ không vần. “Loại” rộng hơn thể, bao hàm cả thể. Loại
được phân chia dựa trên cả tiêu chí nội dung và hình thức. Do đó, trong quá
trình sáng tác cũng như nghiên cứu một tác phẩm văn học, khi động chạm đến
vấn đề thể, loại hay một kiểu lối thơ nào đó chúng ta thường sử dụng một
cách trực quan như một thói quen cố hữu chứ không dựa trên một tiêu chí
khoa học nào. Dần dần thói quen cố hữu đó ăn sâu, bám rễ vào trong tư tưởng
mỗi chúng ta, đến mức ta chỉ sử dụng thậm chí nhiều khi ta không hiểu được
sử dụng như vậy là hợp lý hay chưa. Sở dĩ có thói quen như vậy là do một vài
nguyên nhân khách quan sau:

14
Tìm hiểu một chút về lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam. Trong suốt
hơn 1000 năm Bắc thuộc, chúng ta chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Văn hóa Trung
Quốc, đặc biệt là trên phương diện văn chương cử tử. Để tuyển chọn người
tài, người ta dựa vào chế độ khoa cử, các nhà nho Việt Nam muốn có được
chỗ đứng vững chắc dưới bệ Rồng đều không ngừng rèn luyện tu dưỡng bản
thân chốn cửa Khổng sân Trình theo học thuyết bất di bất dịch của ông tổ Nho
gia – Khổng Tử. Họ dựa vào những lý thuyết răn dạy lễ nghĩa, dùng văn
chương để “tải đạo”, lấy văn chương làm vũ khí để “di dưỡng tính tình” . Tất
cả các sáng tác đều phải tuân theo một chuẩn mực nhất định không những về
tư tưởng mà về thể thơ cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các thể với những
niêm luật được định sẵn. Ngoài các thể cổ phong quen thuộc như: song điệp,
vĩ tam thanh, thủ vĩ ngâm, hồi văn, yết hậu, liên hoàn v.v…; thơ Đường luật
được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong suốt mười thế kỷ văn học Trung đại, trở
thành chuẩn mực, thước đo để đánh giá tài năng thơ phú của Nho sĩ. Trong
suốt gần một thiên niên kỉ hệ thống thể loại này đã thống soái và chi phối nền
văn học Việt Nam, và cho đến nay nó vẫn giữ được một vị trí quan trọng
trong dòng chảy văn học nước ta.

Sang đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp sang xâm lược đã thổi một
luồng gió văn hóa mới vào nền Văn hóa nước ta, chúng ta được tiếp xúc với
nền văn hóa phương Tây, từ đó kéo theo rất nhiều thay đổi trong văn chương
cũng như trong tư tưởng của thế hệ văn sĩ mới. Một tầng lớp trí thức mới
được du học, tiếp xúc với nền văn hóa mới đã có những sự cách tân mạnh mẽ
trong cách nghĩ cũng như cách sống, họ tôn thờ “cái tự nhiên của con tâm”
(Phan Khôi). Họ không ngừng phê phán thơ luật đã bó buộc cảm xúc, giam
hãm sự bứt phá của tâm hồn, họ kêu gọi đổi mới trong tình và hình thể loại,
thổi hồn vào câu thơ. Thơ ca là ngôn ngữ diễn tả cảm xúc, tâm trạng một cách

15
hữu hiệu nhất, và hàng loạt các thể thơ ra đời kéo theo những quan niệm khác
nhau về thể loại.
Sự phức tạp trong quan niệm về thể và loại của thơ còn bắt nguồn từ sự
phức tạp của thơ. Con người Việt Nam vốn yêu thơ, trân trọng thơ, coi thơ ca
là tinh hoa là sự chắt lọc những giá trị cao nhất của cuộc đời, thơ là nơi để con
người giãi bày, chia sẻ với nhau những tâm tư, tình cảm, những kinh nghiệm
sống. Thơ là nơi neo đậu tâm hồn, là bến đỗ bình yên cho tâm hồn mỗi con
người. Khi vui nghĩ đến thơ, khi buồn người ta cũng nghĩ tới thơ, thơ là ngọn
nguồn của những giá trị cao nhất trong trái tim đa cảm chất chứa yêu thương
của mỗi con người. Thơ không phải là một giá trị bất biến, nó tồn tại vĩnh
hằng cùng với thời gian và luôn có sự vận động, biến thiên cùng với thế giới
tâm trạng đầy phức tạp của mỗi chúng ta. Ở mỗi thời kì, mỗi giai đoạn chúng
ta lại tìm đến với những quan niệm khác nhau về thơ. Thơ là “bà chúa nghệ
thuật”, là “cái nhụy của cuộc sống” (Sóng Hồng), là “sự thể hiện con người và
thời đại một cách cao đẹp”. Nhà thơ như con ong hút nhụy từ những bông hoa
của đời sống để tạo thành mật ngọt dâng hiến cho đời. Nếu không có sự khổ
luyện của con ong thì phấn hoa cũng không trở thành mật ngọt, cũng giống
như nhà thơ nếu không có sự khổ công trau dồi ngòi bút thì cũng không thể có
được những bài thơ hay. Thơ thuộc phương thức trữ tình, nên thơ lấy điểm

