Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.61 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN THỊ SAO




THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM DƯỚI GÓC NHÌN
VĂN HOÁ



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam


















Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN THỊ SAO




THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM DƯỚI GÓC NHÌN
VĂN HOÁ



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Mã số: 60.22.34











Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Văn Lân






Hà Nội - 2010
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

1
MỤC LỤC

Phần Mở đầu………………………………………………………………… 3
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………….……… 3
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………… …….… …… 4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.………………………………………………… 6

4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………….…….… 6
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn………………………….……… 7
6. Cấu trúc luận văn………………………………………………………… 7
Chương 1: Thơ Nguyễn Khoa Điềm trong mạch nguồn văn hoá Huế… 8
1.1. Vài nét về văn hoá Huế………………………………………… …… 8
1.2. Mối quan hệ văn hoá – văn học… …………………………………… 12
1.3. Hành trình thơ Nguyễn Khoa Điềm trong mạch nguồn văn hoá Huế … 17
Chương 2: Cảm thức văn hoá trong thơ Nguyễn Khoa Điềm…….…… 23
2.1. Sự gắn bó, tự hào về quê hương…………………………………………….…23
2.1.1. Thiên nhiên miền sông Hương núi Ngự……………………….………….…24
2.1.2. Cuộc sống, con người xứ Huế…………………………… …………….….34
2.2. Những tâm sự, triết lý, trải nghiệm qua cái nhìn văn hóa………… …… 43
2.2.1. Những tâm sự, triết lý mang đậm sắc thái văn hóa truyền thống
dân tộc…………………………………………………………………… 43
2.2.2. Những tâm sự, triết lý trải nghiệm mang đậm sắc màu văn
hóa Huế………………………………… ………………………………… 52
Chương 3: Các biểu trưng văn hoá và hình thức thể hiện………………… 63
3.1. Các biểu trưng văn hóa…. ………………………………………………… 63
3.1.1. Dòng sông Hương………………………………………………………… 64
3.1.2. Khu vườn…………………………………………………………… ….68
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

2
3.1.3. Con đường và ngọn lửa…… …….…… …………………… …… 74
3.2. Hình thức thể hiện…………… ………………………………… …….… 78
3.2.1. Ngôn ngữ thơ: mang đậm chất văn hoá Huế…… …… ……………….… 78

3.2.2. Thể thơ…… ………………………….……………………… … 85
3.2.3. Giọng điệu…………………………………….………………………….….88
Kết luận……………………………………………………………………… 95
Tài liệu tham khảo……………………………………………… ………….… 97



















Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

3

Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế
hệ thơ trẻ xuất hiện trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Sau hơn bốn mươi
năm vừa đảm nhiệm những chức vụ quan trọng vừa cầm bút, Nguyễn Khoa Điềm
đã đóng góp cho nền thơ ca nước nhà một số thành tựu đáng kể. Những tác phẩm:
Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng và Ngôi nhà có ngọn lửa ấm của ông đã nhận
được Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật. Gần đây, tập thơ Cõi lặng
(xuất bản năm 2007) của Nguyễn Khoa Điềm đánh dấu hành trình trở về Huế -
thành phố của tuổi thơ ông, “để làm một người trong mọi người” cũng được đánh
giá cao. Tự bạch trước những vấn đề của thời cuộc, nhân sinh để có cái nhìn rộng
hơn, sâu sắc hơn, khái quát cao hơn hình như là ý tưởng đeo đuổi suốt đời thơ của
Nguyễn Khoa Điềm trong quá khứ cũng như hiện tại.
1.2. Hành trình thơ của Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với mảnh đất Huế thơ.
Huế đã trở thành chiếc nôi sinh thành, mái nhà trú ngụ, lớn lên của nhiều thế hệ thi
nhân Việt Nam. Sương khói Huế, sông Huế, núi Huế, văn hóa Huế, cho đến điệu
Nam Ai, Nam Bình đều trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân. Huế là
không gian cổ điển Phương Đông thuần khiết, là chốn của những mái cong đền cổ
thấp thoáng dưới bóng vườn xanh. Không gian cổ tích ấy là môi trường lý tưởng
của những chiêm nghiệm, những cảm thức làm nền tảng triết lý cho thơ, trong đó có
thơ Nguyễn Khoa Điềm.
1.3. Sáng tạo văn học là một hoạt động văn hoá. Vì vậy, khi nghiên cứu văn
học từ góc độ quan hệ văn hoá - văn học sẽ thấy được vai trò sáng tạo văn hoá của
văn học qua những hình tượng nghệ thuật, qua xây dựng những mô hình nhân cách
văn hoá đẹp cho xã hội, cho dân tộc. Đồng thời, nghiên cứu văn học nhìn từ góc độ
quan hệ văn hoá - văn học sẽ góp phần khẳng định vai trò vừa lưu giữ, chuyển tải
vừa thẩm định và lựa chọn văn hoá của văn học.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá




Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

4
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc
nhìn văn hoá với hi vọng sẽ đóng góp thêm một vài ý kiến để tiến tới có một cái
nhìn tổng thể, toàn diện về tác phẩm thơ Nguyễn Khoa Điềm.
2. Lịch sử vấn đề
Về Nguyễn Khoa Điềm, các bài viết, công trình nghiên cứu về ông không
nhiều nhưng đều có những đánh giá khá nhất quán về phong cách thơ ông. Tôn
Phương Lan trong bài viết khá công phu Nguyễn Khoa Điềm nhà thơ trẻ có nhiều
triển vọng (1976) đã đề cập ngay đến phong cách riêng ấy, đó là “những liên tưởng
độc đáo, kết quả của một sự am hiểu cuộc sống và một cảm quan văn chương nhạy
bén… Điều đó đã tạo nên những tứ thơ mênh mông, đậm đà mà bay bổng, thật thà
mà xao xuyến”[26, tr.326]. Đồng thời, nhà nghiên cứu cũng khẳng định thành công
của Nguyễn Khoa Điềm ở thể loại trường ca: “Trường ca Mặt đường khát vọng là
một thể nghiệm mới trong vấn đề tìm tòi phương pháp thể hiện và một thành công
mới của anh”. Về cấu trúc trường ca này, Tôn Phương Lan nhận xét rất xác đáng:
“không coi việc kể chuyện là chính. Lấy suy nghĩ, cảm xúc làm chỗ dựa cho kết cấu
để rồi từ đó triển khai cả bề rộng lẫn bề sâu”[26, tr.331].
Nguyễn Xuân Nam trong Thơ tìm hiểu và thưởng thức (1985) cũng nhấn mạnh
đến sức mạnh của trường liên tưởng và chiều sâu văn hóa quá khứ: “Thơ Nguyễn
Khoa Điềm không đặc sắc về tạo hình, về màu sắc nhưng anh có sức liên tưởng
mạnh. Anh thường dẫn người đọc đi từ quá khứ đến tương lai, từ khổ đau đến hạnh
phúc, từ sách vở đến đời sống”.
Trong bài Gương mặt quê hương, gương mặt nhà thơ (1998), Võ Văn Trực
chú tâm đi tìm và phân tích chất văn hóa Huế trong thơ Nguyễn Khoa Điềm và
khẳng định, chính điều đó đã làm nên phong cách thơ ông, “tâm hồn Huế vẫn dịu
dàng ở phía sau mỗi dòng thơ”.
Trong Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường của Nguyễn Trọng Hoàn, Ngô

