Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Niềm bi cảm (Aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 104 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
  




HOÀNG THỊ MỸ NHỊ



NIỀM BI CẢM (AWARE) TRONG
"TRUYỆN GENJI" CỦA MURASAKI SHIKIBU



TÓM TẮT
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN




Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 602230








Hà Nội, tháng 10 năm 2008




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
  




HOÀNG THỊ MỸ NHỊ



NIỀM BI CẢM(AWARE) TRONG
“TRUYỆN GENJI” CỦA MURASAKI SHIKIBU



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN



Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Mã số: 602230


Người hướng dẫn khoa học : GS.TS NGUYỄN ĐỨC NINH



Hà Nội, năm 2008
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 2
1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 2
2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN 4
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
4. PHẠM VI VĂN BẢN SỬ DỤNG 4
5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 5
5.1 Tài liệu tiếng Anh 5
5.2 Tài liệu tiếng Việt 9
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN 12
CHƯƠNG I 13
THỜI ĐẠI HEIAN VÀ KHÁI NIỆM 13
NIỀM BI CẢM (AWARE) 13
I.1 Thời đại Heian 13
I.2 Khái niệm về niềm bi cảm (aware) 28
CHƯƠNG II 35
NIỀM BI CẢM VỚI SỐ PHẬN CÁC NHÂN VẬT 35
II.1 Bi cảm với thời gian đã mất của các nhân vật 35

II.1.1 Thời gian trôi chảy 35
II.1.2 Thời gian đồng hiện và dòng ý thức nhân vật 44
II.2 Bi cảm trước sự vô thường của cái đẹp 55
II.2.1 Cái đẹp bất tử, cái đẹp cứu vớt thế giới 56
II.2.2 Sự vô thường của cái đẹp 60
CHƯƠNG III 73
NIỀM BI CẢM VỚI THIÊN NHIÊN TƯƠI ĐẸP 73
III.1 Thiên nhiên bi cảm trước cuộc đời luân chuyển 74
III.2 Thiên nhiên bi cảm với nỗi niềm hoài cổ 84
III.3 Niềm bi cảm trước sự phù du của vẻ đẹp thiên nhiên 89
KẾT LUẬN 93
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97





Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
2



MỞ ĐẦU

1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Nếu ai đó muốn tìm kiếm một huyền thoại lãng mạn về quả cầu
lửa vĩ đại - Mặt Trời của vũ trụ thì ngay tại vùng Đông Á nghìn lẻ một bí
ẩn, hãy đến chân ngọn Phú Sĩ quanh năm tuyết phủ, tìm một cánh hoa anh
đào còn sót lại từ vô lượng kiếp sinh, cùng một chút tĩnh tâm, trầm mặc của

Thiền tông. Nơi đây, ánh sáng của nữ thần Mặt Trời Amaterasu sẽ khai mở
một huyền sử tuyệt đẹp cho đất nước có tới 4000 hòn đảo lớn nhỏ này và
lưu danh cho nó cái tên gọi Phù Tang hay Nhật Bản với ý nghĩa là xứ sở
Mặt Trời mọc.
Từ những cuộc thiên di từ Trung Quốc, Triều Tiên…của người
Môngôlôít châu Á sang các quần đảo này, đến một nền văn minh phát triển,
đó là khoảng thời gian khá dài. Nhưng với các huyền sử Kojiki và Nihon
shoki, bình minh cả lịch sử Nhật đã bắt đầu với nhiều hoa trái và nhiều bất
ngờ. Dù là quần đảo biệt lập lục địa, văn hóa Nhật vẫn sớm hình thành phát
triển và tiếp thu hết sức tài tình các nguồn văn hóa ở châu Á lúc bấy giờ là
văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ. Cùng với mạch ngầm dồi dào của văn hóa
bản địa, vườn hoa mới của nhân loại bắt đầu bừng nở cho cái đẹp hiện sinh,
cho những gì thiêng liêng và cao rộng của tâm hồn con người hòa nhập với
thiên nhiên, đất trời, vũ trụ.
Nhắc đến văn học Nhật Bản, người ta nghĩ ngay đến một xứ sở văn
học diệu kỳ của những bài thơ ngắn đến bất ngờ (thơ haiku) và cuốn tiểu
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
3
thuyết trường thiên dài cũng bất ngờ (Truyện Genji). Truyện Genji được
xem là một tiểu thuyết dài độc đáo, ra đời trong khoảng thời gian những
năm đầu của thế kỷ XI (1004-1011). Đây là một hiện tượng văn học sớm về
mặt thể loại. Nó đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển
của văn học trên thế giới. Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng Truyện Genji
là tiểu thuyết tâm lý xuất hiện sớm nhất, đã chinh phục chúng ta bằng thế
giới tâm hồn sống động, chân thực và gợi cảm. Tiểu thuyết đã phản ánh
những cung bậc đời sống xã hội phức tạp của con người thuộc tầng lớp quý
tộc thời Heian. Tất cả nằm trong ngòi bút tài tình của Murasaki
Shikibu(978? – 1016?), một người phụ nữ quyền quý và đa cảm.
Truyện Genji nổi tiếng không chỉ bởi sự khai sáng của nó về mặt thể

loại mà còn bởi xuyên suốt tác phẩm là tư duy thẫm mĩ độc đáo: niềm bi
cảm(aware). Truyện Genji đề cao yếu tố mĩ, quan niệm thẩm mĩ trong bối
cảnh thời trung cổ Nhật Bản. Cảm thức aware trong tác phẩm mang đến
những xúc cảm tinh tế về thiên nhiên, con người, về nỗi buồn, cái đẹp của
vạn vật. Đó chính là đặc trưng mỹ cảm truyền thống của Nhật Bản và cũng
là chủ đề chính của tác phẩm.
Tuy vậy, trong nghiên cứu và giới thiệu văn học Nhật Bản ở Việt
Nam chúng ta còn rất ít chú ý nghiên cứu, khai thác đặc trưng thẩm mỹ này
của văn học Nhật Bản vốn ra đời từ thời kì đầu trung đại. Vì thế, đề tài
“Niềm bi cảm(aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu” có ý
nghĩa khoa học thiết thực và cần thiết. Một mặt nó góp phần giúp các nhà
nghiên cứu và bạn đọc Việt Nam hiểu rõ hơn cơ sở mỹ cảm làm nên nét
độc đáo của văn học Nhật Bản. Mặt khác, cũng từ cơ sở này, chúng ta có
thể lí giải phần nào các hiện tượng, các đường nét riêng của văn học hiện
đại Nhật Bản - một nền văn học đồng văn với Việt Nam nhưng lại khác xa
với Việt Nam, thậm chí với cả Trung Hoa - một nền văn học đồ sộ mà nó
chịu ảnh hưởng.
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
4
1.2. Văn học Nhật Bản đã được đưa vào chương trình giảng dạy
trong nhà trường phổ thông, Cao đẳng, Đại học ở Việt Nam. Đề tài nghiên
cứu về niềm bi cảm góp phần làm rõ hơn cái đẹp của Truyện Genji, có thể
còn là một tư liệu chuyên sâu về một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Nhật
Bản, giúp ích ít nhiều cho việc giảng dạy và giới thiệu văn học Nhật Bản
trong nhà trường. Từ đó góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa
hai nền văn hoá, văn học Việt - Nhật, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác
phát triển của hai quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hoá kinh tế và văn hoá
của nhân loại.