tựa ở sự bộc lộ thế giới nội cảm của nhà thơ trước cuộc đời. Thơ thiên về thế
giới nội cảm, là tiếng nói của tình cảm, là sự rung động của con người trước
cuộc sống một cách chân tình, tự nhiên “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của
tâm hồn” (Tố Hữu). Sự phức tạp của thơ có cội rễ từ yếu tố tình cảm. Tình
cảm trong thơ nảy sinh từ những rung cảm trực tiếp của nhà thơ trước cuộc
đời, có rung động mới có sự sáng tạo trong thơ, “thơ phát khởi từ trong lòng
người ta” (Lê Quý Đôn). Ngô Thì Nhậm lại cho rằng, “Mây gió cỏ hoa xinh
tươi kì diệu đến đâu hết thảy cũng đều từ trong lòng mà nảy ra…Hãy xúc

16
động hồn thơ để cho ngọn bút có thần”. Dù đông tây hay kim cổ thì cũng đều
thống nhất cho rằng, tình cảm là yếu tố quan trọng nhất trong thơ, sự phức tạp
của tình cảm làm cho thế giới thơ ca thêm phong phú nhiều màu sắc, bởi
“Thơ là người thư kí trung thành của những trái tim” (Đuy Belây), “Thơ là
nhiệt tình kết tinh lại” (Anphret đơ Vinhi).
Những nguyên nhân mà chúng tôi vừa thống kê trên là dẫn chứng tiêu
biểu, tích cực nhất dẫn tới những cách hiểu, sử dụng khác nhau về cụm từ
“thể loại” tại Việt Nam. Để luận văn mang tính logic, khoa học, đúng đắn,
tránh những lệch lạc, thiếu sót khi nghiên cứu về phạm trù “thể loại” nói
chung, thể lục bát nói riêng, chúng tôi điểm qua nguồn gốc của cụm từ và
những vận dụng khoa học của giới nghiên cứu Việt Nam về cụm từ này trong
tiến trình lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam.
“Thể loại” là một phạm trù mang tính hình thức. Đây có lẽ là thuật ngữ
mà chúng ta du nhập từ Văn học Trung Quốc. B.L.Riftin đã đưa ra dẫn chứng
rất thiết thực chứng minh: “Bản thân khái niệm “thể loại” trong khoa nghiên
cứu Văn học Trung Quốc đương đại được truyền đạt qua từ thể tài, trong đó
“thể” nghĩa đen là “thân thể”, “hình thức”. Cùng với từ này người ta dùng các
thuật ngữ khác như “văn thể” theo nghĩa đen là “thân thể văn học”, “hình thức
văn học”. Những khái niệm này mới chỉ xuất hiện trong thế kỉ XX, nhưng bảo
lưu trong chúng thành tố “thể” tức là “thân thể” vốn đã được sử dụng theo

nghĩa đó từ thời viễn cổ” (52;24). Thông qua quá trình giao lưu văn hóa, văn
học, cụm từ này được du nhập vào nền văn học Việt Nam và đến nay đã trở
thành thuật ngữ quen thuộc trong khoa sáng tác và nghiên cứu văn học. Rất
nhiều nhà nghiên cứu của Việt Nam đã coi đó là một khái niệm chuẩn mực và
trong quá trình nghiên cứu đã chịu ảnh hưởng không ít. Ta sẽ thấy rõ điều này
qua một số nghiên cứu của một số học giả Việt Nam.