Thị Bích Hường, các tác giả khẳng định phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm chính
là “Chất suy tư, chính luận và sự dồn nén cảm xúc cũng như sự am hiểu hiện thực
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

5
trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cùng những cái nhìn giàu tính phát hiện sâu sắc, bất
ngờ”[23, tr.115].
Tuy vậy, Nguyễn Trọng Hoàn trong bài viết Cảm nhận thơ Nguyễn Khoa Điềm
đánh giá hơi có phần phiến diện về giai đoạn sáng tác đầu của Nguyễn Khoa Điềm,
chỉ nhận ra đó là chất thơ “mộc mạc hàm chứa một vẻ đẹp giản dị, trong trẻo. Tiếng
thơ như tiếng lòng người chiến sĩ bình tĩnh, tự tin”[23, tr.148].
Trong Tác giả nói về tác phẩm, Nguyễn Quang Thiều đánh giá “Thơ ca
Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất hiện thực và văn hóa dân gian. Câu thơ
dù ở thể thơ truyền thống hay thể tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca
dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ” [47,
tr.225].
Vũ Tuấn Anh trong Mặt đường khát vọng đến Ngôi nhà có ngọn lửa ấm chỉ ra
tiến trình vận động thơ Nguyễn Khoa Điềm từ thời chiến sang thời bình và kết luận:
“Ngôi nhà có ngọn lửa ấm vừa tiếp nối vừa chuyển đổi cảm xúc nên giọng thơ điềm
đạm và sâu lắng, tách các lớp vỏ của sự vật để đi vào cái cốt lõi bên trong, khơi gợi
từ đấy những triết lý đạo đức và nhân sinh”.
Hoàng Thu Thủy trong Ngôi nhà tâm hồn của Nguyễn Khoa Điềm luôn có
ngọn lửa ấm cũng đi sâu phân tích tập thơ mới này của ông và đánh giá: “Sự vận
động từ gân guốc, mạnh khỏe một cách điềm tĩnh đến độ sâu sắc đến mức tĩnh tại,
chạm vào phần sâu kín nhất của tâm hồn con người làm bật lên những hiệu ứng
thẩm mỹ phong phú”.

Tại luận văn thạc sỹ Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm, Lưu Thị Lập sau khi
nêu lên những đóng góp của thơ Nguyễn Khoa Điềm trong phong trào thơ chống
Mỹ đã đưa ra và phân tích những cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Khoa Điềm (về
đất nước, con người trong và sau chiến tranh), tập trung phân tích những hình ảnh
thơ, ngôn ngữ thơ và màu sắc văn hóa dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Gần đây, sau khi từ giã quan trường, Nguyễn Khoa Điềm đã trở lại với thơ và
công bố nhiều bài thơ cùng tập Cõi lặng cho một giai đoạn sáng tác mới. Đã có khá
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

6
nhiều bài viết giới thiệu, đánh giá về thơ Nguyễn Khoa Điềm giai đoạn này, nhưng
nhìn chung đa số đều còn ở dạng riêng lẻ, mang tính chất cảm nhận, bình luận một
số bài thơ tiêu biểu và tập trung vào chuyện trở về “vườn chuối” của ông, do đó,
chưa có những kết luận đáng chú ý.
Tựu trung, các công trình, bài viết trực tiếp hoặc gián tiếp đều thừa nhận tài
năng của Nguyễn Khoa Điềm nhưng chưa thực sự có nhiều công trình khoa học
khảo sát một cách có hệ thống và quy mô cả về chiều rộng và chiều sâu thơ Nguyễn
Khoa Điềm. Dù sao, đó cũng thực sự là những bước đi đầu tiên cho việc khám phá
trọn vẹn, đầy đủ toàn bộ thế giới nghệ thuật thơ ca Nguyễn Khoa Điềm.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm văn hoá, các thành tố văn hoá và mối quan hệ
giữa văn hoá và văn học, luận văn đi sâu vào nghiên cứu thơ Nguyễn Khoa Điềm từ
góc nhìn văn hoá. Từ vấn đề trung tâm, chúng tôi mở rộng các mặt biểu hiện cơ bản
của thơ Nguyễn Khoa Điềm trong tính thống nhất giữa nội dung và hình thức.
Do khuôn khổ của luận văn có hạn, chúng tôi chỉ tập trung tiến hành khảo sát
thơ Nguyễn Khoa Điềm qua các tập thơ chính: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng

(trường ca), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Cõi lặng. Lựa chọn những tập thơ này vì
chúng tôi cho rằng đây là các tập thơ hội tụ những bài thơ tiêu biểu, đặc sắc nhất
cho phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm đồng thời nó bao quát được cả một hành
trình dài thơ ca của ông từ những năm 70 cho đến tận hôm nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn cố gắng phác hoạ lại diện mạo thơ Nguyễn Khoa Điềm nhưng đặc
biệt nhấn mạnh vào sự ảnh hưởng của văn hoá vùng đến sáng tác thơ của ông. Cách
thức tiến hành của chúng tôi không theo cách đi vào phân tích từng tác phẩm cụ thể
để nhận diện đặc điểm thơ Nguyễn Khoa Điềm. Luận văn tiếp cận vấn đề bằng việc
sử dụng kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp so sánh, thống kê;
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

7
- Phương pháp liên ngành: dưới góc độ văn hoá, văn học soi chiếu
tương tác.
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình khảo sát về thơ Nguyễn Khoa Điềm từ góc nhìn văn
hoá. Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn khái quát,
đầy đủ hơn về thơ Nguyễn Khoa Điềm, từ đó thấy được những tìm tòi, đổi mới, vận
động và phát triển của thơ Nguyễn Khoa Điềm mang đậm bản sắc văn hóa của một
vùng quê.
Chúng tôi không đặt nhiều tham vọng đưa ra những kiến giải mới khác với
nhận định của các nhà nghiên cứu trước đó mà chỉ vận dụng những thành tựu đã có
để đưa ra những đánh giá có tính chất cụ thể bước đầu theo một hướng mới.

Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một cách tiếp cận mới mẻ giúp
ta hiểu thêm về những giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Kết quả nghiên cứu của
Luận văn góp phần khẳng định một hướng nghiên cứu văn học mới nhiều triển vọng
đó là từ góc độ văn hoá - văn học, sự giao lưu, giao thoa và ảnh hưởng qua lại để
nhìn cho thấu đáo từ nhiều chiều kích, phương diện
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Thơ Nguyễn Khoa Điềm trong mạch nguồn văn hoá Huế
Chương 2: Cảm thức văn hoá trong thơ Nguyễn Khoa Điềm
Chương 3: Hình thức thể hiện và các biểu trưng văn hoá







Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

8
Chương 1: THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM TRONG MẠCH NGUỒN
VĂN HOÁ HUẾ
1.1. Vài nét về văn hoá Huế
Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế có một quá trình lịch sử hình thành và phát triển
khoảng gần 7 thế kỷ (tính từ năm 1306). Trong khoảng thời gian khá dài, Huế đã
tích hợp được những giá trị vật chất và tinh thần quý báu để tạo nên một truyền

thống văn hóa Huế. Truyền thống ấy vừa mang tính đặc thù - bản địa của một vùng
đất vừa không tách rời những đặc điểm chung của truyền thống văn hóa dân tộc
Việt Nam. Suốt tiến trình hình thành văn hóa Huế có sự tác động của văn hóa Đông
Sơn do các lớp cư dân từ phía Bắc mang vào trước thế kỷ II và sau thế kỷ XIII hỗn
dung với thành phần văn hóa Sa Huỳnh tạo nên nền văn hóa Việt – Chăm cùng sự
ảnh hưởng của các luồng văn hóa khác các nước trong khu vực Đông Nam Á,
Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây
Là một vùng văn hóa mang đậm sắc thái truyền thống của Việt Nam, Huế ẩn
chứa trong lòng mình những giá trị văn hóa độc đáo, thể hiện sinh động một thời
phát triển của vùng đất kinh kỳ, nơi hội tụ tinh hoa văn hóa của cả nước. Văn hóa
Huế được tạo nên bởi sự đặc sắc về tinh thần, đa dạng về loại hình, phong phú và
độc đáo về nội dung, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: văn học, âm nhạc, sân
khấu, mỹ thuật, phong tục tập quán, lễ hội, lề lối ứng xử, ăn - mặc - ở, phong cách
giao tiếp, phong cách sống
Ngôn ngữ là một sản phẩm và là một thành phần của văn hoá. Trong văn hóa
Huế, có một tiếng Huế rất dịu dàng, "dễ thương", cùng nằm trong miền phương ngữ
Trung Bộ song không giống tiếng Quảng Bình - Quảng Trị, mà là một thứ tiếng
Việt độc đáo, đối sánh với "tiếng Hà Nội", "tiếng Sài Gòn". Giữa hai vùng Nghệ
Tĩnh và Quảng Nam - nơi có tiếng nói mạnh dạn, nhiều nam tính, nhiều âm đỉnh và
âm vực đối chọi nhau, tiếng Huế như tách ra bởi sự nhỏ nhẹ, bồng bềnh, ríu rít đầy
nữ tính.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

9
Cũng trong phương diện ngôn ngữ, mỗi địa phương do truyền thống của nó tạo
nên một ngôn ngữ đối thoại có màu sắc riêng. GS Hoàng Thị Châu có sự so sánh:

“Khẩu ngữ Hà Nội lịch sự và tế nhị, văn hoa nhưng không khỏi kiểu cách. Khẩu
ngữ Huế ở ngôn ngữ hoàng phái mang sắc thái đài các, nhưng thiếu tính chân thực,
còn ở khẩu ngữ nhân dân thì đậm đà, duyên dáng nhưng không khỏi mộc mạc.
Khẩu ngữ Nam Bộ thì bốp chát, nhưng chí tình, khỏe mạnh và mang một đặc điểm
rất mới mà các khẩu ngữ khác không có, đó là ý thức về giá trị cá nhân”[9, tr.76].
Ca Huế là một hệ thống bài bản phong phú gồm khoảng 60 tác phẩm thanh
nhạc và khí nhạc theo hai điệu thức lớn là điệu Bắc, điệu Nam và một hệ thống
"hơi" diễn tả nhiều sắc thái tình cảm đặc trưng. Điệu Bắc gồm những bài ca mang
âm điệu tươi tắn, trang trọng. Điệu Nam là những bài âm điệu buồn, nỉ non, ai oán.
Bài bản ca Huế có cấu trúc chặt chẽ, nghiêm ngặt, trải qua quá trình phát triển lâu
dài đã trở thành nhạc cổ điển hoàn chỉnh, mang nhiều yếu tố "chuyên nghiệp" bác
học về cấu trúc, ca từ và phong cách biểu diễn. Đi liền với ca Huế là dàn nhạc Huế
với bộ ngũ tuyệt Tranh, Tỳ, Nhị, Nguyệt, Tam, xen với Bầu, Sáo và bộ gõ trống
Huế, sanh loan, sanh tiền. Kỹ thuật đàn và hát ca Huế đặc biệt tinh tế nhưng ca Huế
lại mang đậm sắc thái địa phương, phát sinh từ tiếng nói, giọng nói của người Huế
nên gần gũi với hò Huế, lý Huế; là chiếc cầu nối giữa nhạc cung đình và âm nhạc
dân gian.
Lễ nhạc cung đình Huế: Bắt nguồn từ 8 loại lễ nhạc cung đình thời Lê là giao
nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, cửu nhật nguyệt giao trùng nhạc, đại triều nhạc,
thường triều nhạc, đại yến cửu tấu nhạc, cung trung nhạc, đến triều Nguyễn lễ nhạc
cung đình Việt Nam đã phát triển thành hai loại hình Đại nhạc và Nhã nhạc (tiểu
nhạc) với một hệ thống các bài bản lớn. Cùng với nhã nhạc, vũ khúc cung đình nổi
bật với trên 15 vở múa lớn, từ múa tế lễ, múa chúc tụng, múa tiếp sứ, múa yến tiệc,
múa trình diễn tích tuồng. Nhiều vở múa có tính hoành tráng, quy mô diễn viên
đông, phô diễn được vẻ đẹp rộn ràng, lấp lánh và kỹ thuật, kỹ xảo của múa hát cung
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007


10
đình Việt Nam, thể hiện được sự phát triển nâng cao múa hát cổ truyền của người
Việt.
Mỹ thuật, mỹ nghệ Huế: Với những kiểu thức trang trí bắt nguồn từ những
mẫu mực của Trung Hoa, các nghệ nhân Việt Nam đã tạo nên một bản sắc nghệ
thuật trang trí với những nét độc đáo mang cá tính Huế. Nghệ thuật trang trí mỹ
thuật Huế còn tiếp thu những tinh hoa của nghệ thuật Chăm, đặc biệt là tiếp thu
nghệ thuật trang trí Tây phương. Trang trí cung đình Huế còn tiếp nhận và nâng cao
nghệ thuật dân gian Việt Nam. Nhiều loại hình thủ công mỹ nghệ truyền thống của
Việt Nam như chạm khắc gỗ, cẩn xà cừ, cẩn tam khí ngũ khí, sơn son thếp vàng,
chạm khắc xương và ngọc ngà, khảm sành sứ, làm vàng bạc, dệt, thêu, đan đã
được các tượng cục triều Nguyễn nâng lên thành những nghệ thụât tinh xảo, sang
trọng. Về hội họa, nhiều họa sĩ Huế nổi tiếng về tranh thủy mặc sơn thủy, trúc lan,
tranh gương, các ấn phẩm nhất thi nhất họa đặc sắc.
Về điêu khắc, cố đô Huế đã đánh dấu một thời kỳ phát triển mới, thể hiện bằng
các tác phẩm điêu khắc trên đá, trên đồng, trên gỗ. Trong điêu khắc gỗ, phần khắc
chạm gỗ trang trí với những bức chạm nổi, chạm lộng trên các chi tiết công trình
kiến trúc đạt đến sự tinh xảo và có tính thẩm mỹ cao. Về mỹ thuật ứng dụng, ngoài
việc nâng cao các loại hình thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam, Huế còn
một thời sản xuất đồ mỹ nghệ pháp lam cao cấp.
Trong văn hóa Huế có hai loại lễ hội: lễ hội cung đình và lễ hội dân gian. Lễ
hội cung đình phản ánh sinh hoạt lễ nghi của triều Nguyễn, phần lớn chú trọng về
"lễ" hơn "hội". Lễ hội dân gian gồm nhiều loại rất phong phú, tiêu biểu như: lễ hội
Huệ Nam ở điện Hòn Chén hay còn gọi là lễ rước sắc nữ thần Thiên y A na theo tín
ngưỡng của người Chăm pa, lễ hội tưởng niệm các vị khai sinh các ngành nghề
truyền thống, lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh thành lập làng. Trong những dịp tế
lễ, nhiều sinh hoạt văn hóa bổ ích như đua thuyền, kéo co, đấu vật được tổ chức
và thu hút đông đảo người xem.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá




Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

11
Kiến trúc ở Huế phong phú và đa dạng: có kiến trúc cung đình và kiến trúc dân
gian, kiến trúc tôn giáo và kiến trúc đền miếu, kiến trúc truyền thống và kiến trúc
hiện đại Những công trình kiến trúc công phu, đồ sộ nhất chính là Quần thể di tích
Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế. Đó là những di tích lịch sử - văn hóa do triều
Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XIX đến nửa đầu
thế kỷ XX trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một
vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế. Kiến trúc đô thị Huế có truyền
thống trên nền kiến trúc "tạo cảnh": Với phong cách riêng và cái nhìn phong thủy,
quần thể kiến trúc kinh thành, đền đài, lăng tẩm, nhà cửa nơi đây đã hoà quyện cùng
ngoại cảnh thiên nhiên thơ mộng của sông suối, núi rừng, bãi đồi xứ Huế, thể hiện
sự hoà hợp âm dương, tạo nên một không gian kiến trúc "tạo cảnh" mang nhiều triết
lý sâu xa, huyền bí.
Cũng nằm trong không gian kiến trúc "tạo cảnh", nhà vườn Huế được coi là
một nét văn hoá vật thể truyền thống đặc trưng. Nhà vườn Huế thể hiện triết lý sâu
xa của con người xứ Huế: hướng nội, suy tư, hoà quyện vào thiên nhiên, gửi gắm
lòng mình vào cỏ cây, hoa lá. Loại kiến trúc này lấy ngôi nhà làm trung tâm, trong
đó người ta đặc biệt chú ý đến cả kết cấu kiến trúc (chạm khắc, tạo dáng tỷ mỉ, tinh
vi, khéo léo đến mức ngôi nhà trở thành tác phẩm của nghệ thuật điêu khắc gỗ),
không gian kiến trúc (địa thế, phương vị, tiền án và vườn cây tạo cảnh xung quanh
nhà), không gian xã hội (nhà nhất thiết phải gian lẻ, gian giữa là bàn thờ, hương án,
hoành phi, câu đối; gian trên, chái trên dành cho đàn ông; gian dưới, chái dưới dành
cho phụ nữ ).
Đặc trưng tiếp theo của văn hoá vật thể là sự có mặt với mật độ dày đặc các
chùa chiền, nhà thờ và các cơ sở thờ họ khác, như điện thờ, thánh thất, đền miếu

Trước hết Huế là một trung tâm Phật giáo lớn của cả nước với sự có mặt của nhiều
chùa chiền cổ cách ngày nay chừng vài ba thế kỷ. Hiện nay, ở Huế có khoảng trên
100 chùa chiền lớn nhỏ, phần nhiều trong số đó nằm ở phía tây thành phố - nơi có
những đồi thông ngút ngàn màu xanh. Ngoài ra, ở Huế còn có 13 nhà thờ Thiên
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

12
chúa giáo, 1 thánh thất Cao đài và hàng ngàn nhà thờ, đền miếu Đó là những giá
trị văn hoá vật thể mang dấu ấn kiến trúc tôn giáo của con người xứ Huế.
Nói đến văn hóa Huế, cũng không thể không nhắc đến ẩm thực. Huế còn lưu
giữ trên 1000 món ăn nấu theo lối Huế, trong đó có cả những món ăn ngự thiện của
các vua triều Nguyễn. Bản thực đơn ngự thiện có trên vài chục món thuộc loại cao
lương mỹ vị, được chuẩn bị và tổ chức rất công phu, tỷ mỷ, cầu kỳ. Bên cạnh đó,
các món ăn dân dã rất phổ biến trong quần chúng với bản thực đơn phong phú hàng
trăm món được chế biến khéo léo, hương vị quyến rũ, màu sắc hấp dẫn, coi trọng
phần chất hơn lượng; nghệ thuật bày biện các món ăn đẹp mắt, nghệ thuật thưởng
thức tinh tế.
1.2. Mối quan hệ văn hoá - văn học
1

Hiểu theo nghĩa rộng, văn hóa là tổng thể những thành tựu, những giá trị vật
chất và tinh thần do các cộng đồng dân tộc sáng tạo ra trong quá trình cải tạo tự
nhiên và phát triển xã hội, nhằm đảm bảo nhu cầu cuộc sống con người. Dân tộc
học chia văn hóa thành ba loại: văn hóa vật chất (bao gồm công cụ sản xuất,
phương tiện đi lại, làng mạc, nhà cửa, quần áo, giày dép, đồ trang sức, các thức ăn,
thức uống…); văn hóa xã hội (bao gồm các thiết chế xã hội, gia đình, dòng họ, làng

bản và mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng); văn hóa tinh thần (bao
gồm các tri thức khoa học, phong tục tập quán, tôn giáo, xã hội, văn học, nghệ thuật
dân gian…). Phan Ngọc đã thống kê được gần 400 định nghĩa khác nhau về văn
hóa. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống các
giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực
tiễn thông qua các mối quan hệ với tự nhiên và xã hội” [45, 27]. Theo Unesco:
“Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất,
trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người
trong xã hội, văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những

1
Tham khảo theo bài viết của Đỗ Lai Thúy Quan hệ văn hóa và văn học từ cái nhìn hệ thống, có chỉnh sửa, bổ
sung
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