2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
Mục đích của luận văn là phân tích bình luận tác phẩm, các mối quan
hệ trong tác phẩm để làm rõ phạm trù bi cảm, một phạm trù mỹ học thời
Heian của Nhật Bản. Từ đó có thể thấy quan niệm về cái đẹp, những biểu
hiện của cái đẹp trong văn học Nhật Bản trung cổ làm nên tính duy cảm,
duy mỹ độc đáo của người Nhật.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là khảo sát và
phân tích cái bi cảm trong số phận của các nhân vật, trong cái đẹp vô
thường của cảnh vật thiên nhiên.

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt được hiệu quả tốt, luận văn sử dụng phương pháp khảo sát,
phân tích các mối quan hệ để triển khai và làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.

4. PHẠM VI VĂN BẢN SỬ DỤNG
Về văn bản nghiên cứu, tác giả dựa trên văn bản tác phẩm đã dịch ra
tiếng Việt do Nguyễn Đức Diệu chủ biên, gồm hai tập của nhà xuất bản
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
5
Khoa Học Xã hội xuất bản năm 1991 làm đối tượng nghiên cứu chính, bên
cạnh đó còn tham khảo bản tài liệu tiếng Anh của Arthur Waley, Edward
G. Seidensticker, bản tóm tắt tiếng Anh của tác giả: Mari Nagase từ nguồn
UNESCO cung cấp.

5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Truyện Genji là tiểu thuyết trường thiên, tiểu thuyết tâm lý mang đầy
đủ các cung bậc tình cảm của tình yêu, luyến ái…và thẫm đẫm chất hiện
thực thời Hiean của xứ Phù Tang. Vậy nên nó là tâm điểm của nhiều cuộc
thảo luận, là đề tài của nhiều nhà nghiên cứu ở Nhật cũng như trên thế giới.

Ở Việt Nam, văn học Nhật Bản được biết đến nhiều là Kawabata Yasunari,
sau đó là Oe Kenzaburo, Yamamoto Banana và Haruki Murakami và một
số tác giả khác. Còn Truyện Genji vẫn chưa được quan tâm thích đáng. Tuy
vậy tác phẩm cũng đã được tìm hiểu trên vài phương diện mang lại những
gợi mở sâu sắc, quý báu hỗ trợ cho chúng tôi có những định hướng cụ thể
khi tiến hành thực hiện đề tài.

5.1 Tài liệu tiếng Anh
Trên các kênh thông tin về văn học Nhật ở nước ngoài, tư liệu
nghiên cứu bằng tiếng Anh khá phong phú. Các học giả quan tâm đến văn
học Nhật đã dịch và giới thiệu, thảo luận thông qua Anh ngữ nhằm đưa tác
phẩm văn học gần với cộng đồng quốc tế hơn. Từ việc tìm hiểu những tài
liệu nghiên cứu tác phẩm Truyện Genji, chúng tôi rút ra được những vấn đề
có liên quan như:
Trong cuốn: “A reader’s guide to Japanese Literature”(Hướng dẫn
độc giả làm quen văn học Nhật Bản)[81], J.Thomas Rimer đã đánh giá hệ
thống nhân vật của tác phẩm Truyện Genji mang tính chân thực, tiêu biểu
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
6
là nhân vật Genji. Từ nhân vật đóng vai trò trung tâm này, nhiều mối quan
hệ xung quanh tạo nên những câu chuyện, tình tiết phức tạp được chuyển
tải qua cảm quan Phật giáo. Nó giống như vòng tròn của cuộc đời trôi chảy
theo kiếp luân hồi. Khả năng thẩm thấu nghệ thuật của tác giả qua niềm bi
cảm đối với sự phù du của kiếp người. Tác giả J.Thomas Rimer đã đánh giá
tác phẩm trên ba khía cạnh cơ bản: tính hiện thực, cảm quan Phật giáo và
niềm bi cảm tồn tại trong toàn bộ tác phẩm. Trong đó, tính hiện thực là
công cụ nhằm chuyển tải tư tưởng của tác giả qua sự ảnh hưởng của Phật
giáo và quan niệm thẩm mĩ niềm bi cảm(aware).
Cuốn “A dictionary of Japanese culture”(Từ điển văn hoá Nhật

Bản) [76] của Seisuko Kojima và Gene A.Crane cũng đưa ra hai vấn đề
chính trong Truyện Genji: âm hưởng Phật giáo và mỹ quan thẩm mĩ. Tác
giả đã cho rằng chủ đề về Phật giáo trong tác phẩm tập trung vào khía cạnh
sự ngắn ngủi, phù du của cuộc đời và yếu tố nghiệp hiển hiện trong tác
phẩm. Cảm quan thẩm mĩ của tác phẩm là: “xúc cảm thẩm mỹ gắn với nỗi
buồn man mác” hay được gọi là niềm bi cảm. Hai yếu tố trên có sự ảnh
hưởng to lớn đối với tác giả và tác phẩm và đó là ý nghĩa sâu sắc, chủ đề
chính được rút ra từ tác phẩm.
William J. Puett trong cuốn “Guide to the Tale of Genji”(Hướng dẫn
về tác phẩm Truyện Genji)[84] đề cập khái niệm aware được hiểu trong
nhiều hoàn cảnh, trên nhiều phương diện và từ nhiều ý kiến tranh luận khác
nhau. Các tác giả Morris, Valey, Tsunoda, Keene, De Bary, Miner,
Cranston, Anesaki đều có cách định nghĩa về khái niệm aware, và họ cũng
có những điểm chung bổ sung cho nhau cùng đi đến thống nhất về khái
niệm và cách biểu hiện của quan niệm thẩm mĩ này. Tác giả chỉ ra rằng: có
hai nguyên lý đang vận hành trong Truyện Genji. Trong khi tiểu thuyết lấy
cớ miêu tả đời sống cung đình Heian đã khéo léo thể hiện đề tài của mình
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
7
qua miêu tả sự ngắn ngủi của tình yêu, miêu tả cuộc sống tao nhã và cái
đẹp. Và rốt cuộc là tiểu thuyết viết về niềm bi cảm, nỗi buồn. Cái đẹp trong
tác phẩm còn thể hiện trong miyabi (tao nhã), một quan niệm thẩm mĩ
thanh cao, đặc sắc của đời sống cung đình thời Heian tiếp nối cho đến ngày
nay của người Nhật. Một trong những đối tượng của miyabi là người phụ
nữ đẹp, thậm chí tiểu thuyết được viết bởi người phụ nữ. Người phụ nữ
trong tiểu thuyết xuất hiện trong thời điểm đỉnh cao nhất của họ như là đối
tượng của vẻ đẹp hoàn hảo. Từ tiểu thuyết, hiện thực về đời sống đã trải
qua như: sự tao nhã, tinh tế, cái đẹp được ghi chép như sự hoài cổ về cảnh
buồn bã, u hoài, một cách sống hay một khoảnh khắc toả sáng trong văn