17
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học – xuất bản năm
1998 thì: “thể” là “hình thức sáng tác thơ văn” (39;900), “loại” là “tập hợp
người hoặc vật có chung những đặc trưng nào đó, phân biệt với những người
khác, vật khác” (39;553); còn “thể loại” là “hình thức sáng tác văn học nghệ
thuật chia theo phương thức phản ánh hiện thực, vận dụng ngôn từ” (39;900).
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Thể loại là một dạng thức tồn tại
của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá
trình phát triển của lịch sử văn học thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ
chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và
về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy”
(17; 202 – 203). Mà thế giới đời sống của con người là một bức tranh muôn
màu, muôn vẻ, dưới lăng kính của các nhà văn, nhà thơ nó được thu nhỏ,
được phản ánh dưới các góc độ khác nhau, khi thì là viễn cảnh, khi thì là cận
cảnh, “thể hiện những quan hệ thẩm mĩ khác nhau đối với hiện thực”
(17;203). Tương ứng với nó là “những hoạt động nhận thức khác nhau của
con người, hoặc là trầm tư, chiêm nghiệm, hoặc qua các biến cố liên tục, hoặc
qua xung đột…” (17;203), cũng có khi là sôi nổi, hoạt bát hoặc qua các biến
cố, xung đột liên tục tiếp diễn…. Sự thống nhất giữa đối tượng tiếp nhận và
đối tượng truyền tải thông tin về cùng một đối tượng khác nhau đã tạo nên
“sự thống nhất quy định lẫn nhau về các loại đề tài, cảm hứng và các hình
thức nhân vật, hình thức kết cấu và hình thức lời văn” (17;203). Tuy nhiên,
“thể loại” là một phạm trù vừa mới, vừa cũ, không bất biến mà trái lại nó luôn

vận động biến đổi trong sự ổn định nhằm phản ánh những khuynh hướng phát
triển của văn học. “Thể loại văn học trong bản chất phản ánh những khuynh
hướng phát triển vững bền, vĩnh hằng của văn học; và các thể loại văn học tồn
tại là để gìn giữ, đổi mới thường xuyên các khuynh hướng ấy. Do đó mà thể
loại văn học luôn luôn vừa mới, vừa cũ, vừa biến đổi, vừa ổn định.” (17;203).

18
Chính sự phong phú đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những
quan niệm khác nhau về cụm từ thể loại mà chúng tôi đã lí giải ở phần trên.
Tuy nhiên, để tránh sử dụng cụm từ một cách vô thức, dựa theo những
lý thuyết và luận cứ khoa học minh bạch. Giới học giả nghiên cứu đã chỉ ra
được những nhận định khách quan về cụm từ này như sau:
Các nhà lí luận văn học trong suốt quá trình nghiên cứa “đã dựa vào
yếu tố ổn định của thể loại mà chia tác phẩm văn học thành các loại và các thể
(hoặc thể loại hoặc thể tài)” (17; 203). “Thể” thiên nhiều về hình thức, đó là
cách kết cấu tổ chức tác phẩm như truyện ngắn, truyện dài, truyện vừa, tiểu
thuyết v.v… “Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại” (17;203). “Loại” bao
hàm nhiều thể khác nhau. “Bất kì một tác phẩm văn học nào cũng nằm trong
một “loại” nhất định, và quan trọng hơn là có một hình thức “thể” nào đó.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có ba loại: tự sự, trữ tình và kịch” (17;203).
Nếu đặt loại trên tiêu chí nội dung, trong thơ được chia ra thành các loại như:
thơ trữ tình, thơ trào phúng. Còn nếu đặt loại trong tiêu chí phương pháp sáng
tác có thể chia thành các loại thơ như: thơ lãng mạn, thơ hiện thực, thơ cách
mạng; chi tiết hơn ta có thể chia ra thành thơ trữ tình chính trị, thơ chính luận,
thơ châm biếm và thơ đả kích. Như vậy có thể khẳng định, “thể loại là một
dạng thức tồn tại của một tác phẩm, cùng một loại nhưng các thể khác nhau
rất sâu sắc. Ngoài đặc trưng của loại, các thể còn phân biệt nhau bởi hình thức
lời văn (thơ hay văn xuôi), dung lượng (truyện dài, truyện ngắn), nội dung
phản ánh (thơ trào phúng, thơ ca ngợi)” (17;203). Một số nhà nghiên cứu còn
đề xuất chia thể theo loại đề tài, chủ đề, chẳng hạn: thơ tình, thơ điền viên

v.v…. Sự phân chia này được sử dụng khá phổ biến trong quá trình sáng tác
và nghiên cứu văn học Việt Nam.
Trong phần mở đầu chúng tôi khẳng định, thể loại tồn tại song song với
tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, theo thời gian, có những thể trường tồn