13
quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín
ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn
hóa làm cho chúng ta trở thành những sự vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê
phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự
ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem
xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và
sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân” [45, tr.24].
Chính từ đặc trưng văn hóa, các thuộc tính của văn hóa, văn học, có thể xem
xét mối quan hệ giữa chúng ảnh hưởng và tác động qua lại với nhau như thế nào.
Văn học là một bộ phận của văn hóa, nằm trong văn hóa, vì thế chịu sự chi phối của

văn hóa. Những nhân tố như: ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, lao động sản xuất, ăn,
mặc, ở, đi lại, sự phát triển của khoa học kỹ thuật… đều là điều kiện quan trọng
trong môi trường nảy sinh, hình thành những tác phẩm văn học.
Thực ra, bất kỳ một công trình nghiên cứu văn học nào cũng đều ít nhiều, xa
gần viện dẫn tri thức văn hóa hoặc đề cập đến những vấn đề văn hóa trong việc bình
luận, giải thích tác phẩm. Ở Việt Nam, nghiên cứu, phê bình văn học từ văn hóa,
cũng xuất hiện đã lâu, thậm chí từ thời trung đại khi Phạm Quý Thích bình luận
Kiều là Nhất phiếu tài tình thiên cổ lụy, Tân thanh đáo để vị thùy thương. Rồi sau
đó Truyện Kiều được Trần Trọng Kim nghiên cứu từ quan điểm Phật giáo, Thơ Mới
được Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam phần Một thời đại thi ca khảo sát từ
luồng gió mới của văn hóa phương Tây. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu trên chỉ vận
dụng một số kiến thức văn hóa mà họ cho là cần thiết để đọc văn học chứ chưa có ý
thức xây dựng một hệ thống vấn đề mang tính chất lý thuyết cho việc đọc tác phẩm
văn học bằng văn hóa.
Gần đây, nhờ Unesco phát động những thập kỷ phát triển văn hóa, người ta bắt
đầu nhận thức được văn hóa là động lực của phát triển, thì nghiên cứu, phê bình văn
học từ văn hóa càng được chú ý nhiều hơn. Đặc biệt, khi bộ môn văn hóa học và
nhân học văn hóa xuất hiện ở Việt Nam thì văn hóa bắt đầu được coi như một nhân
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

14
tố chi phối văn học. Năm 1995, Trần Đình Hượu trong Nho giáo và văn học Việt
Nam trung cận đại nghiên cứu văn học Việt Nam từ Nho giáo và đã chỉ ra được đặc
điểm của giai đoạn văn học kể từ đầu Lê đến cuối Nguyễn. Ông cũng nêu ra những
hình mẫu nhà Nho (hành đạo, ẩn dật, tài tử) - tác giả của thứ văn học Nho giáo này,
như là một giả thuyết làm việc. Điều này, về sau, được Trần Ngọc Vương trong Nhà

nho tài tử và văn học Việt Nam cụ thể hóa bằng một cái nhìn loại hình học. Đỗ Lai
Thúy trong Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực đã lí giải những biểu tượng lấp
lửng hai mặt trong thơ bà bằng tín ngưỡng phồn thực, còn Trần Nho Thìn trong Văn
học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hoá thì cho rằng nghiên cứu văn học
trung đại từ những phạm trù cơ bản của văn hóa trung đại để tránh hiện đại hóa văn
học dân tộc. Nhưng, có lẽ, Phan Ngọc là người có ý thức trong hướng nghiên cứu
này hơn cả. Là một nhà văn hóa học, ông đã sớm lấy yếu tố văn hóa xã hội để Tìm
hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, rồi lại thử giải thích văn học bằng
ngôn ngữ. Và khi một số công trình của M.Bakhtin, (Những vấn đề thi pháp
Đôxtoiephi (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục,
2003); Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch và giới thiệu, Nxb Hội
Nhà văn, 2003)) được dịch và giới thiệu ở Việt Nam thì hướng đi này càng thuyết
phục, được các nhà nghiên cứu quan tâm và sử dụng, đồng thời đối tượng nghiên
cứu cũng phong phú thêm lên.
Những thành tựu của văn hóa học ngày nay cho phép chúng ta có thể nhìn
nhận văn hóa như một tổng thể, một hệ thống bao gồm những yếu tố như ngôn ngữ,
phong tục tập quán, luật pháp, tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật
biểu diễn, văn học… Trong hệ thống văn hóa, nhất là văn hóa Việt Nam, yếu tố chủ
đạo thường là văn học. Yếu tố chủ đạo này không phải là bất biến mà nó thường
xuyên thay đổi qua những thời đại văn hóa, tức một hệ thống văn hóa. Là một yếu
tố mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những gì ngoài hệ thống để phát triển. Tiếp thu
những cái ngoài hệ thống đến một mức độ nào đó, yếu tố văn học sẽ không còn phù
hợp với hệ thống văn hóa nữa, nó chống lại hệ thống, làm cho hệ thống phải thay
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

15

đổi cùng với nó. Ví như, văn học trung đại, nhất là bộ phận văn học của các nhà nho
tài tử, dưới sự ảnh hưởng của văn hóa đô thị và ý thức cá nhân tỉnh thức, đã làm rạn
nứt hệ thống văn hóa trung đại, góp phần đưa nó chuyển đổi lên từ văn hóa trung
đại sang văn hóa hiện đại. Lịch sử văn hóa chính là lịch sử của những thay đổi các
hệ thống văn hóa, tức các thời đại văn hóa.
Văn học với tư cách là một bộ phận của tổng thể văn hóa, một yếu tố của hệ
thống văn hóa thì không thể và không có quyền qua mặt hệ thống để tiếp xúc thẳng
hoặc tác động trực tiếp đến hệ thống xã hội, mà phải gián tiếp qua hệ thống văn hóa
như là những hệ thống đồng đẳng với nhau. Điều này đúng như M.Bakhtin nhận
định: “Cần phải nghiên cứu văn học và tác phẩm văn học như những hệ thống chỉnh
thể ở hai cấp liên đới. Hệ thống chỉnh thể của tác phẩm gia nhập hệ thống chỉnh thể
của văn học; hệ thống chỉnh thể của văn học, đến lượt nó, lại gia nhập hệ thống
chỉnh thể của văn hóa; và chỉ có hệ thống văn hóa mới quan hệ trực tiếp với những
lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Không thể tách rời văn học ra khỏi hệ thống văn
hóa và “vượt mặt” văn hóa liên hệ trực tiếp với các nhân tố chính trị - kinh tế - xã
hội. Những nhân tố ấy tác động trực tiếp đến văn hóa trong chỉnh thể của nó và chỉ
thông qua nó mà ảnh hưởng đến văn học”.
Từ đó, có thể thấy, nếu văn học có chức năng phản ánh hiện thực thì cũng
không thể phản ánh trực tiếp được, mà chỉ có thể phản ánh thông qua “lăng kính”
văn hóa, thông qua “bộ lọc” của các giá trị văn hóa. Nhờ thế mà văn học tránh được
sự phản ánh “gương”, phản ánh một cách trần trụi. Và, có lẽ, cũng nhờ thế mà văn
học có một lối phản ánh đặc trưng, một phản ánh, như người ta thường nói, có nghệ
thuật, có “nghiền ngẫm” (chữ dùng của Lê Ngọc Trà).
Như vậy, một khi văn học chỉ là một yếu tố của hệ thống văn hóa và chỉ “quan
hệ” được với hệ thống xã hội thông qua văn hóa, thì khung nghiên cứu văn học
cũng phải là khung văn hóa. Trong một thời gian dài, nghiên cứu, phê bình văn học
Việt Nam thường chỉ được vận hành trên một cái khung duy nhất là năm hình thái
kinh tế - xã hội. Chính sự đóng khung này mà nhiều hiện tượng văn học chưa được
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá




Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

16
lý giải một cách thấu đáo. Ví như: theo hệ quy chiếu này thì văn học ở hình thái cao
hơn phải hay hơn, hoặc ít nhất cũng phát triển hơn, nhưng văn học Việt Nam sau
1945 có lẽ không hay hoặc phát triển bằng văn học 1932 - 1945; hoặc trong cùng
một hình thái thì văn học ở giai đoạn xã hội thịnh trị phải phát triển hơn lúc xã hội
suy tàn (nhưng văn học Việt Nam thời Hồng Đức dường như không sánh được với
thời Nguyễn Du?)… Nhưng chúng ta có thể thử tiếp cận từ góc độ văn hóa để lý
giải các hiện tượng trên. Thực tế là, cùng ở vào một thời đại quân chủ nông nghiệp
Nho giáo, nhưng thời Hồng Đức là văn hóa thuần nông nghiệp, còn thời Nguyễn Du
thì đã chớm văn hóa đô thị, dẫu rằng đô thị phương Đông trung đại. Văn học đô thị
phát triển nhờ nhu cầu hưởng thụ thẩm mỹ của thị dân, nhờ ý thức cá nhân thức tỉnh
và, cuối cùng, nhờ sự xuất hiện của một lớp tác giả mới: nhà nho tài tử. Còn giai
đoạn 1932 - 1945 thì đã là văn hóa đô thị hiện đại. Sản phẩm văn hóa không còn là
quà tặng nữa mà đã là hàng hóa. Ý thức cá nhân phát triển. Chủ thể của văn hóa này
là những trí thức Tây học. Văn học 1932 - 1945 là tiếng nói mới, tưng bừng của văn
hóa đô thị hiện đại. Sau 1945, do nhu cầu của hai cuộc kháng chiến nên phải đề cao
dân tộc, đề cao truyền thống, đề cao nông thôn, nông dân (là quân chủ lực) Văn
hóa đô thị, vì thế, chùng xuống hơn; văn hóa nông thôn phục hưng và phát triển.
Như vậy, đọc một tác phẩm văn học theo quan điểm văn hóa học là vận dụng
những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác phẩm.
Một cách tổng quát, phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa ưu
tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa trong đó tác phẩm văn học đã ra đời,
xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, luật
pháp, thẩm mỹ, quan niệm về con người cũng như sự chi phối của các phương diện
khác nhau trong đời sống sinh hoạt xã hội sống động hiện thực… từng tồn tại trong
một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về các mặt xây dựng nhân vật,

kết cấu, môtip, hình tượng, cảm xúc, ngôn ngữ… Phương pháp này tuy có tính chất
tổng hợp, trung gian giữa những phương pháp đọc văn bản khác nhau nhưng vẫn có
đặc trưng riêng. Nó thiên về nhiệm vụ giải mã các hiện tượng nghệ thuật, tìm ra nền
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

17
tảng văn hóa lịch sử của chúng, đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính
chất mở của chúng trong không gian và thời gian.
Điểm khác biệt của các tiếp cận văn hóa học so với thi pháp học là ở chỗ, tiếp
cận văn hóa học không chủ trương miêu tả thế giới nghệ thuật của tác phẩm như
một vũ trụ khép kín, có giá trị tự thân mà đặt ra nhiệm vụ đối chiếu, so sánh, truy
nguyên các quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm được sản sinh để tìm
nguồn gốc các dạng thức quan niệm về con người - thời gian - không gian trong tác
phẩm. Tiếp cận văn hóa học thực chất là tiếp cận liên ngành.
1.3. Hành trình thơ Nguyễn Khoa Điềm trong mạch nguồn văn hoá Huế
Như đã nói ở trên, mảnh đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế có bề dày truyền
thống văn hóa. Và văn học là một bình diện hiển minh của văn hóa đã để lại những
trang đời, trang thơ lấp lánh lời giải đáp về những vấn đề nhân sinh, thế sự của
chính con người và vùng đất này. Trong dòng chảy văn hóa ấy, văn học - đặc biệt là
thi ca - có vai trò quan trọng trong việc phản chiếu thời đại và con người một cách
cụ thể thông qua lăng kính chủ quan của tác giả, tạo ra một thế giới hiện thực - tinh
thần cụ thể, độc đáo, có thể nối liền quá khứ với hiện tại và hiện tại với tương lai.
Thơ Huế chính là sự gặp gỡ, thăng hoa bao tiềm năng sáng tạo độc đáo do sự
gặp gỡ các hằng số văn hoá - thi ca. Thời phong kiến, Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế
đã hội tụ được nhiều nhân tài, trí thức của cả nước, tạo ra sự tích hợp văn hóa độc
đáo mà văn thơ của họ đã trở thành sức mạnh tinh thần vô giá cho đến ngày nay, ví

như trường hợp của Trương Hán Siêu với Hoá Châu tác, Lê Thánh Tông với Tư
dung hải môn lữ thứ, Đào Duy Từ với Tư dung vãn, rồi sau này là Nguyễn Biểu,
Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Phạm Đình Hổ, Phạm Nguyên Du,
Ngô Thời Nhậm, Phạm Phú Thứ, Phạm Quý Thích, Nguyễn Hàm Ninh, Lê Ngọc
Hân, Trần Bích San, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Phạm Văn Nghị, Nguyễn Xuân
Ôn, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Đặng Huy Trứ, Trần Cao Vân, Miên Trinh,
Miên Thẩm, Đào Tấn, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thông, Ông Ích Khiêm, Tản Đà,
Mai Am, Huệ Phố, Huỳnh Thúc Kháng
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

18
Và nối tiếp từ năm 1930 với Phong trào Thơ mới cho đến ngày nay, nếu làm
phép thống kê như trên thì phải lên đến con số vài ba trăm nhà thơ. Trong đó, phải
kể đến các thi sĩ tài danh (thời 1930-1945): Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư,
Thế Lữ, Tố Hữu, Nguyễn Xuân Sanh, Văn Cao, Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên, Hàn
Mặc Tử, Bích Khê, Nguyễn Bính, Nguyễn Đình Thư, Nam Trân, Phạm Hầu, Thái
Can, Tế Hanh, Đinh Hùng, Đông Hồ, Mộng Tuyết, Phan Văn Dật, Hoàng Diệp
Kế đến là các nhà thơ thời kháng chiến (1945-1975) như Hải Bằng, Nguyễn Khoa
Điềm, Thanh Hải, Lương An, Trần Vàng Sao, Hoàng Phủ Ngọc Tường
Thời kỳ hoà bình lập lại từ 1975 đến nay, Huế là nơi trung chuyển, dừng chân
trên đường lữ thứ Bắc - Nam của biết bao tao nhân mặc khách. Các thi sĩ cả nước đã
đến Huế, neo hồn mình cùng thiên nhiên, cảnh vật và đã có hàng nghìn bài thơ hay
viết về Huế. Đó là tài sản vô giá cho kho tàng thơ Huế. Rồi đây, chúng sẽ biến
thành những giá trị mới, bổ sung những phẩm chất văn hoá - thi ca cho Huế.
Như bất kỳ các trung tâm văn hoá lớn của cả nước như Thăng Long - Hà Nội,
Sài Gòn , Huế hiển minh một khả năng, một quy luật thi ca có tính độc đáo riêng.