hoá Heian.
Trên trang website [75], Pin Fang Su đã
có bài thảo luận về nhân vật Genji. Theo học giả, để hiểu nhân vật Genji
chúng ta có thể tìm hiểu những vấn đề xung quanh nhà văn Murasaki
Shikibu và những người phụ nữ bên cạnh Genji. Trước khi bàn về Genji
người ta đã nghĩ đến những gì ảnh hưởng tới Mursaki Shikibu để tạo nên
KoGenji, (Ko trong nghĩa cổ có nghĩa là xinh đẹp và duyên dáng). Một
chàng hoàng tử đẹp từ dáng vẻ bên ngoài, hấp dẫn từ những cốt cách bên
trong, từ tài năng thiên bẩm, từ vị thế xuất thân…đã làm mê đắm bao cô gái
con nhà quyền quý, tài sắc, đức độ vẹn toàn. Tác giả bài viết cho rằng, để
xây dựng hình tượng Genji như vậy, nhà văn đã có một quá trình nung nấu
từ chính cuộc đời riêng tư của mình. Khi còn trẻ, Murasaki đã mồ côi mẹ
và được cha dạy dỗ cùng với người anh trai trong môi trường học vấn bậc
cao. Bà tỏ ra có trí thông minh hơn người và học nhanh hơn anh trai, biết
đọc cả chữ Hán, thứ chữ chỉ dành cho Nam giới. Bà sớm ý thức về bản thân
mình và vì vậy lấy chồng muộn khi đã 29 tuổi xuân. Chồng là một người
đàn ông đã có vợ cũng không tài cán gì. Cuộc sống dường như quá ngắn
ngủi và bất hạnh so với những gì bà mong muốn.
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
8
Genji là hình tượng nhà văn muốn gửi gắm những niềm mơ ước về
một người đàn ông lý tưởng. Ở chàng hội tụ tất cả những gì tinh tuý nhất.
Tuy vậy đã có nhiều người khen, chê về hình tượng lý tưởng này. Theo học
giả Pin Fang Su có nhiều lí do để có thể khẳng định Genji là người đàn ông
lý tưởng trên cơ sở đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử xã hội thời bấy giờ.
Trước hết, Heian là thời kỳ kéo dài từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XII, thời
Trung cổ Nhật Bản với chế độ phong kiến đa thê. Tuy nhiên chính bản thân
chàng Genji hào hoa cũng có sự cuốn hút đặc biệt. Genji rất thông minh và
khéo léo trong thể hiện tình cảm của mình. Genji là người chu đáo, ân cần,

có trách nhiệm khi chăm sóc tất cả các người tình của mình. Chàng là một
người đa cảm, lãng mạn. Trong khi thế sự luôn thay đổi, chàng không
màng đến chính trị mà say mê với nghệ thuật, hội hoạ, thi ca, nhảy múa,
chữ nghĩa. Như vậy, Pin Fang Su đã đưa ra quan điểm của mình khi bình
giá về nhân vật từng có nhiều tranh cãi để từ đó khẳng định tính hiện thực
của tác phẩm và sự ảnh hưởng đối với tư tưởng của chủ thể sáng tạo ra nó
là niềm bi cảm(aware).
Ở một nghiên cứu khác, đăng tải trên website
[67], viết về cơ sở của mono no aware được trình bày bắt nguồn từ ý thức
của người Nhật. Motoori Norinaga, một học giả người Nhật, cho rằng, ý
thức đó xuất hiện đầu tiên ở người Nhật và kết nối với thế giới qua ngôn
ngữ thi ca bằng cách làm riêng của họ. Mono no aware là khái niệm trung
tâm, cơ bản của quan niệm thẩm mĩ người Nhật trong thời hiện đại. Đó là
công cụ giao cảm đầu tiên của con người với thế giới chỉ có ở Nhật.
Nói đến aware trong Manyoshu(Vạn diệp tập), người Nhật cho rằng
đây là tác phẩm thể hiện đặc trưng quan niệm thẩm mĩ của họ lẫn quan
niệm sống của họ trong quá khứ. Bằng cách cảm nhận đặc biệt về cuộc
sống thông qua aware, người Nhật đã phản ánh bi kịch của cuộc sống con
người trên trái đất này. Từ đó phát hiện ra quan niệm thẩm mĩ aware và
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
9
mono no aware là nguyên lí cơ bản trong cách thể hiện của các sáng tác
văn học viết và phim hiện đại.
Kondo Tomie trong cuốn: 105 key words for understanding
Japan(105 từ khoá để hiểu đất nước Nhật Bản) [66] đã xác định thuật ngữ
aware là kết tinh quan niệm thẩm mĩ thời kì Heian. Con người thời Heian
say mê cái đẹp, đặc biệt là nữ giới trong cung đình. Đỉnh cao của cảm giác
khi thưởng thức cái đẹp thể hiện trong aware khi tiếp xúc với cái nhất thời,
thoáng qua, phù du của sự vật như: mùa, sự cầu nguyện hay tiếng reo vui,

hay cảnh vật buổi sáng cũng làm cho con người xúc động sâu sắc.
Trong bài báo: Genji monogatari: a romance in three parts (Truyện
Genji: tác phẩm lãng mạn gồm ba phần) [65], Leslie Inamasu đã trình bày
quan điểm của mình về tình yêu trong ba người phụ nữ với ba tính cách, số
phận khác nhau nhưng cả ba hợp lại thì trở thành một người phụ nữ hoàn
hảo. Ở họ, phẩm chất của người phụ nữ vượt qua mọi giới hạn của mẫu
người phụ nữ Heian theo quan điểm của Murasaki Shikibu. Nếu Yugao là
một mẫu phụ nữ nồng nhiệt, say đắm trong tình yêu thì Akashi là một
người vợ người mẹ quý tộc, còn Ukifune là nguyên mẫu của một Nicô.
Ukifune là sự tiếp nối của Yugao trong mối quan hệ: Genji và Tono Chujo,
Kaoru và Niuo. Ở ba người phụ nữ này xuất hiện tình yêu chớp nhoáng,
lãng mạn, cuồng nhiệt khi tình yêu đến với mình. Tất cả họ đều nằm trong
sự chi phối của quan niệm thẩm mĩ của nhà văn khi sáng tạo nên tác phẩm.
Nhà văn đã hư cấu nên câu chuyện về triều đình Heian và những người phụ
nữ có vị trí trong xã hội đó với những mối quan hệ phức tạp nhằm làm nổi
bật đời sống tinh thần của họ trong mối quan hệ với hiện thực đời sống
cung đình.