19
mãi mãi, nhưng cũng có những thể chỉ tồn tại ở một môi trường cụ thể, một
giai đoạn lịch sử nhất định sau đó tự biến mất “một đi không trở lại” hoặc
được biến đổi thành một thể khác cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội, tình cảm
và tâm sinh lý cộng đồng tiếp nhận đúng như nhận định của Backhtin: “Thể
loại vừa rất cổ sơ nhưng luôn luôn mới mẻ, nó vừa muốn quên mình là ai đi
nhưng luôn nhắc nhở những người khác nhớ về gốc gác của nó”. Hay theo
nhận định của D.Likhasốp thì: “Thể loại là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất
hiện vào một giai đoạn nhất định của văn học và sau đó biến đổi và được thay
thế” (17;204). Như vậy, thể loại vừa mang tính ổn định, bền vững, vừa không
ngừng cách tân biến đổi, vận động.
Mỗi giai đoạn lịch sử văn học, mỗi trào lưu văn học lại gắn liền với một
thể loại khác nhau, hoặc đề cao thể loại này, hoặc hình thành lên thể loại mới,
hoặc cùng tồn tại và phát triển tạo nên sự đa dạng, phong phú về thể loại trong
từng giai đoạn văn học nhất định. Ngoài ra, thể loại còn mang tính lịch sử và
dân tộc, kế thừa và sáng tạo. Dấu ấn lịch sử bao giờ cũng in đậm nét trên chân
dung mỗi thể loại. Có những thể loại chỉ sinh ra và tồn tại trong một giai đoạn
lịch sử nhất định sau đó tự biến mất “một đi không trở lại” như truyện thần
thoại, truyền thuyết…
“Thể loại” gắn bó mật thiết với tính dân tộc. Mỗi một dân tộc trong quá
trình hình thành và phát triển của mình lại gắn với một thể loại văn học cụ thể,
nó phù hợp với bản lĩnh, tính cách, khí phách và tâm hồn, ngôn ngữ, văn hóa
mỗi quốc gia dân tộc riêng biệt. Khi nhắc tới văn hoc Trung Quốc không thể
không kể tới thể Đường thi, tiểu thuyết chương hồi, cũng giống như người Nhật
tự hào mình là lãnh địa của thơ Haikư, và lục bát của Việt Nam. Những thể loại

này góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa, hồn thiêng sông núi của mỗi một quốc gia
dân tộc. Và trong quá trình phát triển của mình, nó không ngừng cách tân, sáng
tạo làm mới mình cho phù hợp với bối cảnh mới của lịch sử xã hội.

20
Bản thân “thể loại” còn luôn mang trong mình khả năng bảo lưu và
giao thoa, làm mới mình. Thực tế lịch sử văn học thế giới chứng minh, có
những thể loại chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử của văn học sau đó tự
mất đi. Nhưng cũng có những thể loại không mất đi mà đã kết hợp với một
vài thể loại khác để cùng tồn tại và phát triển làm nên sự phong phú của thể
loại trong nền văn học. Chúng ta đã quá quen thuộc với các cụm từ thể loại
trong văn học như kịch thơ, thơ văn xuôi, tiểu thuyết phóng sự…. Thực chất
các thể loại đó là sự giao thoa kết hợp giữa các thể kịch, thơ, văn xuôi, tiểu
thuyết và phóng sự mà thành.
Trong mỗi thời kì lịch sử văn học cụ thể chúng ta lại có những quan
niệm khác nhau về “thể loại”, bởi “thể loại” luôn vận động, biến đổi cho phù
hợp với tư duy sáng tác, quan điểm thẩm mĩ, đối tượng tiếp nhận. Tuy nhiên
có một điều không thể phủ nhận đó là, “thể loại” là dạng thức tồn tại của tác
phẩm văn học, nó mang tính hình thức và luôn bảo lưu trong mình các đặc thù
cơ bản: tính lịch sử; tính dân tộc; khả năng giao thoa; tính kế thừa; sự sáng
tạo; khả năng cách tân và đổi mới… Ở luận văn này chúng tôi dùng từ “thể”
có lúc tùy theo văn cảnh sẽ dùng từ “thể loại”.
1.1.2. Các thể thơ Việt Nam
Đặt cụm từ “thể loại” trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học
Việt Nam từ thời Trung đại đến nay, văn học Việt Nam đi từ những bài hịch
cáo, thơ cổ phong, thơ Đường luật, thơ lục bát, song thất lục bát đến kịch, tự
sự, trữ tình và trong mỗi loại lại bao gồm rất nhiều các thể khác nhau. Trong
khuôn khổ luận văn không cho phép chúng tôi liệt kê đầy đủ các thể loại trên
trong tiến trình phát triển nền văn học Việt Nam. Chúng tôi chỉ điểm qua một
vài nét về sự vận động của các thể thơ Việt Nam hiện đại nhằm góp phần giúp