Đó là khả năng nội sinh, tạo sinh thi ca trong lòng văn hoá Huế và khả năng “ngoại
nhập”, hội tụ các thành tố văn hoá - thi ca của các miền khác mang đến Huế thông
qua các chủ thể văn hoá, chủ thể sáng tạo. Ta có thể cảm nhận trong từng dòng thơ,
bài thơ chất Huế sâu đậm mà các nhà thơ không thể cưỡng lại được trước sinh lực
và vẻ đẹp hữu tình của vùng đất Phú Xuân - Huế. Thơ Huế vì vậy, đã trở thành tình
cảm, tài sản của cả nước. Cái hồn Huế, tâm thức Huế, thiên nhiên Huế góp phần
làm đa dạng hoá, đặc sắc hoá thi ca cả nước. Một dòng chảy thi ca Huế trong mạch
nguồn thơ Việt luôn dào dạt đến ngày nay, không có sự đứt nối, gián đoạn. Nó luôn
hiện hữu với sự tiếp nối, kế thừa, bổ sung những nội hàm mới, phương thức thể hiện
mới.
Là một người con của xứ Huế, Nguyễn Khoa Điềm cũng chịu ảnh hưởng sâu
sắc của bề dày và bề sâu lịch sử, văn hóa, tình cảm của một vùng đất cố đô để trở
thành một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ xuất hiện trong
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

19
những năm chiến tranh chống Mỹ. Đặc biệt là được sống trong không khí cách
mạng sôi sục của đồng bào miền Nam và tinh thần chiến đấu chống Mỹ của nhân
dân cả nước, được đào tạo ở miền Bắc, lại sớm tiếp xúc một cách có chọn lọc văn
học đô thị miền Nam, thông qua các bạn văn: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc
Xuân, Trần Vàng Sao điều đó góp phần hình thành phong cách của Nguyễn Khoa
Điềm ngay trong những sáng tác đầu tay.
Nguyễn Khoa Điềm xuất thân trong một gia đình trí thức cách mạng. Ông
thuộc dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, cháu nữ sĩ Đạm Phương, con trai
nhà văn Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn). Nguyễn Khoa Điềm cất tiếng khóc chào đời
ở thôn Ưu Điềm (Phong Hòa, Phong Điền, Thừa Thiên -Huế) vào ngày 15 tháng 4

năm 1943. Cái tên Ưu Điềm không ngờ lại ứng với bản tính Nguyễn Khoa Điềm -
một người hay ưu tư, suy nghĩ, điềm đạm và trầm lặng. Lên mười một tuổi, Nguyễn
Khoa Điềm đã mồ côi cha. Thời thơ ấu ông lại sống trong ''khu phố buồn đau'', hàng
ngày chứng kiến cái cảnh: Những người dân nghèo ''như vỏ hến chiều chiều tấp lên
các bến '', với những đôi chân đất đội áo nối vai / le te chợ Hôm, chợ Mai / đầu tắt
mặt tối. Hình ảnh người mẹ ngồi bán hàng ''nước mắt thương chồng lạnh như hạt
mưa đọng qua cửa thùng gương” cứ ám ảnh Nguyễn Khoa Điềm. Năm mười hai
tuổi, ông lại phải sống xa mẹ (khi được một người bà con đưa ra miền Bắc). Có lẽ
vì thế mà ông hay suy tư về cuộc sống của những người dân lao động nghèo khổ.
Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, cùng một lứa với Phạm Tiến
Duật, Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến), Nguyễn Khoa Điềm được trở về quê hương, hoạt
động ở chiến trường Thừa Thiên - Huế. Trong một trận càn, ông bị địch bắt giam tại
nhà lao Thừa Phủ suốt mấy tháng trời. Mãi đến chiến dịch Mậu Thân (1968), ông
mới được giải thoát, tiếp tục trở lại hoạt động. Chính thời điểm này, Nguyễn Khoa
Điềm bắt đầu làm thơ.
Sau Giải phóng miền Nam (1975), Nguyễn Khoa Điềm tham gia công tác
Đoàn Thanh niên Cộng sản; rồi đảm nhận các chức vụ như: Chủ tịch Hội Văn nghệ
Bình Trị Thiên, Phó bí thư thường trực tỉnh uỷ Thửa Thiên - Huế. Năm 1994,
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

20
Nguyễn Khoa Điềm ra Hà Nội, giữ chức Thứ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin. Năm
1995, được bầu làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa 5. Năm 1996, được
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, Đại
biểu Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá X), Bộ trưởng Bộ
Văn hóa Thông tin. Năm 2001, giữ chức Trưởng ban Văn hoá, tư tưởng Trung

ương. Ông đã được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ Ngôi nhà có
ngọn lửa ấm, giải thưởng Nhà nước năm 2001 về văn học nghệ thuật.
So với các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Khoa
Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một giọng điệu riêng. Qua các
tập thơ Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (Trường ca, 1974), Ngôi nhà có
ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007), ta bắt gặp
những suy tư của ông đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm về đời sống
xã hội, nhân tình thế thái Nói đến Nguyễn Khoa Điềm, ai cũng dễ dàng hình dung
ra một phong cách thơ đậm chất triết luận xuất phát từ vốn tri thức uyên bác và bề
sâu văn hóa trong mối liên tưởng vừa sâu sắc triết lý vừa huyền ảo thấp thoáng
bóng dáng văn hóa cổ xưa của hồn dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm lại được sinh ra và
lớn lên giữa lòng chiếc nôi văn hóa Huế. Chính cái chất Huế thâm trầm, hoàng
thành rêu phong ngả bóng làm nhuộm tím nước con sông Hương biếc xanh càng
khiến thơ Nguyễn Khoa Điềm sâu kín và loáng thoáng chút bí ẩn mơ hồ. Lý giải
điều này, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định: Mối quan hệ giữa văn hóa và thơ là mối
quan hệ máu thịt, đặc biệt là đối với cái thời mà kẻ thù muốn hủy diệt chúng ta cả
về văn hóa: “trong cái không khí sặc mùi khói súng ấy, giữa cái giáp ranh giữa sự
sống và cái chết, tôi muốn đưa vào bài thơ những hình ảnh đậm nét văn hóa nhất
của quê hương, đất nước mình”[23, tr.124].
Gắn bó với cố đô, với dòng Hương giang như chiếc nôi đưa của văn hóa Huế,
lại chứng kiến bao thăng trầm lịch sử trên mảnh đất thần kinh, Nguyễn Khoa Điềm
cảm nhận rất rõ về sự ảnh hưởng của văn hóa Huế trong thơ ca: “Tôi thường nhìn
thấy Huế trong dáng vẻ u trầm. Những rêu phong cổ kính ở đó đều mang nét u trầm
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