5.2 Tài liệu tiếng Việt
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
10
Công trình “Lịch sử văn học Nhật Bản”[44] của Suichi Kato do Trần
Hải Yến dịch là bức tranh đầy đủ nhất về văn học Nhật Bản. Trong phần
viết về Truyện kể Genji, tác giả cuốn sách đã đưa ra những phân tích giá trị
về hình thức lẫn nội dung của tác phẩm. Tác giả bàn về lối tự sự, phong
cách văn chương, ngôn ngữ, sự ảnh hưởng của tôn giáo đối với tác phẩm.
Đặc biệt, nhà nghiên cứu đã đề cập đến dòng chảy thời gian trong tác phẩm
là sự phát hiện rất có giá trị liên quan đến cảm thức thẩm mỹ aware. “Vậy
cái gì là riêng chỉ Genji monogatari có và thể hiện trong suốt 54 chương

sách? Theo tôi đó là sự nhận thức về tính hiện thực của dòng chảy thời
gian, cảm giác về tính hiện thực của thời gian như một cái gì đó khiến cho
mọi hoạt động và cảm xúc của con người ý thức rằng họ chỉ sinh ra trên trái
đất này chỉ một lần: “Đời chẳng dài chi hãy tận hưởng nó dù chỉ còn lại
một hay hai ngày”(Tenarai). Điều này nghĩa là sự hữu hạn của đời người và
sự vĩnh hằng đều gói gọn trong “chỉ một hai ngày” [44,153]. Vấn đề này
được tác giả đề cập trên nhiều khía cạnh biểu hiện trong tác phẩm và nghệ
thuật của tác giả mang lại những gợi mở sâu sắc cho người đọc. Chính tác
giả đã đề cao vai trò của dòng chảy thời gian như là một yếu tố quan trọng,
quyết định thành công của tác phẩm sau này: “…Murasaki đã thành công
trong việc truyền đạt cường độ thời gian. Sự thật về tính nhân đạo mà Genji
monogatari trình bày với chúng ta không phải là số phận, cũng không phải
sự phù du của kiếp người mà là dòng chảy thời gian, một điều rất bình
thường nhưng lại rất căn bản đối với chúng ta. Để thể hiện hoặc lí giải sự
thật này quả thật cần đến một tiểu thuyết trường thiên” [44,153].
Trong “Cảm nhận mới về văn hoá và văn học Trung Quốc”[48], Lê
Huy Tiêu đã so sánh tác phẩm “Truyện kể Genji” với tác phẩm“Hồng Lâu
Mộng”. Ông đã tìm ra mối quan hệ giống nhau giữa hai tác phẩm thể hiện
qua hai nhân vật chính: Genji và Giả Bảo Ngọc - những chàng trai đẹp, tài
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
11
hoa, phong lưu. Cả hai đều có tài chiếm trái tim của các mỹ nhân và cũng
đem lại không ít đau khổ. Hệ thống các nhân vật nữ cũng tài hoa mệnh bạc,
sống trong tình yêu thuỷ chung, son sắt. Bên cạnh đó về mặt nghệ thuật:
phương pháp tả thực, kết cấu chặt chẽ, về độ dài tác phẩm, xây dựng hình
tượng nhân vật, kết cấu thơ ca lẫn văn xuôi đều có sự giống nhau. Tác giả
bài viết còn đưa ra sự khác biệt trong hai tác phẩm như về hôn nhân, thái
độ phản ánh của nhà văn.
Một trong những cuốn sách nghiên cứu khá sâu và đầy đủ về văn học

Nhật Bản là cuốn“Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến 1868”[5] của Nhật
Chiêu. Tác giả đã đề cập nhiều vấn đề về tác phẩm Genji monogatari. Ông
cho rằng thời kì Heian là thời kì của cái đẹp và Truyện Genji thể hiện thế
giới của niềm bi cảm. Tác phẩm chịu sự chi phối của cảm thức chung tinh
tế đó. “Genji là tác phẩm cổ điển hiếm hoi cố gắng phát hiện thế giới bên
trong ấy qua những cảm thức say mê, mơ mộng, tưởng nhớ, tuyệt vọng, u
buồn. xao xuyến…đặc biệt là niềm bi cảm đối với thời gian”[5,116]. Và
“Thời gian có thể huỷ diệt tất cả, nhưng các nhân vật của Murasaki thường
vượt ra khỏi sự chế ngự của thời gian dù họ vẫn bị huỷ diệt. Ta vẫn nhớ về
họ như nhớ tuổi trẻ và sắc đẹp. Họ không tàn tạ”[5,119]. Như vậy, Nhật
Chiêu đã phát hiện niềm bi cảm trong tác phẩm thể hiện rõ nhất qua yếu tố
thời gian trong vòng đời của nhân vật. Niềm bi cảm ấy còn thấm đẫm vào
thiên nhiên. “Tóm lại aware là một niềm bi cảm trước vẻ đẹp não lòng của
thiên nhiên và nhân thế” [5,121].
Cuốn “Văn học Nhật Bản từ cổ đến cận đại”[42] của N.I.Kônrat do
Trịnh Bá Đĩnh dịch đã nêu ra năm ý kiến khác nhau của giới phê bình về
tác phẩm Truyện Genji. Đầu tiên là cuốn tiểu thuyết như sự truyền bá ngấm
ngầm cho đạo Phật, tác phẩm được viết với mục đích giáo huấn, Truyện
Genji là tác phẩm vô luân, khiêu dâm, đây là cuốn sử biên niên trá hình và
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
12
cuối cùng tác phẩm chuyên làm sáng tỏ những nguyên tắc độc đáo của mĩ
học Nhật Bản biểu hiện trong định thức mono no aware(sự quyến rũ của sự
vật). Tác giả dẫn quan điểm của nhà sử học Nhật Bản Igarashi “…đối với
Murasaki viết tiểu thuyết không phải là việc tổ chức tài liệu để tiêu khiển
cho những bà buồn chán trong những lúc rỗi rãi, mà là công việc tái tạo lại
bức tranh của cuộc sống con người với tất cả những biểu hiện của nó trong
đó có cả những người tốt và những kẻ ngu ngốc. Cái đó một lần nữa lại là
điều mới mẻ với nhà văn Nhật Bản thời kỳ này.”[42,177] sau đó khẳng

định: “thể loại của tác phẩm là tiểu thuyết hiện thực, phong cách - vabun,
đề tài - người bạn tình và người phụ nữ Heian. Đó là ba toạ độ của
Genji”.[42,186]. Bên cạnh đó, còn có cách lí giải về bố cục tác phẩm của
giáo sư Phujioka. Từ cách chia tác phẩm ra thành ba tập lớn, giáo sư cho
rằng: “Khi đọc tác phẩm dù không chủ tâm thì vẫn có cảm giác rằng nó có
ba phần: “tuổi trẻ, những năm trưởng thành và khi về già của nhân vật hoặc
theo một kết cấu khác: những năm vô tư, những năm vinh quang, những
năm trả giá”[42,204]. Qua đó giáo sư đặt tác phẩm trong sự vận động của
thời gian và hoàn cảnh với sự phát triển của nhân vật chịu sự ảnh hưởng
của lý thuyết Phật giáo.
Trên đây là những công trình nghiên cứu chính đã công bố có liên
quan đến đề tài nghiên cứu của tác giả trong luận văn này. Tất cả các kết
quả nghiên cứu của các học giả đi trước đã giúp cho tác giả luận văn có cơ
sở để triển khai đề tài nghiên cứu của mình.