người đọc hiểu rõ hơn về đề tài mà chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu.

21
Giai đoạn 1932 – 1945 xuất hiện nở rộ với hàng loạt các bài thơ mới
không chỉ về nội dung tư tưởng, mà còn mới cả trên phương diện hình thức
nghệ thuật. Với quan niệm phải thổi “tình” vàò trong mỗi vần thơ, thơ phải
chuyển tải được “cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình xa xôi, cái
tình gần gũi”(35;21), “các nhà thơ mới đã dọ dẫm từ những câu thơ hai tiếng
đến những câu thơ mười hai tiếng (mà có người mô phỏng thơ Pháp đã gọi là
“vế”, đặc dụng nhứt là những câu năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng (và đôi khi
chín tiếng)” (74) và đã gặt hái được những thành công rất lớn, là tiền đề cho
thơ ca Việt Nam hiện đại giai đoạn sau tiếp bước và hoàn thiện. Những sáng
tạo thể loại mới mẻ đó của các nhà thơ mới được đánh dấu bằng một hệ thống
thể thơ từ một chữ, hai chữ đến thơ tự do, thơ văn xuôi. Tác giả Hoài Thanh –
Hoài Chân trong cuốn Thi nhân Việt Nam khẳng định, thể thơ thất ngôn (bảy
tiếng), ngũ ngôn (năm tiếng) và thơ tám tiếng là sáng tạo mới của các nhà thơ
mới, còn lục bát, lục ngôn, thơ bốn chữ, từ khúc là thể thơ kế thừa truyền
thống. Xoay quanh vấn đề sự hình thành các thể thơ mới, nhà nghiên cứu Mã
Giang Lân trong cuốn Thơ - Hình thành và tiếp nhận đã dày công khảo cứu
và giới thiệu rất đầy đủ, tỉ mỉ từ nguồn gốc sinh thành, quá trình phát triển đến
những đặc trưng tiêu biểu về nghệ thuật. Trong Sự biến đổi thể loại trong thơ
Việt Nam thế kỉ XX, ông nhận định: “Các nhà thơ mới lúc này viết nhiều thơ
bảy chữ và tám chữ, một thể thơ có nguồn gốc thơ ca dân tộc (ca trù)”
(60;22). Chứng tỏ sang đến giai đoạn văn học này, các nhà thơ mới không còn
quá chú trọng đến niêm luật, cấu trúc câu thơ nữa, điều căn bản quan trọng
nhất là phải thể hiện được cái tình, cái “tôi”, cái “cảm của nhà viết thơ” (74).
Vì thế trong từng hoàn cảnh cụ thể, tùy theo cảm xúc, tâm trạng mà người viết
gửi hồn thơ của mình trong từng thể thơ nhất định. Nguyễn Vỹ đã diễn tả cảm
xúc chơi vơi, bâng khuâng mênh mang của mình bằng thể thơ hai dòng rất
hiệu quả, đưa đến cho người đọc một cảm giác buồn man mác, dịu nhẹ, nói