21

và buồn… Huế cũng đã một lần “tiêu thổ kháng chiến” và Huế Mậu Thân bị bom
đạn tàn phá ghê gớm. Thân phận hoài nhớ vàng son của người Huế đã khiến cho xứ
này trầm xuống. Người ta luôn sống với chiều sâu tâm linh. Có lẽ vì thế mà nhiều
nhà thơ gặp Huế đã để lại những bài thơ hay, ảo diệu và sâu sắc… Huế đẹp và gian
khổ luôn ám ảnh tôi”[11, tr.5].
Hầu hết đề tài trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đều được rút ra từ mảnh đất Huế,
ngoại ô Huế và “ngoại ô mở rộng” của chiến trường Trị Thiên. Nguyễn Khoa Điềm
có ý thức về điều đó, và ngược lại, điều đó đến với ông một cách tự nhiên. Nguyễn
Khoa Điềm sinh ra ở đấy, lớn lên ở đấy, chiến đấu ở đấy và trở về sinh sống cũng
tại đấy. Lịch sử Huế, nền văn hóa Huế, hơi thở đời sống hàng ngày của cố đô thấm
vào máu thịt ông và cảm xúc về Huế chan chứa trong thơ ca. Chính điều này đã góp
một phần quan trọng tạo nên bản lĩnh riêng cho thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Ngay từ tập thơ đầu tiên Đất ngoại ô, Nguyễn Khoa Điềm đã gây tượng ở một
giọng điệu thơ khá mới mẻ. Các câu thơ được kéo dài một cách tự do phóng
khoáng, không quá câu nệ vào vần điệu. Lời thơ tự nhiên, gần với lời ăn tiếng nói
hàng ngày. Những câu thơ, những đoạn thơ trong Đất ngoại ô chứa đầy suy tư. Từ
quá khứ, nhà thơ đối chiếu với hiện tại: Vườn thơ xưa không có gã áo trắng đi về /
Ngơ ngẩn đọc thơ buồn trong tiếng guốc cạo râu / Chỉ còn người phu xe cũ /
Nghiêng cốc rượu chiều nhòe những mái tôn Nhà thơ nhìn thấy trong cái nắng
tháng năm "run rẩy những oan hồn", và tự hỏi: "Ôi mùa phượng hay lòng tôi cháy
đỏ?". Ngọn lửa căm thù của đồng bào miền Nam đã biến thành giông bão: Sức trăm
năm rung chuyển xuống lòng đường / Cả ngoại ô làm chiến lũy sông Hương Đất
ngoại ô chiếm một vị trí đặc biệt trong sự nghiệp thi ca của Nguyễn Khoa Điềm. Nó
mở cho ông một hướng đi riêng, một cách nói năng, một giọng điệu riêng trong
dòng thơ chống Mỹ. Tập thơ ngập tràn những suy tư của tác giả về cuộc sống lam lũ
của người dân lao động (Những đồng tiền ngoại ô); về tình cảnh đau thương của đất
nước (Nơi Bác từng qua); về tình bạn bè, đồng đội (Bếp lửa rừng), về tình mẫu tử
và tình yêu nước (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ)…
Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá




Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

22
Bước sang trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm vẫn tiếp tục
mạch suy tư về nhân dân, đất nước bằng lối thể hiện tự nhiên, bình dị, phóng
khoáng, hiện đại vốn có của mình. Bản trường ca này Nguyễn Khoa Điềm viết
trong những tháng ngày địch bắn phá vùng chiến khu Trị Thiên vô cùng ác liệt. Nhà
văn Nguyễn Đắc Xuân kể rằng bản thảo đầu tiên của trường ca này bị bom thả bay
tung hết. Nguyễn Khoa Điềm phải ngồi viết lại từng chương một, hoàn thành vào
năm 1971 và mãi đến 1974 mới ra mắt bạn đọc. Thanh niên trí thức yêu nước ở các
đô thị miền Nam lúc bấy giờ rất tâm đắc với bản trường ca này vì họ tìm được ở đó
những tâm tư sâu kín của mình.
Sau ngày nước nhà thống nhất, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lần lượt được giao
nhiều trọng trách nên ít có thời gian làm thơ. Tuy vậy, vào năm 1986, ông vẫn cho
ra đời tập Ngôi nhà có ngọn lửa ấm. Chỉ một thời gian ngắn sau khi nghỉ hưu,
Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thành tập thơ Cõi lặng (NXB Văn học - 2007). Trong
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm và Cõi lặng, Nguyễn Khoa Điềm nghiêng về chiêm
nghiệm đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Bên cạnh những cái hay, cái đẹp, nhà
thơ còn nhận thấy những cái chưa hay, chưa đẹp trong cuộc sống hiện tại. Và để có
được những giây phút bình thản, thoải mái, thanh tịnh, nhà thơ tìm cách hòa mình
và thiên nhiên: Nhưng chiều nay có còn bò gặm cỏ / Bên dòng sông như chưa biết
chiều tan / Tôi với nó lặng tim bè bạn / Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang
(Chiều Hương Giang). Những chiêm nghiệm này không chỉ cần thiết cho bản thân
tác giả mà còn là những bài học hết sức quý giá cho tất cả mọi người.








Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá



Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007

23
Chương 2: CẢM THỨC VĂN HÓA TRONG THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM

Làm cho “tư liệu văn hóa” trong thơ sáng bừng lên giá trị thẩm mỹ mang tính
lay động cao không phải nhà thơ nào cũng thành công, chưa kể đến những vốn liếng
văn hóa ấy phải được đan quyện vào và chung sống cùng hiện thực thời đại. Trong
thơ ca Việt Nam có không ít tác giả đã sử dụng vốn văn hóa làm nền tảng sáng
tạo… Nhưng sử dụng vốn văn hóa truyền thống và văn hóa vùng miền đặt trong
trường liên tưởng mạnh mẽ của hiện thực cuộc sống để tạo nên gương mặt thơ
riêng, không phải ai cũng thành công như Nguyễn Khoa Điềm.
Tình yêu Huế thành kính đã trở thành nguồn mạch chủ đạo trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm. Lấy văn hóa truyền thống và văn hóa Huế làm trục chính, Nguyễn
Khoa Điềm đã tái hiện không gian cố đô Huế là sự kết hợp tinh tế, hài hoà giữa
truyền thống và hiện đại. Vẻ đẹp, sức sống Huế đậm đặc trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm với những ấn tượng khó quên và một sức sống bền bỉ, mãnh liệt.
2.1. Sự gắn bó, tự hào về quê hương
Mỗi nhà thơ đều mang trong mình một miền quê để nhớ, để nâng niu, tôn thờ.
Mảnh đất quê hương là cội nguồn, là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn thi nhân từ thuở
ấu thơ. Làm thơ về quê hương, ấy là ước nguyện chung của bao thi sĩ nhưng để lưu
danh nơi mình đã sinh ra cùng thơ ca không phải ai cũng thành công. Nguyễn Khoa
Điềm là nhà thơ đã thể hiện sâu sắc, cháy bỏng tình yêu quê hương trong thơ mình.

Nhớ đến Nguyễn Khoa Điềm sẽ nhớ đến một nhà thơ của mảnh đất cố đô. Hơn thế
nữa, bằng tình yêu chân thành, sâu nặng, Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa, miêu tả
vẻ đẹp, cuộc sống, bản sắc cố đô Huế qua thơ. Người đọc biết đến thơ của Nguyễn
Khoa Điềm khi thành phố Huế quê hương ông đang thu hút sự chú ý với những
chiến công anh hùng và bất tử trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy năm 68. Là một
trong số những nhà thơ trẻ trong cuộc tấn công ấy, Nguyễn Khoa Điềm sôi nổi ca
ngợi quê hương chiến đấu với con sông Hương, sông Bồ, cầu Trường Tiền, thôn Vỹ
Dạ…, với những con đường dài dằng dặc đỏ rực màu hoa phượng.

×