6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cấu trúc thành ba chương:
Chương I: Thời đại Heian và khái niệm niềm bi cảm(aware)
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
13
Chương II: Niềm bi cảm với số phận các nhân vật
Chương III: Niềm bi cảm với thiên nhiên tươi đẹp

CHƯƠNG I
THỜI ĐẠI HEIAN VÀ KHÁI NIỆM
NIỀM BI CẢM (AWARE)

I.1 Thời đại Heian

Thời kì Heian kéo dài từ năm 794 đến năm 1185. Năm 781, Thiên
hoàng Kammu lên ngôi và dời kinh đô từ Nara về kinh Heian vào năm 794
đánh dấu đất nước bước sang một thời đại mới kéo dài khoảng 400 năm.
Đây được xem là thời kì văn hoá, xã hội phát triển mạnh mẽ và đa dạng.
Trong thời kì này đặc biệt có sự phát triển của dòng họ nhiếp chính
Fujiwara, dòng họ thống trị triều đình, bành trướng thế lực. Dựa vào vị thế
Thiên hoàng, các nhánh của dòng họ này một mặt có những cải cách để
củng cố luật lệnh, một mặt tranh giành quyền lực lẫn nhau tạo nên những
biến cố về chính trị. Các gia tộc khác đều bị dòng họ này đồng hoá bằng
các cuộc hôn phối. Vậy nên, giới quý tộc thời kì này rất giàu có, xa hoa,
hưởng lạc. Các công trình văn hoá được xây dựng nhiều phục vụ cho tín
ngưỡng và sự phát triển của đô thị. Cuối thời Heian, loạn chiến tranh giành
quyền lực diễn ra khiến chính trị xã hội bất an. Tầng lớp võ sĩ, cũng như
các thế lực mới khác bắt đầu có vị trí trong xã hội. Xã hội đang chuyển dần
sang xu hướng khác, nhường lại một thời kì vàng son đã qua để bước vào
một thời kì mới với nhiều biến cố, thời kì Kamakura.
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
14
Có thể nói, bất kỳ một quan niệm thẩm mĩ thuộc thời kỳ nào trong xã
hội cũng đều chịu sự ảnh hưởng của các tư tưởng thời đại đó. Niềm bi
cảm(aware) được xem là một quan điểm thẩm mĩ bị ảnh hưởng sâu sắc từ
tôn giáo mà đậm nhất vẫn là Phật giáo(Thiền Zen) trong thời đại Heian.
*Tôn giáo
Những thay đổi trong thế giới quan của người Nhật có sự xâm nhập
của các hệ thống tư tưởng nước ngoài: Phật giáo, Khổng giáo, Cơ đốc giáo
và chủ nghĩa Mác về sau, trong đó Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn
hoá Nhật và xuất hiện từ rất sớm trên đất nước mặt trời mọc này. Phật giáo
vào Nhật qua con đường Bách Tế vào khoảng thế kỷ thứ VI, còn Khổng
giáo du nhập vào Nhật sớm hơn (thế kỷ IV) nhưng Phật giáo đóng vai trò

quan trọng trong bộ máy nhà nước của họ. Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI
ảnh hưởng Phật giáo đậm nét nhất. Tuy nhiên, người Nhật vẫn có sự tồn tại
lâu bền của văn hoá bản xứ. Vậy nên, thế giới quan người Nhật là hệ thống
tư tưởng đa thần , phức tạp. Bởi vậy J.Mtel một nhà Nhật Bản học đã cho
rằng: “Người Nhật mượn Phật giáo và Nho giáo cũng như người châu Âu
đã mượn đạo cơ đốc và triết học Hy Lạp về cái Logos. Nhưng họ từ chối
cái mệnh trời, những khoa thi và các viên chức Nho sĩ sự hoa mỹ bồng bột
của một số nghệ thuật tạo hình. Sau cùng, hoàn cảnh đảo quốc đã cho phép
Nhật Bản có ý thức về cả tính độc đáo của nó lẫn sự tồn tại của các nền văn
minh khác. Trung Quốc chỉ biết có một nền văn minh, nghĩa là bản thân nó,
còn những người khác đều là man rợ. Nhật Bản, trong khi giữ khoảng cách
với nền văn minh Trung Hoa, thậm chí còn có khả năng hơn để hiểu về tính
đa dạng của các giá trị về văn minh, và như vậy là nó có thể mở cửa mà
không từ bỏ bản thân mình”[31,53].
Từ thời Nara(710 - 794) Phật giáo được đưa vào trong chính sách của
nhà nước, chùa chiền được xây dựng khang trang bên cạnh đời sống nhân
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
15
dân nghèo khổ. Cuộc sống bị đảo lộn bởi thế lực nhà sư lên ngôi. Vào thời
Heian, tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người
dân theo đúng nghĩa của nó, bởi có sự can thiệp của giai cấp thống trị nhằm
kìm giữ sự lộng hành của giáo giới, tăng ni phật tử, không để xảy ra như
thời Nara. Phật giáo tạo cho người dân niềm tin vào cuộc sống, vào thế giới
bên kia của cuộc đời, tin vào đức Phật để con người sống hướng thiện. Tuy
nhiên, đây là thời kỳ cực thịnh của giai cấp quý tộc nên đã tác động rất lớn
tới đời sống chính trị và tôn giáo. Lúc này ở Nhật xuất hiện các tông phái
Phật giáo mới. Các giáo phái du nhập từ Trung Hoa như: Thiên thai tông
và Chân ngôn tông. Trong số các tín đồ có nhân vật Kukai đã sáng lập ra
Mật giáo, được xem là người thông tuệ nhất trong lịch sử tôn giáo Nhật

Bản, đã ảnh hưởng đến ngay cả giới quý tộc, triều đình phong kiến. Hành
đạo của Mật giáo, Chân ngôn tông có nhiều yếu tố trong đó có Thiền định.
Ông truyền dạy con đường thành Phật thông qua thực hiện các thực hành
của Mật giáo trong đó có việc ngồi Thiền. Và con người khi đạt đến tối
thượng gọi là Chân ngôn. Chân ngôn đã trở thành tôn giáo của dân tộc, do
đó văn học nghệ thuật được khuyến khích dưới sự ảnh hưởng của Kukai.
Chính nghệ thuật bị ảnh hưởng, đi liền với tôn giáo vì bàn đến nghệ thuật là
đến với cái chân-thiện-mỹ và văn học đã làm nên công cụ là phương tiện
sinh động nhất về nhân sinh quan tôn giáo. Trong văn hoá, đặc biệt là văn
học, tác phẩm Manyoshu(Vạn diệp tập) đề cập đến “sự phù du của kiếp
người” và có thể xem một phần ảnh hưởng của Phật giáo. Tuy nhiên quan
niệm sự phù du của kiếp người không phải hạt nhân triết học của Phật giáo.
Sự ảnh hưởng của Phật giáo còn thể hiện rõ vào thời kỳ Heian, tuy
nhiên, nó đã bị biến đổi trong cảm quan của người Nhật cùng với sự xâm
nhập của Thần đạo(Shinto). Sự dung hợp giữa Phật giáo và Thần đạo diễn
ra vào thời Nara. Đến thời Heian Phật giáo có sự bảo trợ của chế độ phong
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
16
kiến nên phát triển mạnh và chia nhiều tông phái, trong đó có Thiền tông.
Một số giáo phái Phật giáo cho rằng: chúng ta đang sống trong thời thứ ba,
xét trong sự luân chuyển về mặt thời gian thì thế giới này đang nằm trong
sự suy thoái. Vậy nên đời sống của con người được xem là suy đồi trầm
trọng. Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong suy tư của người Nhật về
thực tại tối hậu. Cho dù họ bị ảnh hưởng sâu rộng của quan niệm Thần Đạo
về thế giới, nhân sinh nhưng vẫn bị ảnh hưởng bởi viễn tượng Phật giáo về
cái vô thường, vô ngã, duyên khởi nghiệp.
Nghệ thuật Phật giáo ở Nhật cũng đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng
đến cảm quan thẩm mĩ người Nhật. Nhất là khi xã hội xem Phật giáo là
quốc giáo, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của đế chế cai trị. Nghệ