22
như Hoài Thanh – Hoài Chân: “Cái gì đó có thể là những giọt sương, cũng có
thể là những giọt lệ hay những giọt gì vẫn cứ rơi đều đều, chầm chậm trong
lòng ta mỗi lúc vẩn vơ buồn ta đứng một mình trong lặng lẽ” (35;117).
Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu…
…Từng giọt,
Thánh thót,
Từng giọt,
Tơi bời
Mưa rơi,
Gió rơi,
Lá rơi,
Em ơi
(Sương rơi – Nguyễn Vỹ)
Đôi khi nhà thơ lại thả hồn trôi theo thể thơ bốn chữ quen thuộc thường
thấy trong tục ngữ, ca dao, dân ca:
Xuân gội tràn đầy
Giữa lòng hoan lạc,
Trên mình hoa cây…
Nắng vàng lạt lạt
Ngày đi chầy chầy…
(Chiều xuân – Huy Cận)
Cũng có khi nhà thơ lại đắm mình trong dòng cổ phong (ngũ ngôn cổ
phong) và thơ Đường (ngũ ngôn Đường luật):
Đôi mắt em lặng buồn


23
Nhìn thôi mà chẳng nói
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng
(Một mùa đông - Lưu Trọng Lư)
Và thơ lục ngôn – một dạng thơ ít được sử dụng trong làng thơ Việt Nam:
Em là gái trong song cửa,
Anh là mây bốn phương trời;
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vẫn nằm trong nhung lụa
(Một mùa đông – Lưu Trọng Lư)
Dù cho các nhà thơ quan niệm sáng tác bằng bất cứ thể thơ nào, chỉ cần
“lướt theo ý tưởng”, nhưng sở trường của các nhà thơ vẫn là thể bảy chữ và
thể tám chữ:
Hôm nay tôi đã chết trong người
Xưa hẹn nghìn năm yêu mến tôi
(Xuân Diệu)
Hoài Thanh cho rằng : “Hai câu thất ngôn ấy của Xuân Diệu hình dáng
giống thơ xưa biết bao. Phép dùng chữ, phép đặt câu đổi mới một cách táo
bạo cũng thay hình dáng câu thơ không ít. Những thể thơ cũng như toàn thể
xã hội Á Đông, muốn mưu lấy sinh tồn, không ít thì nhiều cũng phải thay đổi
hình dáng” (35;57).
Thể bảy chữ và thể tám chữ có nguồn gốc từ thể thơ ca dân tộc, thể hát
nói (ca trù), mang âm hưởng mênh mang nửa hát nửa nói:

24
- Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ!
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn!
(Xuân - Chế Lan Viên)
- Tôi đã dám cầu xin hai giọt lệ

Trên mi nàng huyền bí vẻ say mê
Cho điệu buồn man mác tự đâu về
Đưa ngọn gió theo chiều mây lặng lẽ
(Chiều buồn - Phạm Hầu)
Ngoài ra, thời kì này còn xuất hiện một số dạng thể thơ mới như thơ tự
do, thơ văn xuôi. Sự xuất hiện của các thể thơ này đã chứng minh cho tính
chất phong phú, phức hợp của phạm trù thể loại, đó là tính giao thoa, tương
tác giữa các thể loại. Đồng thời đáp ứng nhu cầu bộc lộ thế giới nội cảm mãnh
liệt của một thế hệ nhà thơ mới. Dù cho xuất hiện với tần suất không nhiều,
nhưng thơ tự do và thơ văn xuôi cũng đã khẳng định được dấu ấn của mình
trong trào lưu Thơ mới lãng mạn. “Phong trào thơ mới lúc bột phát có thể
xem như một cuộc xâm lăng của thơ văn xuôi. Văn xuôi tràn vào địa hạt thơ,
phá phách tan tành.” (35;46). Giai đoạn đầu khi mới xuất hiện thơ văn xuôi
còn mang tính chất văn xuôi, sau khoảng mười năm phát triển “thơ văn xuôi
càng thêm hàm súc” (35;46), đôi khi hàm súc quá khiến người đọc không hiểu
được bởi nó đã vượt khỏi khuôn mẫu thông thường bởi những hình ảnh ngôn
từ mang ý nghĩa tượng trưng, siêu thực.
Phong trào Thơ mới là sự bùng phát, nở rộ của các thể thơ mới, bên
cạnh sự tồn tại phát triển song song của các thể thơ cũ như thơ Đường luật,
dòng thơ dân gian. Trong ngàn hoa đua sắc thắm đó, lục bát vẫn giữ được vẻ
duyên dáng, dịu dàng, đằm thắm của mình – một bông hoa đồng nội dịu dàng
e ấp, giản dị mà đằm thắm. Giai đoạn này không phải là đỉnh cao của thơ lục
bát như trong Truyện Kiều, nhưng nó vẫn tiếp tục tiếp bước cùng thế hệ

×