thuật Phật giáo được sử dụng rất nhiều trong hành đạo nhằm mục đích làm
cho không khí tiến hành nghi lễ, tạo nên không gian và thời gian linh
thiêng, nhằm tăng cường quyền năng tối thượng của Phật giáo. Mặc dù
nghệ thuật Phật giáo Trung Hoa du nhập vào Nhật nhưng đã được văn hoá
của dân bản xứ tái tạo lại. Nghệ thuật Thiền Zen ở Nhật chịu ảnh hưởng
quan niệm thẩm mĩ của đời nhà Tống ở Trung Hoa. Đặc điểm của nó là sử
dụng những khoảng trống cần thiết, sự kiềm chế …để tạo nên một cảm giác
gọi là “sắc là không, không là sắc” theo quan niệm của Đại Thừa. “Nghệ
thuật Phật giáo ở Nhật Bản, giống như nghệ thuật Shinto(Thần đạo), luôn
luôn phản ánh mối quan tâm về tính tự nhiên và giản dị, mang lại quan
niệm rằng đời sống là nghệ thuật sống đẹp và thanh cao”[56,354].
Bên cạnh đó, quan niệm phi nhị nguyên của Đại Thừa về luân hồi và
niết bàn biểu hiện dưới dạng cái Đẹp trong đời sống thường nhật. Quan
niệm về cái Đẹp rất đơn giản nhưng rất khó biểu hiện. Chẳng hạn như nét
chấm phá trong bức tranh thiên nhiên hoặc trong những bài thơ. Phật giáo
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
17
nắm bắt một cảm nhận sâu xa của trải nghiệm niết bàn trong khoảnh khắc
ngay giữa đời sống tự nhiên để diễn tả cảm thức về cái vô thường. Chính vì
vậy tất cả “niềm bi cảm” bị chi phối bởi thế giới quan Phật giáo, đậm đặc ở
Thiền Zen.
Quan niệm đạo đức của Thiền trong Phật giáo đã khẳng định thực tại
có cả đúng và sai, thiện và ác. Và mọi giá trị đạo đức đều là tương đối. Đức
hạnh không chỉ tuân giữ giới luật mà còn phải trải nghiệm, thức tỉnh nội
tâm mà thành. Như vậy, Thiền tông đã đề cao sự vận động nội tại của bản
thể con người. Tính hướng nội thể hiện rõ trong quan niệm về đạo đức này.
Chính vì vậy Thiền ở Nhật đã chỉ ra con đường chuyển hoá rất đặc trưng là
không chủ đích, không chủ tâm. Dogen khuyên rằng chỉ nên ngồi yên lặng
không làm gì, để cho tâm trí trống rỗng. Để như vậy để nhận ra tâm thanh

tịnh của Phật giáo và trải nghiệm trạng thái giác ngộ và thực hành tham
thiền. Thiền khi vào Nhật Bản đã lột bỏ tính huyền bí của Ấn Độ và tính
chất trừu tượng, siêu hình, quan điểm nghịch thường của Đạo Lão và tư
tưởng thực dụng của Khổng Giáo. Thiền mang đặc điểm tinh tế, chính xác
và đơn giản ở Nhật. Vừa là nguồn gốc phát sinh cũng là cơ sở của văn học
nghệ thuật ở Nhật Bản, Thiền gợi hứng cho Trà đạo, Hoa đạo, Thư đạo,
Thiền hoạ, Khứu đạo, Cung đạo, Kiếm đạo…
Thần đạo là một tín ngưỡng tôn giáo bản địa xuất phát từ Nhật Bản,
tuy vậy nó vẫn có ảnh hưởng của Phật giáo và mối quan hệ đó qua lại lẫn
nhau. Do tính chất mặt trời của Phật đại nhật mà các tín đồ của Chân Ngôn
cho là vị thần tối cao của Thần đạo: Amaterasu(nữ thần mặt trời) là hiện
thân của đại Phật ở Nhật. Đó là cái gốc của Thần đạo Nhị nguyên, có sự
bao hàm cả Đạo Phật và Thần đạo. Vì thế việc hành đạo của cả hai cùng
một lúc nhưng không mâu thuẩn với nhau. Vậy nên vẫn có người theo quan
điểm tôn giáo kết hợp giữa Phật giáo và Thần đạo. Tuy nhiên giữa chúng
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
18
có sự khác biệt rõ nét. Thần đạo dạy rằng tự nhiên và con người vốn trong
sạch tự nguyên khởi thì Phật giáo Nhật Bản nhấn mạnh rằng: ý niệm về “sự
giác ngộ tự bản nguyên”. Hay Thần đạo cho rằng sự ô nhiễm và uế tạp ám
cái bản tính tự nhiên thì Phật giáo chỉ ra rằng cái giác ngộ bản nguyên bị
mờ ám bởi tham, sân, si. Thần đạo cho rằng sự thất bại và cái chết xảy ra,
gắn liền với sự sinh ra đời sống. Mọi tội lỗi là uế tạp và Kami(thần) là
thanh sạch. Tuy nhiên tội lỗi và bạo hành cũng có Kami, chúng là nguồn
gốc sinh ra cái thiện và cái ác trên thế giới. Vì vậy Motoori Norinaga giải
thích rằng: “Shinto nhìn nhận cái chết và cái ác như một phần của sự sống
mà không phải từ chối bằng niềm hi vọng vào kiếp sau. Chẳng có gì đáng
buồn hơn cái chết, còn sai lầm thì như bụi bẩn bay vào cơm”[56,311]. Điều
đó cho chúng ta thấy rằng nhà Shinto học nổi tiếng này đã chỉ ra vấn đề cơ

bản của Thần đạo khi phủ nhận cái chết để đề cao sự sống có ý nghĩa trên
thế giới thực tại này. Và trong quan niệm của Thần đạo điều con người trở
nên sống có ý nghĩa hơn, viên mãn hơn chính là con đường thanh tẩy. Thần
đạo chỉ ra rằng con đường thanh tẩy trước hết phải có trái tim trong sáng.
Thanh tẩy cả về thể xác và tâm hồn. Vì vậy phải cải biến nội tâm, hình thành
tình cảm kính sợ và trọng vọng, ngưỡng mộ và sùng bái đối với Kami.
Quan niệm Thần đạo cho rằng: các thành tố tự nhiên đều là những đứa
con thanh khiết, đẹp của Kami(Thần), con người cùng với Kami kết hợp
nhằm phát triển những điều tốt đẹp đó. Sự hiện diện của Kami không chỉ
qua lời nói mà còn thể hịên qua năng lực nhận thức thẩm mĩ về cái đẹp
trong giới tự nhiên. Điều này gần gũi với cách cảm thụ cái đẹp trong quan
niệm thẩm mĩ aware. Nhân sinh quan của Thần đạo đã mang lại cho hình
thức nghệ thuật ý thức về tính giản dị, tự nhiên, sự phản ánh trái tim trong
sáng và chân thật. Qua các nghi lễ thờ cúng, lễ hội, nhạc,… cho thấy Thần
đạo ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan niệm nghệ thuật đương đại khi Thần đạo
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
19
có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân. Nó còn ảnh
hưởng sâu sắc đến văn học trong các tác phẩm thờ cúng cổ xưa theo hình
thức Uta hay waka tồn tại nhiều trong các văn bản huyền thoại và đặc biệt
trong tập thơ Manyoshu(Vạn diệp tập). Nhiều bài thơ thể hiện mối tương
giao, tương cảm tự do giữa con người và Kami.
Quan niệm đạo đức của Thần đạo xem cảm thức đạo lý là thuộc tính tự
nhiên của nhân sinh. Trong xã hội tồn tại các trạng thái: chết, tình dục,
trộm cắp…Cái ác xuất hiện là do Kami nổi giận, cái thiện xuất hiện khi
Kami nguôi giận và ban cho sự sống những ân huệ. Tất cả đều từ Kami mà
ra. Như vậy điều may mắn và rủi ro xảy ra không tuân theo một chuẩn tắc
nào, cái ác, cái thiện không theo nguyên lý và không kiểm soát được.
Shinto là phóng túng, vô luân? Không hoàn toàn như thế. Nói chung con

người phải tuân theo một trái tim chân thành, cư xử phải tao nhã, phù hợp,
hướng đến cái thiện. Cái ác tâm, thù hận, ích kỷ…phải từ bỏ và làm việc
theo thiện chí, hợp tác trong con đường đến với cái thiện. Như vậy, nhằm
vào sự phát triển nội tại của bản thể trong sự chuyển biến Shinto đã đưa ra
một quy tắc về con tim chân thành, phẩm chất đạo đức quan trọng là chân
thực và trọng danh dự. Xuất phát từ nhân sinh quan ấy, Shinto đặt việc xử
thế trong mối tương tác phải hợp cảnh, hợp tình và mang tính tự nhiên chủ
nghĩa. Bởi lẽ, tất cả sự vật và con người đều bắt nguồn từ Kami nên luôn
mang trong mình bản chất thanh khiết lành mạnh và đời sống thiện lành là
đời sống hoàn toàn tự nhiên. Con người không đối lập với tự nhiên. Nhu
cầu của con người là bản năng tự nhiên, những đam mê, ham muốn đều
lành mạnh và làm theo trái tim chân thành, ngay thẳng-tình dục. Bởi vậy,
người Nhật luôn mở lòng đón lấy thiên nhiên tươi đẹp và làm cho nó trở
nên tươi đẹp hơn. Chính một số khía cạnh của sự hoà hợp đó là giá trị mà
người Nhật luôn mong muốn ở nghệ thuật ý thức được trách nhiệm của con
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
20
người đối với Kami làm cho đời sống của họ cùng với thế giới tự nhiên trở
nên đẹp nhất.
Đạo đức trong quan niệm của người phương Đông là những hành
động của xã hội thuộc về con người, một mô hình về cách sống, hay là
quan niệm sống, bao gồm cả thái độ của con người đối với thần thánh(tôn
giáo), những nguyên tắc hành xử giữa sinh vật này và sinh vật khác. Đạo
đức Nhật Bản có nét riêng biệt, độc đáo tuy vẫn nằm trong sự chi phối của
hệ thống tư tưởng phương Đông, đặc biệt là Trung Quốc. Người Nhật Bản
cố đại cho rằng mọi hiện tượng đều là biểu hiện của thần (Kami). Trong
Nihon shoki, người Nhật quan niệm rằng con cháu của đôi vợ chồng
Izanagi và Izanami ban sơ là đảo và đất liền chứ không phải con người.
Cho nên con người không được xem là trung tâm hay có vị thế cao hơn

hoặc đối lập với tự nhiên. Tất cả đều nằm trong mối quan hệ gia đình. Con
người, thiên nhiên và thần linh luôn có mối quan hệ gần gũi trong đời sống
cộng đồng, trong nghệ thuật cũng như trong tư tưởng thẩm mĩ mọi thời đại
ở Nhật.
Quan hệ qua lại giữa tín ngưỡng bản địa với Phật giáo và Thần đạo tạo
nên một sự gặp gỡ chung ở lòng vị tha, trung thành và lối sống hướng đến
cái thiện. Sự dung hợp đó hun đúc cho tính cách của người Nhật mang đậm
tính nhân văn, nhân ái. Họ có xu hướng đi sâu vào cái tâm linh, hướng nội
với những giá trị đạo đức cao đẹp, thánh thiện, trong sáng, đẹp đẽ nhằm
mang lại những quan niệm thẩm mĩ về cuộc đời về con người trong mối
tương giao, hoà hợp với thiên nhiên tươi đẹp trên xứ sở hoa anh đào. Tư
tưởng tâm linh của người Nhật được bắt nguồn, tiếp biến qua nhiều thế hệ.
Theo nhà nghiên cứu Vladimir Devidé cho rằng: “…thiên hướng cơ bản
trong triết học và văn hoá phương Tây dựa trên sự rõ ràng và dựa vào cái
đang thực sự tồn tại. Cái tốt, cái đẹp và sự sáng tạo, tất cả đều được định
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
21
nghĩa trong sự tồn tại của nó. Vì thế sự không hoàn hảo hay khuyết thiếu sẽ
bị coi là một dạng không tồn tại. Ngược lại, thiên hướng cơ bản trong triết
học và văn hoá Phương Đông lại nghiên về hư vô, không phải với nghĩa
phủ định của phương Tây, một thuật ngữ rất vô thức song lại có ý nghĩa
cực kì to lớn trong cội nguồn văn hoá và tâm lí con người Nhật
Bản…”[80,125]. Như vậy, mỹ cảm aware thấm nhuần trong văn hoá
Nhật Bản và được bắt nguồn từ sự kết hợp giữa các tôn giáo khác nhau.
Trong đó, thẩm mĩ Thiền có ảnh hưởng lớn nhất, trong đặc tính văn hoá
của người Nhật đã góp phần làm nên sự hoà hợp tuyệt vời giữa nghệ
thuật và tôn giáo.
Có thể nói cảm xúc aware phát triển theo tự nhiên, trong sự xung đột
mâu thuẫn giữa tín ngưỡng tự nhiên của Shinto giáo và những điều cấm của

Phật giáo. Sự xung đột đó đã một phần thúc đẩy đi đến sự thống nhất tư
tưởng hoà hợp với thiên nhiên nhằm chống lại triết lý có tính siêu nghiệm
của một thế giới khác ngoài tự nhiên. Nằm trong ý thức hệ đó, thời Heian,
người Nhật đã biết cách cảm thụ cái đẹp u huyền.
* Phong tục
Quan niệm thẩm mĩ của người Nhật có nét độc đáo riêng biệt. Ảnh
hưởng mạnh nhất đối với nghệ thuật là quan niệm về cái đẹp, cách cảm
nhận cái đẹp và tạo nên cái đẹp của người Nhật. Ở Nhật, đi khắp đất nước
từ Hokkaido đến Kyushu chúng ta thấy ở đâu cũng có hoa đua nở bốn mùa
khoe sắc, hoa trong vườn, hoa trồng trong chậu, hoa trên các nẻo đường
khiến du khách phải ngỡ ngàng vì sao mảnh đất cằn cỗi này lại có những
sắc màu của sự sống mơn mởn và tươi đẹp đến thế. Đó là xuất phát từ quan
niệm sống của họ thích làm đẹp bằng cách trang trí tỉ mỉ cho mình từ
những cái nhỏ nhất, tuy đơn giản nhưng toát lên vẻ đẹp tiềm tàng đầy sức
sống. Không rắc rối cầu kì trong bố trí màu sắc hay đồ vật nhưng người
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
22
xem vẫn thấy một sự thanh nhã, lịch thiệp, sang trọng và tìm thấy cái đẹp
trong sự đơn giản đó. Đó cũng chính là sở trường của người Nhật khi nắm
bắt thần thái của sự vật để làm tôn thêm cái đẹp của nó. Khi nhìn vào sự vật
người xem cảm nhận cả cảm xúc của người tạo ra nó. Họ đặt cái đẹp trên
một quan niệm cao hơn bao quát lấy nó là Đạo: trà đạo, hoa đạo, kiếm
đạo…Khi tạo ra các phạm trù được xem là đạo người Nhật đã đưa quan
niệm tâm linh vào bên trong để nó có sức sống trong cuộc đời.
Ở Nhật cái đẹp gắn với nỗi buồn, với sự mong manh, yếu đuối, khó
nắm bắt. Từ sự vật đến con người, từ hình thức đến nội tâm, cái đẹp ẩn sâu
không hiển hiện, nếu bắt gặp một tâm hồn biết cảm nhận thì vẻ đẹp đó càng
long lanh, thắm đượm hay thâm trầm, nhẹ nhàng, mênh mang. Như phù du
trong cuộc đời, cái đẹp có thể xuất hiện trong khoảnh khắc nhưng cũng mất

đi trong giây lát, để rồi nó vẫn còn tồn tại mãi trong nhân gian về một cái
đẹp vĩnh hằng. Quan niệm đó cắm sâu cội rễ trong cảm quan truyền thống
của người Nhật từ xa xưa và được phát triển khi có tôn giáo chắp cánh. Bởi
thế, nền nghệ thuật Nhật Bản đã có những cách xử thế rất độc đáo, vượt lên
trên các quan niệm đạo đức, tôn giáo, để đạt tới cái đẹp thuần khiết, hướng
tới cái vô tận của thế giới. Người Nhật có tín ngưỡng tôn thờ cái đẹp và họ
xem cái đẹp là tiêu thức, chuẩn tắc trong cuộc sống; hay họ lấy cái đẹp để
tạo nên thước đo đạo đức của con người.
Có thể thấy người Nhật có tính duy mỹ. Từ xa xưa họ đã quen sống
trong tư duy mỹ thuật độc đáo đó. Mọi vật hợp rồi tan, còn cái đẹp thì tồn
tại mãi nên đã tạo nên sự nuối tiếc cho cuộc đời và chính sự nuối tiếc đó
cũng là vẻ đẹp cao cả nhất. Vậy nên con người giữa thế giới này bình tâm,
tự tại mà sống, không cần bám vào bất cứ cái gì nhưng vẫn tha thiết với
cuộc đời, sống hết mình với cuộc đời. Bởi vậy đến bây giờ có người chất
vấn vì sao thế hệ trẻ ngày càng xa rời tôn giáo? Không có tôn giáo làm sao
Niềm bi cảm (aware) trong "Truyện Genji" của Murasaki Shikibu
Hoàng Thị Mỹ Nhị Luận văn thạc sĩ
23
trị được lòng dân? Người Nhật có quan điểm sống riêng, luôn luôn tuân
theo quy tắc của xã hội, theo chuẩn tắc của truyền thống dân tộc và các mối
quan hệ xã hội ràng buộc khác. Dù một dân tộc có bị văn hoá phương Tây
xâm nhập nhưng nó vẫn giữ cho mình những sợi dây liên hệ cơ bản không
bao giờ mất với cội nguồn dân tộc.
Như vậy từ xa xưa đến thời kỳ Nara cho đến thời kỳ kinh đô chuyển
về ở Heian, Nhật Bản đã phát triển thịnh vượng văn hoá bản địa mang lại
sự phát triển năng lực cảm thụ nghệ thuật tinh tế. Điều đó thể hiện rõ trong
nghệ thuật, đặc biệt là trong văn học. Quan điểm thẩm mĩ aware và mono
no aware cũng không nằm ngoài quy luật của sự phát triển đó. Do vậy
aware là trạng thái của cái đẹp do chủ quan tạo ra hơn là kinh nghiệm
khách quan mang đến, một trạng thái cơ bản bên trong hơn là trạng thái bên

ngoài. Nó khác với quan niệm về vẻ đẹp ở phương Tây là tìm kiếm sự hoàn
hảo ở bên ngoài khách thể, một tác phẩm đạt đến sự cao quý, hoàn thiện,
tuyệt vời nhất hoặc là một tác phẩm với bố cục khó hiểu đòi hỏi người cảm
nhận phải biết cách thưởng thức nó. Một vẻ đẹp đạt đến đỉnh cao và duy
nhất. Còn ý tưởng người Nhật là nhìn thấy vẻ đẹp trong kinh nghiệm của
một trái tim, tâm hồn có xúc cảm, đồng cảm đối với khách thể. “Đối với
thiên nhiên, người Nhật đứng trước mối quan hệ nhiều chiều: vừa bình
đẳng, gần gũi trong sự giao cảm thuần phác, vừa xa lạ, huyền bí trong niềm
thành kính thiêng liêng pha lẫn nỗi hãi hùng trần tục. Cách ứng xử chủ đạo
của người Nhật đối với thiên nhiên là cố gắng thích ứng, truy cầu những lợi
ích của nó để phục vụ cho mình, không phá vỡ hệ sinh thái, bảo vệ môi
trường”[53,112]. Thiên nhiên thường được miêu tả trong trạng thái nguyên
sơ. Sự cảm kích trước cái Đẹp như là một trạng thái nhất thời và không
nắm bắt được giống như thuyết hư vô và nó bắt nguồn, quan hệ với triết lý
của Zen(Thiền), tính siêu nghiệm của thế giới trần tục.

×